Tải bản đầy đủ (.docx) (97 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa tại xã Văn Khê, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 97 trang )

1

1

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành đồ án tốt nghiệp em đã
nhận được sự quan tâm, giúp đỡ tận tình của nhiều tập thể và cá nhân
Lời đầu tiên em xin bày tỏ lòng biết ơn đến toàn thể thầy giáo, cô giáo giảng
viên khoa Quản lý đất đai - Trường đại học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội đã
tận tình dạy bảo, giúp đỡ và định hướng cho em trong quá trình học tập và hoàn
thành đồ án tốt nghiệp.
Em xin gửi lời cảm ơn tới các anh chị bên chi nhánh văn phòng đăng ký đất
đai huyện Mê Linh, tp. Hà Nội; cán bộ địa chính xã Văn Khê đã tận tình chỉ bảo,
giúp đỡ và cung cấp những số liệu, tài liệu cần thiết và tạo điều kiện thuận lợi nhất
trong quá trình thực tập tốt nghiệp.
Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo Th.S Trần Thị Oanh
người đã định hướng, chỉ bảo, giúp đỡ và dìu dắt em trong quá trình thực tập và
hoàn thành đồ án.
Em xin chân thành cảm ơn đến các bạn bè và người thân đã chỉ bảo, giúp đỡ,
động viên, khích lệ tôi trong suốt thời gian quá trình học tập và tốt nghiệp.
Do thời gian có hạn, cũng như kinh nghiệm còn hạn chế của một sinh viên nên
không tránh khỏi những sai xót trong quá trình thực hiện đồ án.Em rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của thầy cô để em có điều kiện bổ sung, nâng cao kiến
thức của mình phục vụ tốt hơn cho công tác thực tế sau này.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 5 năm 2017
Sinh viên

Lê Thị Ngân

1




2

2

MỤC LỤC

2


3

3

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

3

Chữ viết đầy đủ

GTSX

Giá trị sản xuất

CPTG

Chi phí trung gian


GTGT

Giá trị gia tăng

GTNC

Giá trị ngày công

HQĐV

Hiệu quả đồng vốn

BVTV

Bảo vệ thực vất

CNH – HĐH

Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

FAO

Tổ chức lương thực và nông nghiệpLHQ

LUT


Loại hình sử dụng đất



Lao động

N, P, K

Đạm, lân , kali

NTTS

Nuôi trồng thủy sản

UBND

Ủy ban nhân dân

TTCN

Tiểu thủ công nghiệp


4

4

DANH MỤC BẢNG


4


5

5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng cho
con người. Đất đai là nền tảng để định cư và tổ chức các hoạt động kinh tế xã hội,
nó không chỉ là đối tượng lao động mà còn là tư liệu sản xuất không thể thay thế
được, đặc biệt là đối với sản xuất nông nghiệp. Đất là cơ sở của sản xuất nông
nghiệp, là yếu tố đầu vào có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp,
đồng thời cũng là môi trường duy nhất sản xuất ra lương thực thực phẩm nuôi sống
con người. Việc sử dụng đất có hiệu quả và bền vững đang trở thành vấn đề cấp
thiết với mỗi quốc gia, nhằm duy trì sức sản xuất của đất đai cho hiện tại và cho
tương lai.
Xã hội phát triển, dân số tăng nhanh kéo theo những đòi hỏi ngày càng tăng về
lương thực thực phẩm, chỗ ở cũng như các nhu cầu về văn hóa, xã hội. Con người
đã tìm mọi cách để khai thác đất đai nhằm thỏa mãn những nhu cầu ngày càng tăng
đó. Vậy là đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp có hạn về diện tích nhưng lại có nguy
cơ bị suy thoái dưới tác động của thiên nhiên và sự thiếu ý thức của con người trong
quá trình sản xuất. Đó còn chưa kể đến sự suy giảm về diện tích đất nông nghiệp do
quá trình đô thị hóa đang diễn ra mạnh mẽ, trong khi khả năng khai hoang đất mới
lại rất hạn chế. Do vậy, việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản suất nông nghiệp từ
đó lựa chọn các loại hình sử dụng đất có hiệu quả để sử dụng hợp lý theo quan điểm
sinh thái và phát triển bền vững đang trở thành vấn đề mang tính chất toàn cầu đang
được các nhà khoa học trên thế giới quan tâm. Đối với một nước có nền nông

nghiệp chủ yếu như Việt Nam, nghiên cứu, đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất
nông nghiệp càng trở nên cần thiết hơn bao giờ hết.
Xã Văn Khê là một xã đồng bằng nằm ở phía Đông Nam huyện Mê Linh,
cách trung tâm huyện 3 km, nằm cách trung tâm Hà Nội 20 km về phía Tây Nam,
5


6

6

với tổng diện tích tự nhiên 1327,08 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp của xã là
946,45 ha. Là một xã thuần nông, sản phẩm nông nghiệp chủ yếu là các cây lúa,
ngô, đậu tương và các cây rau màu, cụ thể: Bí xanh, cà chua, hành tây; các loại: Hoa
hồng , hoa cúc. Tuy nhiên sản xuất nông nghiệp của xã còn gặp khó khăn, các sản
phẩm nông sản chưa có đầu ra ổn định, cơ sở hạ tầng còn hạn chế, trình độ dân trí
chưa đáp ứng được với yêu cầu sản xuất, tài nguyên đất đai và nhân lực chưa được
khai thác đầy đủ. Trong những năm gần đây, quá trình đô thị hoá diễn ra nhanh dẫn
đến quỹ đất nông nghiệp và đặc biệt là đất canh tác bị giảm nhiều. Trong khi đó,
dân số gia tăng dẫn đến nhu cầu về lương thực, thực phẩm tăng nhanh tạo ra sức ép
đối với đất canh tác.
Vì vậy việc định hướng cho người dân trong xã khai thác và sử dụng hợp lý,
có hiệu quả đất sản xuất nông nghiệp là một trong những vấn đề hết sức cần thiết để
nâng cao hiệu quả sử dụng đất. Để giải quyết vấn đề này thì việc đánh giá hiệu quả
sử dụng đất nông nghiệp nhằm đề xuất hướng sử dụng đất và loại hình sử dụng đất
thích hợp là việc rất quan trọng.
Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn và nhu cầu sử dụng đất, em tiến hành nghiên cứu đề
tài: “Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
tại xã Văn Khê, huyện Mê Linh, thành phố Hà Nội”
2. Mục đích nghiên cứu đề tài

- Đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất nông nghiệp (LUT) trên địa bàn xã.
- Định hướng các loại hình sử dụng đất theo hướng sản xuất hàng hóa phù hợp với
-

địa phương.
Đề xuất các giải pháp hợp lí nhằm sử dụng đất canh tác có hiệu quả theo hướng sản
xuất hàng hóa.

