Tải bản đầy đủ (.docx) (93 trang)

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI XÃ HOÀNG TIẾN, THỊ XÃ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 93 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

NGUYỄN THỊ HUYỀN

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI XÃ HOÀNG TIẾN, THỊ
XÃ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG

Hà Nội – Năm 2016


TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA QUẢN LÝ ĐẤT ĐAI

NGUYỄN THỊ HUYỀN

ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THỰC HIỆN ĐỀ ÁN XÂY
DỰNG NÔNG THÔN MỚI XÃ HOÀNG TIẾN, THỊ
XÃ CHÍ LINH, TỈNH HẢI DƯƠNG
Chuyên ngành : Quản Lý Đất Đai
Mã ngành : 52850103
NGƯỜI HƯỚNG DẪN : Th.S Đỗ Hải Hà

Hà Nội – Năm 2016


LỜI CẢM ƠN
Để nghiên cứu và hoàn thành đồ án tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực của bản thân
em còn nhận được sự giúp đỡ từ các cá nhân tổ chức trong và ngoài trường.
Vậy qua đây em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến toàn thể thầy cô giáo


trong trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, đặc biệt là thầy cô thuộc
khoa quản lý đất đai đã dạy dỗ, dìu dắt em trong suốt thời gian em học tại trường,
giúp em có kiến thức chuyên sâu về ngành quản lý đất đai.
Em xin cảm ơn cán bộ và nhân dân xã Hoàng Tiến, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải
Dương đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình nghiên cứu thu
thập số liệu và khảo sát thực tế tại địa phương.
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Thạc sĩ Đỗ Hải Hà, người đã giảng
dạy, tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đồ án của mình.
Trong thời gian thực tập, em đã cố gắng hoàn thành đồ án của mình, tuy
nhiên khó tránh khỏi thiếu xót. Vì vậy mong nhận được sự góp ý của thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn !.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016

Sinh viên

Nguyễn Thị Huyền


MỤC LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BCĐ

Ban chỉ đạo


BPT

Ban phát triển

BQL

Ban quản lý

CNH – HĐH
HTXNN

Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
Hợp tác xã nông nghiệp

MTTQ

Mặt trận tổ quốc

NTM

Nông thôn mới

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông


TTCN

Tiểu thủ công nghiệp

UBND

Ủy ban nhân dân

XDNTM

Xây dựng nông thôn mới


DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1 : Dân số xã Hoàng Tiến năm 2015
Bảng 3.2 : Mức độ đạt được tiêu chí giao thông
Bảng 3.3 : Mức độ đạt được tiêu chí thủy lợi
Bảng 3.4 : Các trạm biến áp của xã
Bảng 3.5 : Mức độ đạt được tiêu chí cơ sở văn hóa
Bảng 3.6 : Mức độ đạt được tiêu chí nhà ở dân cư
Bảng 3.7 : Mức độ đạt được tiêu chí giáo dục
Bảng 3.8 : Mức độ đạt được tiêu chí y tế
Bảng 3.9 : Mức độ đạt được tiêu chí môi trường
Bảng 3.10 : Tổng hợp kết quả huy động nguồn lực thực hiện giai đoạn 2011-2015
và dự kiến kế hoạch 2016-2020


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1 : Cơ cấu kinh tế năm 2015

Biểu đồ 3.2 : Cơ cấu diện tích các loại đất năm 2015
Biểu đồ 3.3 : Nguồn vốn huy động cho XDNTM phân theo nguồn vốn đầu tư của xã
Hoàng Tiến năm 2015
Biểu đồ 3.4 : Cơ cấu kinh tế năm 2011 và năm 2015 của xã Hoàng Tiến


DANH MỤC HÌNH ẢNH
Hình 3.1 : Sơ đồ vị trí xã Hoàng Tiến
Hình 3.2 : Đường trục thôn Hoàng Gián Cũ được trải nhựa
Hình 3.3 : Trường mầm non Hoàng Tiến
Hình 3.4 : Nhà văn hóa thôn Hoàng Gián Cũ
Hình 3.5 : Trạm y tế xã Hoàng Tiến
Hình 3.6 : Làng văn hóa Phục Thiện
Hình 3.7 : Làng Hoàng Gián Cũ chưa đạt làng văn hóa
Hình 3.8 : Xe đổ rác thôn Hoàng Gián Cũ
Hình 3.9 : Vườn Na dai của gia đình anh Hoàng Văn Huy
Hình 3.10 : Đường ngõ xóm của thôn Đồng Cống được bê tông hóa
Hình 3.11 : Sân bóng chuyền thôn Hoàng Gián Cũ
Hình 3.12 : Trụ sở UBND xã Hoàng Tiến


