Tải bản đầy đủ (.doc) (119 trang)

TÍCH HỢP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH QUA DẠY HỌC THƠ VIỆT NAM TỪ NĂM 1945 ĐẾN 1975 (NGỮ VĂN 12, TẬP 1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.74 MB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ LOAN

TÍCH HỢP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH QUA DẠY HỌC THƠ VIỆT NAM TỪ
NĂM 1945 ĐẾN 1975
(NGỮ VĂN 12, TẬP 1)

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)

HÀ NỘI – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

NGUYỄN THỊ LOAN

TÍCH HỢP GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG
CHO HỌC SINH QUA DẠY HỌC THƠ VIỆT NAM TỪ
NĂM 1945 ĐẾN 1975
(NGỮ VĂN 12, TẬP 1)

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN
CHUYÊN NGÀNH : LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 15015714


Người hướng dẫn khoa học: TS. Dương Tuyết Hạnh

HÀ NỘI – 2017


LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin trân trọng cảm ơn Trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc
gia Hà Nội, quý thầy cô tham gia giảng dạy lớp Cao học Lý luận và Phương
pháp dạy học bộ môn Ngữ văn khóa 2015 – 2017 đã giúp đỡ, động viên, tạo
mọi điều kiện cho tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài.
Đặc biệt, tác giả xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc đến
TS. Dương Tuyết Hạnh, người đã đã tận tình hướng dẫn khoa học, giúp đỡ
tác giả hoàn thành luận văn.
Tác giả xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo và các
em học sinh trường THPT Gia Viễn A – Ninh Bình đã cộng tác và nhiệt tình
giúp đỡ trong quá trình điều tra, nghiên cứu, kiểm chứng kết quả nghiên cứu
để hoàn thành luận văn.
Luận văn chắc chắn không tránh khỏi những khiếm khuyết, tác giả
mong nhận được sự góp ý chân thành của quý thầy cô và đồng nghiệp.
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả

Nguyễn Thị Loan

i


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
KNS
THPT

THCS
WHO
UNICEF
UNESCO
ĐHSP
SGK
HS
GV
PPDH
KTDH

:
:
:
:
:
:

Kĩ năng sống
Trung học phổ thông
Trung học cơ sở
Tổ chức Y tế thế giới
Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa

:
:
:
:
:

:

Liên hợp quốc
Đại học sư phạm
Sách giáo khoa
Học sinh
Giáo viên
Phương pháp dạy học
Kĩ thuật dạy học

ii


MỤC LỤC

iii


DANH MỤC BẢNG BIỂU, ĐỒ THỊ

iv


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Một trong những giải pháp sư phạm nhằm giúp học sinh hình thành
những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn, lâu dài về mọi mặt và tạo
mọi cơ hội để phát triển năng lực người học là dạy học tích hợp. Quan điểm
dạy học tích hợp hiện nay đang là một trong những định hướng đổi mới căn
bản và toàn diện giáo dục, là một bước chuyển từ cách tiếp cận nội dung giáo

dục sang tiếp cận năng lực nhằm đào tạo con người có tri thức mới, năng
động, sáng tạo khi giải quyết các vấn đề trong thực tiễn cuộc sống. Với quan
điểm dạy học tích hợp hiện nay đã góp phần hiện thực hóa và thực hiện thành
công đổi mới giáo dục.
Cùng với các biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho
học sinh trong nhà trường, giáo dục KNS cho học sinh là yêu cầu vô cùng
quan trọng, một nội dung không thể tách rời của quá trình giáo dục. Mục đích
của quá trình giáo dục KNS là nhằm trang bị cho học sinh những kỹ năng cần
thiết nhất để các em có thể thích ứng với cuộc sống của xã hội thời hiện đại.
Có thể nói, việc giáo dục KNS cho học sinh trong nhà trường phổ thông là rất
cần thiết để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
Nội dung giáo dục KNS đã được tích hợp trong một số môn học và hoạt
động giáo dục có tiềm năng trong nhà trường phổ thông. Các môn học đều hàm
ẩn nội dung giáo dục KNS với những mức độ khác nhau. Với đặc trưng của một
môn học về khoa học xã hội và nhân văn, bên cạnh nhiệm vụ hình thành và
phát triển ở học sinh năng lực sử dụng tiếng Việt, năng lực tiếp nhận văn bản
văn học và các loại văn bản khác, môn Ngữ văn còn giúp học sinh có được
những hiểu biết về xã hội, văn hoá, văn học, lịch sử, đời sống nội tâm của con
người. Môn Ngữ văn còn giúp học sinh có năng lực sử dụng ngôn ngữ để học
tập, khả năng giao tiếp, nhận thức về xã hội và con người. Đồng thời môn
Ngữ văn giúp học sinh bồi dưỡng năng lực tư duy, làm giàu xúc cảm thẩm mĩ

1


để hoàn thiện nhân cách. Vì thế, môn Ngữ văn trong nhà trường THPT là môn
học có nhiều ưu thế trong việc giáo dục KNS cho học sinh.
Nhưng trên thực tế, vấn đề giáo dục KNS ở trường phổ thông mới được
chú trọng từ những năm học 2010 – 2011. Hơn nữa, bản chất môn Ngữ văn là
sự kết hợp giữa tính khoa học và nghệ thuật. Làm sao để học sinh vừa cảm