3. Yêu cầu của đề tài
Đánh giá đúng, khách quan, khoa học và phù hợp với tình hình thực tiễn ở địa
-

phương.
Phải thu thập số liệu một cách chính xác và tin cậy
Các giải pháp đề xuất phải khoa học và có tính khả thi.
Định hướng phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương.
CHƯƠNG 1
6


7

7

TỔNG QUAN VỀ VẦN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Đất đai và vai trò của đất đai trong sản xuất nông nghiệp
1.1.1.1. Khái niệm về đất đai

Đất đai về mặt thuật ngữ khoa học được hiểu theo nghĩa rộng như sau: "đất đai

là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các cấu thành của môi
trường sinh thái ngay trên vỏ dưới bề mặt đó bao gồm: khí hậu, bề mặt, thổ nhưỡng,
dáng địa hình, mặt nước ( hồ, sông, suối, đầm lầy,...). Các lớp trầm tích sát bề mặt
cùng với nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất, tập đoàn thực vật và động vật,
trạng thái định cư của con người, những kết quả của con người trong quá khứ và
hiện tại để lại (san nền, hồ chứa nước hay hệ thống tiêu thoát nước, đường xá, nhà
cửa. ..)" [28].
Theo nguồn gốc phát sinh, nhà khoa học Đocutraiep (1864-1903) người đặt
nền móng đầu tiên cho khoa học đất cho rằng. Đất là một vật thể có lịch sử tự nhiên
hoàn toàn độc lập, là sản phẩm của đá mẹ, khí hậu, sinh vật, địa hình và thời gian.
Đất được xem như một thể sống , nó luôn vận động, biến đổi và phát triển.
Theo C.Mác:” Đất là tư liệu sản xuất cơ bản và phổ biến quý báu nhất của sản
xuất nông nghiệp là điều kiện không thể thiếu được của sự tồn tại và tái sinh của
hàng loạt thế hệ loài người kế tiếp nhau”
Như vậy, "đất đai" là khoảng không gian có giới hạn, theo chiều thẳng đứng
(gồm khí hậu của bầu khí quyển, lớp đất phủ bề mặt, thảm thực vật, động vật, diện
tích nước, tài nguyên nước ngầm và khóang sản trong lòng đất ), theo chiều nằm
ngang trên mặt đất ( là sự kết hợp giữa thổ nhưỡng, đại hình, thuỷ văn,thảm thực vật
cùng các thành phần khác ) giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với hoạt
động sản xuất cũng như cuộc sống của xã hội loài người [28].

7


8

8




Khái niệm đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp là đất sử dụng vào mục đích sản xuất, nghiên cứu, thí nghiệm
về nông nghiệp, lâm nghiệm, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối và mục đích bảo vệ,
phát triển rừng; bao gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng
thủy sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khác [29].

1.1.1.2. Vai trò của đất đai

Đất đai là một trong những nguồn lực quan trọng trong các nghành sản xuất.
Nói về tầm quan trọng của đất C.Mác viết;”Đất là 1 phòng thí nghiệm vĩ đại, kho
tàng cung cấp các tư liệu lao động, vật chất, là vị trí để định cư, là nền tảng của tập
thể” (C.Mác 1949).
Đối với nông nghiệp đất đai là yếu tố tích cực của quá trình sản xuất là điều
kiện sản xuất đồng thời là đối tượng lao động ( luôn chịu tác động trong quá trình
sản xuất như: cày bừa, xới,…) và là tư liệu sản xuất hay công cụ lao động ( sử dụng

-

đất để trồng trọt, chăn nuôi,…).
Ngoài vai trò là cơ sở không gian đất còn có 2 chức năng đặc biệt quan trọng:
Là đối tượng chịu tác động trực tiếp của con người trong quá trình sản xuất.
Đất tham gia tích cực vào quá trình sản xuất, cung cấp cho cây trồng muối khoáng,
không khí và các chất dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng. Như vậy, đất trở thành
công cụ sản xuất. Năng suất cây trồng và chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào độ phì
nhiêu của đất. Trong tất cả các tư liệu sản xuất dùng trong nông nghiệp chỉ có đất
mới có chức năng này. Vì vậy có thể nói đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt
trong nông nghiệp.

1.1.2. Sử dụng đất nông nghiệp bền vững
1.1.2.1 . Khái quát về sử dụng đất bền vững


Sử dụng đất bền vững là nhu cầu cấp bách của nhà nước ta cũng như nhiều
nước trên thế giới. Nhưng hiện tại lũ lụt, sa mạc hóa, diện tích đất trống đồi núi trọc
ngày càng tăng là nguyên nhân của việc sử dụng đất kém bền vững làm cho môi
trường tự nhiên ngày càng suy thoái.
Khái niệm bền vững được nhiều nha khoa học trên thế giới và trong nước nêu
ra và hướng vào 3 yêu cầu sau:
8


9

9

-

Bền vững về mặt kinh tế: Cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, được thị trường chấp

-

nhận
Bền vững về mặt môi trường: Loại hình sử dụng đất phải bảo vệ được đất đai, ngặn
chặn sự thoái hóa đất, bảo vệ được môi trường tự nhiên.

- Bền vững về mặt xã hội: Thu hút được lao động, đảm bảo được đời sống xã hội.
1.1.2.2 Nguyên tắc sử dụng đất nông nghiệp bền vững

Đất đai là nguồn tài nguyên có hạn trong khi đó nhu cầu của con người về các
sản phẩm được lấy từ đất ngày càng tăng. Mặt khác đất nông nghiệp ngày càng bị
thu hẹp do bị trưng dụng sang các mục đích khác. Vì vậy, sử dụng đất nông nghiệp

ở nước ta cần hướng tới mục tiêu nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội trên cơ sở đảm
bảo an ninh lương thực, thực phẩm, tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp và
hướng tới xuất khẩu. Sử dụng đất nông nghiệp dựa trên cơ sở cân nhắc những mục
tiêu phát triển kinh tế xã hội, tận dụng được tối đa lợi thế so sánh về điều kiện sinh
thái và không làm ảnh hưởng xấu đến môi trường là những nguyên tắc cơ bản và
cần thiết để đảm bảo cho khai thác và sử dụng bền vững tài nguyên đất đai. Do đó
đất nông nghiệp cần được sử dụng theo nguyên tắc “đầy đủ và hợp lý”[8].
Ngoài ra cần phải có các quan điểm đúng đắn theo xu hướng tiến bộ phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, làm cơ sở thực hiện sử dụng đất nông nghiệp có
hiệu quả kinh tế – xã hội cao. Thực hiện sử dụng đất nông nghiệp “đầy đủ và hợp
lý” là cần thiết vì:
- Sử dụng đất nông nghiệp hợp lý sẽ làm tăng nhanh khối lượng nông sản trên
1 đơn vị diện tích, xây dựng cơ cấu cây trồng, chế độ bón phân hợp lý góp phần bảo
vệ độ phì đất.
- Sử dụng đất nông nghiệp đầy đủ và hợp lý là tiền đề để sử dụng có hiệu quả
cao các nguồn tài nguyên khác, từ đó nâng cao đời sống của nông dân.
- Sử dụng đầy đủ và hợp lý đất nông nghiệp trong cơ chế kinh tế thị trường
cần phải xét đến tính quy luật của nó, gắn với các chính sách vĩ mô nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và phát triển nền nông nghiệp bền vững [21].
1.1.2.3 . Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp bền vững

