Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

luận án mối quan hệ giữa đảng và nhà nước ở việt nam hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (523.23 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN VĂN ĐÔNG

MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành:
Mã số:

CNDVBC&CNDVLS
62 22 03 02

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI – NĂM 2017


Công trình được hoàn thành tại:
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Dương Phú Hiệp

Phản biện 1: GS.TS. Nguyễn Văn Tài
Phản biện 2: GS.TS. Nguyễn Trọng Chuẩn
Phản biện 3: PGS.TS. Hoàng Đình Cúc

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án tiến sĩ cấp
Học viện, họp tại: HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI,


Vào hồi: ..........giờ ...........ngày .......tháng......năm 2017.

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia,
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xét về mặt cấu trúc của một hình thái kinh tế - xã hội thì đảng và nhà
nước của giai cấp thống trị là hai bộ phận quan trọng hàng đầu trong kiến trúc
thượng tầng. Tuy bị quy định bởi cơ sở hạ tầng, song nó lại có vai trò tác
động, định hướng trở lại đối với cơ sở hạ tầng, sự tác động trở lại đó chủ yếu
là định hướng về bản chất, mục đích, chủ thể quyền lực trong xã hội. Mối
quan hệ giữa đảng chính trị, cầm quyền và nhà nước (trong luận án này gọi tắt
là “đảng và nhà nước”) là một quan hệ phổ biến trong xã hội có giai cấp, và có
quan hệ biện chứng với sự phát triển của hệ thống chính trị, phản ánh trình độ
dân chủ xã hội.
Như vậy, việc nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện, cả về lý luận và
thực tiễn mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam trên cơ sở tổng kết
những thành công, chỉ rõ những hạn chế, mâu thuẫn đang cản trở để rút ra
những bài học và đề xuất những giải pháp nhằm giải quyết tốt mối quan hệ
giữa Đảng và Nhà nước là công việc hết sức cấp thiết. Từ những lý do trên,
tác giả mong góp thêm chút công sức của mình cho quá trình tiếp tục phát huy
những thành tựu, đồng thời hạn chế những sai sót, khó khăn, thách thức của
nước ta trong quá trình tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị. Vì vậy,
tác giả chọn đề tài nghiên cứu “Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt
Nam hiện nay” làm luận án tiến sĩ Triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật
biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Đề tài tập trung làm rõ thêm một số vấn đề lý luận, thực tiễn về mối
quan hệ giữa đảng và nhà nước; nghiên cứu thực trạng mối quan hệ Đảng và
Nhà nước ở Việt Nam hiện nay; từ đó đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm
tiếp tục đổi mới, hoàn thiện mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam
trong thời gian tới. Đồng thời, xác định nhiệm vụ: tổng quan tình hình nghiên
cứu; làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn; đánh giá thực trạng mối quan hệ và đề
ra một số giải pháp để giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài luận án là “mối quan hệ Đảng và Nhà
nước ở Việt Nam” hiện nay. Luận án nghiên cứu mối quan hệ giữa Đảng
Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ở cấp
Trung ương; thời gian nghiên cứu từ Đại hội toàn quốc lần thứ X của Đảng
(năm 2006) đến nay.
4. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan
1


hệ giữa đảng và nhà nước ở Việt Nam và thực trạng mối quan hệ giữa Đảng
và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay để nghiên cứu, phân tích, đánh giá và đề
xuất giải pháp.
Tác giả luận án sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, phương pháp hệ thống để xác định vị
trí và mối tương quan giữa các chủ thể trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà
nước; ngoài ra còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phương
pháp lịch sử - logic; phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so
sánh…để làm rõ vấn đề.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, luận án khiêm tốn góp phần hoàn thiện các nội dung về những

cái phổ biến và những cái đặc thù trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước
ở Việt Nam hiện nay, gắn với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang
từng bước được xây dựng và hoàn thiện.
Hai là, luận án góp phần làm rõ thêm thực trạng xử lý mối quan hệ giữa
Đảng và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, góp phần luận cứ để
chứng minh sự cần thiết phải thực hiện các giải pháp đổi mới, hoàn thiện mối
quan hệ giữa Đảng và Nhà nước hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
Luận án có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu và giải
dạy các vấn đề về triết học, chính trị học về đảng, nhà nước ở Việt Nam; là tài
liệu tham khảo phục vụ cán bộ, công chức làm công tác tổ chức, xây dựng
Đảng và cơ quan quản lý Nhà nước...
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận án gồm 4 chương và 21 tiết.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Các công trình nghiên cứu về đảng chính trị và vai trò của đảng
chính trị đối với nhà nước
1.1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu trong nước
Sách “Về Đảng cộng sản Việt Nam” tập hợp tất cả các bài nói, bài viết
của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng và cuốn: “Mấy vấn đề
về Đảng cầm quyền” của Tổng Bí thư Lê Duẩn. Ngoài ra còn các công trình:
“Hệ thống chính trị ở các nước tư bản phát triển hiện nay” của GS. Hồ Văn
Thông; GS.TS. Nguyễn Văn Huyên với cuốn sách: “Hệ thống chính trị Anh,
2


Pháp, Mỹ”; “Một số vấn đề xây dựng Đảng trong văn kiện đại hội X” do

PGS.TS Lê Minh Thông chủ biên; “Đảng cộng sản cầm quyền - Nội dung và
phương thức cầm quyền của Đảng” do GS.TS.Nguyễn Văn Huyên; PGS.TS.
Nguyễn Văn Hoà trong cuốn: “Nâng cao tầm tư tưởng và trí tuệ của Đảng
đáp ứng yêu cầu lãnh đạo trong giai đoạn mới”; Bài viết: “Để nâng cao năng
lực cầm quyền của Đảng trong điều kiện hiện nay” của TS. Nguyễn Đình
Hòa; “Thể chế cầm quyền: một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của TS. Đặng
Đình Tân; “Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng trước yêu cầu của sự
nghiệp đổi mới đất nước” của PGS.TS Phạm Văn Đức; GS.TS.Phạm Ngọc
Quang trong: “Đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam”; Vị trí cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong điều kiện mới” do GS.TS Đỗ Hoài Nam chủ biên…
1.1.2. Các công trình nghiên cứu nước ngoài
Các công trình “Con người chính trị - căn bản xã hội của chính trị”
(1960) của Seymour Martin Lipset và “Các nhân tố trong một hệ thống hai
đảng và đa đảng” (1972) của Maurice Duverger được coi là hai công trình
khoa học đi tiên phong ở các nước phương Tây; “Khoa học chính trị - một sự
giới thiệu” của Michaheal Roskin, Robert Cord, James Medeiroi, Walter
Jones (1991) và “Chính trị” của Andrew Heywood (2002); “Chính trị so sánh
ngày nay - một cách nhìn toàn cảnh” của Garbriel Almond và Bingham
Powell (1988); “Các quốc gia và các chính phủ: chính trị so sánh trong viễn
cảnh khu vực” của Thomas Magstadt (1994). Đối với nghiên cứu Trung Quốc:
“Tổng thuật những nghiên cứu về tăng cường xây dựng năng lực cầm quyền
của đảng” của Triệu Kim Bằng (2004); “Tăng cường xây dựng tác phong của
Đảng cầm quyền” của Vương Mậu Lâm (2001); “Cầm quyền mang tính khoa
học và dân chủ, cầm quyền theo pháp luật: yêu cầu thời đại về tính hợp pháp
của Đảng cầm quyền” của Dương Tiểu Cường, Tào Tuyết Phong (2005;
“Nghiên cứu quy luật cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc” của Lưu
Tôn Hồng (2004); “Bàn về công tác xây dựng năng lực cầm quyền của Đảng”
của Lưu Chấn Hoa (2010)…
1.2. Các công trình nghiên cứu về nhà nước và vai trò của nhà nước

đối với đảng chính trị ở Việt Nam
Sách: “Về quyền lực trong cơ quan Nhà nước hiện nay” của PGS. TS
Lê Minh Quân và ThS. Bùi Việt Hương chủ biên; TS. Trịnh Thị Xuyến trong
“Kiểm soát quyền lực Nhà nước: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt
Nam hiện nay”. “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới” do Nguyễn Văn Yểu, Lê Hữu Nghĩa đồng chủ biên;
Phạm Ngọc Quang và Ngô Kim Ngân trong cuốn sách: “Phương thức lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do vân, vì dân”; “Đảng lãnh đạo Nhà nước
trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay” do
PGS.TS Nguyễn Văn Vĩnh chủ biên; bài viết “Về một số nét đặc thù của Nhà
3


nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” của PGS.TS Phạm Văn Đức
… các công trình nghiên cứu về Nhà nước và vai trò của Nhà nước đối với
Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu chuyên sâu, khai
thác dưới nhiều góc độ khác nhau và có những điểm chung là muốn nâng cao
hiệu quả quản lý của Nhà nước thì vai trò đổi mới phương thức, nội dung lãnh
đạo của Đảng là đặc biệt quan trọng.
1.3. Các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà
nước ở Việt Nam hiện nay
Sách: “Về các mối quan hệ lớn cần được giải quyết tốt trong quá trình
đổi mới đi lên Chủ nghĩa xã hội ở nước ta” do GS.TS Nguyễn Phú Trọng,
Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam chủ biên; “Mối quan hệ Đảng - Nhà
nước - Dân trong cuộc sống” của Nguyễn Khánh; sách: “Đổi mới quan hệ
giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức Chính trị - Xã hội trong hệ thống chính
trị ở Việt Nam” do GS.TS Lê Hữu Nghĩa, GS.TS Hoàng Chí Bảo, PGS.TS
Bùi Đình Bôn đồng chủ biên. Đặc biệt, phần nhiều là các bài viết trên các tạp
chí chuyên ngành: “Tiếp tục thể chế hoá, hiện thực hoá cơ chế Đảng lãnh

đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” của GS.TS Đinh Xuân Dũng;
“Giải quyết hài hòa mối quan hệ Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý” của
PGS.TS Lê Duy Chương; “Hiến pháp và Điều lệ Đảng, mấy điều suy nghĩ”
của tác giả Bùi Đức Lại; “Giải quyết mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước”
của TS.Nguyễn Sĩ Dũng; “Mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”; “Giải
quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ” của PGS,TS Nguyễn Viết Thông; “Về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà
nước trong giai đoạn hiện nay” của GS.TS Nguyễn Hữu Khiển…đây là
nguồn tài liệu vô cùng quý giá để tác giả luận án này tham khảo, kế thừa và
tiếp tục phát triển để góp phần hoàn thành mục đích và các nhiệm vụ nghiên
cứu đã được xác định trong luận án.
1.4. Khái quát kết quả nghiên cứu và những vấn đề đặt ra luận án
cần tiếp tục nghiên cứu
1.4.1. Khái quát những kết quả nghiên cứu
Một là, các công trình nghiên cứu đã đề cập sâu về khái niệm, quan
niệm đảng cầm quyền, đảng lãnh đạo chính quyền, lãnh đạo và quản lý... Một
số tác giả làm rõ khái niệm về đảng lãnh đạo, đảng cầm quyền, trong đó các
tác giả có sự thống nhất cao về nội dung đảng lãnh đạo. Đồng thời, đã hệ
thống hóa được những luận điểm căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, của Đảng Cộng sản Việt Nam về đảng, về nhà nước và mối
quan hệ Đảng và Nhà nước.
Hai là, các tác giả đã làm rõ thực trạng, yêu cầu của đất nước, của thế
giới để chỉ ra tính tất yếu của việc phải đổi mới mối quan hệ giữa Đảng và
Nhà nước. Trong đó cơ bản là Đảng phải tự đổi mới để đổi mới Nhà nước và
4


xã hội; Đảng phải đổi mới để củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng đối với việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, Nhà nước phải

tích cực, chủ động và phát huy vai trò tác động tích cực trở lại đối với Đảng
cầm quyền.
Ba là, đa số các tác giả đều cho rằng quyền làm chủ của nhân dân là yếu
tố trung tâm của mối quan hệ giữa "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân
dân làm chủ" bởi vì mọi hoạt động của Đảng và Nhà nước đều từ nhân dân và
vì nhân dân, đây đồng thời cũng là nguyên tắc của việc xây dựng và đổi mới
mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ta hiện nay và trong thời gian tiếp theo.
Bốn là, theo các tác giả cần tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Thống nhất cao vấn đề
cần có cơ chế phân biệt rành mạch về quyền và trách nhiệm của mỗi chủ thể
thông qua một hệ thống thể chế xác định nhằm thể chế hóa vai trò, trách
nhiệm lãnh đạo của Đảng và vai trò, trách nhiệm quản lý của Nhà nước bằng
các văn bản pháp luật, quy chế quan hệ cụ thể.
Năm là, các tác giả đều có những điểm thống nhất rằng, để giải quyết tốt
mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước phải đổi mới phương thức lãnh đạo của
Đảng lãnh đạo Nhà nước phải thông qua đường lối, chính sách; sự thuyết phục
của tổ chức đảng và gương mẫu của cán bộ, đảng viên; việc kiểm tra, giám sát
của Đảng, của nhân dân đối với cơ quan, công chức Nhà nước và thực hiện
thẩm quyền đối với công tác cán bộ; thông qua cơ chế kiểm soát quyền lực;
thông qua việc thực hiện tốt các nghị quyết của Đảng như Nghị quyết Trung
ương 4 khoá XI và Nghị quyết Trung ương 4 khoá XII nhằm ngăn chặn những
suy thoái trong cán bộ, đảng viên.
1.4.2. Những vấn đề đặt ra luận án cần tiếp tục nghiên cứu
Một là, trong điều kiện Đảng cộng sản Việt Nam đang quyết liệt xây
dựng, chỉnh đốn Đảng, đổi mới hệ thống chính trị với 3 trụ cột chính: xây
dựng, hoàn thiện tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ
sở tinh gọn, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả. Luận án cố gắng kế thừa những
kết quả nghiên cứu trước, tiếp tục đi sâu nghiên cứu những vấn đề lý luận và
thực tiễn cần làm rõ trong điều kiện nước ta hiện nay.
Hai là, khi nghiên cứu về mối quan hệ này, các nhà khoa học tập trung

khai thác dưới góc độ đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng với Nhà nước
hoặc mối quan hệ Đảng với Nhà nước trong việc xây dựng Nhà nước pháp
quyền mà ít có điều kiện nghiên cứu Đảng - Nhà nước như hai đối tượng
nghiên cứu song song, có quan hệ và tác động hai chiều, đặc biệt là trên cặp
phạm trù “cầm quyền” và “pháp quyền”, trong bối cảnh Đảng Cộng sản Việt
Nam duy nhất cầm quyền. Hiện tại, chưa có nhiều công trình đề xuất tổng thể
các giải pháp nhằm giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước
trong tình hình phức tạp hiện nay.
5


Ba là, một số vấn đề lý luận, thực tiễn cần tiếp tục được nghiên cứu, giải
quyết gồm: Về mặt lý luận cần xây dựng các “khái niệm công cụ”, chỉ rõ cơ sở
lý luận và cơ sở thực tiễn xung quanh mối quan hệ giữa đảng và nhà nước và
làm rõ những yêu cầu đặt ra trong đổi mới mối quan hệ này. Đồng thời, thừa
nhận và phân biệt rõ sự khác nhau của tư cách song trùng giữa “lãnh đạo” và
“cầm quyền” của Đảng Cộng sản Việt Nam để từ đó có thể xác định rõ hơn vị
trí và vai trò của Đảng với Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Về
mặt thực tiễn, cần phân tích, đánh giá một cách có hệ thống và toàn diện thực
trạng mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay ở cấp trung
ương. Làm rõ những thành tựu, hạn chế gắn liền với những nguyên nhân chủ
yếu trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, đồng thời chỉ rõ những vấn đề
đang đặt ra cần nhận thức đúng, như: (1) mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước
còn có tình trạng bao biện, chồng chéo và buông lỏng nên chưa phát huy tốt
vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều hành của bộ máy Nhà nước; (2)
chưa phân rõ chức năng, quyền hạn giữa Đảng lãnh đạo và Nhà nước quản lý,
tình trạng “song trùng quyền lực” diễn ra ở nhiều ở các ban tham mưu của
Đảng và các bộ, ngành thuộc Chính phủ và các cơ quan Nhà nước khác. Cơ
chế Đảng lãnh đạo - Nhà nước quản lý đã được nêu ra từ lâu, nhưng chưa
được cụ thể hóa để vận hành có hiệu quả trong thực tế; (3) mối quan hệ giữa

Đảng và Nhà nước chưa chặt chẽ dẫn đến một số tệ nạn như: tham nhũng,
quan liêu, xa rời quần chúng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong cán bộ, đảng viên chậm được xử
lý, làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước; (4) thiếu
một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh để pháp luật hóa các mối quan hệ giữa
Đảng và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
Bốn là, nghiên cứu mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam
trong điều kiện kinh tế, đời sống chính trị, xã hội hiện nay đang có nhiều thay
đổi nhanh chóng, đặt ra nhiều vấn đề mới cần giải quyết trên quan điểm cụ thể,
phù hợp với điều kiện thực tế khách quan đang đòi hỏi phải đổi mới phương
thức lãnh đạo để phù hợp với xu thế phát triển về khoa học, quản lý và phù hợp
với tình hình xây dựng tổ chức bộ máy trong hệ thống chính trị ngày càng tinh
gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vận hành thông suốt, đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế của đất nước.

