Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Văn hóa hà nội viêt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 32 trang )

Văn hóa Hà Nội viêt nam


Mục lục
1

2

Văn hóa Hà Nội

1

1.1

Cung văn hóa . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

1

1.2

Nhà hát . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

1

1.3

Rạp chiếu phim . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

1

1.4



ư viện . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

2

1.5

Viện bảo tàng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

2

1.6

Ứng xử . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

3

1.7

Hà Nội trong văn học, nghệ thuật . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

4

1.7.1

Âm nhạc . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

4

1.7.2


Văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

4

1.7.3

Điện ảnh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

5

1.8

am khảo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

5

1.9

Liên kết ngoài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

5

Văn hóa Việt Nam

6

2.1

Đặc trưng cơ bản . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .


7

2.2

Tổ chức xã hội

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

7

2.3

Văn hóa Việt Nam theo quan điểm dân tộc học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

8

2.3.1

Tín ngưỡng . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

8

2.3.2

Tôn giáo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

9

2.3.3


Ngôn ngữ . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

10

2.4

2.5

Tính truyền thống qua phong tục, tập quán

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

12

2.4.1

Phong tục . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

12

2.4.2

Ẩm thực . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

12

2.4.3

Trang phục . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .


13

2.4.4

Lễ hội . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

14

2.4.5

Võ thuật

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

16

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

17

2.5.1

Văn học . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

17

2.5.2

Kiến trúc . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .


17

2.5.3

Điện ảnh

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

20

2.5.4

Mỹ thuật

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

20

2.5.5

Sân khấu . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

22

Nghệ thuật

i



ii

MỤC LỤC
2.5.6

Âm nhạc

. . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

22

2.6

Chú thích . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

22

2.7

Sách tham khảo . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

22

2.8

Liên kết ngoài . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

23

2.9


Nguồn, người đóng góp, và giấy phép cho văn bản và hình ảnh . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

28

2.9.1

Văn bản . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

28

2.9.2

Hình ảnh . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

28

2.9.3

Giấy phép nội dung . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .

29


Chương 1

Văn hóa Hà Nội
Hà Nội là một trong những trung tâm văn hóa lớn nhất ở Việt Nam.[1] Trên địa bàn thành phố tập trung rất
nhiều thư viện, bảo tàng, nhà hát cũng như các di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh. Các hoạt động biểu diễn
nghệ thuật ở Hà Nội cũng diễn ra rất sôi nổi và đa dạng.


1.1 Cung văn hóa
Cung văn hóa là nơi vừa tổ chức các hoạt động biểu diễn nghệ thuật, vừa tổ chức các sinh hoạt văn hóa cho cộng
đồng như các lớp học nghệ thuật, các cuộc thi về văn hóa. Cung văn hóa lớn nhất của Hà Nội là Cung văn hóa
hữu nghị Hà Nội (hay còn gọi là Cung văn hóa hữu nghị Việt Xô [2] ). Ngoài ra Hà Nội còn một số cung văn hóa
khác:
• Cung văn hóa thiếu nhi (bao gồm cả rạp Khăn quàng đỏ) [3]
• Cung văn hóa thanh niên nằm trên phố Tăng Bạt Hổ

1.2 Nhà hát
Nhà hát lớn nhất Hà Nội là Nhà hát lớn Hà Nội (thời xưa gọi là Nhà hát Tây[4] ), nơi tổ chức các buổi hòa nhạc
hoặc các buổi biểu diễn lớn. Ngoài ra thành phố cũng còn rất nhiều địa điểm biểu diễn nghệ thuật ở Hà Nội:
• Nhà hát chèo Trung ương
• Nhà hát múa rối Trung ương
• Nhà hát Trẻ
• Nhà hát tuồng Hà Nội
• Rạp Công nhân
• Rạp Hồng Hà