Theo FAO, nông nghiệp bền vững bao gồm quản lý hiệu quả tài nguyên cho
nông nghiệp ( đất đai, lao động... ) để đáp ứng nhu cầu cuộc sống của con người
đồng thời giữ gìn và cải thiện tài nguyên thiên nhiên, môi trường và bảo vệ tài
nguyên. Hệ thống nông nghiệp bền vững phải có hiệu quả kinh tế, đáp ứng nhu cầu
9


10


10

xã hội về an ninh lương thực, đồng thời giữ gìn và cải thiện môi trường tài nguyên
cho đời sau.
∗ Bền vững thường có ba thành phần cơ bản:
Bền vững về an ninh lương thực trong thời gian dài trên cơ sở hệ thống nông
-

nghiệp phù hợp điều kiện sinh thái và không tổn hại môi trường.
Bền vững về tổ chức quản lý, hệ thống nông nghiệp phù hợp trong mối quan hệ con
người hiện tại và cả cho đời sau.
Bền vững thể hiện ở tính cộng đồng trong hệ thống nông nghiệp hợp lý.
Thuật ngữ “sử dụng đất bền vững” được dựa trên các quan điểm sau:
- Duy trì và nâng cao các hoạt động sản xuất.
- Giảm thiểu mức rủi ro trong sản xuất.
- Bảo vệ tài nguyên tự nhiên và ngăn chặn sự thoái hóa đất và nước.
- Có hiệu quả lâu bền.
- Được xã hội chấp nhận [16].
Năm nguyên tắc trên là cốt lõi của việc sử dụng đất đai bền vững, nếu sử
dụng đất đai đảm bảo các nguyên tắc trên thì đất đai được bảo vệ cho phát triển
nông nghiệp bền vững.
“Nông nghiệp bền vững” đã được nhiều tác giả thừa nhận là: một cách triết lý
và tiếp cận về việc sử dụng đất tạo ra mối liên kết chặt chẽ giữa tiểu khí hậu, cây
hàng năm, cây lâu năm, súc vật, đất, nước và những nhu cầu của con người, xây
dựng một cộng đồng chặt chẽ và có hiệu quả.
Mục đích của nông nghiệp bền vững là kiến tạo một hệ thống bền vững về
mặt sinh thái, có tiềm lực về mặt kinh tế, có khả năng thoả mãn nhu cầu của con người
mà không làm hủy diệt đất đai, không làm ô nhiễm môi trường [14].
Phát triển nông nghiệp bền vững sẽ vừa đáp ứng nhu cầu của hiện tại, vừa đảm
bảo nhu cầu của các thế hệ tương lai [ 5].

Một quan niệm khác cho rằng: Phát triển nông nghiệp bền vững là sự quản lý
và bảo tồn sự thay đổi về tổ chức và kỹ thuật nhằm đảm bảo thoả mãn nhu cầu ngày
càng tăng của con người cả cho hiện tại và mai sau. Để phát triển nông nghiệp bền
vững ở nước ta cần nắm vững mục tiêu về tác dụng lâu bền của từng mô hình, để
duy trì và phát triển đa dạng sinh học.

1.1.3. Vai trò của nghành nông nghiệp
1.1.3.1. Vai trò của nghành nông nghiệp trong nền kinh tế

Nông nghiệp là ngành sản xuất giữ vị trí hết sức quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân của mọi quốc gia - cho dù quốc gia đó là nước có nền kinh tế phát triển
10


11

11

hay đang phát triển. Sở dĩ như vậy vì nông nghiệp là ngành sản xuất và cung cấp
cho con người những sản phẩm tối cần thiết của cuộc sống, đó là lương thực và thực
phẩm - những sản phẩm mà với trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật ngày nay,
chưa một ngành sản xuất nào có thể thay thế được. Lương thực, thực phẩm là yếu tố
đầu tiên của sự tồn tạivà phát triển kinh tế - xã hội của mỗi đất nước.
Xã hội càng phát triển, đời sống của con người càng được nâng cao thì nhu
cầu của con người về lương thực và thực phẩm cũng ngày càng tăng về cả số lượng,
chất lượng và chủng loại. Sự gia tăng này do hai yếu tố:
- Do sự tăng lên không ngừng của dân số.
- Do sự tăng lên của nhu cầu bản thân từng con người.
Chỉ có một nền nông nghiệp phát triển ở trình độ cao mới có hy vọng đáp ứng
được những nhu cầu tăng lên thường xuyên đó.

Nông nghiệp giữ vai trò quan trọng trong việc cung cấp các yếu tố đầu vào
cho ngành công nghiệp. Đây cũng là xu hướng có tính quy luật của mọi quốc gia
trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Nhưng ngược lại nông
nghiệp và nông thôn lại là thị trường tiêu thụ rộng lớn của công nghiệp. Ở hầu hết
các nước đang phát triển, sản phẩm công nghiệp bao gồm tư liệu sản xuất và tư liệu
tiêu dùng, chủ yếu dựa vào thị trường trong nước mà trước hết là khu vực nông
nghiệp và nông thôn. Sự thay đổi về cầu trong khu vực nông nghiệp và nông thôn sẽ
có tác động trực tiếp tới sản xuất ở khu vực phi nông nghiệp. Phát triển mạnh mẽ
nông nghiệp cũng như tại các khu dân cư nông thôn là điều kiện hết sức quan trọng
làm tăng nhu cầu đối với các sản phẩm công nghiệp - tạo điều kiện nhanh cho
ngành công nghiệp phát triển giúp cho đất nước phát triển toàn diện [12].
Sản xuất nông nghiệp là một hoạt động kinh tế không thể thiếu của mỗi quốc
gia trên thế giới, dù ít hay nhiều là nước phát triển hay đang phát triển thì nông
nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế.
1.1.3.2. Vai trò của nghành nông nghiệp trong nền kinh tế thị trường
* Nền kinh tế nông nghiệp theo định hướng XHCN
Từ Đại hội lần thứ VI (12/1986), Đảng ta đã xác định nền kinh tế nước ta phải
chuyển hẳn từ kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Sự chuyển đổi này có ý nghĩa rất lớn cả

