Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

Tìm hiểu về các tập đoàn kinh tế Việt Nam. Mô hình công ty mẹ công ty con đã được áp dụng tại Việt Nam.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.09 KB, 24 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG BÌNH
KHOA: XÃ HỘI-DU LỊCH-KINH TẾ
--------¯&¯--------
Đề tài:Tìm hiểu về các tập đoàn kinh tế
Việt Nam. Mô hình công ty mẹ công ty
con đã được áp dụng tại Việt Nam
Giảng viên hướng dẫn: Hoàng Thị Dụng
Nhóm sinh viên thực hiện: Phạm Văn Thành
Hoàng Thị Thanh Thúy
Nguyễn Hoàng Quốc
Nguyễn Thị Thủy
Hoàng Thị Hoài Thương
Trần Thị Thanh Tâm

Đồng Hới, Tháng 12, Năm
2010
Phần mở đầu.
1.Lí do chọn đề tài.
Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang là thách thức đối với Việt Nam
trên con đường đổi mới. Để đối đầu với những thách thức đó Việt Nam đang nổ lực
tiếp thu và tăng cường đổi mới công nghệ nhừm nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp
ứng sự đòi hỏi của quy luật tích tụ và tập trung sản xuất…Do vậy, việc tập trung
nguồn lực và quản lí nguồn lực một cách có hiệu quả luôn là một nhu cầu cấp thiết
đặc biệt là vốn. Một trong những giải pháp được đề cập đến là áp dụng thí điểm mô
hình công ty mẹ - công ty con trước hết là giải quyết tốt mối quan hệ giữa tổng công
ty với các doanh nghiệp thành viên thông qua mô hình này.
Điều đầu tiên là cho đến nay, những nghiên cứu cơ bản về tập đoàn, về mô
hình công ty mẹ - công ty con ở nước ta còn rất ít. Còn nhiều vấn đề mặt lí luận chưa
được trao đổi và thống nhất với tinh thần thẳng thắn, khách quan và khoa học.
Chẳng hạn, thế nào là tập đoàn kinh tế, Gọi là tập đoàn kinh tế hay là tập đoàn doanh
nghiệp? Tập đoàn có phải là một tổ chức có tư cách pháp nhân hay không? Khi chưa


hiểu thấu đáo về tập đoàn và công ty mẹ - công ty con mà cho ra hàng loạt thì chắc
chắn sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng trong điều hành. Chính vì lí do trên
chúng em chon đề tài này để hiểu rõ về bản chất và hoạt động của tập đoàn kinh tế,
mô hình công ty mẹ - công ty con.
2.Mục đích của đề tài
Đề tài trình bày một cách hệ thống các vấn đề của TĐKT, MHCTM-CTC ở
Việt Nam. Từ đó đề tài sẽ trình bày chi tiết các nội dung cơ bản của TĐKT-
MHCTM- CTC, giúp cho người đọc đề tài có thể hiểu hơn về TĐKT- MHCTM-
CTC.
Trong phần nội dung của đề tài sẽ cho người đọc có cái nhìn khí quts hơn về
TĐKT –MHCTM- CTC tìm hiểu các quá trình hoạt đọng của TĐKT- MHCTM-
CTC ở Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đặc trưng của TĐKT.
-Cơ chế hoạt động của TĐKT
- Vai trò của TĐKT
- Thực trạng của TĐKT
4.Cơ sở lí luận và phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được thực hiện dựa trên các cơ sở lí thuyết về TĐKT nói chung và
TĐKT Việt Nam nói riêng.
Phương pháp chủ yếu được sử dụng trong đề tài đó là : phân tích, tổng hợp, so
sánh…Trong đề tài của mình chúng em đáuwr dụng nhiều tài liệu liên quan tới
TĐKT ở Việt Nam để nêu lên một cách xác thực về TĐKT
Phần 2: Nội dung
I.Phần lí thuyết .
1. Khái niệm.
Tập đoàn kinh tế được hiểu là một tổ hợp lớn các doanh nghiệp có tư cách
pháp nhân hoạt động trong một hay nhiều nghành khác nhau, có quan hệ về vốn, tài
chính, công nghệ, thông tin, đào tạo, nghiên cứu và các liên kết khác xuất phát từ lợi
ích của các bên tham gia. Trong mô hình này, “công ty mẹ” nắm quyền lãnh đạo,

