Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

giáo dục môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.82 KB, 31 trang )

Mụ c lục


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BVMT:

Bảo vệ môi trường

GDBVMT:

Giáo dục bảo vệ môi trường

GDTH:

Giáo dục tiểu học

GDMT:

Giáo dục môi trường

IEEP:

Institute for European Environmental Policy (Viện chính sách
môi trường Châu Âu)

IUCN:

International Union for Conservation of Nature and Natural
Resources (Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên nhiên và Tài
nguyên Thiên nhiên)



MT:

Môi trường

PTBV:

Phát triển bền vững

PTGT:

Phương tiện giao thông

UNEP:

The United Nations Environment Program (Chương trình Môi
trường Liên Hợp Quốc)

UNESCO:

United Nations Educational Scientific and Cultural
Organization (Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của
Liên hiệp quốc)


MỞ ĐẦU
Môi trường là cụm từ hiện đang được đưa ra bàn luận nhiều và trở thành
vấn đề cấp bách trong những năm gần đây. Bởi lẽ, môi trường có tầm quan trọng
đặc biệt đối với đời sống của con người, sinh vật và sự tồn tại, phát triển của một
đất nước, của cả nhân loại. Đất nước càng phát triển, tham vọng của loài người

ngày càng tăng lên. Vì mục đích kinh tế, con người bất chấp mọi hành vi kể cả
việc làm tổn hại đến môi trường chỉ để nhằm khai thác tài nguyên thiên nhiên,
kiếm lợi nhuận trước mắt. Họ không nhận thức được rằng chính những hành
động đó đã đẩy môi trường rơi vào tình trạng như ngày nay hoặc có thể họ biết
nhưng không thực sự quan tâm. Để sửa sai, hiện các nhà khoa học, các chuyên
gia cùng hàng ngàn hàng triệu người có cùng mối quan tâm đang ngày đêm tìm
kiếm và thực hiện các giải pháp nhằm hạn chế không để môi trường bị ô nhiễm,
bị hủy hoại thêm. Liệu những việc làm hiện nay có phải là đã quá muộn khi
thiên nhiên đang nổi giận, đang trừng phạt loài người vì sự tham lam, ích kỷ
bằng hàng loạt những thiên tai như động đất, sóng thần, lũ lụt...?
Như lời Bác Hồ kính yêu đã từng nói: “Vì lợi ích mười năm trồng cây,
Vì lợi ích trăm năm trồng người”, có nghĩa là vì lợi ích lâu dài, chúng ta cần
phải tập trung vào con người. Muốn thay đổi được nhận thức sâu sắc về hành vi,
cách xử sự sai trái của con người đối với một vấn đề nào đó thì điều quan trọng
là thời gian. Bởi quá trình phát triển, hình thành nên nhân cách của con người từ
khi còn nhỏ có ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức khi trưởng thành. Vì vậy, giáo
dục có tầm quan trọng rất lớn đối với đời sống con người, nhất là ở tuổi Tiểu
học. Đặc biệt là trẻ 6 – 11 tuổi đang ở những bước phát triển mạnh về nhận thức,
tư duy, về ngôn ngữ, về tình cảm... Có biết bao điều mới lạ, hấp dẫn, trẻ tò mò
muốn biết, muốn được khám phá, cho nên giáo dục Tiểu học đã góp phần không
nhỏ vào việc giáo dục thế hệ trẻ.

3


4


CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Những vấn đề chung về giáo dục môi trường
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của giáo dục môi tr ường
Hai từ “giáo dục” và “môi trường” được chính thức kết hợp với nhau lần đầu
tiên vào khoảng giữa những năm 1960. Khái niệm giáo dục môi trường (GDMT)
được hình thành ở nước Anh là nhờ ở Sir Patrick Geddes, một giáo sư thực vật
học người Scotland. Ông đã chỉ ra mối liên hệ quan trọng giữa chất lượng môi
trường với chất lượng giáo dục vào khoảng năm 1982.
Năm 1972, Hội nghị toàn cầu lần thứ nhất về Môi trường nhân văn được tổ
chức ở Stockholm (Thuỵ Điển) và khái niệm GDMT chính thức ra đời, góp phần
giúp con người nhận thức rõ được tác động của mình đối với môi trường. Đến
tháng 10/1975, IEEP tổ chức hội thảo quốc tế về GDMT tại Belgrade đưa ra
nghị định khung và tuyên bố về mục tiêu và nguyên tắc hướng dẫn GDMT.
Năm 1977, Hội nghị Liên chính phủ về GDMT được tổ chức ở Tbilisi (Liên Xô
cũ) chính thức tán thành định nghĩa và các nguyên tắc của GDMT.
Năm 1980, Chiến lược Bảo tồn Thế giới kêu gọi một “đạo đức” mới trong xã hội
loài người, nghĩa là con người hãy chung sống hài hoà với thế giới tự nhiên. Xét
cho cùng, chỉ có thể đạt được các mục tiêu bảo tồn nếu toàn thể xã hội loài
người thay đổi cách ứng xử với môi trường. Nhiệm vụ lâu dài của GDMT là
nuôi dưỡng, củng cố những thái độ và hành vi phù hợp với đạo đức mới.
Năm 1987, Hội nghị thế giới lần thứ hai về GDMT do UNESCO và UNEP phối
hợp tổ chức ở trong số những sáng kiến đầu tiên đã bị thất bại. Sau Hội nghị
này, các hoạt động hiện trường bùng nổ. Các hiệp hội được thành lập ở rất nhiều
nước khác nhau và mọi nỗ lực đều đi theo định hướng “suy nghĩ ở cấp toàn cầu
và hành động ở cấp địa phương”.