thụ, rung động với tác phẩm văn chương lại vừa tích hợp được các kĩ năng
sống cũng không phải là đơn giản. Do vậy, việc làm thế nào để tích hợp nội
dung giáo dục KNS trong nội dung bài học và thông qua các phương pháp
triển khai nội dung bài học đến nay vẫn là sự trăn trở của các thầy cô giảng
dạy môn Ngữ văn nói riêng và của giáo viên nói chung.
Trong quá trình giảng dạy Ngữ văn lớp 12, chúng tôi nhận thấy các tác
phẩm hiện đại Việt Nam khi được lựa chọn vào giảng dạy đều là những tác
phẩm có giá trị nội dung và nghệ thuật, có tác dụng bồi dưỡng tâm hồn, tình
cảm, nhân cách của học sinh. Tuy nhiên, trong thực tế giảng dạy nhiều giáo
viên vẫn chưa khai thác hết tiềm năng của các tác phẩm nhất là việc giáo dục
KNS cho học sinh. Để qua mỗi tác phẩm văn học bên cạnh những cảm thụ về
nghệ thuật, về vẻ đẹp của ngôn ngữ, học sinh còn có thể rút ra được kinh
nghiệm sống cần thiết đủ tự tin bước vào đời.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên và với mong muốn
tìm ra một số biện pháp nhằm giáo dục cho học sinh những giá trị và KNS qua
mỗi tác phẩm văn học, chúng tôi lựa chọn đề tài: Tích hợp giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh qua dạy học thơ Việt Nam từ năm 1945 đến 1975 (Ngữ văn
12, tập 1).
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
2.1. Các công trình nghiên cứu kĩ năng sống ở nước ngoài
Thuật ngữ “Kĩ năng sống” đã xuất hiện từ những năm 90 của thế kỉ XX,
trong một số chương trình giáo dục của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc
(UNICEF). Trước tiên là chương trình Giáo dục những giá trị sống với 12
giá trị cơ bản của giáo dục cho thế hệ trẻ. Tiếp đó, Tổ chức Y tế thế giới
(WHO) và Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc

2


(UNESCO) đã chung sức xây dựng chương trình giáo dục KNS cho thanh

thiếu niên. Từ xuất phát điểm này, một số nhà nghiên cứu như J.H.Fichter
(nhà xã hội học người Mỹ), P.Tugarinov (Liên Xô) hay Dramalier (Bungari)
bắt đầu đề cập đến vấn đề giá trị sống như những chuẩn mực trong giá trị đạo
đức con người. Từ đây, một số tài liệu nghiên cứu về vấn đề giáo dục KNS
cho thanh thiếu niên ra đời như: Tài liệu tập huấn về KNS của UNICEF
(2004), Những hoạt động giá trị sống cho thiếu niên (8 đến 14 tuổi) của Diane
Tiuman (Nxb thành phố Hồ Chí Minh – 2000), Tài liệu tập huấn kĩ năng cơ
bản trong tham vấn, G.Bandzeladze (1985)…
Cũng vào những năm đầu thập niên 90, một số nước châu Á như : Ấn
Độ, Lào, Campuchia… đã nghiên cứu và triển khai chương trình dạy KNS ở
các bậc học phổ thông từ mầm non cho đến THPT. Những nội dung giáo dục
chủ yếu ở hầu hết các nước này đó là trang bị cho thế hệ trẻ những KNS cần
thiết để giúp họ thích nghi dần dần với cuộc sống sau này, mục đích chính là
dạy - trang bị và hình thành KNS. Mục tiêu chung của giáo dục KNS được
xác định là nhằm nâng cao tiềm năng của con người để có hành vi thích ứng
và tích cực, đáp ứng nhu cầu, sự thay đổi, các tình huống của cuộc sống hàng
ngày đồng thời nâng cao chất lượng cuộc sống. Vì vậy, các nước đã đưa ra
cách thiết kế chương trình giáo dục và trang bị KNS vào tất cả các môn học
và các chương trình ở những mức độ khác nhau.
Hiện nay, đã có hơn 155 nước trên thế giới quan tâm đến việc đưa KNS
vào nhà trường, trong đó có 143 nước đã đưa vào chương trình chính khóa ở
Tiểu học và Trung học. Việc giáo dục KNS cho học sinh ở các nước được
thực hiện theo 3 hình thức:
- Kĩ năng sống là môn học riêng biệt.
- Kĩ năng sống được tích hợp vào một số môn học chính.
- Kĩ năng sống được tích hợp vào nhiều hoặc tất cả các môn học trong
chương trình.
Tuy nhiên, chỉ có một số ít không đáng kể các nước đưa KNS thành một
môn học riêng biệt. Ví dụ như: Malawi, Campuchia… Còn đa số các nước để
3



tránh sự quá tải trong nhà trường, thường tích hợp giáo dục KNS vào một
phần nội dung môn học, chủ yếu là các môn xã hội như: Giáo dục sức khỏe,
giáo dục giới tính, quyền con người, giáo dục môi trường…. Một số nước đã
sử dụng cách tiếp cận “Whole School Approac” trong đó có hình thức xây dựng
“Trường học thân thiện” nhằm thúc đẩy việc giáo dục KNS cho HS trong nhà
trường [8, tr.13].
Do phần lớn các quốc gia đều mới bước đầu triển khai giáo dục kĩ năng
sống nên những nghiên cứu lí luận về vấn đề này mặc dù khá phong phú song
chưa thật toàn diện và sâu sắc. Cho đến nay, chưa có quốc gia nào tìm ra được
kinh nghiệm hoặc hệ thống tiêu chí chuẩn mực để đánh giá chất lượng kĩ năng
sống.
2.2. Các công trình nghiên cứu kĩ năng sống trong nước
Tại Việt Nam, KNS đang được cả xã hội quan tâm. Thuật ngữ kĩ năng
sống bắt đầu xuất hiện trong các nhà trường phổ thông Việt Nam từ những
năm 1995 –1996, thông qua dự án “Giáo dục kĩ năng sống để bảo vệ sức
khỏe và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài nhà
trường” do UNICEF phối hợp với Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng Hội Chữ
thập đỏ Việt Nam thực hiện. Từ đó đến nay, nhiều cơ quan tổ chức trong nước
và quốc tế đã tiến hành giáo dục kĩ năng sống gắn với các vấn đề xã hội như:
Phòng chống ma túy, phòng chống mại dâm, phòng chống buôn bán phụ nữ
và trẻ em, phòng chống tai nạn thương tích học đường, bảo vệ môi trường…
Thông qua quá trình thực hiện chương trình này, nội dung của khái niệm KNS
và giáo dục KNS ngày càng được mở rộng.
Một trong những người đầu tiên có những nghiên cứu mang tính hệ
thống về KNS và giáo dục KNS ở Việt Nam là Nguyễn Thanh Bình. Với một
loạt các bài báo, các đề tài khoa học cấp bộ và giáo trình, tài liệu tham khảo
[2],[3],[4], tác giả đã đóng góp đáng kể vào việc tạo ra những hướng nghiên
cứu về KNS và giáo dục KNS, cách tiếp cận KNS, các con đường giáo dục

KNS cho học sinh trong nhà trường.