1.3

Rạp chiếu phim

• Trung tâm chiếu phim ốc gia
• Rạp Dân chủ
• Rạp áng Tám
• Rạp Tuổi trẻ
1



2

CHƯƠNG 1. VĂN HÓA HÀ NỘI

Nhà hát Lớn Hà Nội

• Rạp Ngọc Khánh
• Rạp Megastar Vincom

1.4 Thư viện
ư viện lớn nhất Hà Nội và cũng là lớn nhất cả nước là ư viện ốc gia Việt Nam nằm trên đường Tràng i.
Ngoài ra, Hà Nội còn nhiều thư viện khác:
• ư viện Hà Nội
• ư viện Khoa học Kỹ thuật
• ư viện Khoa học Xã hội

1.5 Viện bảo tàng
• Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam
• Bảo tàng Chiến thắng B52
• Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam
• Bảo tàng Hồ Chí Minh
• Viện Bảo tàng Lịch sử ân sự Việt Nam (trước là Viện Bảo tàng ân đội)
• Bảo tàng Lịch sử Việt Nam


1.6. ỨNG XỬ

3

Bảo tàng lịch sử Việt Nam


• Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam
• Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam

1.6 Ứng xử
Nhìn chung người Hà Nội thường có tính tự hào về xuất xứ của mình là người Hà Nội. Cùng với Huế, Hà Nội là
một trong hai địa phương mà người dân có tính tự tôn địa danh rất cao.
Chẳng thơm cũng thể hoa nhài
Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.
Tuy là thủ đô, trung tâm văn hóa của Việt Nam, nhưng một số sự kiện văn hóa tổ chức ở Hà Nội đã xảy ra nhiều
sự việc đáng chú ý, điển hình là vụ tàn phá hoa của người Hà Nội tại Lễ hội hoa anh đào diễn ra giữa thủ đô năm
2008,[5] hay những hành động thiếu ý thức, kém văn minh và đáng xấu hổ tại Lễ hội phố hoa Hà Nội vào Tết
Dương lịch 2009 tổ chức tại hồ Hoàn Kiếm.[6] Nhà văn Băng Sơn phát biểu: "Tôi cảm thấy buồn và xấu hổ. Người
Hà Nội làm xấu Hà Nội đi. Bao nhiêu năm hội hoa ở Đà Lạt, ở TP HCM mà không phải làm hàng rào vẫn giữ được
cho đến ngày cuối cùng". Những vụ việc trên đã dấy lên làn sóng phản đối mạnh mẽ từ dư luận cả nước trên các
phương tiện thông tin đại chúng, đặt câu hỏi lớn về “văn hóa người Tràng An” trong thời đại ngày nay. [7] Có
nhiều ý kiến nhận xét lối cư xử nhã nhặn, thanh lịch của người Hà Nội đang mất dần, thay vào đó là cách cư xử
xô bồ, tục tĩu, huỵch toẹt, thiếu văn hóa nhất là ở giới trẻ Hà Nội[8][9][10] . ậm chí còn có nhận xét "Người Hà
Nội chửi bậy như hát hay, khó sửa!".[11] Hà Nội còn nổi tiếng với "bún mắng, cháo chửi" ngày càng trở nên phổ
biến đã bị nhiều báo phản ánh và phê phán tuy nhiên các quán ăn có phong cách phục vụ vô văn hóa, thô lỗ,
xem thường, xúc phạm khách hàng này vẫn thu hút được nhiều người đến ăn[12][13][14][15][16][17][18] . Năm 2015,
nhân dịp Công viên nước Hồ Tây mở cửa miễn phí, hàng nghìn người đua nhau trèo rào để có cơ hội tắm miễn
phí gây nên hình ảnh thiếu văn minh. Hơn nữa, nhiều phụ nữ ở bể bơi bị sờ soạng bởi nhiều thanh niên.[19][20][21]


4

CHƯƠNG 1. VĂN HÓA HÀ NỘI

1.7 Hà Nội trong văn học, nghệ thuật

Có nhiều tác phẩm văn học, nghệ thuật được sáng tác với chủ đề về chính Hà Nội và con người Hà Nội.