Năm 1992, Hội nghị Thượng đỉnh về Trái đất được tổ chức ở Rio de Janeiro,
Brazil. Tại Hội nghị này, vấn đề GDMT được nhấn mạnh và đưa vào chương
trình Nghị sự 21: đưa khái niệm về môi trường và phát triển vào tất cả các
5



chương trình giáo dục, xây dựng các chương trình đào tạo cho học sinh và sinh
viên.
Mốc quan trọng cuối cùng trên quy mô toàn cầu là Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về
Phát triển Bền vững tổ chức ở Johannesburg, Nam Phi năm 2002. Hội nghị thống nhất:
Mục đích của GDMT giờ đây đã trở thành việc theo đuổi của tất cả các hoạt động giáo
dục. (Nguyễn Thị Bích Hảo, 2011; Phan Nguyên Hồng, Vũ Thục Hiền, 2005)

1.1.2. Các khái niệm về giáo dục môi trường
Một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử phát triển định nghĩa GDMT là Hội
nghị quốc tế về GDMT trong Chương trình học đường do IUCN/UNESCO tổ
chức tại Nevada, Mỹ năm 1970. Hội nghị này đã thông qua định nghĩa sau về
GDMT: “Là quá trình thừa nhận giá trị và làm rõ khái niệm để xây dựng
những kỹ năng và thái độ cần thiết giúp hiểu biết và đánh giá đúng mối
tương quan giữa con người với nền văn hóa và môi trường lý sinh xung
quanh mình. GDMT cũng tạo cơ hội cho việc thực hành để ra quyết định và
tự hình thành quy tắc ứng xử trước những vấn đề liên quan đến chất lượng
môi trường”.
Năm 1975, Martin bắt đầu cố gắng thay đổi một số hiểu biết về môi trường.
Trong định nghĩa của ông, chủ yếu nhấn mạnh đến khía cạnh chính trị trong
GDMT, cũng như đến đạo lý và giá trị. Trên bình diện quốc tế, thuật ngữ “giáo
dục môi trường” đã được sử dụng ở Stockholm năm 1972 tại Hội nghị toàn cầu
lần thứ nhất về Môi trường nhân văn. Nhưng chỉ đến Hội nghị ở Belgrade nó
mới được định nghĩa trên quy mô toàn cầu. Kể từ đó, cộng đồng quốc tế thừa
nhận định nghĩa về GDMT là “quá trình nhằm phát triển một cộng đồng dân
cư có nhận thức rõ ràng và quan tâm đến toàn bộ môi trường cùng những
vấn đề liên quan, có kiến thức, kỹ năng, động cơ và cam kết để có thể làm việc
độc lập hoặc hợp tác với người khác nhằm tìm ra giải pháp cho những vấn đề
hiện có và phòng chống những vấn đề có thể xảy ra trong tương lai


Những khuynh hướng mới trong GDMT thừa nhận rằng các hành vi môi trường
không chỉ bị ảnh hưởng bởi kiến thức, mà còn bị chi phối bởi cách nhìn nhận về
giá trị môi trường, phương án lựa chọn, kỹ năng, và những nhân tố thúc đẩy
khác, như trong định nghĩa của Hiệp hội Giáo dục môi trường Bắc Mỹ, năm
1993.

6


Sau đây là một định nghĩa tương đối mới về GDMT có khả năng giải quyết được
những thách thức đối với phát triển bền vững (PTBV):
“GDMT là một quá trình phát triển những tình huống dạy/học hữu ích giúp
người dạy và người học tham gia giải quyết những vấn đề môi trường có ảnh
hưởng đến họ và tìm ra những câu trả lời dẫn đến một lối sống có trách
nhiệm, được thông tin đầy đủ”.
Điều quan trọng là cần nhận thấy, rằng trong tất cả những định nghĩa khác nhau
này, có một số điểm cơ bản chung có tính cố hữu.
Thứ nhất, GDMT là một một quá trình diễn ra trong một khoảng thời gian ngắn,
ở nhiều địa điểm khác nhau, thông qua những kinh nghiệm khác nhau và bằng
những phương thức khác nhau; Thứ hai, rằng GDMT nhằm thay đổi hành vi;
Thứ ba, rằng khung cảnh học tập là bản thân môi trường và những vấn đề có
trong thực tế; Thứ tư, rằng GDMT bao gồm giải quyết vấn đề và ra quyết định
về cách sống. Nói một cách gián tiếp, nhờ tập trung vào phát triển kỹ năng,
những định nghĩa này muốn nói rằng việc học phải tập trung người học và lấy
hành động làm cơ sở. (Nguyễn Thị Bích Hảo, 2011)
1.2. Giáo dục bảo vệ môi trường trong hệ thống giáo dục quốc dân
1.2.1. Vai trò, vị trí của giáo dục đối với việc bảo vệ môi tr ường
Con người là một thành phần của môi trường (MT) và là chủ thể của BVMT. Ý
thức, thái độ, hành vi ứng xử đối với MT là một trong các yếu tố nhân cách của
người lao động. Chức năng tổng quát nhất và cao quý nhất của giáo dục là