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề
Sau hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
nông nghiệp, nông dân, nông thôn nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nông
nghiệp phát triển ổn định và có xu hướng tái sản xuất theo chiều sâu, đời sống vật
chất, tinh thần của người nông dân được cải thiện, bộ mặt nông thôn thay đổi theo
chiều hướng lành mạnh hóa các quan hệ kinh tế - xã hội, góp phần quan trọng vào
sự ổn định của đất nước, tạo cơ sở cho sự phát triển bền vững. Tuy nhiên nhiều
thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế. Nông nghiệp phát

triển còn kém bền vững, sức cạnh tranh thấp, chuyên giao khoa học công nghệ và
đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế. Mặt khác, nông nghiệp, nông thôn phát triển
thiếu quy hoạch, kết cấu hạ tầng như giao thông, thủy lợi, y tế, trường học, cấp
nước…còn yếu kém, môi trường ngày càng ô nhiễm. Đời sống vật chất, tinh thần
của người nông dân còn thấp, tỷ lệ hộ nghèo cao, chênh lệch giàu nghèo giữa nông
thôn và thành thị còn lớn đã phát sinh nhiều vấn đề xã hội bức xúc. Bên cạnh đó, xã
nông thôn mới hướng đến kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ và hiện đại, hệ
thống chính trị bền vững, phát triển mọi mặt của nông thôn đồng thời giữ gìn bản
sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường. Quá trình xây dựng nông thôn mới bước
đầu đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn, thu hẹp dần khoảng cách giữa nông thôn và
thành thị, ổn định và nâng cao đời sống cho người dân.
Hoàng Tiến là xã miền núi, nằm ở phía Đông Bắc của thị xã Chí Linh, trung
tâm xã cách trung tâm của thị xã 9 km. Phía Đông giáp xã An Sinh, Bình Dương
của huyện Đông Triều tỉnh Quảng Ninh, phía Tây giáp phường Hoàng Tân, phía
Nam giáp phường Bến Tắm. Hoàng Tiến nằm trong vùng địa bán sơn địa, địa hình
đa dạng có đồi núi cao, đồi thấp và vùng đồng bằng ven sông. Dân số của xã là
6294 người, gồm dân tộc trong đó dân tộc kinh chiếm phần lớn dân số còn lại 5 dân
tộc ít người sinh sống gồm : Hoa, Tầy, Nùng, Sán Rìu, Thổ.
Thực hiện Nghị quyết số 26 ngày 05/08/2008, hội nghị Ban chấp hành Trung
ương lần thứ 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Đảng ủy, UBND xã
Hoàng Tiến đã tập trung chỉ đạo thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020 trên địa bàn xã Hoàng Tiến. Sau 5 năm hưởng
9


ứng phong trào xây dựng nông thôn mới đã làm thay đổi một cách căn bản diện
mạo nông thôn, nếp sống, nếp nghĩ, cách làm của người dân giúp người dân biết áp
dụng khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi…làm cho cả đời sống vật chất và
tinh thần của người dân được nâng cao, bộ mặt làng, xã cũng thay đổi rõ rệt, cảnh
quan môi trường được cải tạo.

Tuy nhiên để tiếp tục tạo ra các tiền đề mới cho xã trở thành một xã đạt
chuẩn nông thôn mới, cần thiết phải có những đánh giá xác thực về kết quả đã
đạt được và những vấn đề còn đang hạn chế trong việc thực hiện đề án XDNTM
của xã. Xuất phát từ những vấn đề đó em đã tiến hành nghiên cứu đề tài :” Đánh
giá kết quả thực hiện đề án xây dựng nông thôn mới xã Hoàng Tiến, thị xã Chí
Linh, tỉnh Hải Dương”.
2. Mục đích, yêu cầu
2.1. Mục đích
- Tìm hiểu thực trạng đề án xây dựng nông thôn mới.
- Đánh giá kết quả thực hiện 19 tiêu chí trong đề án XDNTM của xã
Hoàng Tiến – thị xã Chí Linh – tỉnh Hải Dương.
- Nghiên cứu những tác động tích cực và tiêu cực của việc thực hiện đề án
đến kinh tế - xã hội – môi trường.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt đề án xây dựng nông thôn
mới của xã Hoàng Tiến – thị xã Chí Linh – tỉnh Hải Dương.
2.2. Yêu cầu
- Nắm được 19 tiêu chí trong Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới.
- Đánh giá đúng kết quả thực hiện các tiêu chí trên cơ sở thu thập đầy đủ các số
liệu và thông tin liên quan.
- Đánh giá thực trạng của đề án xây dựng nông thôn mới thông qua 19 tiêu
chí trên địa bàn xã.
- Đánh giá sự ảnh hưởng của việc xây dựng nông thôn mới của xã tới mọi
mặt của xã hội.
10


- Đề xuất giải pháp để phát huy hiệu quả, khắc phục khó khăn của quá
trình xây dựng nông thôn mới.

11



PHẦN 1 : TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận về xây dựng nông thôn mới
1.1.1. Khái niệm nông thôn
Hiện nay vẫn chưa có khái niệm chuẩn xác về nông thôn và có nhiều quan
điểm khác nhau. Có quan điểm cho rằng nông thôn được coi là khu vực địa lý nơi
có cộng đồng gắn bó, có quan hệ trực tiếp đến khai thác, sử dụng, bảo vệ môi
trường và tài nguyên thiên nhiên cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. Một số quan
điểm khác cho rằng nông thôn là nơi có mật độ dân số thấp hơn so với thành thị.
Vùng nông thôn là vùng có dân cư làm nông nghiệp là chủ yếu, nguồn sinh kế chính
của dân cư trong vùng là sản xuất nông nghiệp. Quan điểm khác lại cho rằng nên
dựa vào chỉ tiêu trình độ tiếp cận thị trường, phát triển hàng hóa để xác định vùng
nông thôn, vì cho rằng vùng nông thôn có trình độ sản xuất hàng hóa và tiếp cận thị
trường thấp hơn so với thành thị. Hay dựa vào chỉ tiêu trình độ phát triển cơ sở hạ
tầng, nghĩa là cơ sở hạ tầng của vùng nông thôn không phát triển bằng đô thị.
Đến nay, khái niệm nông thôn được thống nhất với quy định theo Thông tư
số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21/08/2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, cụ thể : “ Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các
thành phố, thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là ủy ban nhân dân
xã”.[1]
1.1.2. Khái niệm về nông thôn mới
Trước tiên, nông thôn mới phải là nông thôn, chứ không phải là thị xã, thị
trấn hay thành phố, nông thôn mới khác với nông thôn truyền thống. Mô hình NTM
là tổng thể những đặc điểm, cấu trúc tạo thành một kiểu tổ chức nông thôn theo tiêu
chí mới đáp ứng yêu cầu mới đặt ra trong nông thôn hiện nay. Nhìn chung mô hình
NTM là mô hình cấp xã, thôn được phát triển toàn diện theo hướng công nghiệp
hóa, hiện đại hóa, dân chủ văn minh. Mô hình nông thôn mới được quy định bới các
tính chất : đáp ứng yêu cầu phát triển, có sự đổi mới về tổ chức, vận hành và cảnh
quan môi trường; đạt hiệu quả cao nhất trên các mặt về kinh tế, chính trị, văn hóa,