6


Chương 2
MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC - MỘT SỐ VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
2.1. Đảng, Nhà nước và sự tác động qua lại và chuyển hóa lẫn nhau
2.1.1. Về đảng
Khái niệm đảng lãnh đạo là một khái niệm được các nhà kinh điển Mác Lênin sử dụng từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX khi giai cấp công
nhân trở thành lực lượng tiên phong lãnh đạo quần chúng nhân dân lao động,
thủ tiêu chế độ bóc lột, xây dựng một xã hội mới tiến bộ vì con người, không
còn áp bức và bất công. Luận án đi đến khái niệm “đảng”, theo Từ điển Chính
trị: “tổ chức chính trị của những người cùng chung một tư tưởng, tổ chức này
tập hợp những đại biểu tích cực nhất của một giai cấp, thể hiện quyền lợi của
giai cấp ấy và lãnh đạo giai cấp ấy trong cuộc đấu tranh giai cấp”. Tuy nhiên,

trong khái niệm về “đảng” phải nghiên cứu sâu các thuật ngữ “đảng lãnh
đạo”, “đảng cầm quyền”, “đảng chấp chính”, “đảng tham chính” “đảng nắm
chính quyền”, “đảng lãnh đạo chính quyền”. “đảng đối lập”…
2.1.2. Về nhà nước
Khái niệm “nhà nước” được hiểu một cách cơ bản nhất là một tổ chức
xã hội đặc biệt của quyền lực chính trị trong xã hội có giai cấp, là công cụ
chuyên chính giai cấp, với các chức năng quản lý xã hội vừa bảo vệ lợi ích
giai cấp mà nó đại diện, vừa duy trì trật tự, đảm bảo cho xã hội phát triển và
phục vụ những nhu cầu thiết yếu của đời sống cộng đồng.
2.1.3. Quan hệ giữa đảng và nhà nước - sự tác động qua lạ lẫn nhau
Xét về mặt bản chất thì mối quan hệ giữa đảng và nhà nước là mối quan
hệ chính trị khách quan và phổ biến ở hầu hết các quốc gia trên thế giới. Ngay
từ khi mới ra đời ở các quốc gia phương Tây, các đảng chính trị đã đấu tranh
với nhau trong việc kiểm soát và thực thi quyền lực nhà nước. Ngày nay, mục
tiêu của tất cả các đảng chính trị là đều muốn trở thành đảng cầm quyền để
thành lập nhà nước nhằm hiện thực hoá cương lĩnh chính trị của mình trên cơ
sở đảm bảo sự phù hợp với định hướng phát triển chung của xã hội.
Khi trở thành đảng cầm quyền thì mối quan hệ giữa đảng và nhà nước là
mối quan hệ giữa lãnh đạo và quản lý. Trong đó, đảng lãnh đạo không có nghĩa
là đảng không có chức năng quản lý, ngược lại nhà nước quản lý không có
nghĩa là nhà nước không có lãnh đạo. Chức năng quản lý của đảng chính trị thể
hiện trong việc quản lý trực tiếp đảng viên của đảng đó trong bộ máy nhà nước.
Vì vậy, sự đan xen chức năng trong cá nhân giữ vị trí trong bộ máy nhà
nước khi họ là đảng viên của đảng cầm quyền là điều kiện để hiện thực hoá
các mục tiêu chính trị qua điều hành xã hội, họ làm việc của công quyền
7


nhưng phải quán triệt các mục tiêu chính trị của đảng cầm quyền. Thông qua
những người này đảng lãnh đạo nhà nước và điều hành sự ổn định về kinh tế,

chính trị, văn hoá, xã hội.
2.2. C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin bàn về mối quan hệ giữa đảng
và nhà nước
2.2.1. C.Mác, Ph.Ăngghen bàn về mối quan hệ đảng và nhà nước
Một là, các nhà kinh điển đã chỉ rõ bản chất giai cấp công nhân của đảng
cộng sản, các nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của đảng, đặc biệt là đã
nói tới sứ mệnh lãnh đạo, nắm lấy quyền lực và cầm quyền để thực thi sứ
mệnh lịch sử của giai cấp, chẳng những lãnh đạo giai cấp mà còn lãnh đạo dân
tộc, đặc trưng của lãnh đạo và thống trị ấy là lãnh đạo về mặt chính trị, thống
nhất về mặt chính trị.
Hai là, nền tảng trong lãnh đạo chính trị của đảng đối với giai cấp - dân
tộc và xã hội là ở các quan hệ lợi ích. Lợi ích vừa là mục tiêu, vừa là động lực
trong tiến trình phát triển của cách mạng.
Ba là, các quan hệ chính trị kiểu mới hình thành giữa đảng - giai cấp và
dân tộc với nhà nước và xã hội là biểu hiện của một bản chất mới của các
quan hệ lợi ích kinh tế, bắt nguồn từ quan hệ sở hữu và chế độ sở hữu xã hội.
2.2.2. V.I. Lênin bàn về mối quan hệ đảng và nhà nước
Thứ nhất, đảng xác định các mục tiêu mang tính chất định hướng của
đảng trong các chủ trương, đường lối, cương lĩnh, nghị quyết của mình. Mục
tiêu nói chung và mục tiêu lâu dài nói riêng của đảng được xác định trong các
cương lĩnh, nghị quyết của đảng tại các kỳ đại hội.
Thứ hai, đảng còn phải xác định cả những nhiệm vụ cho nhà nước. Có
nhiệm vụ lâu dài, nhiệm vụ trước mắt trong các lĩnh vực chủ yếu của đời sống
xã hội. “Nhiệm vụ đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu đã được đề ra trong
cương lĩnh của Đảng ta, coi đó là một công tác rất lâu dài”.
Thứ ba, việc xác định các nhiệm vụ của đảng và nhà nước cần phải có
sự định hướng vào các nhiệm vụ cấp thiết và mấu chốt. Các nhiệm vụ chủ yếu
bao gồm: Công tác tư tưởng, xây dựng bộ máy nhà nước và các tổ chức quần
chúng; công tác xây dựng đảng, trong đó đặc biệt vấn đề tổ chức cán bộ và
kiểm tra của đảng; nhiệm vụ trong các lĩnh vực phát triển kinh tế, văn hoá, xã

hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
2.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước

2.3.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa đảng và nhà nước
Bàn về các quan hệ giữa Đảng và Nhà nước bao giờ Hồ Chí Minh cũng
hướng việc giải quyết các quan hệ đó vào việc thực hiện dân chủ, bảo đảm và
phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đây là mục đích, là bản chất của tổ
chức và hoạt động chính trị. Thông qua các quan hệ giữa các tổ chức mà tác
8


động tới đời sống xã hội để thực hiện lợi ích và quyền lực của nhân dân.
Những kiến giải của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước,
cũng như phát huy vai trò, tác dụng của các tổ chức quần chúng bao giờ cũng
được Người nhấn mạnh từ mục đích củng cố sự bền vững của cơ sở xã hội,
của chế độ, nhân tố quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, đó là
sức mạnh của nhân dân, sức mạnh đoàn kết dân tộc và sự đồng thuận xã hội.
2.3.2. Một số quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ
giữa đảng và nhà nước
Qua các văn bản, tài liệu, đặc biệt là văn kiện của Đảng qua các kỳ Đại
hội gần đây, có thể khái quát phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước - một vấn đề rất quan trọng để xác lập các quan hệ cho đúng đắn giữa
Đảng và Nhà nước được thể hiện bởi các nội dung cụ thể như sau:
- Lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, đường lối, nghị quyết.
- Lãnh đạo bằng công tác giáo dục tuyên truyền vận động.
- Lãnh đạo bằng tổ chức bộ máy.
- Lãnh đạo bằng cán bộ và công tác cán bộ.
- Bằng công tác kiểm tra, giám sát.
- Lãnh đạo trên cơ sở những nguyên tắc chính trị của Đảng được ghi

trong điều lệ và phù hợp với luật pháp.
- Lãnh đạo bằng sự gương mẫu của các tổ chức đảng, của cán bộ, đảng
viên, bằng cách liên hệ mật thiết với quần chúng,...
2.4. Kinh nghiệm quốc tế trong việc giải quyết mối quan hệ giữa
đảng và nhà nước
2.4.1. Kinh nghiệm của một số nước xã hội chủ nghĩa trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa đảng và nhà nước
Ở các nước phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa và các nước xã
hội chủ nghĩa, thể chế chính trị được tổ chức theo mô hình Cộng hòa Xô viết
(trước đây), Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (hiện nay). Mô hình thể chế này, ở các
nước khác nhau có tên gọi khác nhau: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (Việt Nam),
Cộng hòa dân chủ nhân dân (Lào, Triều Tiên), Cộng hòa nhân dân (Trung
Hoa), Cộng hòa (CuBa). Tuy nhiên, tùy theo điều kiện “đặc thù” của mỗi
nước đã thực hiện chế độ hợp tác đa đảng, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản và với chế độ “nhất nguyên chính trị”. Trong các nước xã hội chủ
nghĩa có thể đi sâu tìm hiểu mô hình của Trung Quốc rất hữu ích với Việt
Nam vì trong lịch sử Đảng Cộng sản Trung Quốc đã trải nghiệm những thành
công và sai lầm lớn trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Ngoài ra, hai
nước có nhiều điểm giống nhau về chế độ chính trị, địa lý, lịch sử, văn hóa,
truyền thống…Đồng thời, thực tiễn ở các quốc gia mà đảng cộng sản là trung
tâm quyền lực chính trị thì bài học kinh nghiệm trong xử lý mối quan hệ của
đảng và nhà nước Việt Nam có thể tham khảo.
9


2.4.2. Kinh nghiệm của các nước tư bản chủ nghĩa trong việc giải
quyết mối quan hệ giữa đảng cầm quyền và nhà nước pháp quyền tư sản
Việc nghiên cứu về mô hình đảng chính trị và đảng chính trị cầm quyền
của các nước tư bản giúp Việt Nam hiểu rõ bản chất của các đảng chính trị tại
các nước phát triển, vừa có thể tiếp thu có chọn lọc một số giá trị từ các đảng