11


12

12

về lý luận và thực tiễn. Đảng ta đòi hỏi hệ thống kinh tế nông nghiệp phải phát triển
theo định hướng mới, phù hợp với quy luật kinh tế và xu thế chung của thời đại.
Nét đặc trưng cơ bản của nền kinh tế theo định hướng XHCN là hệ thống kinh

tế mang tính hỗn hợp, đa dạng và đan xen của nhiều hình thức sở hữu, nhiều khu
vực sản xuất và dịch vụ, nhiều thành phần kinh tế cùng bình đẳng tồn tại và phát
triển trong mối quan hệ hợp tác và liên kết, cạnh tranh phù hợp với pháp luật Nhà
nước và được pháp luật bảo vệ, trong đó sở hữu Nhà nước, thành phần kinh tế Nhà
nước là lực lượng định hướng XHCN chủ yếu của hệ thống. Dưới sự quản lý vĩ mô
của Nhà nước, nền kinh tế nông nghiệp nhiều thành phần phát triển trong sự chi
phối ngày càng hoàn hảo của cơ chế thị trường. Thị trường và cơ chế thị trường
ngày càng đóng vai trò quyết định trong việc phân phối các tài nguyên quốc gia vào
sản xuất nhằm thúc đẩy sự hài hòa giữ sản xuất và nhu cầu của các hàng hóa.
Nền kinh tế thị trường ra đời đối với ngành nông nghiệp đã làm nảy sinh mối
quan hệ cung cầu trên thị trường. Đối với sản xuất nông nghiệp thì khả năng “cung”
cho thị trường là các loại nông sản phẩm còn “cầu” cho nông nghiệp là các yếu tố
đầu vào như giống, lao động phân bón, thuốc trừ sâu....Hiện nay, nếu chủ hộ không
chuyên môn hoá cao trong việc sản xuất kinh doanh, không thay đổi cơ cấu giống
và thâm canh tăng vụ thì kết quả sản xuất cũng chỉ để thoả mãn nhu cầu của mình
mà không có sản phẩm đem ra bán ở thị trường, hoặc sản phẩm không đáp ứng
được nhu cầu của thị trường và sẽ không có tích luỹ để đề phòng rủi ro. Trong sản
xuất hàng hoá rủi ro về thị trường luôn là mối lo ngại nhất của người sản xuất.
* Vai trò của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế thi trường theo định hướng
XHCN
Ngoài những ý nghĩa to lớn của ngành nông nghiệp trong nền kinh tế thì đối
với nền kinh tế như nước ta (nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo
định hướng XHCN) ngành nông nghiệp còn có những vài trò quan trọng như:
Việc phát triển sản xuất hàng hóa, mở rộng quan hệ hàng hóa - tiền tệ trong
lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn có ý nghĩa to lớn về kinh tế xã hội:
Thúc đẩy nhanh chóng quá trình phân công lao động xã hội trong nông
nghiệp, nông thôn góp phần chuyển nền nông nghiệp từ độc canh lương thực sang
phát triển toàn diện trên cơ sở chuyên môn hóa kết hợp với kinh doanh tổng hợp,
12



13

13

tạo ra những vùng chuyên môn hóa tập trung, góp phần chuyển dịch kinh tế nông
nghiệp, nông thôn hợp lý.
Thúc đẩy việc khai thác và sử dụng có hiệu quả các tiềm năng và lợi thế của
từng vùng, từng điạ phương, từng chủ thể kinh doanh để tạo ra nhiều nông sản trao
đổi trên thị trường, thu lợi nhuận cao.
Kích thích các đơn vị sản xuất kinh doanh áp dụng tiến khoa học kỹ thuật, đổi
mới công nghệ, đầu tư vốn và lao động hợp lý, tiết kiệm để đạt được năng suất, chất
lượng và hiệu quả kinh tế cao, nhất là trong việc sản xuất các loại nông sản hàng
hóa.
Thông qua quan hệ canh tranh và hợp tác, quan hệ trao đổi bình đẳng giữa các
đơn vị sản xuất kinh doanh, giữa các ngành, các vùng trong nước và nước ngoài làm
cho trình độ xã hội hóa ngày càng được mở rộng.
Việc phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, nông thôn tạo ra nhiều
tiền đề vật chất khách quan và cơ sở kinh tế cho nông nghiệp đáp ứng được nhu cầu
nhiều mặt của xã hội [12].
Đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong nông nghiệp (sở hữu nhà nước, sở
hữu tập thể, sở hữu tư nhân) thúc đẩy kinh tế nông nghiệp phát triển theo hướng
cạnh tranh giúp cho số lượng cũng như chất lượng sản phẩm nông nghiệp không
ngừng được tăng lên. Điều này rất có lợi khi nông sản nước ta có thể cạnh tranh với
nông sản các nước trên thương trường quốc tế.
Tương ứng với các hình thức sở hữu trên sẽ hình thành và phát triển nhiều
hình thức tổ chức kinh doanh đa dạng và năng động. Trong các hình thức tổ chức
sản xuất phát triển đa dạng đó thì các nông hộ và các trạng trại nông, lâm, thủy sản
được xác định là những đơn vị kinh tế tự chủ, đơn vị cơ sở của kinh tế nông nghiệp
nhiều thành phần. Thông qua những đơn vị kinh tế cơ sở này Nhà nước sẽ triển khai

những chương trình phát triển ngành nông nghiệp, giúp cho kinh tế vùng nông thôn
được cải thiện. Làm giảm sự chênh lệch về kinh tế giữa khu vực thành thị và nông
thôn.
Các chủ thể kinh tế trong ngành nông nghiệp đều có thể tự do kinh doanh
theo pháp luật. Các thành phần kinh tế vừa cạnh tranh vùa liên kết hợp tác giúp cho
trình độ xã hội hóa được nâng cao, dần giúp cho người dân ở nông thôn tiếp cận
được với khoa học công nghệ làm tăng năng suất, chất lượng nông sản.
13


14

14

1.1.4. Loại hình sử dụng đất, phương pháp đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông

nghiệp
1.1.4.1. Khái niệm về loại hình sử dụng đất
Loại hình sử dụng đất là bức tranh mô tả thực trạng sử dụng đất của một vùng
đất với những phương thức quản lý sản xuất trong các điều kiện kinh tế xã hội và kỹ
thuật được xác định [15].
Những loại hình sử dụng đất này có thể hiểu theo nghĩa rộng là các loại hình
sử dụng đất chính (Major type of land use ), hoặc có thể được mô tả chi tiết hơn với
khái niệm là các loại hình sử dụng đất (Land use type, LUT ).