12


xã hội. Tiến bộ hơn so với mô hình cũ, chứa đựng các đặc điểm chung, có thể phổ
biến và vận dụng trên toàn lãnh thổ.
Xây dựng nông thôn mới là cuộc cách mạng và vận động lớn để cộng đồng
dân cư ở nông thôn đồng lòng xây dựng thôn, xã, gia đình của mình khang trang,
sạch đẹp; phát triển sản xuất toàn diện (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ); có nếp
sống văn hóa, môi trường và an ninh nông thôn được đảm bảo; thu thập, đời sống
vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao. Xây dựng nông thôn mới là sự
nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, của cả hệ thống chính trị. Nông thôn
mới không chỉ là vấn đề kinh tế - xã hội mà là vấn đề kinh tế - chính trị tổng hợp.
Xây dựng nông thôn mới giúp cho nông dân có niềm tin, trở nên tích cực, chăn chỉ,
đoàn kết giúp đỡ nhau xây dựng nông thôn phát triển giàu đẹp, dân chủ, văn minh.
Nghị quyết 26/TQ-TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã đã
đề ra chủ trương xây dựng nông thôn mới phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời
sống của nhân dân, phát triển nông nghiệp và nông thôn, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của cư dân ở nông thôn. Nghị quyết đã xác định rõ mục tiêu : “Xây
dựng nông thôn mới có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và
các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công
nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc dân
tộc, dân trí được nâng cao; môi trường sinh thái được bảo vệ, hệ thống chính trị ở
nông thôn dưới sự lãnh đạo của Đảng được tăng cường”.
1.1.3. Sự cần thiết phải xây dựng nông thôn mới
Để hướng tới mục tiêu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, trở thành
quốc gia phát triển giảm thiểu khoảng cách giàu nghèo, nhà nước cần quan tâm phát
triển nông nghiệp, nông thôn. Nông sản là sản phẩm thiết yếu của toàn xã hội và ở
Việt Nam khu vực nông thôn chiếm đến 70% dân số. Thực hiện đường lối mới của
Đảng và Nhà nước trong chính sách phát triển nông thôn, nông nghiệp được xem

như mặt trận hàng đầu, chú trọng đến các chương trình lương thực, thực phẩm, hàng
tiêu dùng và hàng xuất khẩu, phát triển nền kinh tế trang trại và đẩy mạnh công
nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn, xây dựng đời sống văn hóa ở các khu dân cư,

13


thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở…Các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà
Nước đã và đang đưa nền nông nghiệp tự túc sang nền nông nghiệp hàng hóa.
Nền nông nghiệp nước ta còn nhiều hạn chế cần được giải quyết để đáp ứng
kịp xu thế toàn cầu :
- Kết cấu hạ tầng nông thôn (điện, đường, trường, trạm, chợ, thủy lợi) còn
nhiều yếu kém, vừa thiếu vừa không đồng bộ; nhiều hạng mục công trình đã xuống
cấp, tỷ lệ giao thông nông thôn được cứng hóa còn thấp; giao thông nội đồng còn ít
được quan tâm đầu tư; hệ thống thủy lợi cần được đầu tư nâng cấp; chất lượng lưới
điện nông thôn chưa thự sự an toàn; cơ sở vật chất về giáo dục, y tế, văn hóa còn
hạn chế; mạng lưới chợ nông thôn chưa được đầu tư đồng bộ; trụ sở xã nhiều nơi
xuống cấp. Mặt bằng để xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn đạt chuẩn quốc gia còn
rất khó khăn. Dân cư phân bố rải rác, kinh tế hộ kém phát triển.
- Do sản xuất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, bảo quản chế biến còn hạn
chế, chưa gắn chế biến với thị trường tiêu thụ sản phẩm, chất lượng nông sản chưa
đủ sức cạnh tranh trên thị trường. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, ứng dụng khoa học
công nghiệp trong nông nghiệp còn chậm, tỷ trọng chăn nuôi trong nông nghiệp còn
thấp; cơ giới hóa chưa đồng bộ.
- Do thu nhập của nông dân thấp; số lượng doanh nghiệp đầu tư vào nông
nghiệp, nông thôn còn ít; sự liên kết giữa người sản xuất và các thành phần kinh tế
khác ở khu vực nông thôn chưa chặt chẽ. Kinh tế hộ, kinh tế trang trại, hợp tác xã
còn nhiều yếu kém. Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn cao, cơ hội có việc làm mới tại
địa phương không nhiều, tỷ lệ lao động lâm nghiệp qua đào tạo còn thấp, tỷ lệ hộ
nghèo cao.