4


Trong khoảng một thập niên trở lại đây, đã có rất nhiều các trung tâm
giáo dục KNS ra đời như Tâm Việt, TGM Corporation, Trung tâm kĩ năng
sống trực thuộc trung ương hội khoa học tâm lí – Giáo dục Việt Nam…. thu
hút đông đảo giới trẻ cũng như các bậc phụ huynh. Tuy nhiên, tác dụng của
các khóa học này có được bền lâu hay không còn phụ thuộc nhiều vào sự tự
rèn luyện của bản thân người học. Ngoài ra, rất nhiều Website, các diễn đàn
về KNS trên internet cũng được thành lập nhằm đáp ứng nhu cầu của giới trẻ.
Đáp ứng nhu cầu thực tiễn về lí thuyết và phương pháp giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh, một số chương trình nghiên cứu đã ra đời như Giáo dục
giá trị sống và kĩ năng sống cho học sinh THCS [19]. Trong cuốn sách này,
các tác giả đã dựa trên đặc điểm tâm lí của học sinh THCS đã xác định những
giá trị sống và KNS cần thiết cho lứa tuổi này. Từ đó, chỉ ra vai trò của mỗi kĩ
năng và đề xuất một số hoạt động giúp học sinh hình thành những KNS cho
bản thân mình. Cuốn sách cũng đưa ra một số trò chơi có tác dụng giáo dục
giá trị sống và KNS cho học sinh. Tác giả Bùi Ngọc Diệp với cuốn Cẩm nang
giáo dục kĩ năng sống cho học sinh THPT (NXB Giáo dục, 2010) đã nêu
những vấn đề chung về KNS và các KNS cần giáo dục cho học sinh THPT,
hướng dẫn tổ chức những hoạt động, kèm theo một số câu chuyện giáo dục kĩ
năng sống cho học sinh. Bên cạnh đó, là một số công trình khoa học nghiên
cứu về việc giáo dục KNS cho học sinh như: Lê Kim Anh (2011), Luận văn
thạc sĩ sư phạm Ngữ văn, Tích hợp rèn kĩ năng sống cho học sinh trong dạy
học thơ trữ tình hiện đại Việt Nam ở trường trung học cơ sở, Trường Đại học
Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn thạc sĩ ngành Quản lý giáo
dục của tác giả Nguyễn Hữu Đức (2010), Quản lý giáo dục kĩ năng sống cho
học sinh trường THPT Trần Hưng Đạo – Nam Định trong giai đoạn hiện nay

(Thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp), Trường Đại học Giáo dục
– Đại học Quốc gia Hà Nội.
Giáo dục phổ thông nước ta những năm vừa qua đã được đổi mới cả về
mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học. Đặc biệt giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh đã được chú trọng. Để giúp các nhà trường, giáo viên thực hiện
5


giáo dục kĩ năng sống cho học sinh có kết quả, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chỉ
đạo Viện khoa học Giáo dục Việt Nam tổ chức biên soạn nhiều bộ tài liệu về
giáo dục KNS cho học sinh qua một số môn học và hoạt động ngoài giờ lên
lớp. Trong dạy học Ngữ văn có cuốn Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ
văn ở trường THCS và Giáo dục kĩ năng sống trong môn Ngữ văn ở trường
THPT [8]. Hai cuốn sách đã đề cập đến tầm quan trọng của việc giáo dục
KNS cho học sinh, từ đó xây dựng những định hướng trong việc giáo dục
KNS trong môn Ngữ văn và các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực có
thể rèn KNS cho học sinh. Tuy nhiên, những công trình này mới chỉ đề cập
đến giáo dục KNS cho học sinh THCS, THPT một cách khái quát.
Song song với các công trình nghiên cứu nêu trên, trong thời gian gần
đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo, các Sở Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức nhiều
lớp tập huấn, các hội thảo nhằm bồi dưỡng cho cán bộ quản lý, giáo viên về
giáo dục KNS cho học sinh phổ thông; hướng dẫn tích hợp giáo dục KNS qua
một số môn học và hoạt động giáo dục ở các cấp học phổ thông, đặc biệt là
môn Ngữ văn. Tại đây, các giáo viên đã thảo luận sôi nổi về vai trò và sứ
mệnh của văn chương trong việc bồi dưỡng nhân cách tâm hồn con người
mà chưa đưa ra những phương pháp cụ thể để tích hợp giáo dục KNS cho
học sinh trong dạy học tác phẩm văn học.
Có thể nói, dạy học thơ nói chung và dạy học thơ Việt Nam từ năm 1945 đến
1975 nói riêng từ lâu đã thu hút được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và đạt
được những thành tự lớn. Có thể điểm qua một số công trình như : “Thơ và mấy

vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại” của tác giả Hà Minh Đức, “Thi pháp học và
vấn đề giảng dạy văn học trong nhà trường” của tác giả Nguyễn Thị Dư Khánh.
Ngoài ra, còn rất nhiều bài viết, nhiều công trình nghiên cứu được đăng tải
trên các báo, tạp chí chuyên ngành, nhiều luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ cũng
đề cập, bàn luận về phương pháp dạy học thơ trong đó có thơ Việt Nam từ
năm 1945 đến 1975 (Ngữ văn 12, tập 1). Các công trình nghiên cứu này đã đưa
ra các biện pháp tiếp cận các tác phẩm từ góc độ thể loại hoặc đề xuất một hướng
dạy học hiện đại đối với các tác phẩm thơ ca.
6