Loại hình sử dụng đất chính: Là sự phân nhỏ của sử dụng đất trong khu vực hoặc
vùng nông lâm nghiệp, chủ yếu dựa trên cơ sở sản xuất các cây trồng hàng năm, lâu
năm, lúa . đồng cỏ, rừng [15].
Tuy nhiên trong đánh giá đất (LE), nếu chỉ xem xét việc sử dụng đất qua các

loại hình sử dụng đất chính thì chưa đủ, vì chúng chưa phản ánh được:

-

Những loại cây trồng hay giống loài cây gì được trồng? Điều này rất quan trọng vì

-

mỗi loài, giống cây khác nhau sẽ đòi hỏi điều kiện đất đai khác nhau.
Các loại phân bón được dung đã đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của các loại cây trồng
chưa? Đôi khi việc sử dụng phân bón không hợp lý còn làm giảm độ phì đất hoặc
ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của việc sử dụng đất đó.
Để trả lời được những vấn đề trên, cần phải có những mô tả chi tiết hơn trong
việc sử dụng đất, vì vậy một khái niệm “Loại hình sử dụng đất” (LUT) được đề cập
đến trong LE.



Loại hình sử dụng đất (Land use type – LUT): Là loại hình đặc biệt của sử dụng đất
được mô tả theo các thuộc tính nhất định [23]. Theo H.Hulzing (1993) các thuộc

-

tính đó bao gồm:
Thuộc tính sinh học: Các sản phẩm và lợi ích khác.
Thuộc tính kinh tế - xã hội: Định hướng thị trường, khả năng vốn, khả năng lao

-

động, kỹ thuật, kiến thức và quan điểm.

Thuộc tính kỹ thuật và quản lý: Sở hữu đất đai và quy mô quản lý đất đai; sức kéo/
cơ giới hóa; các đặc điểm trồng trọt, đầu tư vật tư, công nghệ được sử dụng, năng
suất và sản lượng; thông tin kinh tế cáo liên quan đến đầu vào và đầu ra.
14


15

15
-

Thuộc tính về cơ sở hạ tầng: Các yêu cầu về hạ tầng cơ sở.
Không phải tất cả các thuộc tính trên đều được đề cập đến như nhau trong các
dự án LE mà việc lựa chọn các thuộc tính và mức độ mô tả chi tiết phụ thuộc và
tình hình sử dụng đất của địa phương như cấp độ, yêu cầu chi tiết và mục tiêu của
mỗi dự án LE khác.

15


16

16
1.1.4.2. Khái quát hiệu quả sử dụng đất

Có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả. Nói một cách tổng chung nhất thì
hiệu quả chính là kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại [21].
Hiệu quả là kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ đợi
hướng tới; nó có những nội dung khác nhau. Trong sản xuất, hiệu quả có nghĩa là
hiệu suất, là năng suất. Trong kinh doanh, hiệu quả là lãi suất, lợi nhuận. Trong lao

động nói chung, hiệu quả là năng suất lao động được đánh giá bằng số lượng thời
gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, hoặc bằng số lượng sản phẩm
được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian [2].
Kết quả, mà là kết quả hữu ích là một đại lượng vật chất tạo ra do mục đích của
con người, được biểu hiện bằng những chỉ tiêu cụ thể, xác định. Do tính chất mâu
thuẫn giữa nguồn tài nguyên hữu hạn với nhu cầu tăng lên của con người mà ta phải
xem xét kết quả đó được tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ ra bao nhiêu? Có đưa lại kết
quả hữu ích hay không? Chính vì vậy khi đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh
doanh không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả mà phải đánh giá chất lượng hoạt
động tạo ra sản phẩm đó. Đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh là nội
dung của đánh giá hiệu quả [21].
Từ những khái niệm chung về hiệu quả, ta xem xét trong lĩnh vực sử dụng đất
thì hiệu quả là chỉ tiêu chất lượng đánh giá kết quả sử dụng đất trong hoạt động kinh
tế, thể hiện qua lượng sản phẩm, lượng giá trị thu được bằng tiền. Đồng thời về mặt
hiệu quả xã hội là thể hiện mức thu hút lao động trong quá trình hoạt động kinh tế
để khai thác sử dụng đất. Riêng đối với ngành nông nghiệp, cùng với hiệu quả kinh
tế về giá trị và hiệu quả về mặt sử dụng lao động trong nhiều trường hợp phải coi
trọng hiệu quả về mặt hiện vật là sản lượng nông sản thu hoạch được, nhất là các
loại nông sản cơ bản có ý nghĩa chiến lược (lương thực, sản phẩm xuất khẩu…) để
đảm bảo sự ổn định về kinh tế - xã hội đất nước.
Như vậy, hiệu quả sử dụng đất là kết quả của cả một hệ thống các biện pháp
tổ chức sản xuất, khoa học, kỹ thuật, quản lý kinh tế và phát huy các lợi thế, khắc
phục các khó khăn khách quan của điều kiện tự nhiên, trong những hoàn cảnh cụ
thể còn gắn sản xuất nông nghiệp với các ngành khác của nền kinh tế quốc dân, gắn
sản xuất trong nước với thị trường quốc tế [2].
16


17


17

Sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ cấu cây
trồng vật nuôi là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của hầu hết các nước
trên thế giới. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà
hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp mà còn là mong muốn của
nông dân - những người trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp [21].
Hiện nay, các nhà khoa học đều cho rằng, vấn đề đánh giá hiệu quả sử dụng
đất không chỉ xem xét đơn thuần ở một mặt hay một khía cạnh nào đó mà phải xem
xét trên tổng thể các mặt bao gồm: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả
môi trường.
∗ Hiệu quả kinh tế
Theo Các Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể là quy
luật tiết kiệm thời gian và phân phối có kế hoạch thời gian lao động theo các ngành
sản xuất khác nhau. Theo nhà kinh tế Samuel – Nordhuas thì “Hiệu quả là không
lãng phí”. Theo các nhà khoa học Đức (Stienier, Hanau, Rusteruyer, Simmerman)
hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết
quả hữu ích và mức tăng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một
thời kỳ, góp phần làm tăng thêm lợi ích cho xã hội [21].
Hiệu quả kinh tế là một phạm trù chung nhất, nó liên quan trực tiếp tới nền sản
xuất hàng hoá và với tất cả các phạm trù. Nó được thể hiện bằng hệ thống các chỉ
tiêu nhằm phản ánh các mục tiêu cụ thể của các cơ sở sản xuất phù hợp với yêu cầu
của xã hội và được xác định bằng cách so sánh kết quả thu được với chi phí bỏ ra.
Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu phản ánh trình độ và chất lượng sử dụng các yếu tố của
sản xuất - kinh doanh nhằm đạt được kết quả kinh tế tối đa với chi phí tối thiểu [8].
Tuy nhiên trong khái niệm hiệu quả kinh tế chỉ hoàn thiện khi mà trong đó
sản xuất đạt được hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân phối.
Hiệu quả kỹ thuật: phản ánh một giá trị sản phẩm thu được trên một đơn vị
chi phí đầu vào.
Hiệu quả phân phối: phản ánh bằng giả trị sản phẩm tăng thêm trên một chi

phí tăng thêm.
Có nghĩa cả hai yếu tố: giá trị sản phẩm/1 đơn vị chi phí cao và giá trị sản
phẩm tăng thêm /1 đơn vị chi phí tăng thêm cao. Hiệu quả kinh tế được quan tâm