- Do đời sống tinh thần của nhân dân còn hạn chế, nhiều nét văn hóa truyền
thống có nguy cơ mai một (tiếng nói, trang phục, phong tục,..); nhà ở dân cư nông
thôn vẫn còn nhiều nhà tạm, nhà dột nát. Hiện nay kinh tế - xã hội khu vực nông
thôn chủ yếu phát triển tự phát, chưa theo quy hoạch.
- Do yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước, cần 3 yếu tố chính là đất
đai, vốn và lao động kỹ thuật. Qua việc nông thôn mới sẽ triển khai quy hoạch tổng

14


thể, đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hóa. Mặt khác, mục
tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Vì vậy, một nước
công nghiệp không thể để nông nghiệp, nông thôn lạc hậu, nông dân nghèo khổ.
1.1.4. Những đặc trưng xây dựng nông thôn mới
Theo cuốn “Sổ tay hướng dẫn xây dựng nông thôn mới” (Nhà xuất bản Lao
động 2010), đặc trưng của Nông thôn mới thời kỳ CNH –HĐH, giai đoạn 20102020, bao gồm:
- Kinh tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân nông thôn được
nâng cao.
- Nông thôn phát triển theo quy hoạch, có cơ cấu hạ tầng kinh tế - xã hội hiện
đại, môi trường sinh thái được bảo vệ.
- Dân trí được nâng cao, bản sắc văn hóa dân tộc được giữ gìn và phát huy.
- An ninh tốt, quản lý dân chủ.
- Chất lượng hệ thống chính trị được nâng cao. [2]
1.1.5. Nguyên tắc xây dựng nông thôn mới
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được thực hiện
theo các nguyên tắc sau :
- Nội dung xây dựng NTM hướng tới thực hiện Bộ tiêu chí Quốc gia được
quy định tại Quyết định 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ.
- Xây dựng NTM theo phương châm phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng
dân cư địa phương là chính, Nhà nước đóng vai trò định hướng, ban hành các tiêu

chí, quy chuẩn xã đặt ra các chính sách, cơ chế hỗ trợ và hướng dẫn. Các hoạt động
cụ thể do chính cộng đồng người dân ở thôn, xã bàn bạc dân chủ để quyết định và tổ
chức thực hiện.
- Được thực hiện trên cơ sở kế thừa và lồng ghép các chương trình mục tiêu
quốc gia, chương trình hỗ trợ có mục tiêu, các chương trình, dự án khác đang triển
khai ở nông thôn, có bổ sung dự án hỗ trợ đối với các lĩnh vực cần thiết; có cơ chế,
chính sách khuyến khích mạnh mẽ đầu tư của các thành phần kinh tế; huy động
đóng góp của các tầng lớp dân cư.
- Được thực hiện gắn với các quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo an ninh quốc phòng của mỗi địa phương (xã, huyện, tỉnh); có quy hoạch
15


và cơ chế đảm bảo cho phát triển theo quy hoạch (trên cơ sở các tiêu chuẩn kinh tế,
kỹ thuật do các Bộ chuyên ngành ban hành).
- Là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội; cấp uỷ Đảng, chính
quyền đóng vai trò chỉ đạo, điều hành quá trình xây dựng quy hoạch, kế hoạch, tổ
chức thực hiện; Hình thành cuộc vận động “toàn dân xây dựng nông thôn mới“ do
Mặt trận Tổ quốc chủ trì cùng các tổ chức chính trị - xã hội vận động mọi tầng lớp
nhân dân phát huy vai trò chủ thể trong việc xây dựng nông thôn mới.[2]
1.1.6. Mục tiêu xây dựng nông thôn mới
- Xây dựng cộng đồng xã hội văn minh, có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội
ngày càng hoàn thiện; cơ cấu kinh tế hợp lý, các hình thức tổ chức sản xuất tiên
tiến.
- Gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ và du lịch; gắn
phát triển nông thôn với đô thị theo quy hoạch; từng bước thực hiện CNH – HĐH
nông nghiệp, nông thôn.
- Xây dựng xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc;
trình độ dân trí được nâng cao; môi trường sinh thái được bảo vệ.
- Hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh; an ninh trật tự xã hội được giữ vững;

đời sống vật chất và tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện và nâng
cao.[5]
1.2. Cơ sở pháp lý về xây dựng nông thôn mới
1.2.1. Các văn bản pháp lý hiện hành
a. Văn bản của Chính phủ :
- Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới
- Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai
đoạn 2010 – 2020.