Như vậy, đối tượng nghiên cứu của luận văn này không phải là mới. Tuy
nhiên, những công trình trước đó mới chủ yếu nghiên cứu về dạy học theo đặc
trưng thể loại, thi pháp, phương pháp giảng dạy… mà chưa đề cập đến các vấn
đề tích hợp giáo dục KNS cho học sinh qua dạy học.
Đề tài nghiên cứu mang ý nghĩa thực tiễn nhất định, đó là đề xuất các
biện pháp cụ thể tích hợp giáo dục KNS cho học sinh qua dạy học thơ Việt
Nam từ năm 1945 đến 1975 (Ngữ văn 12, tập 1) nhằm đưa môn Ngữ văn gắn
liền với cuộc sống và mang tính giáo dục cao hơn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Phân tích thực trạng tích hợp giáo dục KNS cho học sinh trong dạy học
Ngữ văn nói chung và qua dạy học thơ Việt Nam từ năm 1945 đến 1975 (Ngữ
văn 12, tập 1) nói riêng, từ đó đề xuất những biện pháp mang tính khả thi
trong việc tích hợp giáo dục KNS cho học sinh.
- Đề tài góp phần phát huy tính hữu dụng và thiết thực qua dạy học đọc –
hiểu thơ Việt Nam từ năm 1945 đến 1975 (Ngữ văn 12, tập 1) nhằm hình
thành và phát triển những KNS cần thiết cho lứa tuổi học sinh trung học phổ
thông. Từ đó, góp phần giáo dục nhân cách học sinh, nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đáp ứng yêu cầu xã hội.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về KNS, tích hợp giáo dục KNS.
- Khảo sát thực trạng tích hợp giáo dục KNS cho học sinh qua dạy học các tác
phẩm văn học nói chung và dạy học thơ Việt Nam từ năm 1945 đến 1975 (Ngữ văn
12, tập 1) nói riêng.
- Tìm hiểu đặc trưng, vị trí của thơ Việt Nam từ năm 1945 đến 1975
(Ngữ văn 12, tập 1).
- Đề xuất các biện pháp tích hợp giáo dục KNS cho học sinh qua dạy học
thơ Việt Nam từ năm 1945 đến 1975 (Ngữ văn 12, tập 1).
- Thực nghiệm dạy học bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng.

7


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Quá trình dạy học tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh qua dạy
học thơ Việt Nam từ năm 1945 đến 1975 (Ngữ văn 12, tập 1).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp tích hợp giáo dục KNS cho học sinh qua dạy thơ
Việt Nam từ năm 1945 đến 1975 trong chương trình Ngữ văn 12, tập 1.
Khảo sát và thực nghiệm được triển khai tại trường THPT Gia Viễn A –
tỉnh Ninh Bình.
Luận văn tập trung nghiên cứu các KNS cơ bản để tích hợp giáo dục cho học
sinh qua dạy học thơ Việt Nam từ năm 1945 đến 1975 (Ngữ văn 12, tập 1) như: kĩ
năng giao tiếp, kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng tư duy sáng tạo, ...
5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Sưu tầm, đọc tài liệu, phân tích, khái
quát, hệ thống hóa các tài liệu có liên quan đến nội dung đề tài
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát, khảo sát, điều tra, phân

tích, tổng hợp, đánh giá, thống kê, phỏng vấn…
- Phương pháp thực nghiệm sư phạm: Thống kê, so sánh, đối chiếu, xử lí
số liệu….
6. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, Tài liệu tham khảo và Phụ
lục, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2. Một số biện pháp dạy học thơ Việt Nam từ năm 1945 đến
1975 (Ngữ văn 12, tập 1) theo hướng tích hợp giáo dục kĩ năng sống.
Chương 3. Thực nghiệm sư phạm.

8


CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Khái quát về Kỹ năng sống
1.1.1. Khái niệm Kĩ năng sống và giáo dục kĩ năng sống
1.1.1.1.Kĩ năng sống
Kĩ năng sống (life skills) là khái niệm được sử dụng rộng rãi cho mọi
lứa tuổi trong các lĩnh vực hoạt động khác nhau của đời sống xã hội. Tuy
nhiên, khi nói về KNS thì có nhiều quan niệm khác nhau:
- Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO), KNS là những kĩ năng thiết thực
mà con người cần có để có cuộc sống an toàn và khỏe mạnh. Hiểu rộng hơn,
KNS là khả năng để có hành vi thích ứng (adaptive) và tích cực (positive),
giúp các cá nhân có thể ứng xử hiệu quả trước các nhu cầu và thách thức của
cuộc sống hàng ngày.
- Theo Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc (UNICEF), KNS là cách tiếp cận
giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Cách tiếp cận này lưu ý đến sự
cân bằng về tiếp thu kiến thức, hình thành thái độ và kĩ năng.
- Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên hợp quốc

(UNESCO), quan niệm coi KNS là năng lực cá nhân để thực hiện đầy đủ các
chức năng gắn với 4 trụ cột của giáo dục. Đó là: Học để biết (learning to
know) gồm các kĩ năng tư duy như: giải quyết vấn đề, tư duy phê phán, ra
quyết định, nhận thức được hậu quả… Học làm người (learning to be) gồm
các kĩ năng cá nhân như: ứng phó với căng thẳng, cảm xúc, tự nhận thức, tự
tin... Học để sống với người khác (learning to live together) gồm các kĩ năng
xã hội như: giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc nhóm,
thể hiện sự cảm thông. Học để làm (learning to do) gồm các kĩ năng thực hiện
công việc và các nhiệm vụ như kĩ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm…
Từ những quan niệm trên đây, có thể thấy KNS bao gồm một loạt các kĩ
năng cụ thể, cần thiết cho cuộc sống hàng ngày của con người. KNS là năng
lực tâm lí – xã hội của mỗi cá nhân, năng lực này có được là do quá trình học

