Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Một số nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ. Ý nghĩa của chúng trong xây dựng đội ngũ cán bộ cấp huyện ở Văn Lâm - Hưng Yên hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 90 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------

NGUYỄN THỊ THÚY

MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN
BỘ. Ý NGHĨA CỦA CHÚNG TRONG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ CẤP HUYỆN Ở VĂN LÂM – HƯNG YÊN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – 2005


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

----------

NGUYỄN THỊ THÚY

MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN
BỘ. Ý NGHĨA CỦA CHÚNG TRONG XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN
BỘ CẤP HUYỆN Ở VĂN LÂM – HƯNG YÊN HIỆN NAY

CHUYÊN NGÀNH : CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
MÃ SỐ
: 5.01.03


LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TIẾN SĨ DƢƠNG VĂN DUYÊN

HÀ NỘI - 2005


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CB: Cán bộ
CN: Công nghiệp
CM: Chuyên môn
DV- TM: Dịch vụ- Thương mại
NN: Nông nghiệp
HĐND: Hội đồng nhân dân
UBND: Ủy ban nhân dân
ĐH: Đại học
CĐ: Cao đẳng
TC: Trung cấp
CT: Chính trị
QLNN: Quản lý Nhà nước


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

MỞ ĐẦU


1

CHƢƠNG 1. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ

6

1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về

6

cán bộ và công tác cán bộ, vai trò của người cán bộ trong sự nghiệp
cách mạng
1.1.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam

6

về cán bộ và công tác cán bộ
1.1.2 Vai trò của người cán bộ trong sự nghiệp cách mạng theo Tư

12

tưởng Hồ Chí Minh
1.2 Những phẩm chất cơ bản của người cán bộ theo Tư tưởng Hồ Chí

17

Minh
1.2.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đức của người cách mạng

17


1.2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về tài của người cách mạng

22

1.2.3 Quan hệ giữa đức và tài của người cán bộ trong Tư tưởng Hồ Chí

24

Minh
1.3 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo, sử dụng cán bộ

26

1.3.1 Tư tưởng Hồ Chí Minh về đào tạo cán bộ

26

1.3.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về bố trí, sử dụng và cất nhắc cán bộ

34

CHƢƠNG 2. HUYỆN VĂN LÂM - HƢNG YÊN XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ CẤP

40

HUYỆN THEO TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH

2.1 Q trình vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng đội ngũ


40

cán bộ cấp Huyện ở Văn Lâm. Những thành tựu và hạn chế
2.1.1 Một số đặc điểm của Huyện Văn Lâm

40

2.1.2 Cán bộ cấp Huyện ở Văn Lâm trong quá trình xây dựng và trưởng

47


thành
2.2 Văn Lâm với nhiệm vụ xây dựng cán bộ cấp Huyện theo Tư tưởng

67

Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
2.2.1 Những nhiệm vụ kinh tế - xã hội của Huyện Văn Lâm trong giai đoạn

67

hiện nay
2.2.2 Những yêu cầu cán bộ cấp Huyện trong giai đoạn hiện nay

68

2.3 Những phương hướng và giải pháp xây dựng đội ngũ cán bộ cấp

70


Huyện ở Văn Lâm theo Tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời gian tới
2.3.1 Những phương hướng xây dựng đội ngũ cán bộ cấp Huyện theo tư

70

tưởng Hồ Chí Minh trong thời gian tới
2.3.2 Những giải pháp cụ thể trong xây dựng đội ngũ cán bộ cấp Huyện

72

ở Văn Lâm trong thời gian tới
Kết luận

79

Danh mục tài liệu tham khảo

81


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định: “Đảng lấy Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động". Sự khẳng định đó đã nói lên vai
trị quan trọng, to lớn của Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta. Tư
tưởng của Người còn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân
dân ta, đồng thời là tài sản quý giá trong kho tàng văn hoá nhân loại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh bao quát nhiều lĩnh vực rộng lớn và phong phú,

trong đó vấn đề cán bộ là một trong những vấn đề được Người quan tâm hàng
đầu trong sự nghiệp cách mạng. Người coi "cán bộ là cái gốc của mọi công
việc", "là cái dây chuyền của bộ máy "và "là tiền vốn của Đoàn thể" do đó " mn
việc thành cơng hoặc thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém". Từ việc nhận thức một
cách sâu sắc vị trí, vai trị của đội ngũ cán bộ trong xã hội nói chung cũng như
trong sự nghiệp cách mạng nói riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm có ý thức
về việc đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng đội ngũ cán bộ nhằm đáp ứng những yêu
cầu trong từng giai đoạn cách mạng. Thực tiễn cách mạng ở Việt Nam hơn nửa
thế kỷ qua đã chứng minh vai trò của đội ngũ cán bộ - một lực lượng nòng cốt
đã cùng với nhân dân làm cuộc cách mạng tháng Tám thành công, kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ thắng lợi, giải phóng đất nước, đem lại độc lập tự do
cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.
Sau gần hai mươi năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã giành được nhiều thành tựu đáng kể. Song
bên cạnh những mặt tích cực do cơng cuộc đổi mới đem lại cịn có những vấn đề
nổi cộm lên làm cho chúng ta phải băn khoăn lo lắng khi mà “tình trạng tham
nhũng và sự suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản trở việc thực hiện đường lối, chủ trương
chính sách của Đảng, gây bất bình và giảm lịng tin trong nhân dân”. Do đó việc


tìm hiểu, nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ là một vấn đề có ý nghĩa
lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung của đất nước, Huyện
Văn Lâm, Tỉnh Hưng Yên - một Huyện có tiềm năng, lợi thế về vị trí địa lý, lao
động, đất đai, tài nguyên, giao thông, thị trường, nằm trong vùng kinh tế trọng
điểm ở phía Bắc, là một trong những vùng kinh tế động lực quan trọng của tỉnh
Hưng Yên - nói riêng đã tiến hành đổi mới và phát triển cơ cấu kinh tế và đã thu
được những thành tựu to lớn. Trong sự phát triển to lớn đó khơng thể khơng kể
tới vai trị của đội ngũ cán bộ cấp Huyện ở Văn Lâm. Họ là những người “công