đó trong quá trình Việt Nam ngày càng mở rộng hợp tác đa phương hoá, đa
dạng hoá…nhưng không xa rời mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội. Có thể
thấy ở các nước tư bản tuy “đa đảng, đa nguyên”, nhưng về cơ bản cơ quan
lập pháp và hành pháp đều nằm trong tay các đảng tư sản cầm quyền, trong đó
nghị viện được xem là chế độ dân chủ nhưng hoạt động mang tính đảng.
Chính phủ được thành lập trên cơ sở nghị viện và chịu trách nhiệm trước nghị
viện nhưng trên thực tế thì đảng cầm quyền thường đứng ra thành lập Chính
phủ, thao túng toàn bộ tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Nói tóm lại, dù ở các nước xã hội chủ nghĩa hay các nước tư bản chủ
nghĩa, nếu các đảng chính trị muốn nắm quyền lãnh đạo nhà nước để trở thành
đảng cầm quyền thì đảng phải thuyết phục và được sự ủng hộ của đa số quần
chúng; phải tiến hành thông qua cuộc bầu cử. Đặc biệt, bản chất của một nền
dân chủ không phụ thuộc vào chế độ đa đảng hay chế độ một đảng, mà phụ
thuộc vào việc đảng cầm quyền đại diện cho lợi ích của ai, sử dụng quyền lực
nhà nước vào những mục đích gì trong thực tế. Đồng thời, sự phát triển kinh tế
- xã hội của một quốc gia cũng không phụ thuộc vào chế độ một đảng hay
nhiều đảng, mà phụ thuộc vào tính khoa học, sáng tạo của đường lối phát triển
đất nước và năng lực lãnh đạo của đảng cầm quyền, năng lực điều hành của
nhà nước, của chính phủ và hiệu quả xử lý mối quan hệ giữa đảng cầm quyền
và nhà nước trên thực tế chính trị hiện có.
2.5. Sự thống nhất giữa cái phổ biến và cái đặc thù trong mối quan
hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Một là, mối quan hệ giữa Đảng với Nhà nước ở Việt Nam là mối quan
hệ giữa lực lượng chính trị Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền và Nhà nước.
Hai là, mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam chỉ xác định sự
lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước một lần trong thực tiễn.
Ba là, Đảng lãnh đạo Nhà nước ở Việt Nam là lãnh đạo tất cả các nhánh
quyền lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Bốn là, quyền lực và phạm vị ảnh hưởng của “quyền lãnh đạo” và
“quyền cầm quyền” của Đảng đối với Nhà nước ở Việt Nam có nhiều điểm

khác so với các nước, mang màu sắc tính đảng của Việt Nam. Nếu xét Đảng
cộng sản Việt Nam là một “Đảng cầm quyền” thì phạm vi “quyền cầm quyền”
chủ yếu hạn chế trong công tác Nhà nước (bao gồm công tác lập pháp, hành
chính, tư pháp). Còn nếu xét Đảng cộng sản Việt Nam là một “Đảng lãnh đạo”
thì không chỉ hạn chế ở quyền lãnh đạo công tác Nhà nước về mặt chính trị
mà còn lãnh đạo quần chúng nhân dân, đoàn thể chính trị - xã hội…
10


Năm là, Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng dùng lý luận khoa học
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng cho tư tưởng và
hành động của đảng.
Sáu là, chính vì tính đặc thù Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng lãnh đạo
đất nước một cách toàn diện nên không thể thực hiện chế độ đa nguyên, đa
đảng lãnh đạo, đó là khác biệt căn bản giữa Đảng Cộng sản Việt Nam với các
đảng cầm quyền ở các nước phương Tây.
Chương 3
THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỀ MỐI QUAN HỆ
GIỮA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Một số nội dung có tính nguyên tắc về vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Một là, nội dung lãnh đạo của Đảng với Nhà nước đòi hỏi phải có
phương thức lãnh đạo phù hợp.
Hai là, vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước đã được hiến định
trong Điều 4 Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 2013.
Ba là, thước đo đánh giá năng lực lãnh đạo của Đảng trong việc phát
huy vai trò quản lý của Nhà nước để thúc đẩy phát triển xã hội.
Bốn là, Đảng xác định những quan điểm, phương hướng, nội dung cơ
bản nhằm xây dựng, hoàn thiện tổ chức hoạt động của Nhà nước.
3.2. Thực trạng mối quan hệ trong việc cụ thể hóa đường lối của

Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước
Thành tựu, Trung ương Đảng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo Nhà nước
và tổ chức bài bản, quyết liệt các nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch, chiến lược của
Đảng, tạo sự chuyển biến rõ rệt trong việc đưa các văn kiện của Đảng vào
cuộc sống.
Hạn chế, Năng lực thể chế hoá đường lối của Đảng, triển khai thực hiện,
năng lực điều hành của Nhà nước còn bất cập trước đòi hỏi của thực tiễn. Một
số chính sách của Đảng và Nhà nước chưa thật sự phù hợp với yêu cầu của
thực tiễn, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân. Tình trạng suy thoái
về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống trong cán bộ lãnh đạo Đảng và cơ
quan Nhà nước các cấp làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân
đối với Đảng, Nhà nước.
3.3. Thực trạng mối quan hệ trong việc tổ chức bộ máy các cơ quan
Đảng và Nhà nước
Một là, thực trạng việc Đảng lãnh đạo tinh giản biên chế và cơ cấu lại
đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Tuy nhiên, qua thực tiễn nhận thấy, tổ
11


chức bộ máy các cơ quan Đảng và Nhà nước tuy có giảm đầu mối, nhưng lại
thành lập nhiều đơn vị trực thuộc bên trong nên vẫn còn cồng kềnh, hiệu lực,
hiệu quả hoạt động chưa cao. Việc giảm đầu mối, nhưng chưa thật tinh gọn,
hiệu quả. Việc sắp xếp giai đoạn đầu còn mang tính cơ học, bộ máy còn cồng
kềnh, một số nơi có xu hướng tăng biên chế, tăng số lượng chức danh lãnh
đạo, quản lý, tăng đầu mối bên trong. Một số tổ chức sau khi sắp xếp còn
nhiều vướng mắc trong tổ chức và hoạt động, nhất là về cơ chế, thẩm quyền,
trách nhiệm giữa các cấp...
Hai là, công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo Đảng và Nhà nước được
thực hiện ngày càng bài bản và có lộ trình đào tạo, bồi dưỡng, quy hoạch cán
bộ. Cán bộ là nhân tố quyết định (đặc biệt là người đứng đầu) sự thành công

hay thất bại của việc xác lập mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, là khâu
then chốt trong công tác xây dựng Đảng.
Ba là, một số vấn đề bất cập trong thực hiện tổ chức bộ máy của Đảng
và Nhà nước cần được chỉ rõ như: hệ thống quy định, quy chế được rà soát, bổ
sung nhưng chức năng, nhiệm vụ vẫn còn một số chồng chéo; mối quan hệ
giữa Đảng và Nhà nước chưa có những cơ chế hoạt động cụ thể, rõ ràng nên
dễ dẫn đến có nơi buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng, có nơi Đảng lại bao
biện, làm thay Nhà nước dẫn đến tình trạng chồng chéo trong quan hệ Đảng
và Nhà nước, làm giảm vai trò lãnh đạo của Đảng. Một số cơ quan chính
quyền lấn át cơ quan Đảng, hạ thấp vai trò lãnh đạo của Đảng, làm hạn chế vai
trò của các tổ chức của Đảng.
Bốn là, chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ, của các cấp chính
quyền vẫn chưa đủ rõ và phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ và cơ chế quản lý
mới. Mối quan hệ giữa Nhà nước với thị trường, giữa Nhà nước với doanh
nghiệp, nhất là với doanh nghiệp Nhà nước, cũng như giữa quản lý của Nhà
nước với tự quản của người dân trong xã hội... trên nhiều lĩnh vực vẫn chậm
được làm rõ.
Năm là, mối quan hệ giữa Bộ Chính trị, Ban Bí thư với Quốc hội, Chính
phủ, Toàn án Nhân dân Tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân Tối cao và các Bộ,
ngành Trung ương vẫn chưa được phân định rõ ràng và thiếu hợp lý.
3.4. Thực trạng mối quan hệ giữa Đảng với Quốc hội, chế định Chủ
tịch Nước, Chính phủ và cơ quan Tư pháp
3.4.1. Mối quan hệ giữa Đảng và Quốc hội
Một là, Đảng đổi mới nhận thức về vị trí, vai trò của Quốc hội thông qua
chủ trương “quản lý đất nước bằng pháp luật chứ không chỉ bằng đạo lý”.
Hai là, Đảng lãnh đạo thông qua Đảng đoàn Quốc hội và đại biểu quốc
hội là đảng viên để lãnh đạo, chỉ đạo Quốc hội.
Ba là, công tác lãnh đạo về chủ trương, đường lối của Đảng đối với
Quốc hội được nâng cao. Thông thường, tại mỗi kỳ Đại hội Đại biểu toàn
12