chi phối hoạt động của “công ty con” về tài chính và chiến lược phát triển.”
Mô hình tập đoàn là một hình thái tổ chức giữa các doanh nghiệp. Còn nhiều
quan niệm khác nhau về tập đoàn, song cũng có một điểm chung nhất là: “Tập đoàn
doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có kết cấu tổ chức nhiều cấp,liên kết nhau bằng quan
hệ tài sản và quan hệ hợp tác nhằm đáp ứng đòi hỏi của nền sản xuất hàng hóa; các
doanh nghiệp trong tập đoàn đều có pháp nhân độc lập”
Vào năm 1990 và 1991 Nhà nước đã thành lập các Tổng công ty nhà nước,
đến năm 2005 thì một số Tổng công ty được tổ chức thành tập đoàn kinh tế. Đến
năm 2008 có 8 tập đoàn kinh tế và 96 Tổng công ty nhà nước hoạt động theo mô
hình công ty mẹ - con.
Danh sách các tập đoàn kinh tế Việt Nam cho đến năm 2008 có: Bưu Chính –
Viễn Thông (VTPT), Than – Khoáng Sản(Vinacomin), Dầu khí(Petro Vietnam),
Điện lực(EVN), Công nghiệp Tàu Thủy (Vinashin), Dệt May(Vinatex),cao su(VRG)
và tài chính – Bảo hiểm (Bảo Việt)
2. Sự cần thiết và nhu cầu tất yếu.
Do mở cửa hội nhập nên cần phải tổ chức sắp xếp các doanh nghiệp nhỏ,
manh mún thành những doanh nghiệp lớn để đủ khả năng đối tác cũng như cạnh
tranh với doanh nghiệp nước ngoài tăng cường vị trícủa doanh nghiệp nhà nước
trong việc bảo đảm vai trò chủ đạo,dẫn dắt các doanh nghiệp nhà thuộc thành phần
kinh tế khác hoạt động theo định hướng xã hội chủ nghĩa, và các tập đoàn hoạt động
có hiệu quả sẽ làm nòng cốt trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Do nền kinh tế hội
nhập sẽ phải chấp nhận cạnh tranh, cạnh tranh tất yếu dẫn đến tích tụ và tập trung
vốn vì vậy tất yếu sẽ hình thành doanh nghiệp lớn, tức các tập đoàn kinh tế.
Song các tập đoàn kinh tế thế giới, hầu hết đều đi từ các công ty nhỏ, hoạt
động có hiệu quả, tích tụ vốn và phát triển quy mô dần trở thành các tập đoàn khổng
lồ, các tập đoàn kinh tế Việt Nam được thành lập dựa trên tổng công ty có quy mô
chưa lớn.
3. Đặc trưng cơ bản của tập đoàn kinh tế.
- Các tập đoàn kinh tế thường có quy mô lớn về vốn, doanh thu và phạm vi
hoạt động.