17


18

18

hàng đầu là khâu trung tâm để đạt được các loại hiệu quả khác.Thể hiện bằng các
chỉ tiêu kinh tế, tài chính [10].
Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng: Bản chất của phạm trù kinh tế sử
dụng đất là “với một diện tích đất đai nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải
vật chất nhiều nhất với một lượng chi phí về vật chất và lao động thấp nhằm đáp


ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội".
Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã hội và
tổng chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ mật thiết với
nhau và là một phạm trù thống nhất. Theo Nguyễn Duy Tính, hiệu quả về mặt xã
hội của sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác định bằng khả năng tạo việc làm
trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp.
Hiệu quả xã hội được thể hiện thông qua mức thu hút lao động, thu nhập của
nhân dân... Hiệu quả xã hội cao góp phần thúc đẩy xã hội phát triển, phát huy được
nguồn lực của địa phương, nâng cao mức sống của nhân dân. Sử dụng đất phải phù

hợp với tập quán, nền văn hoá của địa phương thì việc sử dụng đất bền vững hơn.

∗ Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường được thể hiện ở chỗ: Loại hình sử dụng đất phải bảo vệ
được độ màu mỡ của đất đai, ngăn chặn được sự thoái hoá đất bảo vệ môi trường
sinh thái. Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái (>35%) đa dạng
sinh học biểu hiện qua thành phần loài [21].
Trong thực tế, tác động của môi trường sinh thái diễn ra rất phức tạp và theo
chiều hướng khác nhau. Cây trồng phát triển tốt khi phù hợp với đặc tính, tính chất
của đất. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất dưới tác động của các hoạt động sản
xuất, phương thức quản lý của con người, hệ thống cây trồng sẽ tạo nên những ảnh
hưởng rất khác nhau đến môi trường.
Hiệu quả môi trường được phân ra theo nguyên nhân gây nên, gồm: hiệu quả
hoá học, hiệu quả vật lý và hiệu quả sinh học môi trường.
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả hoá học môi trường được đánh giá
thông qua mức độ sử dụng các chất hoá học trong nông nghiệp. Đó là việc sử dụng
phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình sản xuất đảm bảo cho cây trồng
sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao và không gây ô nhiễm môi trường.
18


19

19

Hiệu quả sinh học môi trường được thể hiện qua mối tác động qua lại giữa
cây trồng với đất, giữa cây trồng với các loại dịch hại nhằm giảm thiểu việc sử dụng
hoá chất trong nông nghiệp mà vẫn đạt được mục tiêu đề ra.
Hiệu quả vật lý môi trường được thể hiện thông qua việc lợi dụng tốt nhất tài
nguyên khí hậu như ánh sáng, nhiệt độ, nước mưa của các kiểu sử dụng đất để đạt
được sản lượng cao và tiết kiệm chi phí đầu vào.
1.1.4.3. Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp

- Cơ sở để lựa chọn hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất

nông nghiệp:
+ Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
+ Nhu cầu của địa phương về phát triển hoặc thay đổi loại hình sử dụng đất
-

nông nghiệp.
Nguyên tắc khi lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp:
+ Hệ thống chỉ tiêu phải có tính thống nhất, tính toàn diện và tính hệ thống.
Các chỉ tiêu phải có mối quan hệ hữu cơ với nhau, phải đảm bảo tính so sánh có
thang bậc. [11], [19].
+ Để đánh giá chính xác, toàn diện cần phải xác định các chỉ tiêu cơ bản biểu
hiện hiệu quả một cách khách quan, chân thật và đúng đắn theo quan điểm và tiêu
chuẩn đã chọn, các chỉ tiêu bổ sung để hiệu chỉnh chỉ tiêu cơ bản, làm cho nội dung
kinh tế biểu hiện đầy đủ hơn, cụ thể hơn. [18], [20].
+ Các chỉ tiêu phải phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển nông nghiệp ở
nước ta, đồng thời có khả năng so sánh quốc tế trong quan hệ đối ngoại, nhất là
những sản phẩm có khả năng hướng tới xuất khẩu. [27].
+ Hệ thống chỉ tiêu phải đảm bảo tính thực tiễn và tính khoa học [27]. và phải

-

có tác dụng kích thích sản xuất phát triển.
Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp:
Bản chất của hiệu quả là mối quan hệ giữa kết quả và chi phí. Mối quan hệ
này có thể là quan hệ hiệu số hoặc quan hệ thương số nên dạng tổng quát của hệ
thống chỉ tiêu hiệu quả:
H=K–C


H= (K-C)/C

H = K/C

H = (K1-K0)/(C1-C0)

Trong đó:
H: hiệu quả; K: Kết quả; C: Chi phí; 1 và 0 là chỉ số về thời gian(năm)
19


20


20

Hiệu quả kinh tế
- Hiệu quả tính trên 1 ha đất nông nghiệp.
+ Giá trị sản xuất (GTSX): Là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ
được tạo ra trong một kỳ nhất định (thường là một năm).
+ Chi phí trung gian (CPTG): Là toàn bộ các khoản chi phí vật chất thường
xuyên bằng tiền mà chủ thể bỏ ra để thuê và mua các yếu tố đầu vào và dịch vụ sử
dụng trong quá trình sản xuất.
+ Giá trị gia tăng (GTGT): Là hiệu số giữa GTSX và chi phí trung gian
(CPTG), là giá trị sản phẩm xã hội được tạo ra thêm trong thời kỳ sản xuất đó.
GTGT= GTSX - CPTG
- Hiệu quả kinh tế tính trên một đồng CPTG, bao gồm GTSX/CPTG và
GTGT/CPTG đây là chỉ tiêu tương đối của hiệu quả. Nó chỉ ra hiệu quả sử dụng các
chi phí biến đổi và thu dịch vụ.