bộc" của dân, người “đầy tớ” của dân và người "lãnh đạo" của dân. Họ sâu sát
với công việc, gần gũi với nhân dân và luôn luôn tuyên truyền, vận động và dẫn
dắt nhân dân làm theo đường lối, chính sách pháp luật của Đảng, Nhà nước. Họ
xây dựng, chỉ đạo các mơ hình phát triển kinh tế địa phương nhằm ngày một
nâng cao đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Song bên cạnh
đó, chúng ta vẫn cịn thấy những khó khăn, thách thức, hạn chế như là nhận
thức, tư tưởng của một số cán bộ, đảng viên và nhân dân chưa theo kịp yêu cầu
chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Một bộ phận cán bộ về năng
lực, trình độ chun mơn vẫn còn hạn chế so với yêu cầu và nhiệm vụ đặt ra.
Một số còn vi phạm những phẩm chất đạo đức cán bộ, gây ra những hiện tượng
tiêu cực, làm mất lòng tin trong nhân dân.
Từ việc nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cán bộ theo Tư tưởng
Hồ Chí Minh cũng như từ thực trạng của q trình vận dụng Tư tưởng Hồ Chí
Minh trong xây dựng đội ngũ cán bộ cấp Huyện ở Văn Lâm - Hưng Yên, tác giả
đi vào nghiên cứu đề tài: “Một số nội dung cơ bản Tư tưởng Hồ Chí Minh về
cán bộ. Ý nghĩa của chúng trong xây dựng đội ngũ cán bộ cấp Huyện ở Văn
Lâm - Hưng Yên hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ khơng chỉ có các học giả
Việt Nam mà có rất nhiều học giả nước ngoài. Số người nghiên cứu và tài liệu
nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ từ trước đến nay có thể nói là rất


nhiều. Song trong nội dung luận văn này, tác giả chỉ xin liệt kê một số tác giả và
tác phẩm tiêu biểu có đề cập tới Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ có liên quan
đến luận văn.
Trước hết phải kể đến một số cơng trình: Hồ Chí Minh, quá khứ, hiện tại,
tương lai của Phạm Văn Đồng, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1991; Tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh của Đặng Xuân Kỳ, Tạp chí Cộng sản tháng 5/1994; Mấy
vấn đề đạo đức cách mạng của Vũ Khiêu, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí

Minh, 1978; Học tập, rèn luyện tư tưởng và đạo đức cách mạng, thực hiện thắng
lợi cuộc vận động, xây dựng chỉnh đốn Đảng của Tổng bí thư Lê Khả Phiêu, tạp
chí Khoa học xã hội số 40/1999; Mối quan hệ Đức - Tài và vấn đề lựa chọn, sử
dụng nhân tài trong Tư tưởng Hồ Chí Minh của Hồng Trung, tạp chí Khoa học
xã hội số 37/1998; Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ của
PGS. TS Bùi Đình Phong, Nhà xuất bản Lao động, Hà Nội, 2002; Tìm hiểu tư
tưởng đạo đức cách mạng Hồ Chí Minh của TS. Nguyễn Thế Thắng, Nhà xuất
bản Lao động, Hà Nội, 2002; Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cơng cuộc
đổi mới đất nước của Nguyễn Thế Nghĩa, Nguyễn Thanh Bình (Chủ biên), Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, đặc biệt Nghị quyết Trung ương 3
khoá VII, Nghị quyết Trung ương 3 và Nghị quyết Trung ương 7 khoá VIII, Nghị
quyết Trung ương 6 khoá IX của Đảng ta đã đề cập tới việc xây dựng đội ngũ
cán bộ nhằm đáp ứng những nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay...
Trong các cơng trình kể trên, các tác giả đã đề cập đến những Tư tưởng Hồ
Chí Minh về vị trí, vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng và những phương
hướng, giải pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ trong giai đoạn hiện nay.
Để đáp ứng được yêu cầu của q trình phát triển đất nước nói chung, cũng
như của Huyện Văn Lâm - Hưng Yên nói riêng, trong thời gian qua công tác cán
bộ tại Huyện đã hết sức được coi trọng, đặc biệt là công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng, đạo đức cho đội ngũ cán bộ, đảng viên. Ban thường vụ Huyện uỷ đã xây
dựng Nghị quyết số 14-NQ/HU ngày 04/10/2001 chuyên đề về “Nâng cao chất
lượng sinh hoạt chi bộ, tăng cường rèn luyện đạo đức, lối sống đảng viên” cũng


như Nghị quyết số 26-NQ/HU ngày 10/03/2002 với chuyên đề về “Nâng cao chất
lượng giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên”.
Do đó, việc vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ vào điều kiện địa
phương và từ thực trạng đội ngũ cán bộ cấp Huyện ở Văn Lâm để tìm ra những
phương hướng và giải pháp mang tính hệ thống, hồn chỉnh trong việc xây dựng
đội ngũ cán bộ cấp Huyện sẽ góp phần giúp Huyện Văn Lâm trong công tác cán

bộ ở giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1 Mục đích của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của cán bộ,
những phẩm chất cơ bản của người cán bộ, đào tạo, sử dụng cán bộ và từ thực trạng
của việc xây dựng đội ngũ cán bộ cấp Huyện ở Văn Lâm - Hưng Yên theo Tư tưởng
Hồ Chí Minh, tác giả nêu lên những giải pháp nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ
cấp Huyện ở Văn Lâm có đủ đức và tài đáp ứng những yêu cầu cơng nghiệp hố hiện đại hóa của địa phương trong giai đoạn hiện nay.
3.2 Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, luận văn cần giải quyết các nhiệm vụ sau:
Một là, Làm rõ những tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh về cán bộ, vai
trị, những phẩm chất cơ bản của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng ở Việt Nam
và công tác đào tạo, sử dụng cán bộ.
Hai là, Phân tích, làm rõ thực trạng q trình vận dụng Tư tưởng Hồ Chí
Minh trong cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ cấp Huyện ở Văn Lâm trong giai
đoạn hiện nay - những ưu điểm và hạn chế, nguyên nhân của chúng.
Ba là, Nêu lên những phương hướng, đề xuất những giải pháp nhằm xây
dựng một đội ngũ cán bộ cấp Huyện ở Văn Lâm vừa hồng vừa chuyên đáp ứng
được yêu cầu trong sự nghiệp cách mạng.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là Chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cán bộ, đồng thời
tác giả có tham khảo những cơng trình nghiên cứu của một số tác giả có liên


quan đến luận văn cùng các tư liệu của Huyện uỷ, Uỷ ban nhân dân Huyện Văn
Lâm.
Trong quá trình nghiên cứu và trình bày nội dung của luận văn, ngồi cơ
sở lý luận trên, tác giả cũng đã kết hợp phương pháp lơgic với phương pháp lịch
sử, phân tích với tổng hợp và thông qua phỏng vấn sâu một số cán bộ ở Huyện