9


tập và lĩnh hội, được thể hiện thông qua truyền thống, văn hóa, gia đình, cộng
đồng và xã hội. Quá trình lĩnh hội năng lực tâm lí diễn ra cả trong và ngoài hệ
thống giáo dục cũng như thông qua nhiều kênh khác nhau… Bản chất của kĩ
năng sống là kĩ năng tự quản lí bản thân và kĩ năng xã hội cần thiết để cá nhân
tự lực trong cuộc sống, học tập và làm việc hiệu quả. Nói cách khác, kĩ năng
sống là khả năng làm chủ bản thân của mỗi người, khả năng ứng xử với
những người khác và với xã hội, khả năng ứng phó tích cực trước các tình
huống của cuộc sống.
Với cách phân tích nêu trên, tác giả luận văn sử dụng khái niệm kĩ năng
sống trong nghiên cứu với nội hàm: “khả năng làm cho hành vi và sự thay đổi
của mình phù hợp với cách ứng xử tích cực giúp con người có thể kiểm soát,
quản lí có hiệu quả các nhu cầu và những thách thức trong cuộc sống hàng
ngày” UNESCO (2003).
1.1.1.2.Giáo dục kĩ năng sống

Kĩ năng sống được hình thành thông qua quá trình xây dựng những hành
vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở giúp
người học có cả kiến thức, giá trị và kĩ năng thích hợp. Do vậy, KNS phải
được hình thành cho học sinh thông qua con đường đặc trưng - hoạt động giáo
dục. Theo Nguyễn Thị Mỹ Lộc “Giáo dục kĩ năng sống là một quá trình với
những hoạt động giáo dục cụ thể nhằm tổ chức, điều khiển để học sinh biết
cách chuyển tải những gì mình biết (nhận thức), những gì mình cảm nhận
(thái độ) và những gì mình quan tâm (giá trị) thành những khả năng thực thụ
giúp học sinh biết phải làm gì và làm như thế nào (hành vi) trong những tình
huống khác nhau của cuộc sống” [19, tr.108 – 109].
1.1.2. Phân loại kĩ năng sống
Do tiếp cận KNS tương đối đa dạng nên cũng có nhiều cách phân loại
KNS, tùy theo quan niệm về KNS.
-Theo UNESCO, WHO và UNICEF, có thể xem KNS gồm các kĩ năng
cốt lõi sau :
10


+ Kĩ năng giải quyết vấn đề (problem solving)
+ Kĩ năng suy nghĩ/ tư duy phê phán (critical thinking)
+ Kĩ năng giao tiếp hiệu quả (effective communication skills)
+ Kĩ năng ra quyết định (decision – making)
+ Kĩ năng tư duy sáng tạo (creative thinking)
+ Kĩ năng giao tiếp ứng xử cá nhân (interpersonal relationship skills)
+ Kĩ năng tự nhận thức/ tự trọng và tự tin của bản thân, xác định giá trị
(selfawareness building skills, incl. Self-awareness, self-esteem and selfconfidence, angd values analysis)
+ Kĩ năng thể hiện sự cảm thông (empathy)
+ Kĩ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc (coping with stress and
emotions)
- Trong giáo dục ở nước ta những năm vừa qua, KNS thường được phân

loại theo các mối quan hệ, bao gồm các nhóm sau:
+ Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với chính mình, bao gồm các
KNS cụ thể như sau: tự nhận thức, xác định giá trị, ứng phó với căng thẳng,
tìm kiếm sự hỗ trợ, tự trọng, tự tin,…
+ Nhóm các kĩ năng nhận biết và sống với người khác, bao gồm các
KNS cụ thể như: giao tiếp có hiệu quả, giải quyết mâu thuẫn, thương lượng,
từ chối, bày tỏ sự cảm thông, hợp tác,…
+ Nhóm các kĩ năng ra quyết định một cách có hiệu quả, bao gồm các
KNS cụ thể như: tìm kiếm và xử lí thông tin, tư duy phê phán, tư duy sáng
tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề,…
Trên đây chỉ là một số trong số các cách phân loại KNS. Tuy nhiên, mọi
cách phân loại chỉ mang tính chất tương đối. Trên thực tế, các KNS thường
không hoàn toàn tách rời nhau mà có liên quan chặt chẽ với nhau. Ví dụ: Khi
cần ra quyết định một cách phù hợp thì các kĩ năng tự nhận thức, kĩ năng tìm
kiếm và xử lí thông tin, kĩ năng tư duy phê phán, kĩ năng tư duy sáng tạo, kĩ
năng xác định giá trị,… thường được vận dụng.
11


Thống nhất với quan điểm trên, đồng thời xem xét sự tương thích với
tính chất, đặc điểm của dạy học thơ Việt Nam từ năm 1945 đến 1975 (Ngữ
văn 12, tập 1), chúng tôi giới hạn các KNS được nghiên cứu trong luận văn để
tích hợp chủ yếu là các kĩ năng về xác định giá trị (lòng yêu nước, sự đồng
cảm, tình yêu thương), kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng giao tiếp, tư duy
sáng tạo, lắng nghe tích cực, kĩ năng làm việc nhóm, kĩ năng tự nhận thức,…
1.1.3. Tầm quan trọng của việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh
Theo UNESCO, ba thành tố hợp thành năng lực của con người là: kiến
thức, kỹ năng và thái độ. Hai yếu tố sau thuộc về KNS, có vai trò quyết định
trong việc hình thành nhân cách, bản lĩnh, tính chuyên nghiệp…
Thành công chỉ thực sự đến với những người biết thích nghi để làm chủ

hoàn cảnh và có khả năng chinh phục hoàn cảnh. Vì vậy, KNS sẽ là hành
trang không thể thiếu của mỗi người. Biết sống, làm việc, và thành đạt là ước
mơ không quá xa vời, là khát khao chính đáng của những ai biết trang bị cho
mình những KNS cần thiết và hữu ích. KNS tốt thúc đẩy thay đổi cách nhìn
nhận bản thân và thế giới, tạo dựng niềm tin, lòng tự trọng, thái độ tích cực và
động lực cho bản thân, tự mình quyết định số phận của mình.
Có thể nói, KNS chính là những nhịp cầu giúp con người biến kiến thức
thành thái độ, hành vi và thói quen tích cực, lành mạnh. Người có KNS sẽ
luôn vững vàng trước những khó khăn, thử thách, biết ứng xử, giải quyết
những vấn đề trong cuộc sống một cách tích cực, phù hợp, họ thường thành
công hơn trong cuộc sống, luôn yêu đời và làm chủ cuộc sống của mình.
Ngược lại, người thiếu KNS thường bị vấp váp, dễ bị thất bại trong cuộc
sống. Họ thường dễ mắc sai lầm hoặc chậm trễ khi đưa ra những quyết định.
Có quan điểm cho rằng, kiến thức chỉ đảm bảo cho 50% của sự thành công,
50% còn lại phụ thuộc vào người đó có KNS hay không? Để khẳng định tầm
quan trọng của KNS, người ta đã hình tượng hóa nó như cây cầu đưa con
người vượt qua dòng sông cuộc đời chứa đầy rủi ro, thách thức để đến được
bến bờ của thành công và hạnh phúc.
12