“trồng người”, rèn luyện và phát triển nhân cách người lao động. Thật vậy, quá
trình giáo dục, đặc biệt là giáo dục có hệ thống trong nhà trường đóng vai trò
quyết định đối với việc hình thành tư cách công dân, cách ứng xử đối với xã hội,
đối với MT của

mỗi cá nhân. Một khi con người có những hiểu biết về mối quan hệ nhân quả
giữa MT và phát triển kinh tế - xã hội, giữa MT và sự tồn tại của xã hội, giữa
MT và chính cuộc sống của mình thì trong mọi hành động họ sẽ nâng niu và ứng
xử thân thiện với MT vì mục tiêu PTBV. Mọi thành viên trong cộng đồng xã hội
đều có quan hệ với nhau và quan hệ trực tiếp với MT. Tất cả đều có trách nhiệm
trước MT. Chính vì vậy, giáo dục là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất,

7


kinh tế nhất và có tính bền vững trong các biện pháp để thực hiện mục tiêu
BVMT và PTBV đất nước.
Đích quan trọng của giáo dục bảo vệ môi trường (GDBVMT) không chỉ làm cho
mọi người hiểu rõ sự cần thiết phải BVMT mà quan trọng là phải có thói quen,
hành vi ứng xử thân thiện, văn minh, lịch sự với MT. Điều này phải được hình
thành trong một quá trình lâu dài và phải bắt đầu ngay từ tuổi ấu thơ, từ gia đình
tới nhà trường, từ trường tiểu học đến những năm học ở trường phổ thông. (Lê
Văn Khoa và các cộng sự, 2009)
1.2.2. Nhiệm vụ và phương pháp tiếp cận trong giáo dục bảo vệ
môi trường
a, Nhiệm vụ trong giáo dục bảo vệ môi trường
Theo tuyên ngôn của Tổ chức UNESCO - UNEP năm 1998 “GDBVMT không
phải là ghép thêm vào chương trình giáo dục như là một bộ phận riêng biệt hay
một chủ đề nghiên cứu, mà nó là một đường hướng hội nhập vào chương trình
đó. GDBVMT là kết quả của một sự định hướng lại và sắp xếp lại những bộ

môn khác nhau và những kinh nghiệm giáo dục khác nhau (khoa học tự nhiên,
khoa học xã hội, văn học nghệ thuật,…), nó cung cấp một nhận thức toàn diện
về môi trường”.
GDBVMT là một phương pháp tiếp cận xuyên bộ môn giúp cho mọi người hiểu
về môi trường với mục đích hàng đầu là chăm sóc phát triển và có thái độ cam
kết, thái độ này sẽ nuôi dưỡng niềm mong ước và năng lực hành động có trách
nhiệm trong môi trường. GDBVMT với không chỉ kiến thức mà còn cả tình
cảm, thái độ, kỹ năng và hành động xã hội. Như vậy, việc GDBVMT cần phải
được tiến hành giáo dục sâu rộng ngay từ tuổi ấu thơ tới tuổi trưởng thành, từ
những người làm việc sinh hoạt thường ngày trong cộng đồng tới những người
làm công tác chỉ đạo, quản lý, nhà chiến lược kinh tế xã hội

8


.

b, Phương pháp tiếp cận trong giáo dục bảo vệ môi trường:

Tích hợp và lồng ghép: GDBVMT là giáo dục tổng thể nhằm trang bị những
kiến thức về môi trường cho học sinh – sinh viên, những kiến thức về môi
trường thông qua từng môn học và chương trình riêng phù hợp với từng đối
tượng. Việc giáo dục này chủ yếu dựa theo phương thức lồng ghép và liên hệ
trong các nội dung giảng dạy của các môn học.
Tính phù hợp ở từng bậc học: Nội dung GDBVMT là việc cung cấp những
thông tin về MT cùng những biện pháp BVMT cần được cung cấp theo những
cách thức phù hợp với trình độ và khả năng nhận thức của từng nhóm đối tượng;
nội dung GDBVMT cần là giáo dục trong môi trường và vì môi trường;
GDBVMT là nhìn thấy rõ trách nhiệm và rèn luyện kỹ năng để BVMT.
Tính tổng hợp và đa dạng: Trong đời sống xã hội, những nhân tố tự nhiên và