Văn Lâm.
5. Cái mới của luận văn
- Phân tích, đánh giá thực trạng của q trình vận dụng Tư tưởng Hồ Chí
Minh trong xây dựng đội ngũ cán bộ cấp Huyện ở Văn Lâm - Hưng Yên; làm rõ
những ưu, nhược điểm và nguyên nhân của chúng.
- Đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm nâng cao phẩm chất đạo đức, trình
độ chun mơn và năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ cấp Huyện ở Văn Lâm nhằm
đáp ứng những yêu cầu to lớn trong sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố hiện
nay của Huyện.
6. Ý nghĩa của luận văn
Bằng kết quả đạt được trong luận văn, tác giả hy vọng góp phần làm sáng
tỏ những yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ cấp Huyện trong giai đoạn hiện nay ở
Văn Lâm - Hưng Yên nói riêng, cả nước nói chung.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho Huyện uỷ, Uỷ ban nhân
dân huyện Văn Lâm, các phòng ban của Huyện cùng các cán bộ trong Huyện
nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ có đủ đức và tài đáp ứng những nhiệm vụ
trong giai đoạn hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Để giải quyết những nhiệm vụ trên, ngoài phần mở đầu và kết luận, luận
văn gồm 2 chương, 6 tiết.


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÁN BỘ
1.1 TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH, QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ CÁN BỘ VÀ CƠNG TÁC CÁN BỘ, VAI TRỊ CỦA CÁN BỘ TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH
MẠNG

1.1.1 Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về cán bộ và công tác cán bộ

Theo từ điển tiếng Việt, cán bộ được định nghĩa là:
1. Người làm cơng tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước
(như cán bộ nhà nước, cán bộ khoa học, cán bộ chính trị).
2. Người làm cơng tác có chức vụ trong một cơ quan, một tổ chức, phân
biệt với người thường khơng có chức vụ.
Theo gốc trong tiếng Pháp và tiếng Anh (Cadre) từ cán bộ theo cách hiểu
của Việt Nam có hai nghĩa. Một là cái khung, sườn và hai là lực lượng nịng cốt.
Theo từ điển Hành chính: “Cán bộ là người có đủ các điều kiện được
tuyển dụng vào làm việc ở các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội, tổ chức kinh tế do Nhà nước thành lập, tổ chức lực lượng vũ
trang; trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, có trình độ chun
mơn từ trung cấp trở lên. Từ cán bộ được sử dụng rộng rãi trong các nước Xã
hội Chủ nghĩa trước đây (cán bộ, công nhân). Cán bộ, công chức khi thi hành
nhiệm vụ, công vụ được pháp luật và nhân dân bảo vệ”. [15. 46]
Theo cách hiểu thông thường trong đời sống xã hội: Cán bộ được coi là tất
cả những người thoát ly, làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, đoàn thể,
quân đội, được hưởng lương hoặc phụ cấp.
a. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về cán bộ.
Ngay từ khi bắt gặp ánh sáng cách mạng của Chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ
Chí Minh sớm nhận thức được vị trí, vai trị của cán bộ trong sự nghiệp cách
mạng. Tháng 6 năm 1923, Người rời nước Pháp đi Liên Xô dự Đại hội V Quốc tế
Cộng sản. Chuyến đi này Người mang theo một khát vọng muốn hiểu biết thực
tiễn chủ nghĩa xã hội như thế nào để truyền bá nó vào Việt Nam. Đồng thời


Người cũng muốn thông qua một đại hội của Quốc tế Cộng sản để trình bày thực
tế của sự áp bức của chủ nghĩa Đế quốc ở thuộc địa với mong muốn giúp cho
những người cộng sản trên thế giới hiểu được tình trạng khổ cực của nhân dân lao
động các nước này.
Ngay từ những năm đầu đến với chủ nghĩa Mác- Lênin, Người đã có một

suy nghĩ là: “trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ,
huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”. [30. 192]
Trong một thời gian ngắn sống ở nước Nga xô viết, được chứng kiến
những thay đổi to lớn của nhân dân Liên xô do cách mạng xã hội chủ nghĩa đưa
lại, Người đã có một dự định cho cơng tác tun truyền, tổ chức lực lượng cho
cách mạng Việt Nam:
“1. Xuất bản một tờ báo nhỏ Tiếng Việt
2. Tập hợp những phần tử dân tộc cách mạng.
3. Cố gắng đưa những thanh niên người bản xứ đi Matxcơva
4. Xây dựng dây liên lạc Matxcơva - Đông Dương - Pari”. [30. 204]
Qua những bức thư Nguyễn Ái Quốc gửi cho Quốc tế cộng sản, qua những
bài viết của Người, chúng ta thấy, Người đã có một tầm nhìn chiến lược, muốn cho
cách mạng đi tới thắng lợi, trước hết phải chăm lo tới công việc lựa chọn, đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ.
Bằng những lời nói giản dị, nhưng chứa đựng một triết lý sâu sắc “cán bộ là
cái gốc của công việc”, “cây thì phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo, sơng thì
phải có nguồn, khơng có nguồn thì sơng cạn”, Người đã nêu bật được vị trí, tầm
quan trọng của cán bộ với sự nghiệp cách mạng của dân tộc.
Song Người cũng chỉ cho chúng ta thấy, cán bộ phải là người như thế nào
mới đưa cách mạng tới thắng lợi. “Muôn việc thành công hay thất bại đều do cán
bộ tốt hoặc kém”, [32. 240] vì cũng như “gốc có vững thì cây mới bền”.
Theo tư tưởng của Người, cán bộ còn được hiểu là “cái dây chuyền của bộ
máy”. Nếu dây chuyền khơng tốt, khơng chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy thì bộ
máy cũng tê liệt. Trong đời sống kinh tế - xã hội, sự chuyển động của xã hội được
coi như một “cỗ máy” khổng lồ. Trong "cỗ máy" đó, cán bộ là dây chuyền là “cầu


nối” giữa Đảng, Chính phủ với nhân dân. Đây là một "dây chuyền" đặc biệt, vì: Theo
Tư tưởng Hồ Chí Minh, cán bộ là người xây dựng nên đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước sao cho phản ánh đúng lợi ích của các tầng lớp nhân