16


- Quyết định số 22/QĐ-TTg ngày 05/01/ 2010 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Đề án “Phát triển văn hóa nông thôn đến năm 2015, định hướng đến
năm 2020”.
- Quyết định số 193/QĐ-TTg ngày 02/02/2010 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Chương trình rà soát quy hoạch xây dựng nông thôn mới.
- Quyết định số 119/QĐ-TTg ngày 18/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Đề án Phát triển thông tin, truyền thông nông thôn giai đoạn 2011 –
2020.
- Quyết định số 1620/QĐ-TTg ngày 20/9/2011 của Thủ tướng Chính phủ về
việc ban hành Kế hoạch tổ chức thực hiện phong trào thi đua “Cả nước chung sức
xây dựng Nông thôn mới”.
b. Văn bản của Ban Chỉ đạo Trung Ương Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây
dựng Nông thôn mới:
- Kế hoạch số 435/KH-BCĐXDNTM ngày 20/9/2010 của Ban Chỉ đạo
Trung Ương Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới về việc
triển khai Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn giai đoạn 2010 –

2020.
- Kế hoạch số 30/KH-BCĐTW-VPĐP ngày 20/5/2011 của Ban Chỉ đạo
Trung Ương Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn mới về tuyên
truyền Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng Nông thôn giai đoạn 2010 –
2020.
c. Văn bản của các Bộ, ngành:
- Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT ngày 21/8/2009 của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn về việc hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông
thôn mới.

17


- Thông tư liên tịch số 26/2011/TTLT-BNNPTNT-BKHĐT-BTC ngày
13/4/2011 của liên Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Kế hoạch Đầu tư,
Bộ Tài chính về việc hướng dẫn một số nội dung thực hiện Quyết định số
800/QĐTTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chương
trình mục tiêu Quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020.
- Thông tư số 41/2013/TT-BNNPTNT ngày 04/10/2013 về hướng dẫn thực
hiện Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.
d. Văn bản của địa phương
- Kế hoạch số 02 ngày 15 tháng 4 năm 2011 của BCĐ chương trình mục tiêu
quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020 của thị xã Chí linh – tỉnh
Hải Dương.
- Quyết định số 1239/QĐ-UBND ngày 24/11/2009 của UBND thị xã Chí
Linh về việc phê duyệt nhiệm vụ thiết kế quy hoạch xây dựng nông thôn xã Hoàng
Tiến, thị xã Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
- Quyết định số 06/QĐ-UBND ngày 20/07/2011 của UBND xã Hoàng Tiến
về việc thành lập Ban chỉ đạo (BCĐ) xây dựng nông thôn mới xã Hoàng Tiến giai
đoạn 2010 - 2020.

- Quyết định số 07/QĐ-UBND của UBND xã Hoàng Tiến về việc thành lập
Ban quản lý (BQL) xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011 - 2020.
1.2.2. Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới
a. Ý nghĩa của Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới
- Là cụ thế hóa đặc tính của xã NTM thời kỳ đấy mạnh CNH – HĐH.
- Bộ tiêu chí là căn cứ để xây dựng nội dung Chương trình mục tiêu quốc gia
về XDNTM, là chuẩn mực để các xã đặt kế hoạch phấn đấu thực hiện 19 tiêu chí
NTM.
- Là căn cứ để chỉ đạo và đánh giá kết quả thực hiện XDNTM của các địa
phương trong từng thời kỳ; đánh giá công nhận xã, huyện, tỉnh đạt NTM; đánh giá
trách nhiệm của các cấp Ủy đảng, chính quyền xã trong thực hiện nhiệm vụ
XDNTM.[2]

18


b. Nội dung Bộ tiêu chí quốc gia NTM
Bộ tiêu chí quốc gia NTM được ban hành theo Quyết định số 491/QĐ-TTg
ngày 16/09/2009 gồm 5 nhóm tiêu chí, cụ thể :
- Nhóm 1 : Quy hoạch ( 1 tiêu chí)
- Nhóm 2 : Hạ tầng kinh tế - xã hội ( 8 tiêu chí)
- Nhóm 3 : Kinh tế và tổ chức sản xuất ( 4 tiêu chí)
- Nhóm 4 : Văn hóa – xã hội – môi trường ( 4 tiêu chí)
- Nhóm 5 : Hệ thống chính trị ( 2 tiêu chí)
Cụ thể 19 tiêu chí về nông thôn mới : 1. Quy hoạch và thực hiện quy hoạch,
2. Giao thông, 3. Thủy lợi, 4. Điện, 5. Trường học, 6. Cơ sở vật chất văn hóa, 7.
Chợ nông thôn, 8. Bưu điện, 9. Nhà ở dân cư, 10. Thu nhập, 11. Tỷ lệ hộ nghèo, 12.
Cơ cấu lao động, 13. Hình thức tổ chức sản xuất, 14. Giáo dục, 15. Y tế, 16. Văn
hóa, 17. Môi trường, 18. Hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh, 19. An ninh,
trật tự xã hội.[4]

1.3. Cơ sở thực tiễn về xây dựng nôn thôn mới
1.3.1. Mô hình nông thôn mới của một số nước trên thế giới
a. Xây dựng nông thôn mới ở Hàn Quốc
Cuối thập niên 60 của thế kỷ XX, GDP bình quân đầu người của Hàn Quốc
chỉ có 85 USD; phần lớn người dân không đủ ăn; 80% dân nông thôn không có điện
thắp sáng và phải dùng đèn dầu, sống trong những căn nhà lợp bằng lá. Là nước
nông nghiệp trong khi lũ lụt và hạn hán lại xảy ra thường xuyên, mối lo lớn nhất của
chính phủ khi đó là làm sao đưa đất nước thoát khỏi đói, nghèo. Do vậy nhiều chính
sách mới về phát triển nông thôn ra đời nhằm khắc phục tình trạng trên. Trọng tâm
của cuộc vận động phát triển nông thôn này là phong trào xây dựng "làng mới"
(Saemoul Undong).
Phong trào Làng mới (SU) ra đời với 3 tiêu chí: cần cù (chăm chỉ), tự lực
vượt khó, và, hợp tác (hiệp lực cộng đồng). Năm 1970, sau những dự án thí điểm
đầu tư cho nông thôn có hiệu quả, Chính phủ Hàn Quốc đã chính thức phát động
phong trào SU và được nông dân hưởng ứng mạnh mẽ. Họ thi đua cải tạo nhà mái