nhân tố xã hội luôn luôn có những tác động qua lại và ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống sinh hoạt của mỗi cá nhân và của cộng đồng dân cư; do đó, nội dung
GDBVMT không chỉ bao hàm các nội dung về môi trường tự nhiên mà còn phải bao
hàm cả môi trường xã hội hay còn gọi là môi trường nhân văn.
Tính hành động thực tiễn: GDBVMT không chỉ giúp học sinh - sinh viên có
thêm nhận thức, hiểu biết cần thiết để BVMT, mà còn phải biết vận dụng các
nguyên lý, nguyên tắc vào ngay các vấn đề cụ thể, phải biết làm điều gì đó cho
môi trường xung quanh, nghĩa là GDBVMT phải được tiến hành bằng cả
phương thức lẫn hành động thực tiễn.
Tính hợp tác, liên hệ và điểm nhân ra diện rộng: “GDBVMT là dạy người học
biết cách ứng xử và hành động vì môi trường. Vì vậy, cần tận dụng các phương
thức hợp tác giữa người dạy và người học, giữa nhà trường với xã hội trong quá
trình giáo dục. Đồng thời hướng người học vận dụng ngay hiểu biết để tham gia
vào quá trình giải quyết các vấn đề về môi trường”. (Nguyễn Hữu Long, 2010)

9


CHƯƠNG 2
Mục tiêu-đối tượng của Giáo dục môi trường
2.1. Mục tiêu của giáo dục môi trường
Hội nghị quốc tế về Giáo dục môi trường của Liên hợp quốc tổ chức tại
Tbilisi vào năm 1977 đã đưa ra khái niệm: “Giáo dục môi trường có mục
đích làm cho cá nhân và các cộng đồng hiểu được bản chất phức tạp của môi
trường tự nhiên và môi trường nhân tạo là kết quả tương tác của nhiều nhân
tố sinh học, lý học, xã hội, kinh tế và văn hóa; đem lại cho họ kiến thức, nhận
thức về giá trị, thái độ và kỹ năng thực hành để họ tham gia một cách có trách
nhiệm và hiệu quả trong phòng ngừa và giải quyết các vấn đề môi trường và
quản lý chất lượng môi trường”..


Vì vậy có thể tóm tắt được mục tiêu của việc GDMT như sau:
a) Hiểu biết bản chất của các vấn đề môi trường: tính phức tạp, quan hệ nhiều
mặt, nhiều chiều, tính hạn chế của tài nguyên thiên nhiên và khả năng chịu tải
của môi trường, mối quan hệ chặt chẽ giữa môi trường và phát triển, giữa môi
trường địa phương, vùng, quốc gia với môi trường khu vực và toàn cầu. Mục
tiêu này thực chất là trang bị cho các đối tượng được giáo dục các Kiến thức về
môi trường.
b) Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của các vấn đề môi trường như
một nguồn lực để sinh sống, lao động và phát triển, đối với bản thân họ cũng
như đối với cộng đồng, quốc gia của họ và quốc tế, từ đó có thái độ, cách ứng
xử đúng đắn trước các vấn đề môi trường, xây dựng cho mình quan niệm đúng
đắn về ý thức trách nhiệm, về giá trị nhân cách để dần hình thành các kỹ năng
thu thập số liệu và phát triển sự đánh giá thẩm mỹ. Mục tiêu này có định hướng
xây dựng Thái độ, cách đối xử thân thiện với môi trường.
c) Có tri thức, kỹ năng, phương pháp hành động để nâng cao năng lực trong
việc lựa chọn phong cách sống thích hợp với việc sử dụng một cách hợp lý
10


và khôn ngoan các nguồn tài nguyên thiên nhiên, để họ có thể tham gia hiệu quả
vào việc phòng ngừa và giải quyết các vấn đề môi trường cụ thể nơi họ ở và làm
việc. Đây là mục tiêu về khả năng Hành động cụ thể

Hiểu biết về MT:
Vấn đề
Nguyên nhân
Kết quả

Thái độ đúng đắn với
KhảMT:

năng hành động hiệu quả vào B
Nhận thức
Thái độ
ứng xử

Kiến thức
Kĩ năng
Dự báo tác động
Tổ chức hành động

Nói cách khác Giáo dục môi trường hoàn toàn không tách rời những giá trị
về kiến thức, kinh nghiệm thực tế và cách thức thực hiện của từng địa phương
11


hay khu vực về một quá trình tạo lập và phát triển bền vững. Giáo dục môi
trường luôn trân trọng những tri thức bản địa và ủng hộ việc giáo dục tương ứng
với việc học tập dựa trên môi trường địa phương, coi trọng việc giáo dục
toàn cầu cũng như giáo dục môi trường địa phương, thậm chí về mặt cam kết và
hành động lại hướng về cụ thể và địa phương: “Nghĩ – toàn cầu, Hành động –
Địa phương”.
Những thông tin, kiến thức về môi trường được tích luỹ trong mỗi cá nhân sẽ
nuôi dưỡng và nâng cao ý thức và tinh thần trách nhiệm về bảo vệ môi trường
của chính họ, tạo nên những động cơ mạnh mẽ, những cam kết vững chắc hướng
về một môi trường trong lành và phát triển trong tương lai. Bởi vì, mỗi cá nhân
nếu đều có ý thức đóng góp những hành động dù nhỏ nhưng tích cực cũng sẽ
góp phần tạo nên những thay đổi lớn tốt đẹp hơn cho môi trường.
Mục đích cuối cùng của giáo dục môi trường là tiến tới xã hội hóa các vấn đề
môi trường, nghĩa là tạo ra các công dân có nhận thức, có trách nhiệm với
môi trường, biết sống vì môi trường.