Sự liên kết giữa các doanh nghiệp với nhau trong một tập đoàn luôn luôn
nhằm mục tiêu quan trọng nhất là giải quyết những khó khăn về vốn phục vụ kinh
doanh. Vì vậy, khi đã hình thành tập đoàn, các doanh nghiệp thành viên phát triển
nhanh hơn, tài sản có quyền sở huwxucungx tăng lên khá nhanh, từ đó, tổng tài sản
trong toàn tập đoàn cũng khá lớn. Các tập đoàn kinh tế trên thế giới thường chiếm
phần lớn thị phần trong trong những mặt hàng chủ đạo của tập đoàn đó và vì vậy có
doanh thu rất cao.
Về lao động, các tập đoàn thường thu hút một số lượng lớn lao động ở chính
quốc và ở các quốc gia khác. Ví dụ: Tập đoàn Air France(Pháp) bao gồm 16 công ty
con với 45.000 lao động, tậ đoàn Danone(Pháp) chuyên sản xuất sữa tươi, bánh bích
quy, thực phẩm, nước khoáng, bia, có 81.000 nhân viên và tập đoàn Fiat(Italia) có
242.300 nhân viên…
Phần lớn các tập đoàn mạnh thế giới hiện nay là tập đoàn đa quốc gia, tức là
các chi nhánh, công ty con ở nhiều nước trên thế giới. Chẳng hạn, tập đoàn
HENKEL(Đức) có 330 chi nhánh, công ty con ở nước ngoài. Tương tự, số chi
nhánh, công ty con ở nước ngoài của tập đoàn Simens(Đức) là 300, tập đoàn
Roche(Thụy Sĩ): 140, tập đoàn Tractebel(Bỉ):100, tập đoàn Unilever(Anh):90...
Các tập đoàn kinh tế đã và đang hoạt động trên thế giới hiện nay đều là những
tập đoàn đa ngành, tức là hoạt động trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực.
Hoạt động trong nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực là xu hướng có tính quy
luật cùng với sự phát triển của tập đoàn kinh tế. VD: Mitsubishi ban đầu chỉ hoạt
động trong lĩnh vực cơ khí chế tạo nhưng đến nay đã hoạt động trong các lĩnh vực:
khai khoáng, luyện kim, cơ khí chế tạo, hóa chất, ngân hàng, bảo hiểm, ngoại
thương, vận tải…Tập đoàn Petronas(Malaysia) trước hoạt động chủ yếu trong ngành
dầu khí nhưng hiện nay đã hoạt động trong các lĩnh vực: thăm dò, khai thác dầu khí,
lọc dầu, hóa dầu, kih doanh thương mại các sản phẩm dầu khí, hàng hải, kinh doanh
bất động sản, siêu thị và giải trí…
Với sự kết hợp ngày càng chặt chẽ giữa các lĩnh vực có liên quan trong hoạt
động sản xuất kinh doanh và sự liên kết chặt chẽ giữa nghiên cứu khoa học và sản
xuất, hiện nay, các công ty tài chính, ngân hàng, bảo hiểm và các viện nghiên cứu

ứng dụng về khoa học, công nghệ tham gia vào các tập đoàn kinh tế ngày càng
nhiều.
-Sự đa dạng về cơ cấu tổ chức và sử hữu vốn.
Về cơ cấu tổ chức cho đến nay chưa có 1 văn bản pháp lý của một quốc gia
nào quy định một cơ cấu tổ chức thống nhất cho tập đoàn kinh tế. Bởi lẽ,các tập
đoàn kinh tế được hình thành dần dần trong quá trình phát triển hai hoặc một số
doanh nghiệp hình thành một tập đoàn theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương.
Vấn đề quan trọng nhất cần nhấn mạnh : Tạp đoàn không phải là một doanh
nghiệp, không có tư cách pháp nhân độc lập. Do đó, các mệnh lệnh hành chính
không được sử dụng trong điều hành của tập đoàn. Các doanh nghiệp là thành viên
của tập đoàn đều có pháp nhân độc lập, có cơ quan quyền lực cao nhất như hội đồng
thành viên(với công ty TNHH), đại hội cổ đông(với công ty cổ phần). Theo thỏa
thuận giữa các thành viên của tập đoàn, chủ tịch hội đồng thành viên, hội đồng quản
trị các công ty trong tập đoàn tập hợp lại thành hội đồng chủ tịch tập đoàn. Hội đồng
chủ tịch bầu ra chủ tịch tập đoàn. Hội đồng chủ tịch không thực hiện chức năng điều
hành cụ thể đối với quá trình sản xuất, kinh doanh và tổ chức của các công ty thành
viên, do đó, không có chức danh tổng giám đốc tập đoàn. Sở hữu vốn trong các tập
đoàn kinh tế cũng rất đa dạng. Trước hết, vốn trong tập đoàn là do các công ty thanh
viên làm chủ sở hữu, bao gồm cả vốn tư nhân và vốn nhà nước. Quyền sở hữu vốn
trong tập đoàn cũng tùy thuộc vào mức độ phụ thuộc của các công ty thành viên vào
công ty mẹ và thường ở hai cấp độ:
+ Cấp độ thấp hay còn gọi là liên kết mềm, vốn của công ty mẹ, công ty con,
công ty cháu… là của từng công ty.
+ Cấp độ cao hay còn gọi là liên kết cứng là công ty mẹ tham gia đầu tư vào
các ông ty con, biến các công ty con, con ty cháu thành công ty TNHH một thành
viên do công ty mẹ làm chủ sở hữu hoặc công ty mẹ chiếm trên 50% vốn điều lệ(với
công ty TNHH), giũ cổ phần chi phối(với công ty con ,cháu là công ty cổ phần).Trên
thực tế, không có một tập đoàn kinh tế nào chỉ có quan hệ về sở hữu vốn theo một
cấp độ mà đan xen cả hai cấp độ tùy theo từng trường hợp trong quan hệ giữa công
ty mẹ và công ty con.