19


lá bằng mái ngói, đường giao thông trong làng, xã được mở rộng, nâng cấp; các
công trình phúc lợi công cộng được đầu tư xây dựng. Phương thức canh tác được
đổi mới, chẳng hạn, áp dụng canh tác tổng hợp với nhiều mặt hàng mũi nhọn như
nấm và cây thuốc lá để tăng giá trị xuất khẩu. Chính phủ khuyến khích và hỗ trợ
xây dựng nhiều nhà máy ở nông thôn, tạo việc làm và cải thiện thu nhập cho nông
dân.
Sau 8 năm thực hiện phong trào, bộ mặt nông thôn Hàn Quốc đã có những
thay đổi hết sức kỳ diệu. Hạ tầng cơ sở nông thôn được cải thiện, thu nhỏ khoảng
cách giữa nông thôn và thành thị, trình độ tổ chức của người dân được nâng cao.
Đặc biệt xây dựng chấn được niềm tin của nông dân, cuộc sống của người nông dân
cũng đạt đến mức khá giả, nông thôn đã bắt kịp tiến trình hiện đại hóa của cả Hàn

Quốc, đồng thời đưa thu nhập quốc dân Hàn Quốc đạt đến tiêu chí của một quốc gia
phát triển, góp phần đưa Hàn Quốc từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở nên giàu
có.[12]
b. Xây dựng nông thôn mới ở Thái Lan
Thái Lan vốn là một nước nông nghiệp truyền thống với dân số nông thôn
chiếm khoảng 80% dân số cả nước. Để thúc đẩy sự phát triển bền vững nền nông
nghiệp, Thái Lan đã áp dụng một số chiến lược như : Tăng cường vai trò của cá
nhân và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; đẩy mạnh phong trào
học tập, nâng cao trình độ của từng cá nhân và tập thể bằng cách mở các lớp học và
các hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn; tăng cường
công tác bảo hiểm xã hội cho nông dân, giải quyết tốt vấn đề nợ trong nông nghiệp;
giảm nguy cơ rủi ro và thiết lập hệ thống bảo hiểm rủi ro cho nông dân.
Đối với các sản phẩm nông nghiệp, Nhà nước đã hỗ trợ để tăng sức cạnh
tranh với các hình thức, như tổ chức hội chợ triển lãm hàng nông nghiệp, đẩy mạnh
công tác tiếp thị; phân bổ khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách khoa học và
hợp lý, từ đó góp phần ngăn chặn tình trạng khai thác tài nguyên bừa bãi và kịp thời
phục hồi những khu vực mà tài nguyên đã bị suy thoái; giải quyết những mâu thuẫn
có liên quan đến việc sử dụng tài nguyên lâm, thủy hải sản, đất đai, đa dạng sinh

20


học, phân bổ đất canh tác. Trong xây dựng kết cấu hạ tầng, Nhà nước đã có chiến
lược trong xây dựng và phân bố hợp lý các công trình thủy lợi lớn phục vụ cho
nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu cho hầu hết đất canh tác trên toàn
quốc, góp phần nâng cao năng suất lúa và các loại cây trồng khác trong sản xuất
nông nghiệp. Chương trình điện khí hóa nông thôn với việc xây dựng các trạm thủy
điện vừa và nhỏ được triển khai rộng khắp cả nước…
Về lĩnh vực công nghiệp phục vụ nông nghiệp, chính phủ Thái Lan đã tập
trung vào các nội dung sau : Cơ cấu lại ngành nghề phục vụ phát triển công nghiệp

nông thôn, đồng thời cũng xem xét đến các nguồn tài nguyên, những kỹ năng truyền
thống, nội lực, tiềm năng trong lĩnh vực sản xuất và tiếp thị song song với việc cân
đối nhu cầu tiêu dùng trong nước và nhập khẩu.
Thái Lan đã tập trung phát triển các ngành mũi nhọn như sản xuất hàng nông
nghiệp, thủy, hải sản phục vụ xuất khẩu, thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp chế biến
nông sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, nhất là các nước công nghiệp phát
triển.[12]
1.3.2. Xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam
Phòng trào xây dựng nông thôn mới đã có bước phát triển mới, đã trở thành
phong trào chung và sâu rộng đến tất cả các địa phương trong cả nước kể từ khi
Chính phủ tổ chức hội nghị toàn quốc về xây dưng nông thôn mới và chính thức
phát động phong trào thi đua “ Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”.
Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/NQ-CP ngày 28/10/2008. Thủ
tướng Chính phủ đã ra quyết định số 193/QĐ-TTg “Phê duyệt công trình, rà soát
quy hoạch xây dựng nông thôn mới”, quyết định số 800/QĐ-TTg “Phê duyệt
chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020”.
Cán bộ ngành như: Bộ Nông nghiệp phát triền nông thôn, Xây dựng, Tài nguyên
Môi trường, Giao thông vận tải và các Bộ khác đã ban hành nhiều thông tư liên hộ,
thông tư hướng dẫn để triển khai thực hiện. Đặc biệt đã ban hành bộ tiêu chí bao
gồm 19 tiêu chí cụ thể về nông thôn mới, hướng dẫn chi tiết cho các địa phương
thực hiện. Thông tư liên tịch quy đinh việc lập, thẩm điịnh, phê duyệt quy hoạch