dân, phù hợp với thực tiễn đời sống của xã hội. Cán bộ cũng là người tuyên truyền
đường lối, chính sách của Đảng với nhân dân, là người thực thi pháp luật của Nhà
nước, “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích
cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo
cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”. [32. 269]
Bác Hồ trong suốt cuộc đời cách mạng của mình rất mực quan tâm đến cán
bộ và công tác cán bộ. Cán bộ mà chúng ta bàn tới ở đây theo quan điểm của Chủ
tịch Hồ Chí Minh là những người làm trong các cơ quan, đồn thể, cơng sở, lực
lượng vũ trang. Họ có thể giữ chức vụ chỉ huy, phụ trách, quản lý, lãnh đạo hoặc
làm công tác nghiệp vụ, chun mơn đơn thuần.
Tóm lại, cán bộ là những người hoạt động trong những thời kỳ cách mạng,
thốt ly, có hưởng lương hoặc phụ cấp để phân biệt với nhân dân và là đầy tớ của
nhân dân. Tuy nhiên, trong các bài viết, tác phẩm của mình, Hồ Chí Minh nhấn
mạnh nhiều đến cán bộ, đảng viên có chức, có quyền, những người chịu trách
nhiệm trực tiếp và to lớn, nặng nề trước nhân dân và toàn dân tộc.
b. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề cán bộ, công tác cán bộ
“Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận
mệnh của Đảng, của đất nước và chế độ”. [10. 66] Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta luôn coi trọng công tác cán bộ và coi đây là một trong những vấn
đề có vai trị quyết định đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng. Nghị quyết Hội
nghị lần thứ 3 Ban chấp hành trung ương Đảng khố VIII đã khẳng định: “Trong
cơng cuộc đổi mới đất nước, cán bộ cũng có vai trị cực kỳ quan trọng, hoặc thúc
đẩy hoặc kìm hãm tiến trình đất nước…”. [10. 24] Trong lãnh đạo, quản lý Nhà
nước, cán bộ và cơng tác cán bộ có ý nghĩa quan trọng và là khâu then chốt. Nhận
thức sâu sắc về vai trị, vị trí của cán bộ và cơng tác cán bộ, Đảng ta đã đề ra
cương lĩnh chính trị, đường lối đúng đắn và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối
chính trị đó. Đây là vấn đề quyết định bảo đảm cho giai cấp vơ sản giành chính


quyền, xây dựng và bảo vệ chính quyền. Có đường lối đúng đắn, có phương pháp

tổ chức thực hiện đường lối có hiệu quả vẫn chưa đủ mà Đảng và giai cấp vơ sản
phải có một đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất và năng lực, trí tuệ đáp ứng được đòi
hỏi của mỗi thời kỳ phát triển đất nước, vì cán bộ chính là người xây dựng đường
lối của Đảng và cũng là người tổ chức thực hiện đường lối đó.
Nói về cán bộ, Đảng và Nhà nước ta đã xác định: cán bộ là khâu quyết định
thành cơng trong đổi mới nền hành chính. Đội ngũ cán bộ yếu sẽ cản trở sự phát
triển chung của đất nước. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã
nghiêm túc đánh giá một cách khách quan: “Những sai lầm, khuyết điểm trong lãnh
đạo kinh tế, xã hội, bắt nguồn từ những khuyết điểm trong hoạt động tư tưởng tổ
chức và cán bộ của Đảng. Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân”. [6. 140]
Trong bài phát biểu của đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười tại Hội nghị Trung
ương 3 khố VIII có nhấn mạnh về công tác cán bộ trong thời kỳ hiện nay:
“Trong công tác xây dựng Đảng, vấn đề cán bộ có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, là
khâu then chốt… đặc biệt là cần làm tốt việc phát hiện, lựa chọn, rèn luyện, đào
tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, trước hết là cán bộ lãnh đạo
chủ chốt của Đảng và Nhà nước ở Trung ương và các cấp…”. Nghị quyết lần thứ
3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII cũng chỉ rõ: “Xây dựng đội ngũ cán
bộ có phẩm chất và năng lực là yếu tố quyết định của bộ máy Nhà nước”.

[10. 66]

Khi xây dựng đội ngũ cán bộ, Đảng ta đã quán triệt các quan điểm có tính ngun tắc
trong cán bộ. Đồng thời Đảng cũng đề ra tiêu chuẩn cán bộ đó là hai mặt đức và tài,
phẩm chất, năng lực, không coi nhẹ mặt nào. Song đức là gốc, tài là quan trọng. Đó
là nội dung căn bản nhất, chung cho mọi thời kỳ cách mạng, cho mọi cán bộ. Trong
thời kỳ cơng nghiệp hố, hiện đại hố, tiêu chuẩn đối với người cán bộ lãnh đạo quản
lý là: “Có phẩm chất chính trị vững vàng, trung thành với lý tưởng cách mạng, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trình độ chun mơn và năng lực
thực tiễn cao, có ý thức tổ chức kỷ luật, gương mẫu trong đạo đức, lối sống. Nói tóm
lại là phải có đầy đủ đức và tài, trong đó đức là gốc”. [ 10. 31]

Như vậy, người cán bộ có phẩm chất chính trị là người vững vàng, kiên định
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trung thành với Đảng, với chủ nghĩa


Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Người cán bộ có đạo đức cách mạng là người
có lối sống trung thực, không tham vọng cá nhân, không kèn cựa địa vị, khơng cơ hội,
khơng tham nhũng, có lối sống giản dị trong sáng, kiên quyết đấu tranh chống tham
nhũng và những biểu hiện tiêu cực khác, khắc phục chủ nghĩa cá nhân.
Đánh giá kết quả đổi mới của đất nước trong những năm qua, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta vượt qua một giai đoạn
thử thách gay go trong hoàn cảnh hết sức phức tạp, khó khăn, nhân dân ta khơng
những vững vàng mà cịn vượt lên, đạt những thắng lợi trên nhiều mặt”. [8. 62] Để có
được những kết qủa đó, cần phải nói tới vai trị của cơng tác cán bộ trong thời gian
qua. Đội ngũ cán bộ, công chức và nhất là cán bộ lãnh đạo và quản lý, đại bộ phận
đã được rèn luyện thử thách trong đấu tranh cách mạng và thực tiễn xây dựng kinh
tế, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tinh thần độc lập tự chủ, kiên định lý tưởng
và mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn, quyết tâm
tiến hành thành công công cuộc đổi mới đất nước.
Thực hiện quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, đồng thời thấy được
tầm quan trọng của công tác cán bộ, ngày 26/02/1998 Quốc hội đã ban hành Pháp
lệnh về Cán bộ, công chức; đến năm 2003, Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh về
cán bộ, công chức được sửa đổi, bổ sung năm 2003. Việc ban hành Pháp lệnh này
đã thể hiện sự quan tâm thích đáng của Nhà nước tới cơng tác cán bộ, góp phần
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng chức từ việc thể chế hố những tiêu
chuẩn, quy định về công việc, hành vi, trách nhiệm…của từng cán bộ, công chức
trong hoạt động công tác.
Xuất phát từ vị trí, vai trị của đội ngũ cán bộ ở nước ta trong thời kỳ mới,
Đảng và Nhà nước ta ngày càng chú trọng đến công tác cán bộ nhằm từng bước
bồi dưỡng, đào tạo nâng cao trình độ chuyên mơn nghiệp vụ, năng lực lãnh đạo
quản lý, có bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng ngang tầm với nhiệm vụ hiện

nay, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa.Công tác cán bộ phải
đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện nguyên tắc tập
trung dân chủ, phải huy động quần chúng tham gia công tác cán bộ. Đảng ta đã
nêu lên 5 quan điểm của công tác cán bộ:


Một là, Phải xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ của thời kỳ đẩy mạnh cơng
nghiệp hố- hiện đại hố.
Hai là, Quán triệt quan điểm giai cấp công nhân của Đảng, phát huy truyền
thống yêu nước và đoàn kết dân tộc.
Ba là, Gắn việc xây dựng đội ngũ cán bộ với xây dựng tổ chức và đổi mới cơ
chế chính sách.
Bốn là, Thông qua hoạt động thực tiễn và phong trào cách mạng để tuyển
chọn, giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ.
Năm là, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ
chức thành viên trong hệ thống chính trị.
Theo Pháp lệnh cán bộ, cơng chức được sửa đổi, bổ sung năm 2003,
chúng ta gắn hai khái niệm cán bộ và công chức thành cụm từ đội ngũ cán bộ,
công chức để phân biệt với nhân dân. Để hiểu rõ thêm cán bộ, công chức trong
mối quan hệ với nhân dân, chúng ta đọc Điều 2 Chương I: Cán bộ, công chức là
công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, phải không ngừng rèn
luyện phẩm chất đạo đức, học tập nâng cao trình độ và năng lực cơng tác để thực
hiện tốt nhiệm vụ, công vụ được giao. Trong Chương I- Những điều quy định
chung, Điều 1 đã xác định những đối tượng được công nhận là cán bộ, công
chức như sau:
“Cán bộ, công chức quy định tại Pháp lệnh này là công dân Việt Nam,
trong biên chế, bao gồm:
a. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội ở trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc

trung ương; ở tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);
ở huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện);
b. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung
ương, cấp tỉnh, cấp huyện;


c. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm vào một ngạch viên chức
hoặc giao giữ một nhiệm vụ thường xuyên trong đơn vị sự nghiệp của Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội;
d. Thẩm phán Toà án nhân dân, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân;
e. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ
thường xuyên làm việc trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà
không phải là sĩ quan, quân nhân chun nghiệp, cơng nhân quốc phịng; làm
việc trong cơ quan, đơn vị thuộc công an nhân dân mà không phải sĩ quan, hạ sĩ
quan chuyên nghiệp;
g. Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong
Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, Phó bí thư Đảng uỷ;
người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn (sau đây gọi
chung là cấp xã);
h. Những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn
nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã”. [5. 6,7,8]
Như vậy, có thể xem cán bộ là những người làm việc trong các cơ quan
của Đảng, Nhà nước hoặc Đồn thể, có hưởng lương hoặc phụ cấp. Họ cần có
đủ tài năng và đạo đức để phục vụ nhân dân.
1.1.2 Vai trò của ngƣời cán bộ trong sự nghiệp cách mạng theo Tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh.
a. Sự nghiệp cách mạng của dân tộc Việt Nam theo Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Nói tới Tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là một hệ thống lớn, một chỉnh
thể tư tưởng lý luận - phương pháp và phong cách, chúng ta cần đặc biệt nhấn

mạnh tới tư tưởng của Người về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
“đây là một tư tưởng nổi bật và bao trùm, là tư tưởng chủ đạo, là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt Tư tưởng Hồ Chí Minh”. [12. 59]
Nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội
chẳng những chúng ta nhận thấy sự trung thành của Người đối với Chủ nghĩa
Mác - Lênin, mà còn thấy Người đã vận dụng đúng đắn sáng tạo những nguyên


lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, phù
hợp với hoàn cảnh và điều kiện lịch sử của nước ta.
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Muốn có độc lập dân tộc thì phải giải phóng dân
tộc bằng cách mạng vơ sản, vì nước Việt Nam là của người Việt Nam, do nhân
dân làm chủ. Do đó, phải đánh đuổi bọn đế quốc thực dân, giành lại độc lập và
chủ quyền, không để cho chúng biến nước ta thành thuộc địa mặc sức khai thác,
vơ vét tài nguyên, bóc lột sức người, sức của và giam hãm đồng bào ta trong
cảnh tối tăm, ngu dốt để chúng dễ bề cai trị. Công cuộc giải phóng đó là cuộc
cách mạng của tồn thể dân tộc Việt Nam mà đối tượng phải tiêu diệt của cuộc
cách mạng này là đế quốc và phong kiến tay sai, trong đó kẻ thù trực tiếp, nguy
hiểm nhất là thực dân Pháp xâm lược. Do đó nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Việt nam lúc đó là giành cho được độc lập dân tộc, tự do cho nhân dân, sau đó mới
đấu tranh với bè lũ phong kiến, tay sai phản động.
Muốn Cách mạng giải phóng dân tộc đi tới thắng lợi, trước hết phải có Đảng
của giai cấp cơng nhân lãnh đạo, phải dựa trên lực lượng đồn kết của tồn dân, lấy
liên minh cơng nơng, trí thức làm nền tảng. Ngay từ những năm 1927, Người đã
khẳng định, muốn giải phóng dân tộc thành cơng “trước hết phải có đảng cách
mệnh”. Người chỉ rõ: “Cách mệnh trước phải làm cho dân giác ngộ
…Cách mệnh phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu.
…Cách mệnh phải hiểu phong triều thế giới, phải bày sách lược cho dân
Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách
mệnh” [31. 267] để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngồi thì liên lạc