- Hiệu quả kinh tế trên một ngày công lao động (LĐ) quy đổi ra GTGT/LĐ.
Thực chất là đánh giá kết quả đầu tư lao động sống cho từng kiểu sử dụng đất và

từng cây trồng, làm cơ sở để so sánh với chi phí cơ hội của người lao động.
∗ Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả xã hội
Theo hội khoa học đất Việt Nam (2000) [9], hiệu quả xã hội được phân tích


bởi các chỉ tiêu sau:
Đảm bảo an toàn lương thực, gia tăng lợi ích của người nông dân.
Đáp ứng được mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế của vùng.
Thu hút nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm cho nông dân.
Góp phần định canh, định cư, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật...
Tăng cường sản phẩm hàng hoá, đặc biệt là hàng xuất khẩu.
Các chỉ tiêu hiệu quả môi trường
Theo Đỗ Nguyên Hải, chỉ tiêu đánh giá chất lượng môi trường trong quản lý

-

sử dụng đất bền vững ở vùng nông nghiệp được tưới là:
Quản lý đối với đất đai rừng đầu nguồn;
Đánh giá các tài nguyên nước bền vững;
Đánh giá quản lý đất đai;
Đánh giá hệ thống cây trồng;
Đánh giá về tính bền vững đối với việc duy trì độ phì nhiêu của đất và bảo vệ cây

-

trồng;
Đánh giá về quản lý và bảo vệ tự nhiên;

Sự thích hợp của môi trường đất khi thay đổi kiểu sử dụng đất.

20


21

21

Việc xác định hiệu quả về mặt môi trường của quá trình sử dụng đất nông
nghiệp là rất phức tạp, rất khó định lượng, đòi hỏi phải được nghiên cứu, phân tích
-

trong thời gian dài. Vì vậy, đề tài của em chỉ dừng lại ở việc đánh giá:
Mức độ thích hợp của hệ thống cây trồng đối với đất ( tỷ lệ các loại cây trồng có

-

khả năng cải tạo đất và bảo vệ đất )
Mức đầu tư phân bón ( đánh giá mức đầu tư phân bón vô cơ và hữu cơ)
Mức đầu tư TBVTV ( đánh giá mức đầu tư TBVTV có nguồn gốc hoá học và
TBVTV có nguồn gốc sinh học).

21


22

22


1.1.5. Sử dụng đất nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa
1.1.5.1. Cơ sở lý luận của sản xuất nông nghiệp hàng hóa

Nông nghiệp là một hoạt động sản xuất mang tính chất cơ bản của mỗi quốc
gia [13]. Nhiều nước trên thế giới có nền kinh tế phát triển, tỉ trọng của sản xuất
công nghiệp và dịch vụ trong thu nhập quốc dân chiếm phần lớn, nông nghiệp chỉ
chiếm một phần nhỏ, nhưng những khó khăn, trở ngại trong nông nghiệp đã gây ra
không ít những xáo động trong đời sống xã hội và ảnh hưởng sâu sắc đến tốc độ
tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế nói chung [8]. Để nông nghiệp có thể thực
hiện vai trò quan trọng của mình đối với nền kinh tế quốc dân đòi hỏi nông nghiệp
phát triển toàn diện, mạnh mẽ và vững chắc.
Sản xuất hàng hóa là một tất yếu khách quan, là thuộc tính cơ bản và mang
tính phổ biến của nền nông nghiệp phát triển. Nghiên cứu sự tiến triển của nền nông
nghiệp, nhiều nhà kinh tế đã chia quá trình phát triển sản xuất nông nghiệp ra ba
giai đoạn: nông nghiệp tự cung tự cấp, nông nghiệp đa dạng hóa, nông nghiệp
chuyên môn hóa cao.
Giai đoạn nông nghiệp tự cung tự cấp: Sản xuất nông nghiệp chỉ phục phụ
cho nhu cầu của chính mình, sản xuất hoàn toàn dựa vào tự nhiên, quy mô nhỏ độ
rủi ro cao, chưa có sản phẩm hàng hóa.
Giai đoạn đa dạng hóa sản xuất: Chủng loại cây trồng vật nuôi đã phong phú
hơn, hạn chế được tình trạng bấp bênh, sản phẩm nông nghiệp một phần tiêu dùng
cho gia đình, một phần để trao đổi, từ giai đoạn này đã có hàng hóa nông sản.
Giai đoạn ba: Nông nghiệp được chuyển sang sản xuất chuyên môn hóa, sử
dụng máy móc, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, khối lượng sản phẩm lớn
năng suất lao động cao, sản phẩm sản xuất hoàn toàn cho thị trường [14].
Theo ông Mazoyer giáo sư trường đại học Pháp - người chuyên nghiên cứu
sâu về hệ thống nông nghiệp trên thế giới thì chỉ có tiến lên hệ thống canh tác thâm
canh cơ giới hóa vốn đầu tư lớn, khả năng đảm nhận diện tích lớn thì mới có năng
suất lao động và thu nhập cao, sản phẩm hàng hóa tạo ra nhiều. Điều đó chứng tỏ
rằng chỉ khi nào thực hiện công nghiệp hóa, sản xuất trên một cơ sở vật chất kỹ

thuật hiện đại, tư liệu sản xuất bằng máy móc mới đưa lại năng suất lao động cao,
có lượng hàng hóa lớn để bán, khi đó mới thúc đẩy nền sản xuất phát triển [14].

22


23

23

Trong lĩnh vực nông nghiệp, sản phẩm được sản xuất ra không phải để thỏa
mãn nhu cầu cá nhân của người sản xuất mà là để trao đổi trên thị trường thì được
gọi là sản phẩm hàng hóa.
Sản xuất hàng hóa là một tất yếu khách quan, một thuộc tính bên trong lâu dài
của chính sự phát triển nông nghiệp nước ta theo định hướng XHCN.
Sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa có những ưu thế đặc biệt. Nó thúc
đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội. Trong
kinh tế hàng hóa có sự tác động của quy luật giá trị, sự nghiệt ngã của cạnh tranh,
sự khắt khe của thị trường và quy luật cung cầu buộc người nông dân phải năng
động và biết tính toán, cải tiến kỹ thuật, tiết kiệm, nâng cao chất lượng các sản
phẩm nông nghiệp cho phù hợp với nhu cầu xã hội. Khi có sản xuất hàng hóa, quá
trình xã hội hóa sản xuất nhanh chóng được thúc đẩy làm cho sự phân công chuyên
môn hóa sản xuất ngày càng sâu sắc, hợp tác hóa chặt chẽ, hình thành các mối liên
hệ và phụ thuộc lẫn nhau, hình thành thị trường trong nước và thế giới, thúc đẩy
nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, thúc đẩy quá trình dân chủ hóa, bình
đẳng và tiến bộ xã hội. Vì vậy, sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hoá mang lại
rất nhiều lợi ích.
Chuyển sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa là sự tiến hóa hợp quy luật.
Đó là quá trình chuyển nền nông nghiệp truyền thống, manh mún, lạc hậu thành nền
nông nghiệp hiện đại.