quốc của Đảng thì những vấn đề cơ bản và quan trọng nhất của đất nước được
thông qua trong các văn kiện của đại hội của Đảng.
Bốn là, công tác Đảng lãnh đạo Quốc hội quyết định các vấn đề quan trọng
của đất nước và giám sát tối cao của Đảng ngày càng hợp lý và hiệu quả hơn.
Năm là, thông qua công tác cán bộ và sự gương mẫu của đảng viên là
đại biểu Quốc hội mà vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội được củng
cố vững chắc. Hiện nay, các chức danh cơ bản của Quốc hội, Uỷ ban Thường
vụ Quốc hội, các Ban chuyên môn của Quốc hội đều được đảng giới thiệu để
Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
3.4.2. Mối quan hệ giữa Đảng và Chính phủ cùng các bộ, ngành
thuộc chính phủ
Về thành tựu mối quan hệ giữa Đảng và Chính phủ
Một là, Đảng lãnh đạo Chính phủ kiện toàn tổ chức và hoạt động trong
những năm qua đã khiến công tác điều hành của Chính phủ ngày càng nhanh
nhạy, kịp thời và hiệu quả hơn. Thông qua Ban Cán sự đảng Chính phủ và các
cán bộ Đảng giữ các chức vụ quan trọng trong Chính phủ, Đảng lãnh đạo
Chính phủ thể chế hoá các chủ trương lớn của mình thành các văn bản quy
phạm pháp luật thuộc thẩm quyền của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ.
Hai là, Đảng đã lãnh đạo Chính phủ đổi mới phương thức hoạt động
theo yêu cầu cải cách hành chính nhà nước, tiến tới xây dựng một nền hành
chính công trong sạch, dân chủ, hiện đại và đặc biệt là xây dựng Chính phủ
“kiến tạo, phát triển, liêm chính, hành động quyết liệt, phục vụ nhân dân”
trong thời gian sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII đã có những chuyển
biến tích cực.
Ba là, thực tiễn giải quyết mối quan hệ giữa lãnh đạo của Đảng và điều
hành của Chính phủ đối với các vấn đề kinh tế - xã hội ngày càng thiết thực,
cụ thể, phù hợp với đòi hỏi cấp thiết của nhân dân.
Bốn là, xác định ngày càng rõ hơn mối quan hệ giữa Đảng và Chính

phủ, giữa Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị với Ban Cán sự Đảng của
Chính phủ. Với tư cách là người lãnh đạo chính trị, Đảng chỉ quyết định
những vấn đề về quan điểm, tư tưởng, chủ trương lớn để chỉ đạo, định hướng
cho Chính phủ tổ chức thực hiện. Đảng không quyết định những chủ trương
cụ thể thuộc phạm vi quản lý của Chính phủ.
Năm là, Đảng bố trí một số đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên
Trung ương Đảng tham gia Ban Cán sự Đảng Chính phủ, tham gia lãnh đạo
Chính phủ và các bộ, cơ quan ngang bộ (thông qua cơ chế Quốc hội bầu hoặc
phê chuẩn). Đảng lãnh đạo Chính phủ thông qua Ban Cán sự Đảng Chính phủ
trực thuộc Bộ Chính trị, còn Ban Cán sự Đảng các bộ và cơ quan ngang bộ
trực thuộc Ban Bí thư.
13


Sáu là, Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với Quân đội
nhân dân, Công an nhân dân và sự nghiệp quốc phòng - an ninh, tăng cường
sự quản lý tập trung thống nhất của Nhà nước đối với quốc phòng và an ninh.
Về hạn chế mối quan hệ giữa Đảng và Chính phủ
Một là, trong một số trường hợp chưa phân định rõ quyền lãnh đạo của
Đảng đối với quyền quản lý, điều hành của Chính phủ hoặc bộ, ngành.
Hai là, chưa thật làm rõ chức năng, nhiệm vụ của Ban Cán sự Đảng,
mối quan hệ giữa Ban Cán sự Đảng Chính phủ với Ban Cán sự Đảng của bộ,
ngành, quan hệ giữa Ban Cán sự đảng Chính phủ với Thường trực Chính phủ,
với tập thể Chính phủ; mối quan hệ giữa Ban Cán sự Đảng của bộ, ngành với
lãnh đạo bộ, ngành,với Đảng ủy bộ, ngành; mối quan hệ giữa bộ, ngành với
Đảng bộ khối các Cơ quan Trung ương vẫn còn nhiều điều bất cập.
Ba là, việc bố trí cán bộ Đảng vào bộ máy Nhà nước để lãnh đạo Chính
phủ và các bộ, ngành là vấn đề cực kỳ quan trọng của Đảng cầm quyền. Tuy
nhiên, cần lựa chọn đúng và bố trí đúng những cán bộ vừa có năng lực lãnh
đạo chính trị vừa có năng lực quản lý nhà nước, quản lý hành chính (gần đây

trường hợp của ông Vũ Huy Hoàng là một ví dụ điển hình cho điều nay).
3.4.3. Mối quan hệ giữa Đảng và cơ quan tư pháp
Về thành tựu mối quan hệ giữa Đảng và cơ quan tư pháp
Một là, Đảng đã xây dựng được phương thức lãnh đạo hoạt động tư
pháp thông qua xây dựng được Quy chế hoạt động của Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các ban Cán sự đảng của các cơ quan tư
pháp (Bộ Công an, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao)
và các ban chỉ đạo do Trung ương Đảng thành lập.
Hai là, Đảng đã xây dựng được một hệ thống quan điểm tư tưởng chỉ
đạo hoạt động ngành tư pháp, được thể hiện trong các nghị quyết, chỉ thị của
Bộ Chính trị, Ban Bí thư, lãnh đạo thể chế hóa những quan điểm đó thành
Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013, thành Luật tổ chức Tòa án nhân
dân và Luật tổ chức Viện Kiểm sát nhân dân (2002), và các đạo luật khác.
Ba là, đã xác định quan điểm về tổ chức bộ máy, nguyên tắc hoạt động
của cơ quan tư pháp và tiêu chuẩn bổ nhiệm chức danh tư pháp làm cơ sở cho
đổi mới, hoàn thiện tổ chức của tòa án nhân dân và viện kiểm sát nhân dân.
Bốn là, kiện toàn Ban Cán sự đảng Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm
sát nhân dân tối cao (đều trực thuộc Ban Bí thư).
Năm là, Đảng lãnh đạo ngành tòa án nhưng tôn trọng tính độc lập trong xét
xử của tòa án. Khi xét xử, tòa án chỉ tuân theo pháp luật, “Thẩm phán Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” (Điều 103, Hiến pháp năm 2013).
Sáu là, Đảng chỉ đạo việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan,
các chức danh tư pháp và nhân viên hoạt động trong cơ quan tư pháp, bảo đảm
cho cơ quan tư pháp làm tốt chức năng, nhiệm vụ được giao, bảo đảm cho
14


pháp luật được thực hiện nghiêm minh và thống nhất; góp phần bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, bảo vệ các quyền và lợi ích
chính đáng của công dân, chống bỏ lọt tội phạm và làm oan người vô tội,…

Về hạn chế mối quan hệ giữa Đảng và cơ quan tư pháp: vẫn còn tình
trạng một số tổ chức Đảng can thiệp sâu vào hoạt động nghiệp vụ của cơ quan
tư pháp; quá trình chỉ đạo các cơ quan tư pháp trong kiện toàn tổ chức, bộ máy,
chức năng, nhiệm vụ, cơ chế hoạt động và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ còn nhiều
hạn chế; mô hình cơ quan điều tra hiện nay cũng bộc lộ một số hạn chế. Ngoài
ra, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao vừa làm nhiệm vụ kiểm sát hoạt động tư
pháp vừa có cơ quan điều tra chuyên trách nhưng không có cơ chế kiểm tra từ
bên ngoài nên khó đảm bảo tính khách quan trong hoạt động điều tra.
3.4.4. Mối quan hệ giữa Đảng và chế định Chủ tịch nước
Chủ tịch Nước trong điều kiện Việt nam, mặc dầu được xác định là
người đứng đầu Nhà nước, song về chức năng nhiệm vụ không hoàn toàn
giống như nguyên thủ quốc gia ở các nước khác. Trên bình diện quan hệ quốc
tế thì với vị trí như của Chủ tịch Nước ở Việt Nam sẽ có những khó khăn nhất
định trong việc tham gia vào các cơ cấu phối hợp giữa các quốc gia. Trên lĩnh
vực đối ngoại, cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý chưa được cụ thể hoá;
trách nhiệm cụ thể của Chủ tịch Nước và Ban Bí thư Trung ương Đảng được
phân định chưa rõ, những mâu thuẫn nảy sinh giữa tập trung và dân chủ, giữa
tập trung và phân cấp chưa được giải quyết triệt để.
Với điều kiện Đảng lãnh đạo Nhà nước, cần có sự kết hợp giữa chức vụ
Chủ tịch nước và chức vụ Tổng Bí thư. Điều này khá phù hợp với điều kiện
Đảng cầm quyền như ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, Tổng bí thư sẽ do Đảng
giới thiệu ra ứng cử chức vụ Chủ tịch nước và đưa ra Quốc hội bầu. Như vậy,
Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch nước vừa là trung tâm đoàn kết của dân tộc, vừa là
trung tâm chính trị, có những quyền mang tính nghi thức nhưng bên cạnh đó
cũng rất thực quyền và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước
trong những thời điểm khẩn cấp và bức thiết, góp phần tăng cường hiệu lực và
hiệu quả, tính nhanh nhạy của bộ máy Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi
mới, phù hợp với xu hướng chính trị quốc tế hiện nay.
3.5. Thực trạng mối quan hệ trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động
của Đảng và Nhà nước theo Hiến pháp và pháp luật