với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới
thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững
phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy.
Người còn đòi hỏi, làm cách mạng thì phải biết hy sinh, để mưu việc lớn
cho dân, cho nước thì người cách mạng phải ít lòng ham muốn vật chất.
Theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam:
Làm cách mạng để giành lấy độc lập tự do cho dân tộc là tạo ra tiền đề đưa dân tộc
quá độ lên Chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa. Theo Người, Chủ


nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thốt nạn bần cùng, làm
cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, các động lực của chủ nghĩa xã hội là một tập
hợp nhiều nhân tố, là cả một hệ thống động lực chứ không phải một động lực
nào là duy nhất. Chúng phối hợp, tác động lẫn nhau chứ không tồn tại riêng lẻ,
biệt lập. Các động lực ấy muốn phát huy được tác dụng đều phải thơng qua con
người, do đó động lực chủ đạo, bao trùm lên tất cả là động lực con người. Người
thường nói “muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có con người xã hội
chủ nghĩa”. [37. 310]
Người cũng lưu ý chúng ta: Việt Nam là một nước nông nghiệp lạc hậu,
công cuộc đổi xã hội cũ thành xã hội mới gian nan, phức tạp hơn việc đánh giặc,
do đó tiến lên chủ nghĩa xã hội, khơng thể một sớm một chiều. Đó là một công
tác tổ chức và giáo dục. Từ việc nhận thức những mâu thuẫn, khó khăn trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Người xác định thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một thời kỳ lịch sử lâu dài, cuộc cách mạng xã
hội chủ nghĩa là một cuộc biến đổi khó khăn nhất và sâu sắc nhất.
Để đảm bảo vượt qua những khó khăn, thử thách đó, để xây dựng thành
công chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, theo Người, phải chú trọng làm cho vững
mạnh những nhân tố bảo đảm sau đây:
- Giữ vững và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng

- Nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước
- Phát huy tính tích cực, chủ động của các tổ chức chính trị- xã hội.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ có đạo đức cách mạng, có năng lực trình độ
chun mơn giỏi, tận tâm phục vụ quần chúng…
Từ những nhân tố đó, có thể thấy mấu chốt của vấn đề là tổ chức và con
người, từ bộ máy Đảng và Nhà nước phải trong sạch vững mạnh đến cán bộ, đảng
viên, công chức phải liêm khiết, tận tụy, thạo chính trị, giỏi chun mơn. Người
cách mạng phải hiểu và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ
thể ở Việt Nam, phải luôn ln miệng nói, tay làm, nói đi đơi với làm, học tập nâng
cao trình độ để phục vụ cuộc sống cho dân ngày một tốt hơn.


b. Vai trò của người cán bộ
- Cán bộ là người xây dựng đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Muốn cho đường lối đúng, pháp luật phù hợp với thực tiễn của cuộc sống đòi
hỏi cán bộ phải là những người có phẩm chất đạo đức trung thực, có kiến thức
khoa học phải sát với thực tiễn cuộc sống của xã hội. Việt Nam là một nước trải
qua đấu tranh giành độc lập dân tộc đi lên Chủ nghĩa xã hội, do vậy đòi hỏi một
sự sáng tạo lớn khi vận dụng Chủ nghĩa Mác - Lênin để tìm ra con đường xây
dựng Chủ nghĩa xã hội phù hợp với điều kiện của đất nước.
Do đó, nếu “cán bộ dở” thì một mặt chính sách khơng thể thực hiện được,
mặt khác việc hoạch định, xây dựng chính sách mới sẽ sai lầm hoặc khơng phù
hợp. Do đó địi hỏi cán bộ phải đi sâu, đi sát quần chúng, nắm được tâm tư
nguyện vọng của họ. Hồ Chí Minh đã viết: “Mỗi công việc của Đảng phải giữ
nguyên tắc và phải liên hợp chặt chẽ với dân chúng” [32. 249] và “khi đặt ra
khẩu hiệu và chỉ thị luôn luôn phải dựa vào điều kiện thiết thực và kinh nghiệm
cách mạng ở các nước, ở trong nước và ở địa phương”.
- Cán bộ là người đưa đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước vào
trong cuộc sống. Muốn để người dân tiếp nhận những đường lối của Đảng cũng
như chính sách pháp luật của Nhà nước, địi hỏi người cán bộ phải có phẩm chất

đạo đức để sao cho dân tin, dân mến, dân làm theo. Nếu dân khơng tin thì cán bộ
khơng thể tiếp cận được với dân để tìm hiểu về dân. Muốn dân hiểu, dân làm thì
người tuyên truyền phải biết cách tuyên truyền, do đó người cán bộ tuyên truyền
phải hiểu đường lối đó một cách thấu đáo, phải có tài trong tuyên truyền, thuyết
phục quần chúng một cách có lý, có tình, làm cho họ hiểu rõ “thì việc gì khó mấy
họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ”. [32. 241]
- Cán bộ là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của
Nhà nước và là người bày cách cho dân làm. Cán bộ không chỉ là người tổ chức
thực hiện đường lối cho nhân dân trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền mà
ngay cả trong quá trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội vì: đấu tranh giành chính
quyền đã khó nhưng xây dựng thành cơng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực lại
càng khó khăn hơn. Quá trình xây dựng xã hội mới là một q trình khó khăn,


phức tạp, lâu dài gian khổ, bởi: Việt Nam từ một nước sản xuất nhỏ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa lại càng khó khăn hơn các
nước khác, đời sống nhân dân cịn nhiều khó khăn, năng suất lao động thấp,
trình độ dân trí cịn hạn chế. Vì vậy, trong các lĩnh vực xây dựng chính quyền,
kinh tế - xã hội địi hỏi phải có đội ngũ cán bộ có năng lực để đảm nhiệm được
những nhiệm vụ của cách mạng. Do đó, cán bộ phải thật sự “nhúng tay” vào
việc, phải cùng với nhân dân bàn bạc và tìm ra cách giải quyết có hiệu quả nhất
“việc gì cũng phải hỏi ý kiến dân chúng và giải thích cho dân chúng”. [32. 295]
- Cán bộ là người tổng kết thực tiễn, từ thực tiễn cuộc sống phải tiếp tục
bổ sung lý luận và phát triển lý luận, vì thực tiễn thay đổi nhanh hơn so với lý
luận cũng như thực tiễn rất phong phú và phức tạp, do đó địi hỏi cán bộ khơng
chỉ có phẩm chất tốt mà cịn phải có năng lực, trình độ cao để đáp ứng được u
cầu, nhiệm vụ của cơng việc, để có thể bổ sung và hồn thiện đường lối, chính
sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Do đó, nói đến cán bộ là nói đến "tiền vốn của Đồn thể". [33. 46] Có vốn
mới làm ra lãi. Bất cứ chính sách, cơng tác gì nếu có cán bộ tốt thì sẽ thành