KNS làm giảm thiểu các tệ nạn xã hội và hành vi phạm pháp, giúp xây
dựng các mối quan hệ tốt đẹp giữa con người với con người trong xã hội,
đồng thời góp phần thúc đẩy năng suất lao động xã hội do dựa trên tinh thần
lao động có trách nhiệm, có kế hoạch, sáng tạo và hợp tác của cá nhân…
Những hành vi tích cực, mang tính chất xây dựng trong mọi lĩnh vực của cuộc
sống vốn là đặc tính của con người có KNS. Do vậy, nếu mọi cá nhân trong
xã hội đều có KNS sẽ giúp xã hội phát triển một cách bền vững. Ngược lại,
nếu thiếu KNS các cá nhân dễ sa ngã vào các tệ nạn xã hội như: nghiện rượu,
nghiện ma túy, mại dâm, cờ bạc, bạo lực… Giáo dục KNS còn giải quyết một

cách tích cực nhu cầu và quyền con người, quyền công dân được ghi trong
luật pháp Việt Nam và Quốc tế.
Giáo dục KNS càng trở nên cấp thiết đối với thế hệ trẻ, bởi các em chính
là những chủ nhân tương lai của đất nước, những người sẽ quyết định sự phát
triển của đất nước. Nếu không có KNS, các em sẽ không thể thực hiện tốt trách
nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước.
Học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách giàu ước
mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về
xã hội, còn thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động… Đặc biệt là
trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, thế hệ trẻ
thường xuyên chịu tác động đan xen của những yếu tố tích cực và tiêu cực.
Nếu thiếu KNS, các em dễ bị lôi kéo vào các hành vi tiêu cực, lối sống ích kỉ,
lai căng, thực dụng, dễ bị phát triển lệch lạc về nhân cách. Một trong những
nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tiêu cực của một bộ phận học sinh phổ
thông trong thời gian qua như: nghiện hút, bạo lực học đường, đua xe máy, ăn
chơi sa đọa… chính là do các em thiếu những KNS cần thiết như: kĩ năng xác
định giá trị, kĩ năng từ chối, kĩ năng kiên định, kĩ năng giải quyết mâu thuẫn,
kĩ năng thương lượng, kĩ năng giao tiếp,…
Vì vậy, việc giáo dục KNS cho thế hệ trẻ là rất cần thiết, giúp các em có
khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối
13


quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, có trách nhiệm với bản
thân, gia đình, xã hội.
1.2. Vấn đề giảng dạy theo hướng tích hợp
1.2.1. Khái niệm “Tích hợp”
Dạy học tích hợp đã trở thành một trào lưu sư phạm hiện đại hiện đang
được quan tâm nghiên cứu và được áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên
thế giới. Liên quan đến khái niệm tích hợp, có nhiều cách định nghĩa, quan

niệm khác nhau.
Tích hợp ban đầu có các tên gọi là: liên hệ (permeation), kết hợp
(combination), phối hợp (coordination), tích hợp (intergration). Theo Từ điển
tiếng Việt, tích hợp là “sự hợp nhất, sự hòa thuận, sự kết hợp”.
Theo Từ điển Giáo dục học cho rằng: “Tích hợp là những hành động liên
kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc
vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học” [11, tr.15]. Bên cạnh
đó, nhà nghiên cứu Phạm Văn Lập cũng quan niệm rằng “dạy học tích hợp có
nghĩa là những kiến thức, kĩ năng học được ở môn học này, phần này của môn
học được sử dụng như những công cụ để nghiên cứu học tập trong môn học
khác, trong nhiều phần khác của cùng môn học” [17].
Từ các quan niệm trên, có thể thấy dạy học tích hợp chính là quá trình
giúp học sinh biết cách sử dụng kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết
ứng dụng trong những tình huống cụ thể, trên cơ sở đó phát triển năng lực
người học.
1.2.2. Quan điểm Dạy học tích hợp

Tích hợp là một trong những quan điểm đã trở thành xu thế phát triển
chương trình giáo dục phổ thông ở nhiều nước trên thế giới. Ở nước ta, từ
thập niên 90 của thế kỉ XX trở lại đây, vấn đề xây dựng môn học tích hợp với
những mức độ khác nhau mới thực sự được tập trung nghiên cứu, thử nghiệm
và áp dụng vào nhà trường phổ thông ở các bậc học. Thực tiễn đã chứng tỏ, việc
thực hiện dạy học tích hợp sẽ làm tăng hiệu quả của hoạt động giáo dục.

14


Hơn nữa, đây cũng là một trong những quan điểm chỉ đạo trong việc xây
dựng chương trình giáo dục phổ thông Việt Nam sau năm 2015. Tuy nhiên,
nhiều giáo viên vẫn còn có những nhầm tưởng rằng tích hợp là phép cộng