Một khi các vấn đề môi trường đã được xã hội hóa thì những lợi ích kinh tế cho
cộng đồng ngày một gia tăng và đặc biệt hiệu lực quản lý nhà nước tăng
nhưng gánh nặng chi phí sẽ giảm. Do đó, những kết quả nghiên cứu về môi
trường và các phương pháp khắc phục ở nhiều quốc gia trên thế giới đã đi đến
kết luận chung là: không có giải pháp nào kinh tế và hiệu quả bằng việc đầu tư
vào con người thông qua công tác giáo dục môi trường.

12


2.2. Đối tượng của Giáo dục môi trường

Học sinh,
sinh viên

Cộng đồng địa
phương

Các doanh
nghiệp, nhà
kinh tế

Nhà quản lí các
cấp, các cán bộ

13


2.2.1. Đối với học sinh, sinh viên
a) Giáo dục bảo vệ môi trường trong trường mầm non


Giáo dục mầm non nằm trong hệ thống giáo dục quốc dân, là cơ sở quan trọng
đặt nền móng ban đầu cho việc hình thành nhân cách con người Việt Nam.
Giai đoạn từ 0 – 6 tuổi là giai đoạn rất quan trọng trong cuộc đời mỗi con người.
Trong giai đoạn này, trẻ phát triển rất nhanh về mặt thể chất, nhận thức, tình
cảm. Các mối quan hệ xã hội, những nét tính cách, phẩm chất và các năng lực
chung,… nếu không được hình thành ở trẻ trong lứa tuổi này, thì khó có cơ hội
hình thành ở lứa tuổi sau.

Hiện nay, cả nước có trên 10.000 trường mẫu giáo, mầm non với gần 3 triệu
trẻ em và trên 15.000 giáo viên. Một lực lượng khá đông đảo sẽ được trang
bị những kiến thức, kỹ năng về môi trường và bảo vệ môi trường nếu đưa giáo
dục bảo vệ môi trường vào trường mầm non.

b) Giáo dục bảo vệ môi trường ở bậc tiểu học

Tiểu học là bậc học cơ bản, là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng cho việc đào tạo
trẻ em trở thành công dân tốt cho đất nước. Mục đích quan trọng của giáo dục
bảo vệ môi trường không chỉ làm cho các em hiểu rõ tầm quan trọng của bảo vệ
môi trường mà quan trọng là phải hình thành thói quen, hành vi ứng xử văn
minh, thân thiện với môi trường. Nếu ở cấp học này các em chưa hình thành
được tình yêu thiên nhiên, sống hòa đồng với thiên nhiên, quan tâm tới thế giới
xung quanh, có thói quen sống ngăn nắp, vệ sinh thì ở các cấp sau khó có thể bù
đắp được. Vì vậy, nội dung và cách thức bảo vệ môi trường trong trường tiểu
học mang tính quyết định đối với việc hình thành những phẩm chất đó.

14


c) Giáo dục bảo vệ môi trường ở bậc trung học


Ở cấp học này, nội dung giáo dục môi trường phải được coi là nội dung chính
thống, có hệ thống, có chất lượng và phải hiệu quả. Cách thức đưa vào chương
trình phổ thông và phương thức đào tạo có thể mềm dẻo nhưng việc đánh giá kết
quả phải được đặt ra một cách tương xứng với tầm quan trọng của vấn đề. Cần
phải giúp cho các em tự mình chiếm lĩnh được tri thức, kỹ năng và tự thân các
học sinh xác định thái độ phái đối xử đúng đắn với thiên nhiên như chính ngôi
nhà của mình.

d) Giáo dục bảo vệ môi trường ở bậc đại học và sau đại học

Giáo dục bảo vệ môi trường ở bậc đại học và sau đại học có thể được thực hiện
theo 3 phương thức:

− Tiến hành như một môn học mới, hoặc một chuyên đề mới được đưa vào
chương trình: Phương thức này tương đối rõ ràng, đơn giản, nhưng gặp khó
khăn do chương trình đào tạo đang có không còn thời lượng cho môn học mới.
− Lồng ghép với các môn học khác: Phương thức này sẽ thuận lợi cho tính
chất liên ngành, không đòi hỏi việc sắp xếp lại khung chương trình. Tuy nhiên
lại gặp khó khăn lớn là phải đào tạo giáo viên mới và huấn luyện bồi dưỡng giáo
viên đương chức về mục tiêu, nội dung và phương pháp lồng ghép.