21


xây dựng xã nông thôn mới. Trung ương đã chỉ đạo làm điểm ở một số tỉnh, rút kinh
nghiệm chỉ đạo ra diện rộng. Tập chung đầu tư ngân sách cho các địa phương nhất
là những nơi làm điểm, những địa phương có điều kiện khó khăn. Trên cơ sở đó đã
tạo được lòng tin của nhân dân đối với chủ trương của Trung ương, xây dựng quyết
tâm thực hiện. Ở các địa phương đã làm tốt công tác tổ chức học tập quán triệt Nghị

quyết của Ban chấp hành Trung ương lần thứ VII (Khóa X) về nông nghiệp, nông
dân, nông thôn, các văn bản của Chính phủ, hướng dẫn của các bộ ngành đã nâng
cao nhân thức đối với cấp ủy, chính quyền các cấp, cán bộ đảng viên và nhân dân về
mục tiêu, yêu cẩu và nôi dung của việc xây dựng nông thôn mới của địa phương có
kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức
tổ chức sản xuất hợp lý, gắn nông nghiệp với phát triển công nghiệp, dịch vụ, phát
triển nhà ở theo quy hoạch, xây dựng nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân
tộc, dân trí được nâng cao, môi trường sinh thái được bảo vệ, đời sống nhân dân ổn
định và phát triển.
Nhìn chung các địa phương đều thành lập ban chỉ đạo từ tỉnh, huyện đến xã,
thảo luận, ra Nghị quyết các cấp ủy, lập đề án xây dựng, xác định rõ mục tiêu, yêu
cầu nội dung xây dựng NTM của địa phương, trong đó tập trung chỉ đạo vấn đề
trọng tâm cốt lõi là xây dựng và thực hiện quy hoạch NTM.
Qua 5 năm đầu triển khai Chương trình (2010 - 2015), mặc dù gặp nhiều khó
khăn về nguồn lực nhưng Chương trình đã đạt được những kết quả rất quan trọng.
Trong đó, tính đến cuối năm 2015, cả nước có 1298 xã (14,5%) được công nhận đạt
chuẩn NTM. Đặc biệt, số xã khó khăn nhưng có nỗ lực vươn lên là 183 xã . Đã có
11 đơn vị cấp huyện được Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định công nhận đạt
chuẩn nông thôn mới là: huyện Xuân Lộc, Thống Nhất, Thị xã Long Khánh (Đồng
Nai), Củ Chi, Hóc Môn, Nhà Bè (TP. Hồ Chí Minh), Đông Triều (Quảng Ninh), Hải
Hậu (Nam Định), Đơn Dương (Lâm Đồng), Đan Phượng (TP. Hà Nội), Thị xã Ngã
Bảy (Hậu Giang).
Đáng chú ý, mức thu nhập bình quân đầu người vùng nông thôn đạt 24,4
triệu đồng/năm (tăng khoảng 1,9 lần so với năm 2010). Đặc biệt, trong 5 năm, cả

22


nước đã huy động được khoảng 851.380 tỷ đồng đầu tư cho Chương trình. Trong
đó, ngân sách nhà nước (bao gồm các chương trình, dự án khác) 266.785 tỷ đồng

(31,34%), tín dụng 434.950 tỷ đồng (51%), doanh nghiệp 42.198 tỷ đồng (4,9%),
người dân và cộng đồng đóng góp 107.447 tỷ đồng (12,62%).[10]
1.3.3. Xây dựng nông thôn mới tỉnh Hải Dương
Chương trính mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới là 1 chương trình
tổng thể trên nhiều lĩnh vực cần phát triển và hoàn thiện về các mặt kinh tế, xã hội,
văn hóa, an ninh quốc phòng… ở các địa phương. Xây dựng nông thôn mới thể hiện
sự quan tâm, chăm lo của đảng, nhà nước để phát triển khu vực nông thôn nhằm rút
ngắn khoảng cách phát triển giữa thành thị và nông thôn để người dân nông thôn
được hưởng thụ sự đầu tư của nhà nước về các mặt văn hóa xã hội. Xây dựng nông
thôn mới chính là một cuộc cách mạng phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống
chính trị, sự tham gia của người dân, giúp người dân nhận thức rõ trách nhiệm,
quyền lợi nhằm chủ động tham gia, tích cực thực hiện xây dựng nông thôn mới.
Hải Dương là một tỉnh nằm trong vùng tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng
- Quảng Ninh, với diện tích là 1662 km 2, dân số có hơn 1,7 triệu dân, trong đó 80%
nhân khẩu sống và làm việc tại khu vực nông thôn với hơn 380000 hộ. Tỷ lệ hộ
nghèo tính cho khu vực nông thôn chiếm gần 12%. Nếu so sánh tỷ lệ hộ nghèo toàn
tỉnh còn 6,9%, đủ thấy hộ nghèo tập chung chủ yếu ở nông thôn sự phân hóa giữa
giàu nghèo ở thành thị và nông thôn đang là thách thức lớn của tỉnh.
Theo bộ tiêu chí quốc gia, tỉnh Hải Dương có 229 xã nằm trong diện phải
xây dựng nông thôn mới. Để phấn đấu được các mục tiêu đã đặt ra: Số xã đạt chuẩn
nông thôn mới đến năm 2015 là 58/229 xã đạt 25% và đến năm 2020 là 137/229 xã
đạt 60%. Ngay từ đầu tỉnh đã tập chung tổ chức triển khai nhiều biện pháp đồng bộ,
đã huy động cả hệ thống chính trị và mọi dân tham gia, tổ chức rà soát 229 xã theo
tiêu chí của chính phủ, thành lập ban chỉ đạo XDNTM ở 3 cấp xác định danh mục
58 xã được triển khai XDNTM giai đoạn 1. Đến nay đã và đang tập chung chỉ đạo
hoàn thành công tác quy hoạch ở các xã, tập chung đẩy mạnh công tác tuyên truyền
1 cách sâu rộng các chủ trương của đảng và pháp luật của nhà nước về XDNTM tới