1.7.1

Âm nhạc

• Bài ca Hà Nội - Nhạc và lời: Vũ anh
• Em ơi, Hà Nội phố - Nhạc: Phú ang, Lời: thơ Phan Vũ
• Gửi người em gái - Nhạc và lời: Đoàn Chuẩn
• Hà Nội đêm trở gió - Nhạc: Trọng Đài, Lời: Chu Lai - Trọng Đài
• Hà Nội mùa thu - Nhạc và lời: Vũ anh
• Hà Nội mùa vắng những con mưa - Nhạc: Trương ý Hải, Lời: dựa thơ Bùi anh Tuấn
• Hà Nội ngày trở về - Nhạc: Phú ang, Lời: Doãn anh Tùng
• Hà Nội niềm tin và hy vọng - Nhạc và lời: Phan Nhân
• Hà Nội và tôi - Nhạc và lời: Lê Vinh
• Hà Nội và tôi - Nhạc và lời: Trần iện anh
• Khúc hát người Hà Nội - Nhạc và lời: Trần Hoàn
• Người Hà Nội - Nhạc và lời: Nguyễn Đình i
• Nhớ mùa thu Hà Nội - Nhạc và lời: Trịnh Công Sơn
• Nhớ về Hà Nội - Nhạc và lời: Hoàng Hiệp
• Hà Nội ngày tháng cũ - Nhạc và lời: Song Ngọc
• Hướng về Hà Nội - Nhạc và lời: Hoàng Dương
• Nỗi lòng người đi - Nhạc và lời: Anh Bằng
• Mưa Sài Gòn, mưa Hà Nội - Nhạc và lời: Phạm Đình Chương
• Phố nghèo - Nhạc và lời: Trần Tiến
• Một thoáng Hồ Tây của Phó Đức Phương
• Hà Nội, tình yêu của tôi của Văn Dung
• Khúc hát người Hà Nội Trần Hoàn
• Hà Nội và tôi Lê Vinh


1.7.2

Văn học

• Hà Nội phố - thơ của Phan Vũ
• Phố - tiểu thuyết của Chu Lai
• Sống mãi với thủ đô - tiểu thuyết của Nguyễn Huy Tưởng
• Hà Nội ba mươi sáu phố phường - Tạp bút của ạch Lam
• ương nhớ 12 - tạp ghi của Vũ Bằng
• Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh (một vài chương)


1.8. THAM KHẢO

1.7.3

5

Điện ảnh

• Em bé Hà Nội - Đạo diễn: Hải Ninh
• Hà Nội mùa đông năm 46 - Đạo diễn: Đặng Nhật Minh
• Mùa hè chiều thẳng đứng - Đạo diễn Trần Anh Hùng

1.8 Tham khảo
[1] Ngọc iện Nguyễn, Sĩ Vịnh Hồ. Đề cương về văn hóa Việt Nam chặng đường 60 năm. Nhà xuất bản Chính trị quốc
gia, 2003. Trang 305.
[2] “Cung văn hóa Lao động Hữu nghị Việt Xô”. Truy cập 15 tháng 2 năm 2015.
[3] “Giới thiệu thông tin về cung thiếu nhi hà Nội”. Truy cập 15 tháng 2 năm 2015.
[4] Minh Trị Lưu. Tìm trong di sản văn hóa Việt Nam: ăng Long-Hà Nội. Nhà xuất bản Văn hoá-thông tin, 2002. Trang