Một là, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và cấp ủy
các cấp đã có nhiều chuyển biến rõ rệt trong nhận thức về tầm quan trọng, vị
trí, vai trò của công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng.
Hai là, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức Đảng hoạt
động trong khuôn khổ pháp luật. Đồng thời, Nhà nước cũng thường xuyên ủng
hộ, giúp đỡ tổ chức Đảng về vật chất cũng như tinh thần với các hoạt động của
tổ chức Đảng. Ngoài ra, Nhà nước cũng là lực lượng bảo vệ, đảm bảo cho sự
tồn tại của Đảng trong toàn xã hội.
15


Ba là, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn tồn tại một số hạn chế
cần tiếp tục khắc phục trong thời gian tới, như: vẫn còn một bộ phận cán bộ,
đảng viên chấp hành kỷ luật chưa nghiêm; việc vi phạm các quy định của
Đảng, pháp luật của Nhà nước còn diễn ra khá phổ biến; việc phối hợp giữa
Uỷ ban kiểm tra của Đảng với cơ quan Thanh tra của Nhà nước với các cơ
quan liên quan trong công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng có lúc,
có việc còn chậm, hiệu quả không cao…
3.6. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết đối với mối quan hệ giữa
Đảng và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Một là, giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đồng thời phát huy tính chủ
động, sáng tạo của các cơ quan Nhà nước
Hai là, cần phân định rõ “quyền lãnh đạo” của Đảng đối với quyền quản
lý, điều hành của Nhà nước và các cơ quan Nhà nước
Ba là, xây dựng và thể chế hoá các mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước
theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước cần các cơ
chế kiểm soát quyền lực, đặc biệt là kiểm soát quyền lực Nhà nước
Chương 4
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG

VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY
Để có thể thực hiện những điều đó một cách hiệu quả, thiết nghĩ giải
pháp đầu tiên phải làm ngay là đổi mới nhận thức và bổ sung lý luận về mối
quan hệ giữa Đảng và Nhà nước để dẫn dắt hành động trong thực tiễn.
4.1. Đổi mới nhận thức và bổ sung lý luận về mối quan hệ giữa Đảng
và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay
Xác định Đảng và Nhà nước vừa có những khác biệt rất minh bạch, vừa
có mối quan hệ chặt chẽ và thống nhất về mục đích hoạt động là điều quan
trọng nhất.
Qua quá trình nghiên cứu lý luận, thực tiễn ở Việt Nam, có thể rút ra
một số điểm khác biệt cơ bản về vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Đảng và
Nhà nước ở Việt Nam như sau:
Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà nước CHXHCN Việt Nam
+ Vai trò: lãnh đạo Nhà nước và xã + Vai trò: quản lý xã hội
hội.
+ Nội dung lãnh đạo: lãnh đạo toàn + Nội dung quản lý: quản lý
diện các vấn đề từ chính trị, kinh tế toàn diện kinh tế, chính trị, văn
đến văn hóa, xã hội; biểu hiện tập hoá, xã hội của đất nước; quản
16


trung nhất là lãnh đạo về chính trị và
tư tưởng, nhằm mục tiêu tạo ra một
khuôn khổ chính trị để Nhà nước thực
hiện đúng nhiệm vụ, thẩm quyền,
chức năng và vai trò của mình theo
quy định của pháp luật.
+ Hình thức lãnh đạo: lãnh đạo chủ
yếu bằng hệ tư tưởng - lý luận, đường

lối chiến lược, sách lược… (về tư duy
lý luận, chủ yếu phải qua nhận thức,
trí tuệ…).

lý việc thực hiện các nhiệm vụ
cơ bản của các cơ quan Nhà
nước; trực tiếp quản lý, điều
hành và tổ chức hoạt động của
các tổ chức Nhà nước…
+ Hình thức quản lý: quản lý xã
hội chủ yếu bằng Hiến pháp,
pháp luật, thiết chế Nhà
nước…(bắt buộc phải thực thi).

+ Phương pháp quản lý xã hội:
chủ yếu là hành chính, kinh tế,
thanh tra, giám sát (bắt buộc
theo pháp luật).
+ Mục đích đổi mới: giữ vững, nâng + Mục đích đổi mới: giữ vững,
cao vai trò, năng lực, hiệu quả, uy tín nâng cao vai trò, năng lực, hiệu
lãnh đạo của Đảng cầm quyền, lãnh quả, uy tín quản lí của Nhà
đạo.
nước.
+ Phương pháp lãnh đạo: chủ yếu là
tuyên truyền, giáo dục, kiểm tra, nêu
gương cán bộ, đảng viên và công tác
cán bộ của Đảng…

Nếu nhận thức đúng trên cơ sở khoa học chặt chẽ, khách quan và gắn
với thực tiễn theo quy luật nêu trên và vận dụng vào thực tiễn nghiêm túc sẽ

nhận thức rõ: Đảng và Nhà nước vừa có những khác biệt rất minh bạch, vừa
có mối quan hệ chặt chẽ và đặc biệt là sự thống nhất về mục đích chung trong
hoạt động. Đồng thời sẽ khắc phục sự chồng chéo, choán quyền, lạm quyền
hoặc thụ động lẫn nhau trong quan hệ giữa hai tổ chức cao nhất và quan trọng
nhất trong hệ thống chính trị của Việt Nam đang từng bước hoàn thiện.
Tuy nhiên, nếu xét riêng trong mối quan hệ với Đảng thì Nhà nước là
đối tượng bị lãnh đạo; còn đối với việc xây dựng và ban hành các chính sách
của Đảng thì Nhà nước lại đóng vai trò là cơ quan phản biện đối với các chính
sách của Đảng làm cho chính sách và công tác lãnh đạo của Đảng phù hợp với
thực tiễn đời sống của đất nước. Sự phản biện của Nhà nước đối với chính
sách của Đảng không khiến cho vai trò lãnh đạo của Đảng trở nên suy giảm
mà thúc đẩy vai trò lãnh đạo ấy bằng việc tạo ra sự đồng thuận về mặt xã hội,
về mặt chính sách đối với các chủ trương của Đảng, tạo sự thống nhất trong
kết hợp nguyện vọng của người dân, công dân do Nhà nước đại diện với lợi
ích của toàn dân, lợi ích của dân tộc mà Đảng là người đứng đầu. Đây cũng
là nét đặc thù trong sự thống nhất mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt
Nam cần được nhận thức đúng đắn và sử dụng phù hợp trong thực tiễn chính
trị Việt Nam.

17


Tóm lại, việc nhận thức đúng sẽ là tiền đề quan trọng cho việc đổi mới
mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước; đồng thời, khi có sự tác động của các
yếu tố khách quan thì việc kiên định trên cơ sở nhận thức đúng là điều đặc biệt
cần thiết.
4.2. Kiện toàn, sắp xếp, tinh giản bộ máy của Đảng và Nhà nước
Một là, kiện toàn, đổi mới tổ chức bộ máy các Ban tham mưu của Đảng.
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn thấu đáo, có dự báo tình hình trong
Đảng, trong nước và thế giới để tổ chức các Ban Đảng cho phù hợp, tránh tình

trạng sáp nhập, chia tách các ban Đảng không có cơ sở khoa học, không xuất
phát từ nhu cầu công tác. Do vậy, tổ chức Ban Đảng phải gọn nhẹ, có chất
lượng cao, phải xử lý hợp lý sự trùng lắp giữa bộ máy Đảng và bộ máy quản
lý nhà nước. Do vậy, đổi mới và kiện toàn các Ban của Đảng phải phù hợp với
chức năng lãnh đạo chính trị và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước trên cơ sở nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng mà xác định rõ
chức năng và nhiệm vụ của mỗi cơ quan tham mưu của Đảng phù hợp.
Hai là, rà soát, kiện toàn, sắp xếp, tổ chức lại các cơ quan, đơn vị thuộc
Trung ương Đảng và Chính phủ, Quốc hội, Viện Kiểm soát nhân dân, Toàn án
nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn, hiệu quả, một đơn vị thực hiện nhiều
chức năng, một người làm nhiều nhiệm vụ; một chức năng, nhiệm vụ chỉ có
một đơn vị chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính. Sắp xếp cơ cấu lại các
phòng chuyên môn của các Ban Đảng, các cơ quan Nhà nước theo hướng
giảm bớt số phòng. Nghiên cứu cơ chế để sớm thí điểm việc hợp nhất các Ban
Đảng và cơ quan Nhà nước có cùng chung một nhiệm vụ như: Ban Kiểm tra
với cơ quan Thanh tra; Ban Tổ chức và cơ quan Nội vụ,…Trên cơ sở kết quả
thí điểm sẽ triển khai các bước tiếp theo. Đồng thời, sửa đổi, bổ sung, điều
chỉnh, ban hành mới, hoàn thiện hệ thống các quy chế, quy định nhằm tập
trung vào điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ đối với các cơ
quan, đơn vị sau sắp xếp lại tổ chức, bộ máy.
Ba là, đổi mới hiệu quả quản lý biên chế cán bộ, công chức, viên chức
theo hướng vừa tập trung thống nhất, vừa mở rộng phân cấp khích lệ sáng tạo.
Ban hành và hoàn thiện tiêu chuẩn chức danh, phê duyệt đề án vị trí việc làm,
làm cơ sở xác định định mức biên chế, tuyển dụng, bố trí sử dụng, quy hoạch,
bổ nhiệm, đào tạo, bồi dưỡng và đánh giá cán bộ, công chức, viên chức.
Nghiên cứu cơ chế “khoán quỹ lương” để tiến tới dần bỏ các chỉ tiêu “biên
chế” trong các cơ quan Đảng và cơ quan Nhà nước nhằm tăng hiệu quả và
năng suất lao động.
Bốn là, xây dựng một đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất, trung
thành với lý tưởng của Đảng, với lợi ích của nhân dân và dân tộc, có trình độ