4.Hiệu quả hoạt động.
4.1 Sử dụng vốn
Tám tập đoàn kinh tế cùng với 96 tổng công ty, công ty lớn của Nhà nước sở
hữu gần 400.000 tỉ đồng, chiếm hầu hết vốn của Nhà nước có tại các doanh nghiệp
nhà nước. Các tập đoàn và tổng công ty đang nắm giữ 75% tài sản cố định của quốc
gia, khoảng 60% tổng tín dụng ngân hàng trong nước và tổng vốn vay nước ngoài
nhưng chỉ tạo ra khoảng 40% tổng sản phẩm trong nước, tỷ suất lợi nhuận trên vốn
chủ sở hữu của các đơn vị này là 17%, 28,8% thu ngân sách. Tính đến cuối năm
2007, tổng số vốn chủ sở hữu của các tập đoàn và tổng công ty đã tăng 18%, tổng tài
sản tăng 26%
`4.2. Đầu tư trái nghề chính.
Tại một hội nghị hồi tháng 4-2008 ở Hà Nội, Bộ Tài chính cho biết tính đến
cuối năm 2007, tổng giá trị đầu tư ra ngoài các lĩnh vực kinh doanh chính của 70 tập
đoàn, tổng công ty nhà nước là gần 117.000 tỉ đồng, trong đó đầu tư vào lĩnh vực tài
chính, ngân hàng và bất động sản là hơn 23.400 tỉ đồng.
4.3.Tình hình nợ
Có nhiều số liệu khác nhau và nhiều cách nhìn nhận khác nhau về tỷ lệ nợ vay
trên vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước mà các tập đoàn kinh tế nhà
nước và các Tổng công ty nhà nước là các chủ thể chiếm tỷ trọng tuyệt đối về vốn.
Tỷ lệ nợ phải trả 8 tập đoàn kinh tế cùng với 96 tổng công ty, công ty lớn của
Nhà nước lên đến 1,36 lần, tính đến cuối năm 2007 và nợ của các tập đoàn kinh tế
vẫn trong vòng kiểm soát.
Tỷ lệ nợ vay trên vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp nhà nước rất cao, cá
biệt lên đến 42 lần trên vốn của chủ sở hữu. So với mức tỷ lệ nợ vay trên vốn chủ sở
hữu của các tập đoàn kinh tế quốc tế là chỉ từ 1 đến 3 lần thì tỷ lệ nợ vay/vốn chủ sở
hữu của các tập đoàn kinh tế Việt Nam nếu được công bố sẽ khiến "thế giới phải giật
mình", có đại biểu quốc hội đặt nghi vấn cho rằng nguyên nhân của việc thiếu rõ
ràng trong bảo lãnh tín dụng, độc quyền, khó kiểm soát nợ của doanh nghiệp nhà
nước, các tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước có gốc gác từ lợi ích cục bộ, lợi
ích nhóm.