116.
[5] Tuyết Anh (ngày 5 tháng 1 năm 2009). “Văn hóa thưởng thức cũng cần được tập dượt”. Báo ể thao Văn hóa. Truy
cập ngày 1 tháng 10 năm 2010.
[6] Đình Hiếu (ngày 5 tháng 1 năm 2009). “Viết cho lễ hội phố hoa Hà Nội năm 2010”. Báo ể thao Văn hóa. Truy cập
ngày 1 tháng 10 năm 2010.
[7] Anh ư (ngày 4 tháng 1 năm 2009). “Nhà văn Băng Sơn: 'Xấu hổ cho người Hà Nội'”. VnExpress. Truy cập ngày 1
tháng 10 năm 2010.
[8] “1001 thói xấu của người Hà Nội hiện đại”. 10 tháng 12 năm 2012. Truy cập 15 tháng 2 năm 2015.
[9] “an chức văn hóa đau lòng vì Hà Nội”. 4 tháng 1 năm 2013. Truy cập 15 tháng 2 năm 2015.
[10] “Vài lời tâm sự về văn hóa của một người Tây Nguyên gửi người Hà Nội”. 25 tháng 8 năm 2012. Truy cập 15 tháng 2
năm 2015.
[11] Người Hà Nội chửi bậy như hát hay, khó sửa!, Vietnamnet, 26/06/2015
[12] ““Bún mắng, cháo chửi” đang ngày càng phổ biến ở Hà Nội”. Báo điện tử Dân Trí. 21 tháng 9 năm 2013. Truy cập 15
tháng 2 năm 2015.
[13] “Bún 'mắng', cháo 'chửi' - VnExpress”. VnExpress - Tin nhanh Việt Nam. Truy cập 15 tháng 2 năm 2015.
[14] “'Không buồn với bún mắng, cháo chửi ở Hà Nội'”. Báo Tuổi Trẻ ủ Đô. Truy cập 15 tháng 2 năm 2015.
[15] “Bún 'mắng', cháo 'chửi', phở xếp hàng vẫn đắt khách”. Báo Điện tử Tiền Phong. Truy cập 15 tháng 2 năm 2015.
[16] “Nói người bán phở Hà Nội thô lỗ cũng chẳng oan sai”. 21 tháng 2 năm 2013. Truy cập 15 tháng 2 năm 2015.
[17] “Biết “bún mắng, cháo chửi” nhưng sao thực khách ở Hà Nội vẫn cứ ăn?”. 16 tháng 7 năm 2012. Truy cập 15 tháng 2
năm 2015.
[18] ““Bún mắng, cháo chửi” ở Hà Nội chỉ là một vài trường hợp cá biệt?”. 1 tháng 3 năm 2013. Truy cập 15 tháng 2 năm
2015.
[19] “Đua nhau trèo rào vào công viên tắm miễn phí - VnExpress”. VnExpress - Tin nhanh Việt Nam. Truy cập 25 tháng 4
năm 2015.
[20] “Người Nhật nói thẳng vụ tắm miễn phí công viên Hồ Tây”. Báo Đất Việt. Truy cập 25 tháng 4 năm 2015.
[21] “Phụ nữ bị quấy rối ở công viên nước Hồ Tây: Sự mông muội trong lốt văn minh”. Báo ể thao & Văn hóa - ông
tấn xã Việt Nam. Truy cập 25 tháng 4 năm 2015.

1.9 Liên kết ngoài
• Hà Nội lịch sử và văn hóa truyền thống

• Giao lưu trực tuyến với Nhà Hà Nội học Nguyễn Vinh Phúc
• Hà Nội - 1000 năm “ành phố nằm giữa các con sông”


Chương 2

Văn hóa Việt Nam

Một số đặc trưng của văn hóa Việt Nam: Phụ nữ Việt Nam với áo tứ thân, áo dài, nón quai thao đang chơi các nhạc cụ như đàn
bầu, tam thập lục, đàn tứ, k'lông pút. Trên tường treo đàn nguyệt, đàn tỳ bà, đàn nhị cùng tranh Tố Nữ