giản đơn của nhiều môn khoa học với nhau.
Từ đầu thế kỉ XX, việc định nghĩa dạy học tích hợp đã được các nhà
nghiên cứu đưa ra bàn bạc, thảo luận. Theo PGS. TS Trần Trung Ninh
(Trường ĐHSP Hà Nội): “hơn một trăm năm qua, các nhà lí thuyết đã đưa ra
ba loại hoạt động tích hợp cơ bản: tích hợp đa môn, tích hợp liên môn và tích
hợp xuyên môn” [29].
Tiếp cận tích hợp đa môn tập trung trước hết vào các môn học. Các môn
liên quan với nhau có chung một nhận định hướng về nội dung và phương
pháp dạy học nhưng mỗi môn lại có chương trình riêng. Tích hợp đa môn
được thực hiện theo cách tổ chức các chuẩn kiến thức từ các môn học, xoay
quanh một chủ đề, đề tài, dự án tạo điều kiện cho người học vận dụng tổng
hợp các kiến thức của các môn học có liên quan.
Theo cách tiếp cận tích hợp liên môn, giáo viên tổ chức chương trình học
tập xoay quanh các nội dung học tập chung: các chủ đề, các khái niệm và kĩ
năng liên ngành, liên môn. Tích hợp liên môn còn được hiểu như là phương
án, trong đó nhiều môn học liên quan được kết lại thành một môn học mới với
hệ thống những chủ đề nhất định, xuyên suốt qua nhiều cấp học. Ví dụ: Địa lí,
Lịch sử, Sinh học, Giáo dục công dân, Hóa học, Vật lí được tích hợp thành
môn “nghiên cứu xã hội và môi trường”. Trong cách tiếp cận tích cực xuyên
môn, giáo viên tổ chức chương trình học tập xoay quanh các vấn đề và quan
tâm của người học. Học sinh phát triển KNS khi áp dụng kĩ năng môn học và
liên môn vào hoàn cảnh thực tế.
Với nhu cầu của xã hội hiện đại đòi hỏi nhà trường phải hướng tới hai
quan điểm liên môn và xuyên môn trong dạy học. Trong đó, quan điểm liên
môn có sự phối hợp đóng góp của nhiều môn học để nghiên cứu và giải quyết

15


mọi tình huống, còn quan điểm xuyên môn lại tìm cách phát triển ở học sinh

những kĩ năng có thể áp dụng ở mọi nơi.
Cũng theo PGS. TS Trần Trung Ninh, để việc tích hợp có hiệu quả cao
nên có sự phối hợp đồng bộ giữa chương trình, nội dung kiến thức các môn
học và vận dụng linh hoạt, sáng tạo các phương pháp dạy học. Bên cạnh đó,
cần tăng cường các giờ học thực hành, hoạt động ngoại khóa theo chủ đề,
giảm giờ dạy lí thuyết của giáo viên, tăng thời lượng học tập của học sinh.
Xây dựng hệ thống bài tập mở, bài tập gắn với thực tiễn, bài tập có nội dung
vận dụng kiến thức liên môn từ đó bồi dưỡng năng lực khoa học và KNS cho
học sinh, tạo hứng thú và động lực cho việc học.
Trong bài phỏng vấn với báo Giáo dục và Thời đại, GS.TS. Đinh Quang
Báo, nguyên Hiệu trưởng Trường ĐHSP Hà Nội, Ủy viên Hội đồng Quốc gia
Giáo dục và Phát triển nhân lực đã đưa ra cách hiểu ngắn gọn về việc dạy học
tích hợp: “Dạy học tích hợp là định hướng dạy học trong đó giáo viên tổ
chức, hướng dẫn để học sinh biết huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc
nhiều lĩnh vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, đời sống;
thông qua đó hình thành những kiến thức, kĩ năng mới; phát triển được
những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải quyết vấn đề trong học tập và
trong thực tiễn cuộc sống” [30].
Khẳng định tích hợp là yêu cầu chung của quá trình dạy học, nguyên
Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Vinh Hiển cho biết: “Giáo dục
tích hợp được quán triệt khi thiết kế và thực hiện các yếu tố cấu thành quá
trình với các mức độ khác nhau dựa trên logic phát triển năng lực ở học sinh.
Tích hợp kết hợp với phân hóa sâu dần để có một chương trình giảm số môn
học bắt buộc, tăng các môn học, chủ đề tự chọn, nhưng học sinh lại có được
nguồn tri thức rộng, gắn với thực tiễn và được rèn luyện kĩ năng, chuẩn bị
tâm thế hướng nghiệp, hướng nghề, hướng đến phát triển trình độ cao” [29].
Vì thế, tích hợp trong dạy học là một bước tiến quan trọng trong khoa
học giáo dục, từ hướng tiếp cận nội dung chuyển sang hướng tiếp cận năng
16



lực người học. Đây là xu hướng góp phần rèn luyện và phát triển kĩ năng tư
duy, phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, trừu tượng hóa trong giáo dục.
1.2.3. Ý nghĩa của dạy học tích hợp
Dạy học tích hợp khuyến khích người học một cách toàn diện hơn, nội
dung bài học chủ động hơn.
- Làm cho quá trình học tập có ý nghĩa, đặt quá trình học tập vào hoàn
cảnh để học sinh nhận thấy ý nghĩa của kiến thức, kĩ năng, năng lực cần lĩnh
hội, tạo điều kiện cho việc học theo hướng mở gắn với thực tiễn.
- Khắc phục, hạn chế cách học khép kín, tách biệt, giúp học sinh có năng
lực huy động kiến thức tổng hợp để giải quyết các tình huống thực tiễn
- Tránh trùng lặp kiến thức, giúp học sinh lĩnh hội nhiều kiến thức mới
chỉ qua tích hợp mới có được.
- Giúp đổi mới phương pháp dạy học, phát huy tính tích cực, chủ động
của học sinh. Tạo các tình huống học tập để học sinh vận dụng kiến thức một
cách sáng tạo, tự lực, tạo điều kiện giáo dục phẩm chất nhân văn nơi người học.
1.2.4. Tích hợp trong dạy học Ngữ văn
Hiện nay, xu hướng tích hợp vẫn đang được tiếp tục nghiên cứu, thử
nghiệm và áp dụng vào đổi mới chương trình và sách giáo khoa trung học phổ
thông. Dự thảo chương trình Ngữ văn cấp THPT, năm 2002 của Bộ Giáo dục
và Đào tạo đã ghi rõ: “Lấy quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ
chức nội dung chương trình, biên soạn sách giáo khoa và lựa chọn các
phương pháp giảng dạy” [6, tr.27]. Nguyên tắc tích hợp phải được quán triệt
trong toàn bộ môn học, từ Đọc văn, tiếng Việt đến Làm văn; quán triệt trong
mọi khâu của quá trình dạy – học, trong chương trình SGK, sách đọc thêm,
tham khảo”[6, tr.40].
Với đặc trưng của mình, môn Ngữ văn cho phép thực hiện việc tích hợp
như một yêu cầu tự thân. Bởi tác phẩm văn học vẫn luôn được coi là nghệ
thuật của ngôn từ, việc tiếp nhận văn bản văn học trước hết là tiếp xúc với
phương tiện biểu đạt là ngôn ngữ, mặt khác, việc thực hành tạo lập các văn