Hoạt động yếu kém, sử dụng quá nhiều nguồn lực, được quá nhiều ưu ái, ưu đãi kể
cả lúc kinh tế đất nước gặp nhiều khó khăn,cạnh tranh không bình đẳng, không làm
tròn vai trò nòng cốt của nền kinh tế thậm chí đã trở thành là gánh nặng của nền kinh
tế, lũng đoạn thông qua quan hệ, coi trọng lợi ích nhóm, các tập đoàn kinh tế được
xem là một trong những nguyên nhân gây ra lạm phát cao vào năm 2008
5.Mô hình công ty mẹ - công ty con.
Công ty mẹ và công ty con là hai thực thể pháp lí độc lập, và nếu công ty con
là công ty có trách nhiệm hữu hạn thì công ty mẹ chỉ chịu trách nhiệm đối với phần
vốn góp hay cổ phần của mình mà thôi, nhưng do mối quan hệ có tính chất chi phối
các quyết định của công ty con,nên luật pháp nhiều nước bắt buộc công ty mẹ phải
chịu trách nhiệm liên đới về những ảnh hưởng của công ty mẹ đối với công ty con.
Thí dụ, luật công ty của Cộng hòa liên bang Nga quy định nếu công ty mẹ đưa ra
chỉ thị buộc công ty con phải thực hiện theo một cam kết nào đó giữa công ty mẹ và
công ty con thì công ty mẹ phải chịu trách nhiệm liên đới.
Ngoài ra, theo luật pháp của nhiều nước và theo chuẩn mực kế toán quốc tế thì công
ty mẹ phải có trách nhiệm trình báo cáo tài chính tập trung hay hợp nhất tại đại hội
cổ đông của công ty mẹ,trừ trường hợp công ty mẹ là công ty con của công ty khác
hoặc hoạt động của công ty con quá khác biệt với công ty mẹ; bởi lẽ,dù là hai thực
thể pháp lí độc lập nhưng trên thực tế chúng là những công ty liên kết, một thực thể
kinh tế hợp nhất.
5.1.Sự giống và khác nhau giữa mô hình tổng công ty và đơn vị thành viên
và mô hình công ty mẹ công ty con:
a. Sự giống nhau:
-Tổng công ty là cổ đông
-Có quyền quyết định đến hoạt động của công ty thành viên bằng nhiều cơ
chế khác nhau.
b.Sự khác nhau:
- Với mô hình tổng công ty thì cơ cấu tổ chức của công ty (một nhóm các
công ty ) bị giới hạn có 3 cấp – Tổng công ty, công ty và xí nghiệp hạch toán phụ
thuộc(hoặc tương đương). Trong khi đó, theo mô hình công ty mẹ công ty con thì

tầng nấc trong cơ cấu tổ chức, về mặt lí thuyết, là không giới hạn- công ty me công
ty con,công ty cháu...
-Về nguyên tắc, quan hệ công ty mẹ đối với công ty con là trách nhiệm hữu
hạn, còn quan hệ giữa tổng công ty và đơn vị thành viên là trách nhiệm vô hạn.
- Về mặt pháp lí, các đơn vị thành viên của tổng công ty và công ty là những
pháp nhân độc lập chưa đầy đủ ,vì đối với một số hoạt động của đơn vị thành viên,
Nguồn tiền mặt công ty
con
Công ty mẹVốn vay
Khoản phải thu
Tồn Kho
Bán trả chậm
Các dự án
Số dư khoản phải trả
Tiền chi mua hàng
Vật tư và nguyên
Vật liệu

×