− Giáo dục môi trường qua các hoạt động ngoại khóa: Phương thức này
được vận dụng để giải quyết khó khăn về quỹ thời gian học tập của học sinh.
Giáo dục ngoại khóa có ưu điểm là sinh động, dễ gắn liền với thực tế, vừa cung
cấp được kiến thức, kỹ năng, vừa có tác dụng rèn luyện nhận thức, thái độ. Tuy
nhiên có khó khăn là không liên tục, không hệ thống và bị động với nhiều nhân
tố bên ngoài.
15



16


2.2.2. Đối với cộng đồng, địa phương
Giáo dục môi trường và nâng cao nhận thức về môi trường cho cộng đồng có ý
nghĩa cực kỳ quan trọng bởi lẽ cộng đồng là những người chịu ảnh hưởng
trực tiếp bởi môi trường sống của chính họ, họ vừa là nguyên nhân vừa là những
người gánh chịu hậu quả những vấn đề môi trường của địa phương. Khi được
nâng cao nhận thức, kiến thức về bảo vệ môi trường sẽ góp phần thúc đẩy cộng
đồng tham gia bảo vệ môi trường. Công tác này thường được thực hiện thông
qua các hoạt động xã hội, các tổ chức quần chúng, các đoàn thể chính trị - xã hội
để từng bước tiến tới xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, điều này có nghĩa
là huy động các nhân tố thị trường và cộng đồng dân cư vào các mặt hoạt động
trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.

Đây là một quá trình đòi hỏi sự bền bỉ, thời gian dài và đặc biệt là sự kết hợp hài
hòa và tổng hợp các giải pháp. Kinh nghiệm của nhiều nước cho thấy, không có
một giải pháp đơn lẻ nào có thể phát huy hiệu quả trong vấn đề này.

Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam đặt vị trí quan trọng của công
tác bảo vệ môi trường trong hoạt động phát triển kinh tế xã hội. Quan điểm
này được thể hiện rõ trong Chỉ thị số 36/CT-TW ngày 25/6/1998 và sau này là
Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị Ban chấp
hành Trung ương Đảng CSVN về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước: "Bảo vệ môi trường là quyền lợi và
nghĩa vụ của mọi tổ chức, mọi gia đình và của mỗi người". Quyết định số
256/2003/QĐ- TTg, ngày 2/12/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020 cũng nhấn mạnh: "Bảo vệ môi trường là nhiệm vụ của toàn xã hội,

của các cấp, các ngành, các tổ chức, cộng đồng và của mọi người dân".

Theo Nghị định số 35/HĐBT ngày 28/01/1992 về công tác quản lý
khoa học và công nghệ, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp ngày càng phát triển.
Hiện nay, có hàng trăm đơn vị hội viên thuộc Liên hiệp Các hội Khoa học và Kỹ
thuật Việt Nam và nhiều các trung tâm hoạt động trong lĩnh vực khoa học và
17


công nghệ tại các tỉnh và thành phố. Các hội này nói chung không có hệ thống
tới cơ sở, mà thường là tập hợp các nhà chuyên môn trong một lĩnh vực nhất
định để tiến hành các hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, tư
vấn đào tạo và chuyển giao công nghệ. Cho đến nay, các hội đã đóng góp ý kiến
xây dựng các chính sách, luật pháp về bảo vệ môi trường, như Luật Bảo vệ môi
trường, Kế hoạch hành động đa dạng sinh học, Chiến lược Bảo vệ môi
trường quốc gia,... Đối với một số dự án quan trọng, như Dự án xây dựng Nhà
máy Thủy điện Sơn La, các hội đã được yêu cầu nghiên cứu đóng góp ý kiến
cho báo cáo nghiên cứu khả thi của công trình này, trong đó có phần về đánh giá
tác động môi trường. Nhiều điều kiến nghị đã được các cơ quan có thẩm quyền
xem xét và chấp nhận.

Tuy không có hệ thống tổ chức đến tận cơ sở, nhưng các hội vẫn có thể tổ chức
thực hiện nhiều hoạt động tại các địa phương trong cả nước, thông qua các đề tài
nghiên cứu, các dự án phát triển trong các lĩnh vực sản xuất, xã hội và bảo vệ
môi trường, như Hội Khoa học Kỹ thuật lâm nghiệp Việt Nam trong việc
bảo vệ rừng và các khu bảo tồn thiên nhiên.

Các tổ chức chính trị - xã hội, như Hội Nông dân Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh,... có hệ thống tổ chức
từ Trung ương tới cơ sở, vì vậy có điều kiện và vai trò quan trọng trong việc huy

động hội viên cùng nhân dân địa phương thực hiện nhiều hoạt động bảo vệ môi
trường tại địa phương. Các chương trình lớn của quốc gia có liên quan đến môi
trường, như Chương trình 327 về phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, Chương trình
trồng 5 triệu ha rừng, Chương trình Nước sạch và vệ sinh môi trường nông
thôn,... có thành công hay không, phần quyết định là ở các hoạt động của
cộng đồng ở địa phương.

Các dự án do Chính phủ hoặc các tổ chức quốc tế tài trợ để xây dựng
những mô hình về cải thiện điều kiện sinh hoạt và bảo vệ môi trường chỉ có thể
đạt kết quả tốt, nếu mô hình phù hợp với nhu cầu và đặc điểm của địa phương,
được nhân dân chấp nhận và nhất là sau khi dự án kết thúc, có thể được tiếp tục
nhân rộng, nhằm giải quyết vấn đề trong phạm vi rộng hơn.