1.1.5.2. Khái niệm sản xuất nông nghiệp hàng hóa
Hàng hóa là sản phẩm do lao động của con người tạo nên để trao đổi. Sản xuất
hàng hóa là sản xuất ra các sản phẩm để bán trao đổi với người tiêu dùng. Sét về
phương diện lao động đó là hoạt động trao đổi cho nhau. Cơ sở của sự trao đổi là sự
phân công và hợp tác lao động. Phân công và trao đổi phát triển dựa trên cơ sở phát
triển của lực lượng sản xuất trước hết là công cụ lao động, phản ánh trình độ xã hội
hóa sản xuất trên cả ba mặt: kinh tế - xã hội, kinh tế - kỹ thuật, kinh tế - tổ chức
[14].
Trong lĩnh vực nông nghiệp, sản phẩm được sản xuất ra không phải để thỏa
mãn nhu cầu cá nhân cuả người sản xuất mà là để trao đổi trên thị trường thì được
gọi là sản phẩm hàng hóa [30].
23


24

24

Theo học thuyết của Các Mác, hàng hoá là sản phẩm được sản xuất ra không
phải để cho người sản xuất tiêu dùng mà nó được sản xuất ra để bán. Hàng hoá
được bán ở thị trường [4]. Như vậy, sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để
bán. Đó là hình thức tổ chức nền sản xuất xã hội trong đó mối quan hệ kinh tế giữa
những người sản xuất biểu hiện qua thị trường qua việc mua bán sản phẩm lao động
của nhau [12]. Đối với hệ thống trồng trọt, nếu mức hàng hoá sản xuất được bán ra
thị trường dưới 50% thì gọi là hệ thống trồng trọt thương mại hoá một phần, nếu
trên 50% thi gọi là hệ thống trồng trọt thương mại hoá (sản xuất theo hướng hàng
hoá) [3].
1.1.5.3. Các yếu tố ảnh hưởng tới hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và phát triển sản xuất
nông nghiệp hàng hóa
a. Nhóm yếu tố điều kiện tự nhiên


Đối tượng của sản xuất nông - lâm nghiệp chủ yếu là các cây trồng vật nuôi có
quá trình sinh trưởng và phát triển theo quy luật tự nhiên. Cho nên chúng gắn bó
chặt chẽ và phụ thuộc vào điề kiện tự nhiên. Các yếu tố tự nhiên như: đất, nước,
thời tiết khí hậu, địa hình, vị trí địa lý, các hệ sinh thái rừng, biển,… có tác động rất
lớn. Nó có thể thúc đẩy hay ức chế sự phát triển sinh trưởng của cây trồng vật nuôi
[14].
Sản xuất hàng hóa thực sự chỉ có hiệu quả khi nó thích ứng với điều kiện tự
nhiên. Điều kiện tự nhiên là cơ sở tự nhiên phân công lao động xã hội trong nông
nghiệp. Điều này đòi hỏi phải lựa chọn một tập đoàn vật nuôi, cây trồng thích ứng
với điều kiện tự nhiên của từng vùng và phải khai thác lợi thế so sánh của từng nơi
để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Phải nâng cao trình độ chuyên môn hóa sản xuất


nông nghiệp, gắn với sản xuất chế biến [30].
Yếu tố khí hậu
Nhìn chung khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới ẩm nhứng có tính chất
phân hóa mạnh mẽ, đặc biệt là miền núi do hình thể các khối núi chia cắt dịa hình
và các dòng lưu khí hậu. Trải dài trên 15 vĩ độ, Việt Nam có 7 tiểu vùng khí hậu
khác nhau nên chúng ta có thể đa dạng hoá các loại cây trồng, vật nuôi.
Sự chênh lệch về vĩ độ, độ cao đã tạo nên những nét đặc trưng của từng tiểu
vùng sinh thái khác nhau, miền Bắc có mùa đông lạnh, nhiệt độ trung bình 22,2-

24


25

25


23,50C, lượng mưa trung bình 1.500-2.400mm, tổng số giờ nắng từ 1.650-1.750
giờ/năm là ưu thế để phát triển các loại cây rau vụ đông như các loại đỗ, bắp cải,
xúp lơ…, các cây ăn quả có nguồn gốc ôn đới có thể trồng được ở đây như táo, đào,
… Đối với miền Nam khí hậu mang tính xích đạo, nhiệt độ trung bình 22,6-27,5 0C,
lượng mưa trung bình 1.400-2.400mm, giờ nắng trên 2.000 giờ/năm thì lại phù hợp
với các loại cây trồng có nguồn gốc nhiệt đới như xoài, mãng cầu,…Ở các vùng núi
cao có khí hậu mát thích hợp cho các loại cây nhiệt đới còn có các loại cây ôn đới, á
nhiệt đới hay phù hợp với những loại cây trồng khó tính hơn như các loại hoa.
Chính vì thế Khí hậu là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến việc phân bố các
loại cây trồng, cũng như thời vụ cây trồng trong sản xuất nông nghiệp.
∗ Yếu tố đất trồng
Ngoài khí hậu thì đất cũng có vai trò phân bố các loại cây trồng mỗi loại đất
phù hợp với những loại cây trồng nhất định. Trong nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu
sản xuất chủ yếu và đặc biệt không thể thay thế được [12]. Cũng có thể hiểu đất là
phần trên mặt của vỏ trái đất mà ở đó cây cối có thể mọc được. Đất luôn biến đổi do
tác động của mặt trời, sức nóng, nước gió cũng như ảnh hưởng của thực vật, động
vật và con người.
Theo N.Borlang người được giải Nobel về giải quyết lương thực cho các nước
phát triển cho rằng: yếu tố duy nhất quan trọng hạn chế năng suất cây trồng ở tầm
cỡ thế giới trong các nước đang phát triển, đặc biệt đối với nông dân thiếu vốn là độ
phì đất. Đặc tính cơ bản nhất của đất là độ phì của đất (độ màu mỡ của đất) là khả
năng đáp ứng được thức ăn, nước và các điều kiện thích hợp khác cho yêu cầu của
cây trồng trong suốt thời gian sinh trưởng và phát triển để đạt được năng suất và sản
lượng cao [17].
Nước ta tại các vùng đất khác nhau thì phù hợp với những loại cây khác nhau.
Vùng ĐBSH được hình thành và bồi tụ thường xuyên bởi phù sa của hai hệ thống
sông Hồng và sông Thái Bình, còn ĐBSCL là hệ thống sông Cửu Long nên địa hình
tương đối bằng phẳng chất lượng đất tốt, rất phù hợp cho việc trồng lúa. Vùng
Duyên hải miền Trung đất được hình thành bởi sự bồi tụ của các con sông lớn, đa số
đất nông nghiệp là đất rẫy có độ dốc lớn dễ bị rửa trôi khi gặp mưa kéo dài theo


25


×