cơng, tức là có lãi. Khơng có cán bộ tốt thì sẽ hỏng việc, tức là lỗ vốn. Vì vậy,
để thực hiện được những nhiệm vụ nặng nề của cách mạng, chúng ta cần có một
đội ngũ cán bộ biết "Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên
trước lợi ích riêng của cá nhân mình, hết lịng, hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng,
vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi cơng việc". [36. 285] Như
vậy, khi bàn đến vai trị của cán bộ, Hồ Chí Minh đã khơng đề cập cán bộ một cách
chung chung, mà Người đã sử dụng cán bộ "có tính từ". Đó là “cán bộ tốt”, “cán
bộ kém”, “cán bộ dở”. Mà "muôn việc thành công hoặc thất bại đều do cán bộ
tốt hoặc kém". Nói cụ thể, có cán bộ tốt thì mọi việc mới thành cơng.
Khẳng định vai trị của người cán bộ cần phải hiểu rằng khơng phải đã là
cán bộ thì chỉ có tính tốt. Mà cán bộ cũng là người, ai cũng có tính tốt và tính
xấu. Song đã là người cán bộ cách mạng thì phải cố gắng phát triển những tính
tốt và sửa bỏ những tính xấu. Vì "tính xấu của một người thường chỉ có hại cho


người đó, cịn tính xấu của một đảng viên, một cán bộ sẽ có hại đến Đảng, có hại
đến nhân dân”. [32. 254]
Nhấn mạnh vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, song Người
không cho rằng “cán bộ quyết định tất cả” mà "cách mạng là sự nghiệp của quần
chúng nhân dân, chứ không phải là sự nghiệp của cá nhân anh hùng nào. Thành
công của Đảng ta là ở nơi Đảng ta đã tổ chức và phát huy lực lượng cách mạng vô
tận của nhân dân, đã lãnh đạo nhân dân phấn đấu dưới lá cờ tất thắng của Chủ
nghĩa Mác- Lênin". [37. 197] Do đó, Người ln đề cao vai trị của quần chúng
nhân dân và đặt người cán bộ trong mối quan hệ với nhân dân “dân như nước, cán
bộ như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết”. Người khẳng định “nước lấy
dân làm gốc” còn “cán bộ quyết định mọi việc”. [33. 480] Sự "quyết định" ở đây
là cán bộ phải đi trước, làm gương về tư tưởng đạo đức, thái độ, lề lối làm việc.
Muốn phát huy được đầy đủ tính sáng tạo của hàng triệu quần chúng nhân dân
xây dựng Chủ nghĩa xã hội, vì Chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự
giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người, thì cán bộ phải đi

trước, tự cải tạo mình, tự nâng cao mình. Cán bộ phải có lập trường giai cấp vô
sản vững chắc, giác ngộ về Chủ nghĩa xã hội cao; phải rửa sạch ảnh hưởng của
những tư tưởng của giai cấp bóc lột, rửa sạch chủ nghĩa cá nhân, rèn luyện tinh
thần và ý thức tập thể.
1.2. NHỮNG PHẨM CHẤT CƠ BẢN CỦA NGƢỜI CÁN BỘ THEO TƢ TƢỞNG HỒ
CHÍ MINH

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đánh giá con người cần dựa vào hai tiêu
chuẩn cơ bản, đó là đạo đức và tài năng hay phẩm chất và năng lực, trong đó đạo
đức được coi là cái gốc.
1.2.1 Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đức của ngƣời cách mạng
a. Những phẩm chất đạo đức của ngƣời cách mạng
Người cách mạng là những người tình nguyện hy sinh phấn đấu cho độc
lập của dân tộc, tự do của nhân dân, do vậy địi hỏi họ phải có những phẩm chất
đạo đức sau:


Phải có ý thức dân tộc, suốt đời nguyện hy sinh phấn đấu cho sự nghiệp giải
phóng quê hương đất nước, phải biết đặt lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi
ích của cá nhân, phải "Hết lịng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Đảng, vì dân mà đấu
tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc". [36. 285]
Người cách mạng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, nắm vững những
nguyên lí của Chủ nghĩa Mác- Lênin, những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam và kiên quyết đấu tranh để bảo vệ lý luận Chủ nghĩa Mác- Lênin. Hồ Chí
Minh coi lý luận như là "trí khơn", là "ánh sáng", là "tâm hồn" và "tình cảm" của
mọi cán bộ, đảng viên, vì vậy nó được coi như là "kim chỉ nam" để chỉ phương
hướng cho cán bộ trong hoạt động thực tiễn. Theo Người, "Không có lý luận thì
lúng túng như nhắm mắt mà đi" và "Thực tiễn khơng có lý luận hướng dẫn thì
thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận
sng". [35. 496] Do đó, người cách mạng luôn luôn phải nắm vững và vận