18


Cộng đồng địa phương còn có thể đóng góp ý kiến cho các chủ trương, chính
sách của Nhà nước và các dự án đầu tư, nhất là những gì có tác động trực tiếp
tới môi trường, tới sản xuất và đời sống của nhân dân tại đó.

Vì vậy, thực hiện nguyên tắc "Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" là
một trong các biện pháp quan trọng để xã hội hóa công tác bảo vệ môi
trường.

Doanh nghiệp cần thay đổi nhận thức về bảo vệ môi trường nói chung và trong
lĩnh vực thương mại nói riêng, tiến tới thay đổi hành vi của công ty trong quá
trình sản xuất, kinh doanh. Theo đó, các doanh nghiệp cần chú ý những vấn đề
sau:
Thứ nhất: thực hiện đánh giá tác động môi trường. Hầu như các doanh nghiệp
đều thuê dịch vụ tư vấn lập báo cáo vì vậy họ không hiểu tác động môi trường là

gì, nội dung như thế nào, có trách nhiệm gì hay không. Do đó, doanh nghiệp cần
nghiêm túc thực hiện báo cáo đánh giá tác động và cam kết bảo vệ môi trường
khi có kế hoạch triển khai đầu tư dự án. Các công ty cần vận hành liên tục thiết
19


bị khi đi vào sản xuất, tránh tình trạng vận hành đối phó khi có cơ quan quản lý
đến kiểm tra.

Thứ hai: Trong quá trình sản xuất, kinh doanh có nhu cầu sử dụng nước hoặc các
tài nguyên khác để sản xuất, phải làm thủ tục xin cấp phép và xả thải theo quy
định của pháp luật.
Thứ ba: Các doanh nghiệp cần đầu tư đổi mới công nghệ, áp dụng phương pháp
sản xuất sạch để hướng tới sự phát triển bền vững. Công nghệ sạch có thể hiểu là
công nghệ không gây ô nhiễm môi trường hoặc phát thải ít chất gây ô nghiễm.
Tương tự, nhiên liệu sạch có thể hiểu là các nhiên liệu mà khi sử dụng sẽ không
hoặc ít phát thải ra chất gây ô nhiễm môi trường.

2.2.4. Đối với cán bộ, nhà quản lí các cấp
Những cán bộ quản lý các cấp chính là những người có vai trò quyết định đối
với sự phát triển bền vững của xã hội. Tuy nhiên, nhiều cán bộ quản lý còn chưa
thể hiện sự quan tâm đúng mức đến tầm quan trọng của môi trường hoặc còn
xem vấn đề môi trường là yếu tố gây cản trở với quá trình phát triển, với việc
khai thác các nguồn tài nguyên phục vụ cho công cuộc phát triển. Bởi vậy, ở
nhiều ngành khi lập kế hoạch phát triển kinh tế, thì vấn đề môi trường mới chỉ
được coi là nội dung mang tính tham khảo hoặc một nội dung bổ trợ mà
chưa được xem là mục tiêu cần thiết của ngành đó.

20



Do đó, giáo dục thông qua đào tạo cập nhật môi trường là rất cần thiết để họ
phải có trách nhiệm với môi trường mỗi khi cầm bút phê duyệt một dự án phát
triển, một công trình xây dựng hay một quyết định có liên quan tới khai thác tài
nguyên và bảo vệ môi trường.

21


CHƯƠNG 3

Phương pháp tiếp cận- Nguyên tắc Giáo dục môi trường
3.1. Phương pháp tiếp cận
Giáo dục môi trường có nhiều phương thức, được phân chia thành các bộ phận
phù hợp với trình độ nhận thức và tính chất đặc thù của cương vị công tác như:

- Giáo dục môi trường cho cộng đồng còn gọi là nâng cao nhận thức về môi
trường cho cộng đồng được thực hiện chủ yếu thông qua các phương tiện thông
tin đại chúng, các đợt tập huấn ngắn hạn, các hoạt động văn hóa, truyền
thông và các cuộc vận động quần chúng rộng rãi.

- Giáo dục môi trường cho các nhà quản lý các cấp, các cán bộ ra quyết
định được thực hiện bằng nhiều biện pháp phù hợp.

22


- Giáo dục môi trường trong hệ thống giáo dục và đào tạo ở các trường từ
các trường mẫu giáo đến các trường cao đẳng và đại học.


- Đào tạo nhân lực chuyên môn về môi trường, bao gồm công nhân lành nghề,
kỹ thuật viên, kỹ sư, cán bộ nghiên cứu, giảng dạy.

Như vậy, rõ ràng công tác đào tạo và nâng cao nhận thức môi trường cho cộng
đồng đều là những bộ phận vô cùng quan trọng không thể thiếu trong giáo dục
môi trường, thực hiện những mục tiêu chiến lược của giáo dục môi trường.

Kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới cho thấy rằng, giáo dục môi
trường thường được thực hiện theo 3 phương pháp sau đây:
a) Giáo dục về môi trường: xem môi trường là một đối tượng khoa học, người
dạy truyền đạt cho người học các kiến thức của bộ môn khoa học về môi trường,
cũng như phương pháp nghiên cứu về đối tượng đó. Cụ thể là:

- Cung cấp những hiểu biết về hệ thống tự nhiên và hoạt động của nó;

- Cung cấp những hiểu biết tác động của con người tới môi trường.

b) Giáo dục trong môi trường: xem môi trường thiên nhiên hoặc nhân tạo như
một địa bàn, một phương tiện để giảng dạy, học tập, nghiên cứu. Với cách tiếp
cận này, môi trường sẽ trở thành “phòng thí nghiệm thực tế” đa dạng, sinh động
cho người dạy và người học. Xét về hiệu quả học tập kiến thức, kỹ năng, nghiên
cứu có thể hiệu quả rất cao.

c) Giáo dục vì môi trường: truyền đạt kiến thức về bản chất, đặc trưng của môi
trường hình thành thái độ, ứng xử, ý thức trách nhiệm, quan niệm giá trị nhân
cách, đạo đức đúng đắn về môi trường, cung cấp tri thức kỹ năng, phương pháp
23


cần thiết cho những quyết định, hành động bảo vệ môi trường và phát triển bền

vững.

Giáo dục môi trường có hiệu quả nhất khi kết hợp cả 3 cách tiếp cận trên, tức là
giáo dục kiến thức về môi trường trong môi trường cụ thể nhằm hướng đối
tượng giáo dục có hành động vì môi trường.

3.2. Nguyên tắc Giáo dục môi trường
Hội nghị Tbilisi đã thống nhất 6 nguyên tắc của GDMT:
*. Nguyên tắc 1. Coi môi trường là một tổng thể. Xem xét môi trường trên mọi
khía cạnh tự nhiên, nhân tạo, công nghệ và xã hội (kinh tế, kỹ thuật, lịch sử –
văn hóa, đạo đức, thẩm mĩ) như sau:
+ Tự nhiên: Các yếu tố hữu sinh như động, thực vật và các yếu tố vô sinh như
đất, nước, không khí tác động qua lại lẫn nhau trong các hệ thống và thực hiện
các chức năng sinh thái hỗ trợ cho cuộc sống.
+ Xã hội: Những người sống cùng nhau, tác động lẫn nhau và hình thành nên
cách sống với nhiều quy tắc và cách ứng xử văn hóa khác nhau.
+ Kinh tế: Hệ thống có tính bền vững giúp con người có việc làm và có thu nhập
để chi trả cho những nguồn lợi và những dịch vụ con người cần.
+ Chính trị: Môi trường cho phép đóng góp và tác động đến những quyết định
về tiếp cận tài nguyên thiên nhiên, kinh tế và cách thức con người sống cùng
nhau.
Như vậy, cách nhìn nhận vấn đề và tham gia hành động, quản lý môi trường của
con người là trọng tâm quan trọng của mọi hoạt động GDMT.
*. Nguyên tắc 2. GDMT là một quá trình liên tục và lâu dài, bắt đầu từ trước
tuổi đến trường và tiếp tục trong suốt thời kỳ trưởng thành ở tất cả các hệ đào
tạo chính quy và không chính quy.

24



*. Nguyên tắc 3. Phương pháp tiếp cận của GDMT là liên ngành dựa trên cơ sở
nội dung riêng của từng ngành, từng môn học để hình thành những quan điểm
hoàn chỉnh, cân bằng và có tính hệ thống.
*. Nguyên tắc 4. Xem xét những vấn đề môi trường cơ bản trên quan điểm của
cấp địa phương, quốc gia, vùng và toàn cầu để người học có thể đánh giá đúng
về điều kiện môi trường ở những khu vực địa lý khác nhau.
* Nguyên tắc 5. GDMT tập trung vào tình hình môi trường hiện nay và tương
lai có thể xét đến bối cảnh lịch sử.
*. Nguyên tắc 6. Đề cao giá trị và sự cần thiết của việc hợp tác ở cấp địa
phương, quốc gia và quốc tế trong việc phòng chống và giải quyết các vấn đề
môi trường.

CHƯƠNG 4
Các phương thức Giáo dục môi trường
4.1. Phương pháp sử dụng các phương tiện trực quan ( PP trực
quan)
Trong dạy học Địa lí, việc sử dụng các phương tiện trực quan có một ý nghĩa
lớn, bởi vì HS chỉ có thể quan sát được một số các vấn đề về MT trên thực tế,
còn phần lớn các vấn đề MT ở Việt Nam và trên thế giới HS không có điều kiện
quan sát trực tiếp, mà chỉ có thể nhận biết được trên cơ sở các phương tiện trực
quan.
Phương tiện trực quan (PTTQ) trong dạy học Địa lí khá đa dạng, song các
tranh ảnh; băng, đĩa hình có nội dung về MT giúp HS có thể dễ dàng nhận biết
được những vấn đề của MT như hiện tượng ô nhiễm không khí, nguồn nước ;
hiện tượng xói mòn, sạt lở đất…

25



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×