và năng lực hoạt động sáng tạo, xứng đáng là người “lãnh đạo, người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân”. Mặt khác, phải kiên quyết sàng lọc, đưa ra
khỏi tổ chức Đảng những cán bộ, đảng viên thoái hoá, biến chất, phai nhạt lý
18


tưởng, tham nhũng, quan liêu, mất sức chiến đấu, yếu kém, tiêu cực trong đạo
đức, lối sống, không có năng lực, trình độ, không được quần chúng tín nhiệm
để Đảng và Nhà nước vững mạnh.
Năm là, đổi mới mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong công tác tổ
chức bộ máy của Đảng và Nhà nước phải đồng bộ với đổi mới hoạt động của
các cơ quan Nhà nước, trước hết là của Quốc hội, Chính phủ và các Cơ quan
tư pháp.
4.3. Tiếp tục hoàn thiện thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực nhà
nước và công tác đánh giá, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo của Đảng và Nhà nước
Thứ nhất, tập trung hoàn chỉnh quy chế, quy trình đánh giá cán bộ trước
những đòi hỏi mới của thực tiễn. Đây là khâu rất quan trọng trong công tác
cán bộ, là căn cứ để lựa chọn, quy hoạch, sắp xếp, bố trí, bổ nhiệm và sử dụng
cán bộ đúng với năng lực, sở trường; đồng thời, là căn cứ để cơ quan Đảng và
Nhà nước chủ động trong việc đào tạo, bồi dưỡng, rèn luyện và sử dụng cán
bộ. Mọi cán bộ đều phải được nhận xét, đánh giá đúng định kỳ, đặc biệt là đối
với cán bộ trước khi được đề bạt, bổ nhiệm cần phải được đánh giá cụ thể, kết
luận rõ ràng và có hồ sơ kết quả đánh giá để theo dõi, kiểm tra quá trình thực
hiện nhiệm vụ. Điển hình trong thời gian gần đây là việc bổ nhiệm Trịnh Xuân
Thanh vẫn đúng quy trình nhưng thực chất hệ quả của việc bổ nhiệm này đã
để lại hậu quả nghiêm trọng, ảnh hưởng đến uy tín của Đảng và Nhà nước.
Thứ hai, xây dựng quy chế tuyển chọn cán bộ nhằm thu hút, phát hiện
người có tài, đức, đủ điều kiện đáp ứng yêu cầu chức trách của công việc đặt
ra. Tuy nhiên, việc phát hiện, lựa chọn đứng cán bộ tốt, nhân tài lại phụ thuộc
nhiều vào việc xây dựng và thực hiện các quy trình, quy chế tuyển chọn cán

bộ. Chính vì vậy, để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ hiện nay,
cấp ủy có thẩm quyền cần phải quan tâm hơn nữa việc xây dựng và thực hiện
tốt quy chế tuyển chọn cán bộ, theo hướng cần mở rộng hình thức thi tuyển để
tuyển chọn được người có đức, có tài bố trí vào những vị trí thích hợp để nâng
cao hiệu quả công việc. Đồng thời, phải mạnh dạn bồi dưỡng, thử thách để bổ
nhiệm những cán bộ trẻ có đủ tiêu chuẩn và có triển vọng vào các cương vị
lãnh đạo, quản lý.
Thứ ba, xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát việc phòng, chống tham
nhũng. Có thể khẳng định rằng, tham nhũng có nguyên nhân từ sự tha hóa
quyền lực và những kẻ tham nhũng trước hết là những người có chức, có
quyền. Do tham nhũng mà suy thoái về đạo đức, lối sống.
Thứ tư, ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và nghiêm khắc loại bỏ những cán bộ tha
hoá trong cơ quan Đảng và Nhà nước.
4.4. Nghiên cứu cơ chế luật hóa mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước
Hiện nay, vai trò của Đảng so với Nhà nước đã trở thành Đảng lãnh đạo,
Đảng duy nhất cầm quyền, vì vậy việc xây dựng chế độ dân chủ nhất nguyên
19


về chính trị và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân sẽ tạo cơ chế pháp lý phù hợp nhằm đảm bảo hoạt động của mối
quan hệ giữa Đảng và Nhà nước là đặc biệt cần thiết.
Một là, luật hoá hoạt động lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đã đến lúc cần thiết phải xây dựng bộ luật quy định về Đảng cầm quyền
lãnh đạo trong từng lĩnh vực, quy định về hệ thống tổ chức, bộ máy và hoạt
động của Đảng ở Trung ương và cả địa phương về một số quan điểm, nguyên
tắc lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước. Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng
duy nhất cầm quyền ở Việt Nam cho nên hoạt động của Đảng liên quan trực
tiếp không chỉ đến các đảng viên mà còn đến các công dân ngoài Đảng. Để tạo

thuận lợi cho các đảng viên và các công dân ngoài Đảng thực hiện đúng sự
lãnh đạo của Đảng thì cần có những quy định pháp luật cụ thể hơn về Đảng,
chứ không phải chỉ dừng lại ở những quy định nội bộ của Đảng. Việc xây
dựng hệ thống các quy chế về sự lãnh đạo của Đảng theo tinh thần: Đảng lãnh
đạo Nhà nước bằng Cương lĩnh, đường lối, quan điểm, chủ trương, các nghị
quyết, nguyên tắc giải quyết các vấn đề lớn, có ý nghĩa chính trị quan trọng,
phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của Nhà
nước trong quản lý đất nước và xã hội theo pháp luật.
Hai là, xây dựng quy định hoạt động của Đảng và Quốc hội, Chính phủ,
cơ quan tư pháp để hoạt động khoa học và chặt chẽ hơn.
Đối với Quốc hội, xây dựng, hoàn thiện cơ chế, quy chế cụ thể giải
quyết tốt hơn mối quan hệ giữa vai trò lãnh đạo về quan điểm, phương hướng,
chủ trương, nguyên tắc, giải pháp lớn của Ban chấp hành Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư (đối với những vấn đề kinh tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng, đối ngoại trọng đại của đất nước) với thẩm quyền quyết định của Quốc
hội trên những vấn đề này theo Hiến pháp và Luật tổ chức, hoạt động của
Quốc hội. Đối với Chính phủ, xác định rõ hơn và thực hiện nghiêm túc thẩm
quyền của Chính phủ, xác định rõ những loại việc Ban chấp hànhTrung ương,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư thực tiếp quyết định; những loại việc Bộ Chính trị,
Ban Bí thư cho ý kiến định hướng; những loại việc Chính phủ chủ động quyết
định theo thẩm quyền. Đối với các cơ quan tư pháp, cần tập trung vào việc bổ
sung, hoàn thiện quy chế về sự lãnh đạo của Đảng đối với các cơ quan tư
pháp, đảm bảo cho tòa án độc lập xét xử và xét xử tuân theo pháp luật. Để
đảm bảo sự lãnh đạo chính trị của Đảng đối với các cơ quan tư pháp, cấp ủy
chỉ đạo về chủ trương xử lý đối với một số vụ án đặc biệt nghiêm trọng có liên
quan đến an ninh chính trị, đối ngoại, đến cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban
Bí thư Trung ương Đảng quản lý khi nghe ý kiến của các cơ quan trong khối
nội chính về vụ án đó, không quyết định những vấn đề cụ thể thuộc thẩm
quyền của các cơ quan tư pháp.
4.5. Xây dựng Ban Chấp hành Trung ương Đảng trí tuệ, dân chủ và

đoàn kết là nhân tố quan trọng trong mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước
20