dụng lý luận một cách linh hoạt vào hoạt động thực tiễn, tránh rơi vào bệnh dập
khn máy móc, giáo điều hay bệnh cục bộ, địa phương chủ nghĩa.
Thực hiện nghiêm kỷ luật của Đảng, đảm bảo kỷ luật chiến đấu, kỷ luật
lao động. Vì nếu trong một tổ chức mà người cách mạng khơng thực hiện
nghiêm kỷ luật thì sẽ dẫn đến mạnh ai nấy làm, không theo một quy định chung,
có sự xáo trộn và khơng tạo ra được sức mạnh tổng hợp. Nếu người cán bộ
không thực hiện nghiêm kỷ luật trong chiến đấu sẽ dẫn tới những tổn thất cho
cách mạng, và ảnh hưởng đến đồng đội. Cịn trong lao động sẽ có thể dẫn tới
những tai nạn trong lao động, ảnh hưởng đến hiệu quả và chất lượng cơng việc
chung. Tóm lại, khi người cách mạng không thực hiện nghiêm kỷ luật sẽ dẫn tới
phạm phải những sai lầm cá nhân, ảnh hưởng tới tổ chức và làm mất uy tín của
Đảng đối với nhân dân…
Người cán bộ phải ra sức học tập, không ngừng nâng cao trình độ lý luận
chính trị, trình độ chun mơn nghiệp vụ. Vì để hồn thành được những nhiệm
vụ, những cơng việc của mình, người cán bộ phải ln ln rèn luyện phấn đấu
khơng ngừng, nâng cao trình độ chun môn nghiệp vụ và ra sức học tập Chủ
nghĩa Mác - Lênin. Có nâng cao trình độ lý luận chính trị, người cán bộ mới


vững vàng trong cơng việc, mới có tri thức để vận động nhân dân tham gia tích
cực vào cơng cuộc giành độc lập dân tộc cũng như xây dựng xã hội mới.
Người cách mạng khi được trang bị lý luận cách mạng, hiểu biết lý luận
cách mạng sẽ kiên trì phấn đấu cho lý tưởng cách mạng "bại cũng không nản,
thắng cũng không kiêu". [32. 283] Khi trung thành với lý tưởng cách mạng thì
người cán bộ mới dám hy sinh tài sản và tính mạng của mình cho nền độc lập
dân tộc, tự do của nhân dân, mới dành hết tâm lực, trí lực, tìm mọi cách vượt
qua những khó khăn thử thách, kiên quyết hồn thành những nhiệm vụ được
giao với một tâm niệm "quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách
mạng". [36. 287]
Người cách mạng không chỉ cần dũng cảm trong đấu tranh dám chấp nhận

những hy sinh mà còn cần dũng cảm trong việc thừa nhận những sai lầm thiếu
sót, dám nhận trách nhiệm trước những thiếu sót đó và kiên quyết sửa chữa. Nếu
khơng dũng cảm trong chiến đấu thì người cán bộ, chiến sĩ đó sẽ dễ dàng đầu
hàng kẻ thù khi bị tra tấn, hay dễ bị kẻ thù mua chuộc. Điều đó sẽ gây tổn thất to
lớn cho cách mạng. Trong công việc, nếu không dám dũng cảm thừa nhận những
yếu kém, sai lầm của mình sẽ rơi vào bệnh độc đốn, chun quyền, bảo thủ trì trệ
và chắc chắn sẽ không dám nhận lỗi trước tập thể, trước nhân dân và quyết tâm
sửa sai. Do đó người cán bộ cần phải "biết thật thà tự phê bình và thành khẩn phê
bình đồng chí khác để cùng nhau tiến bộ". [36. 289]
Phải liêm khiết trong công việc, không tham nhũng, cửa quyền, sách nhiễu
nhân dân. Nếu như trong công việc không liêm khiết mà tham nhũng hay cửa
quyền sách nhiễu nhân dân thì chẳng những khơng giúp được nhân dân, cho đất
nước, không phải là công bộc của dân mà khi đó trở thành một ơng quan tham,
đục kht của dân, là kẻ hại dân, hại nước. Những điều đó sẽ là những nguy cơ
cho cách mạng, làm giảm lòng tin của nhân dân vào cán bộ, do đó " người cách
mạng phải tiêu diệt nó". [36. 292]
Cán bộ, đảng viên phải là người sống có tình, có nghĩa, trước sau như một đối
với nhân dân, với bạn bè đồng nghiệp, vì đó là một trong những đạo lý sống tốt đẹp
của người Việt Nam. Bởi vì có được ngày hơm nay thì người cán bộ đó cũng phải


trải qua những ngày tháng khó khăn, gian khổ với bao sự giúp đỡ, che chở và cả sự
hy sinh của đồng bào, đồng chí…
b. Đức là gốc của ngƣời cách mạng
Hồ Chí Minh đã lấy những ví dụ đơn giản trong cuộc sống để so sánh và
làm nổi bật vai trò đạo đức của người cách mạng: "Đức là gốc của người cách
mạng", vì theo Người: cây thì phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người
cách mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không
lãnh đạo được nhân dân. Việc giải phóng cho dân tộc, giải phóng cho nhân loại
là một công việc to tát tự mỗi người không thể làm nổi mà cần phải có sự giúp

sức của nhiều người. Do vậy người cách mạng nếu khơng có đạo đức thì khơng
được dân ủng hộ, sẽ khơng làm nổi việc gì. Do đó, đã là cán bộ thì phải có đạo
đức cách mạng, giữ được đạo đức cách mạng mới là người cán bộ chân chính.
Chính việc tu dưỡng đạo đức của người cán bộ là tấm gương sáng cho quần
chúng noi theo bởi “cán bộ, đảng viên đi trước, làng nước theo sau”. Cũng vì "vấn đề
cán bộ quyết định mọi việc" nên "mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có
thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là không". Tuy nhiên một vấn đề khác cũng rất
thơng thường, hiển nhiên như Hồ Chí Minh đã giải thích là khi con người đã có chút
quyền hành - quyền to, quyền nhỏ - mà thiếu lương tâm, thì dễ trở nên hủ bại, sâu
mọt của dân. Vì vậy, hơn ai hết, cán bộ phải ln ln là đội tiên phong trong việc
thấm nhuần "tri" và "hành" về đạo đức cách mạng.
Người cán bộ có đạo đức cách mạng mới luôn gần gũi với nhân dân, mới
được dân tín nhiệm và cử vào các cơ quan lãnh đạo, cơ quan chính quyền và khi
đó mới có điều kiện để cống hiến trí và lực của mình cho cách mạng, thông qua
trường học quần chúng quần chúng mà bồi dưỡng phẩm chất đạo đức, phát triển
tài năng của mình.
Người cán bộ có đạo đức cách mạng mới dám chấp nhận những hy sinh
mất mát, đặt quyền lợi của cá nhân dưới lợi ích của dân tộc, của đất nước. Thơng qua
uy tín của người cán bộ mà tập hợp nhân dân, động viên quần chúng tham gia vào
các phong trào cách mạng. Đạo đức cách mạng do những đặc tính của nó, nên có sức
mạnh cảm hố, thuyết phục và lơi cuốn lịng người, từ đó mà tập hợp được lực lượng


×