Văn hóa Việt Nam được hiểu và trình bày dưới các quan niệm khác nhau:
• an niệm thứ nhất: đó là đồng nhất văn hóa Việt Nam với văn hóa của người Việt, trình bày lịch sử văn
hóa Việt Nam chỉ như là lịch sử văn minh của người Việt.
• an niệm thứ hai: Văn hóa Việt Nam là toàn bộ văn hóa các dân tộc Việt Nam cư trú trên mảnh đất Việt
Nam, chỉ có văn hóa từng tộc người, không có văn hóa dân tộc/quốc gia.
• an niệm thứ ba: Văn hóa Việt Nam là cộng đồng văn hóa dân tộc/quốc gia, đây là nền văn hóa dân tộc
thống nhất trên cơ sở đa dạng sắc thái văn hóa tộc người. Khái niệm dân tộc/quốc gia chỉ một quốc gia
có chủ quyền, trong đó phần lớn công dân gắn bó với nhau bởi những yếu tố tạo nên một dân tộc. an
niệm thứ ba này hiện nay đang là quan niệm chiếm số đông bởi các nhà nghiên cứu, các nhà quản lý trong
lĩnh vực văn hóa Việt Nam, vì vậy nội dung về văn hóa Việt Nam sẽ được trình bày theo quan niệm thứ
ba, văn hóa Việt Nam theo hướng văn hóa dân tộc[1]
6


2.1. ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN

7

2.1 Đặc trưng cơ bản

Văn hóa Việt Nam dưới quan niệm là văn hóa dân tộc thống nhất trên cơ sở đa sắc thái văn hóa tộc người được
thể hiện ở ba đặc trưng chính:
• Đặc trưng thứ nhất: Việt Nam có một nền văn hóa phong phú và đa dạng trên tất cả các khía cạnh, người
Việt cùng cộng đồng 54 dân tộc có những phong tục đúng đắn, tốt đẹp từ lâu đời, có những lễ hội nhiều
ý nghĩa sinh hoạt cộng đồng, những niềm tin bền vững trong tín ngưỡng, sự khoan dung trong tư tưởng
giáo lý khác nhau của tôn giáo, tính cặn kẽ và ẩn dụ trong giao tiếp truyền đạt của ngôn ngữ, từ truyền
thống đến hiện đại của văn học, nghệ thuật.
• Đặc trưng thứ hai: Sự khác biệt về cấu trúc địa hình, khí hậu và phân bố dân tộc, dân cư đã tạo ra những
vùng văn hoá có những nét đặc trưng riêng tại Việt Nam. Từ cái nôi của văn hóa Việt Nam ở đồng bằng
sông Hồng của người Việt chủ đạo với nền văn hóa Kinh Kỳ, văn hóa làng xã và văn minh lúa nước, đến
những sắc thái văn hóa các dân tộc miền núi tại Tây bắc và Đông bắc. Từ các vùng đất biên viễn của Việt
Nam thời dựng nước ở Bắc Trung bộ đến sự pha trộn với văn hóa Chăm Pa của người Chăm ở Nam Trung
Bộ. Từ những vùng đất mới ở Nam Bộ với sự kết hợp văn hóa các tộc người Hoa, người Khmer đến sự đa
dạng trong văn hóa và tộc người ở Tây Nguyên.
• Đặc trưng thứ ba: Với một lịch sử có từ hàng nghìn năm của người Việt cùng với những hội tụ về sau của
các dân tộc khác, từ văn hóa bản địa của người Việt cổ từ thời Hồng Bàng đến những ảnh hưởng từ bên
ngoài trong hàng nghìn năm nay. Với những ảnh hưởng từ xa xưa của Trung ốc và Đông Nam Á đến
những ảnh hưởng của Pháp từ thế kỷ 19, phương Tây trong thế kỷ 20 và toàn cầu hóa từ thế kỷ 21. Việt
Nam đã có những thay đổi về văn hóa theo các thời kỳ lịch sử, có những khía cạnh mất đi nhưng cũng có
những khía cạnh văn hóa khác bổ sung vào nền văn hóa Việt Nam hiện đại.
Một số yếu tố thường được coi là đặc trưng của văn hóa Việt Nam khi nhìn nhận từ bên ngoài bao gồm tôn kính
tổ tiên, tôn trọng các giá trị cộng đồng và gia đình, thủ công mỹ nghệ, lao động cần cù và hiếu học. Phương Tây
cũng cho rằng những biểu tượng quan trọng trong văn hóa Việt Nam bao gồm rồng, rùa, hoa sen và tre.