Nguồn lực con người là nhân tố căn bản, trung tâm trong các nguồn lực
cầm quyền của Đảng, là nhân tố quan trọng quyết định đến thành công của
mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước thành công trên thực tế. Nhân tố Uỷ viên
Ban chấp hành Trung ương Đảng có đầy đủ trí tuệ, dân chủ và thực sự đoàn
kết là nhân tố quan trọng. Để đảm bảo có được một Ban chấp hành Trung
ương mạnh, là trung tâm dân chủ, đoàn kết thống nhất trong Đảng, cần phải:
Một là, phải có sự quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và kiểm nghiệm qua
hoạt động thực tiễn ở địa phương, bộ, ngành đối với các đồng chí Ủy viên
Trung ương và nguồn Ủy viên Trung ương.
Hai là, phải xây dựng hệ thống tiêu chuẩn của ủy viên Ban chấp hành
Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Tổng Bí thư, Chủ tịch nước, Thủ tướng
Chính phủ, Chủ tịch Quốc hội.
Ba là, nghị quyết của Ban chấp hành Trung ương phải khoa học, chính
xác, là cơ sở quyết định thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, Nhà
nước và xã hội. Điều đó đòi hỏi nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương
phải khoa học, chính xác, khả thi.
Bốn là, đề cao trách nhiệm của Đảng trong công tác xây dựng Ban Chấp
hành Trung ương. Trước hết, lãnh đạo công tác nhân sự của Nhà nước, Quốc
hội, Chính phủ, lực lượng vũ trang và các tổ chức chính trị - xã hội là trách
nhiệm của Đảng, đồng thời cũng là cơ sở để tăng cường năng lực lãnh đạo,
mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước; là cơ sở về mặt con người vững chắc để
đảm bảo cho đường lối, chính sách của Đảng được Nhà nước thực hiện trong
thực tiễn; thứ hai, trách nhiệm xây dựng cho được đội ngũ Ban chấp hành
Trung ương trong sạch, vững vàng về chính trị, tư tưởng, thạo chuyên môn,
nhất là xây dựng được đội ngũ chuyên gia giỏi ở tầm chiến lược, hoạch định
đường lối, chính sách, một đột ngũ lãnh đạo vừa có tâm vừa có tầm từ Bộ

Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương...
Năm là, bổ sung nguyên tắc, nội dung Quy chế làm việc của Ban Chấp
hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ủy ban Kiểm tra Trung ương.
Nên bổ sung để Ủy ban Kiểm tra Trung ương sẽ có quyền kiểm tra, giám sát
về kê khai tài sản của cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý là
điểm mới trong Quy chế làm việc của Ủy ban Kiểm tra Trung ương khoá XII.
4.6. Nghiên cứu cơ chế nhất thể hóa chức danh Tổng Bí thư và Chủ
tịch Nước
Thực hiện chế độ Tổng Bí thư của Đảng đồng thời là Chủ tịch Nước là
phù hợp với cách tổ chức của nhiều Đảng cầm quyền trên thế giới (trong đó có
Trung Quốc và Lào là hai nước có nhiều nét tương đồng về chính trị và văn
hoá với Việt Nam nhất) nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà
nước và thuận lợi cho các hoạt động đối ngoại của đất nước trong quá trình
hội nhập quốc tế. Như vậy, việc nhất thể hoá sẽ đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng
đối với Nhà nước mà không gây ra sự trùng lặp về nội dung công tác, về trách
21


nhiệm và thẩm quyền giữa các cơ quan tham mưu của Đảng với các cơ quan
tham mưu của Nhà nước, không gây ra cảm giác có hai trung tâm quản lý và
chỉ đạo cụ thể riêng biệt. Nhất thể hoá sẽ khắc phục được việc một số lĩnh vực
mà Đảng trực tiếp lãnh đạo như quốc phòng, an ninh, đối ngoại… thì những
người đứng đầu các cơ quan đó lại là thành viên Chính phủ, chịu sự chỉ đạo
trực tiếp của Thủ tướng Chính phủ.
Nếu giải pháp nhất thể hoá Tổng Bí thư của Đảng kiêm chức Chủ tịch
Nước được thực hiện, thì cần thiết phải nghiên cứu nâng cao địa vị pháp lý
của Chủ tịch Nước trong bộ máy Nhà nước. Theo đó, nên ban hành luật riêng
về chế định Chủ tịch nước, xác định địa vị pháp lý của Chủ tịch Nước rõ hơn
trong hệ thống chính trị. Một số nội dung về quyền hạn của Chủ tịch Nước cần
được quy định cụ thể hơn và tạo cơ chế để Chủ tịch Nước thực thi trên thực tế,

ví dụ tham khảo quy định của Hiến pháp 1946 về khả năng trao quyền cho
Chủ tịch Nước yêu cầu Quốc hội thảo luận lại luật đã được Quốc hội thông
qua, nếu Chủ tịch Nước có những điểm chưa thật nhất trí và quyền chủ toạ
phiên họp của Chính phủ khi cần thiết...
Để làm tốt điều này, trước hết cần tháo gỡ những rào cản cơ chế sau:
Một là, khẩn trương rà soát, nghiên cứu ban hành hoặc sửa đổi các thể
chế cần thiết, tạo khung pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện “nhất thể hóa”
nhằm tạo sự đồng bộ trong tổ chức bộ máy.
Hai là, có cơ chế đặc thù để lựa chọn nhân sự Tổng Bí thư kiêm Chủ tịch
Nước và nghiên cứu cơ chế kiểm soát quyền lực và pháp chế hoá cơ chế này.
Ba là, phân biệt việc hợp nhất một số cơ quan Đảng và Nhà nước ở
Trung ương khác với việc nhất thể hoá các chức danh lãnh đạo.
Bốn là, sớm tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm các mô hình nhất thể
hoá các chức danh cấp trưởng của một số cơ quan tham mưu, giúp việc khối
Đảng và cơ quan chuyên môn khối chính quyền có chức năng, nhiệm vụ
tương đồng theo tinh thần nghị quyết hội nghị lần thứ 5, BCH Trung ương
khoá X. Nghiên cứu, thí điểm mô hình cơ quan tham mưu giúp việc chung
của Đảng và Nhà nước.
Năm là, tiếp tục thực hiện chủ trương đồng chí bí thư cấp ủy đồng thời
là chủ tịch hội đồng nhân dân; đồng chí bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch ủy
ban nhân dân ở cấp huyện, cấp xã; đồng thời có cơ chế, quy định về kiểm tra,
giám sát khi thực hiện và tiến tới nhân rộng ở cấp tỉnh để tạo tiền đề áp dụng ở
cấp Trung ương.
Sáu là, sớm nghiên cứu để luật hóa cơ chế quản lý, kiểm soát quyền lực
và trách nhiệm người đứng đầu, đảm bảo đổi mới mối quan hệ giữa Đảng và
Nhà nước ở Việt Nam hiện nay cũng chính là giải pháp căn cốt để xây dựng
Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; Nhà nước hoạt
động hiệu lực, hiệu quả, hiện đại và đáp ứng được nhu cầu mong đợi của nhân
dân Việt Nam.
22



KẾT LUẬN
Nghiên cứu mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay
hay giải quyết mối quan hệ giữa Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền là
một đòi hỏi cao so với yêu cầu của một luận án tiến sỹ, tác giả đã khiêm tốn
đưa ra một số nội dung nghiên cứu, có thể khái quát lại một số vấn đề như sau:
1- Đề tài này đã nghiên cứu, luận giải nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn,
góp phần thực hiện ý kiến quý báu đó và giải đáp yêu cầu của thực tiễn đặt ra.
Để có cơ sở cho việc khắc phục hạn chế trong thực tiễn về mối quan hệ đó, đề
tài đã cố gắng nghiên cứu toàn diện và đầy đủ cả về lý luận lẫn thực tiễn quan
hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay, góp phần xây dựng và hoàn
thiện nhân tố có vai trò quyết định hàng đầu cho quá trình chỉnh đốn, xây
dựng đảng và cải cách nhà nước theo hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, cho quá trình đổi mới hệ thống chính trị, xây dựng, hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa của Việt Nam. Đồng thời, đề tài xác định rõ thẩm quyền
và trách nhiệm giữa Đảng và Nhà nước, thể chế hóa vai trò lãnh đạo và vị trí
cầm quyền của đảng, tránh chồng chéo giữa chức năng lãnh đạo của Đảng với
chức năng quản lý của Nhà nước.
2- Đề tài đặc biệt quan tâm đến việc tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức
về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam hiện nay; xây dựng nhóm
giải pháp có chọn lọc; tổng kết thực tiễn mang tính khoa học cao. Ngoài
những nội dung giải pháp cần có, đề tài đã đề xuất những kiến giải mới về đổi
mới tổ chức và hoàn thiện hệ thống các cơ quan Đảng và Nhà nước, tiến hành
sát nhập một số cơ quan có chung chức năng, nhiệm vụ của Đảng và Nhà
nước, sắp xếp cơ quan tham mưu Trung ương Đảng đơn giản, gọn nhẹ, chất
lượng và đặc biệt đề tài đã mạnh dạn đề xuất nghiên cứu cơ chế Tổng Bí thư
kiêm chức Chủ tịch Nước. Mong muốn của luận án là người đứng đầu Đảng
và người đứng đầu Nhà nước sau khi nhất thể hoá sẽ tạo ra nhiều điều kiện
thuận lợi cho đất nước trong quá trình hội nhập và phát triển. Và qua đó, thiết

kế mô hình tổ chức, giao quyền và xác lập các mối quan hệ hợp lý hơn.
3- Trong giới hạn của đề tài, xác định pháp chế hoá, luật hoá như thế
nào để mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước ở Việt Nam vừa đảm bảo tính đặc
thù, vừa áp dụng được những kinh nghiệm quý báu từ mối quan hệ giữa Đảng
cầm quyền và bộ máy hành pháp trên thế giới vẫn là những vấn đề bức xúc
cần được quan tâm, là câu hỏi lớn đặt ra không chỉ cho những nhà nghiên cứu
khoa học, lý luận, mà cả các nhà chính tri, nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước.
4- Thực tiễn đất nước đã chỉ ra rằng, việc đổi mới mối quan hệ giữa
Đảng và Nhà nước hay bất kỳ sự đổi mới nào trên lĩnh vực chính trị cũng phải
23


×