23



các cấp các ngành đoàn thể và nhân dân trong tỉnh đồng thời chỉ đạo các điạ phương
lập kế hoạch, tích cực triển khai chương trình XDNTM.
Đến nay trong số 229 xã đã có 40 xã đạt 10-14 tiêu chí, 153 xã đạt từ 5 - 9
tiêu chí, 36 xã đạt dưới 5 tiêu chí. Với 58 xã trong tỉnh được chọn triển khai
XDNTM giai đoạn 1 đến nay đã có 24 xã đạt từ 10 - 14 tiêu chí và có 2 xã đạt dưới
5 tiêu chí là xã Hưng Đạo và Tứ Xuyên huyện Tứ Kỳ.
XDNTM là nhiệm vụ hàng đầu của cả hệ thống chính trị, cần huy động sức
của toàn dân cùng tham gia. Tuy nhiên việc XDNTM vẫn đang ở bước khởi động và
cũng có không ít các chỉ tiêu còn đang lúng túng, khó thực hiện đòi hỏi phải có
nhiều thời gian và sự chung tay góp sức của toàn đảng toàn dân. Thời gian qua với
tinh thần đoàn kết, quyết tâm của toàn đảng bộ và nhân dân tỉnh Hải Dương đã khắc
phục khó khăn tập chung thực hiện các nghị quyết, các chương trình của tỉnh đề ra
và đã đạt nhiều thành quả quan trọng, làm thay đổi bộ mặt nông thôn của tỉnh nhà
trên tất cả các lĩnh vực, cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư. Hệ
thống giao thông được nhựa hóa bê tông hóa, xóa nhà tạm, mạng lưới điện nước,
bưu chính viễn thông ngày càng hoàn chỉnh. Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước sạch nước
hợp vệ sinh ngày càng tăng. Kinh tế nông thôn tăng trưởng khá và chuyển dịch theo
hướng tăng công nghiệp dịch vụ; Các hình thức tổ chức sản xuất tiếp tục đổi mới;
Đời sống vật chất và tinh thần của người dân ở hầu hết các vùng nông thôn ngày
càng được cải thiện, tỷ lệ hộ nghèo ngày càng giảm.
Tuy nhiên đời sống nhân dân ở một số nơi còn thấp, vấn đề giải quyết việc
làm, ô nhiễm môi trường ở nông thôn còn đang gặp khó khăn. Các lĩnh vực văn hóa
xã hội còn một số mặt hạn chế, hệ thống chính trị ở một số nơi còn chưa đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ. Việc thực hiện dân chủ ở cơ sở còn một số nội dung mang tính
hình thức. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội từng lúc từng nơi còn
phức tạp; Chuyển dịch cơ cấu lao động còn chậm, thiếu chính sách đủ mạnh để thu
hút nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ khu vực nông thôn; Vốn ngân sách địa
phương ít, các chính sách thu hút vốn đầu tư vào địa phương còn hạn chế…


24


XDNTM đòi hỏi sự tham gia của cả hệ thống chính trị và của toàn dân. Qua
đó phát huy được sức mạnh đoàn kết gắn bó cùng thực hiện nhiệm vụ chung, nhằm
mang lại lợi ích thiết thực, thay đổi toản diện bộ mặt nông thôn góp phần đưa đất
nước ngày càng phát triển văn minh và hiện đại. [11]
PHẦN 2 : ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề án XDNTM xã Hoàng Tiến.
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Xã Hoàng Tiến – thị xã Chí Linh – tỉnh Hải Dương.
2.3. Nội dung nghiên cứu
- Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của xã Hoàng Tiến.
- Tình hình quản lý và sử dụng đất tại xã.
- Tập trung về những vấn đề Quy hoạch NTM : Quy hoạch XDNTM, quá
trình và kết quả thực hiện chương trình XDNTM, tác động của chương trình
XDNTM đến sự phát triển của xã.
- Các giải pháp nâng cao hiệu quả của chương trình XDNTM.
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp điều tra thu thập số liệu
- Thu thập số liệu thứ cấp : Thông qua tài liệu, báo cáo tổng hợp, số liệu
thống kê của xã với các tài liệu như điều kiện tự nhiên, dân số, kinh tế xã hội, văn
hóa đời sống của xã.
- Thu thập số liệu sơ cấp: Điều tra phỏng vấn thu thập tại xã bằng các
phương pháp phỏng vấn nhanh người dân về quá trình XDNTM. Gặp gỡ cán bộ địa
phương trao đổi về tình hình chung của xã. Cùng cán bộ địa phương có chuyên
môn, tham khảo một số ý kiên của người dân bản địa có kinh nghiệm trong sản xuất
để đánh giá tình hình triển khai chương trình NTM tại địa phương.


25


×