2.2 Tổ chức xã hội
Từ ngàn năm nay, hai đơn vị xã hội quan trọng nhất trong văn hóa là Làng (thôn) và Nước (quốc gia). Tục ngữ
Việt Nam có câu “Làng đi đôi với nước”. Các đơn vị tổ chức trung gian là Huyện và Tỉnh.
an hệ họ hàng đóng một vai trò quan trọng ở Việt Nam. Không giống như sự nhấn mạnh cá nhân của văn
hóa phương Tây, văn hóa Phương Đông đánh giá cao vai trò của gia đình và tinh chất gia tộc. Trong văn hóa
phương Đông (đặc biệt là vòng Văn hóa chữ Hán), văn hóa Trung ốc coi trọng giá trị gia đình hơn gia tộc,

trong khi ở văn hóa Việt Nam đặt gia tộc cao hơn gia đình. Gia tộc luôn có một tộc trưởng, bàn thờ gia tộc (nhà
thờ họ), và đám tang người Việt luôn có sự tham gia của cả gia tộc.
Trước đây hầu hết các cư dân ở một địa phương có quan hệ huyết thống. Điều đó thực tế vẫn còn thấy trong tên
làng như Đặng Xá (nơi có người họ Đặng là chủ yếu), Châu Xá, Lê Xá… Ở vùng Tây Nguyên truyền thống nhiều
gia đình trong một gia tộc cư trú trong một nhà dài vẫn còn phổ biến. Ở nông thôn Việt Nam ngày nay, ta vẫn
có thể thấy ba hay bốn thế hệ sống dưới một mái nhà.
Bởi vì mối quan hệ họ hàng có vai trò quan trọng trong xã hội, nên tồn tại một hệ thống phân cấp phức tạp các
mối quan hệ. Trong xã hội Việt Nam, có chín thế hệ khác nhau. Người trẻ tuổi có thể có một vị trí cao hơn trong
hệ thống phân cấp của gia đình hơn và vẫn phải được tôn trọng như một người lớn tuổi. Ví dụ, nếu cha mẹ, của
một đứa trẻ lớn tuổi, có một người anh/chị lớn tuổi có con trẻ hơn so với con mình, thì con họ sẽ ở vị trí thấp
hơn trong gia đình. Nói cách khác, bạn phải đối xử với người anh em họ của bạn trẻ tuổi như một người lớn tuổi,
nếu cha của bạn là em trai của bố người anh em họ đó.
Hệ thống phức tạp của các mối quan hệ, là kết quả của cả Nho giáo và các chuẩn mực xã hội được chuyển tải
thông qua việc sử dụng rộng rãi của các đại từ khác nhau trong tiếng Việt, trong đó có một mảng rộng lớn của
sự kính trọng để biểu thị trạng thái của người nói liên quan đến những người mà họ đang nói chuyện đến. Xưng
hô trong tiếng Việt đã trở thành đặc trưng của văn hóa Việt Nam.[2]


8

CHƯƠNG 2. VĂN HÓA VIỆT NAM

2.3 Văn hóa Việt Nam theo quan điểm dân tộc học
2.3.1

Tín ngưỡng

Tín ngưỡng thờ bà Ponagar/Thiên Y A Na được cả người Chăm và người Việt thờ tại Nha Trang

Như mọi nơi trên thế giới, từ thuở xa xưa các dân tộc trên đất Việt Nam đã thờ rất nhiều thần linh. Các dân tộc