17


bản thông dụng trong nhà trường và xã hội cũng sử dụng ngôn ngữ làm công
cụ. Quan điểm tích hợp sẽ dẫn đến những thay đổi trong việc xác định mục
tiêu môn học. Với quan điểm này, ba phân môn trên sẽ được phối hợp triển
khai cùng hướng tới một mục đích chung là nâng cao năng lực sử dụng tiếng
Việt cho học sinh. Cụ thể là hình thành 4 kĩ năng nghe, nói, đọc, viết, từ đó
giúp các em hình thành năng lực phân tích, bình giá và cảm thụ văn học nghệ
thuật một cách chủ động, tích cực, từng bước hình thành, phát triển năng lực
tư duy và giao tiếp bằng tiếng Việt. Hơn nữa, việc dạy học tích hợp giúp cho
nội dung Văn học, tiếng Việt và Làm văn được kết hợp nhuần nhuyễn. Dạy
tiếng Việt đồng thời là dạy Văn, qua dạy Văn mà củng cố khắc sâu kiến thức,
kĩ năng của tiếng Việt, Làm văn giúp thực hành tổng hợp các kiến thức, kĩ
năng đó. Với quan điểm tích hợp, hệ thống các văn bản đưa vào chương trình
và sách giáo khoa sẽ là ngữ liệu để gắn kết một nội dung học tập của các phân
môn.
Trong chương trình Ngữ văn THCS, trục tích hợp được lấy chủ yếu là các
kiểu văn bản giúp học sinh hiểu đặc điểm nội dung và nghệ thuật của các văn
bản theo kiểu loại và tạo lập được các văn bản theo kiểu loại. Còn chương trình
Ngữ văn THPT lại lấy trục tích hợp là hai mạch nội dung đọc hiểu và tạo lập văn
bản, nhằm giúp học sinh phát triển và nâng cao năng lực thưởng thức Văn học và
năng lực sử dụng tiếng Việt trong các tình huống giao tiếp văn hóa (nói và viết).
Mặt khác, tính tích hợp của chương trình và SGK Ngữ văn còn thể hiện
ở mối liên thông giữa kiến thức sách vở và kiến thức đời sống; liên thông giữa
kiến thức, kĩ năng của môn Ngữ văn với các môn học thuộc ngành khoa học
xã hội và nhân văn và các ngành học khác, nhằm giúp học sinh có được kiến
thức và kĩ năng thực hành toàn diện, góp phần giáo dục đạo đức công dân,
KNS, hiểu biết xã hội… Như vậy, có thể nói tích hợp trong môn học Ngữ văn
không chỉ là phối hợp các kiến thức và kĩ năng của tiếng Việt và Văn học mà

còn là sự tích hợp liên ngành để hình thành một “phông” văn hóa cho học
sinh trong việc đọc hiểu tác phẩm văn học và tạo lập những văn bản theo các
18


phương thức biểu đạt khác nhau. Có nghĩa là để thực hiện các mục tiêu đặt ra
trong môn học Ngữ văn, học sinh cần vận dụng tổng hợp những hiểu biết về
ngôn ngữ, Văn hóa, Văn học, Lịch sử, Địa lí, phong tục, vốn sống, vốn tri
thức và kinh nghiệm của bản thân. Điều này cũng thể hiện rõ trong những
nhiệm vụ của môn học là hướng đến cá thể hóa người học. Việc vận dụng
quan điểm tích hợp vào dạy học Ngữ văn ở cấp THPT là cách thức để hạn chế
lối dạy học theo kiểu khép kín trong nội bộ phân môn, biệt lập các bộ phận
Văn học, tách biệt thế giới nhà trường và thế giới cuộc sống, cô lập giữa
những kiến thức và kĩ năng vốn có liên hệ, bổ sung cho nhau nhằm nâng cao
năng lực sử dụng những kiến thức, kĩ năng của học sinh. Từ đó, giúp cho mỗi
học sinh có khả năng vận dụng hiệu quả những kiến thức và kĩ năng của mình
để giải quyết các tình huống đặt ra trong cuộc sống. Đồng thời lĩnh hội những
nội dung tri thức và năng lực mà mỗi môn học hay phân môn riêng rẽ không
có được.
1.3. Tích hợp giáo dục kĩ năng sống cho học sinh thông qua dạy học môn
Ngữ văn
1.3.1. Đặc điểm tâm lí của HS THPT
Học sinh THPT được tính từ độ tuổi 16 – 18 là giai đoạn tuổi vị thành
niên. Đây là giai đoạn phát triển đặc biệt, xảy ra đồng thời một loạt những
thay đổi về thể chất, tâm lí và các mối quan hệ xã hội. Giai đoạn này có nhiều
biến đổi trong cấu tạo của cơ thể khiến các em cảm thấy mình đã trở thành
người lớn và xuất hiện những rung cảm mới. Vị trí của các em trong gia đình
bắt đầu được nâng lên, các em bắt đầu được nhìn nhận như một thành viên
tích cực của xã hội.
Đời sống tình cảm của lứa tuổi học sinh THPT rất phong phú và phức

tạp. Đây là giai đoạn các em nỗ lực tìm kiếm những quan hệ ngoài gia đình,
hướng tới những người bạn đồng lứa, để khẳng định cái tôi của mình. Đây là
lứa tuổi tràn đầy xúc cảm, dễ xúc động, khó kiềm chế cảm xúc bột phát, dễ bị
tổn thương. Trạng thái tình cảm của các em thất thường, không ổn định, thoắt

19


×