thờ tất cả các thế lực vô hình và hữu hình mà thực chất là các hiện tượng thiên nhiên và xã hội chưa thể giải
thích được vào thời đó. Ngày nay nhờ những nghiên cứu, những lễ hội, những phong tục hiện hữu chúng ta biết
nhiều hơn về cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của các dân tộc Việt Nam cổ nói chung và tín ngưỡng của
họ nói riêng[3]
Người xưa cho rằng bất cứ vật gì cũng có linh hồn, nên người ta thờ rất nhiều thần, nguyên thủy họ thờ thần
Mặt Trời, thần Mặt Trăng, thần Đất, thần Sông, thần Biển, thần Sấm, thần Mưa,…những vị thần gắn với những
ước mơ thiết thực của cuộc sống người dân nông nghiệp. Đi sâu vào cuộc sống hằng ngày họ thờ thần Nông là
thần trông coi việc đồng áng, thần Lúa, thần Ngô với hy vọng lúc nào ngô lúa cũng đầy đủ. Không chỉ các vị
thần gắn với đời sống vật chất, các dân tộc còn thờ các vị thần gắn với đời sống tinh thần của họ. người Việt thờ
các thần ành Hoàng, các vị anh hùng dân tộc, các vị thần trong đạo mẫu. Họ là các vị thần có công lớn với đất
nước, với làng xã, dân chúng thờ phụng các vị thần này để tỏ lòng biết ơn và cầu mong các vị phù hộ họ. Cũng
như người Việt, người Hoa thờ các vị thần an Công, ần Tài. Người Chăm thờ các vị thần như Po Nagar, Po
Rome,…
ờ cúng tổ tiên và cúng giỗ người đã mất là một tục lệ lâu đời của người Việt và một số dân tộc khác. Họ tin
rằng linh hồn của tổ tiên cũng ở bên cạnh con cháu và phù hộ cho họ. Chính vì như vậy nên gia đình nào cũng
có bàn thờ tổ tiên và bàn thờ được đặt nơi trang trọng nhất trong nhà. Ngoài các ngày giỗ, tết thì các ngày mùng
một, ngày rằm họ thắp hương như một hình thức thông báo với tổ tiên ông bà. Nói đến tục thờ cúng tổ tiên,
người ta đều biết tới một ngày giỗ tổ chung cho cho người Việt đó là ngày giỗ tổ Hùng Vương vào ngày 10 tháng
3 (âm lịch)


2.3. VĂN HÓA VIỆT NAM THEO QUAN ĐIỂM DÂN TỘC HỌC

9

Cụ già mặc áo dài the cúng Tất Niên nhân dịp Tết Nguyên Đán

2.3.2

Tôn giáo


Trên danh nghĩa, các tôn giáo ở Việt Nam gồm: Phật giáo Đại thừa, Khổng giáo và Đạo giáo (được gọi là “Tam
giáo”). Có một số tôn giáo khác như Công giáo Rôma, Cao Đài và Hòa Hảo. Những nhóm tôn giáo có ít tín đồ
hơn khác gồm Phật giáo Tiểu thừa, Tin Lành và Hồi giáo.
Phần đông đa số người dân Việt Nam xem họ là nhưng người không có tín ngưỡng, mặc dù họ cũng có đi đến
các địa điểm tôn giáo vài lần trong một năm. Người Việt Nam được cho là ít có tinh thần tôn giáo, các tôn giáo
thường được tập trung ở mặt thờ cúng, mặt giáo lý ít được quan tâm.
Với sự biến động của lịch sử các dân tộc tại Việt Nam, trải qua hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, đời sống tinh thần nói
chung của người dân Việt Nam bị ảnh hưởng rất nhiều của văn hoá Trung Hoa. Với ba hệ tư tưởng Tam giáo
đã thâm nhập vào đời sống tinh thần cũng như vào tôn giáo của người Việt Nam là Đạo giáo, Nho giáo và Phật
giáo. Đạo giáo và Nho giáo có nguồn gốc từ Trung ốc và thâm nhập vào Việt Nam từ những thế kỷ đầu công
nguyên qua tầng lớp thống trị người Trung Hoa[3]
Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ và có hai phái đã du nhập vào Việt Nam bằng hai ngả khác nhau: phái Đại thừa
vào Việt Nam qua Trung ốc cùng với Đạo giáo và Nho giáo. Còn phái Tiểu thừa qua các nước Đông Nam Á
láng giềng vào Việt Nam thịnh hành ở cộng đồng người Khmer ở Đồng bằng sông Cửu Long
Tam giáo có những thời kỳ phát triển rất mạnh và cũng có lúc mờ nhạt tại Việt Nam, nhưng nhìn chung ảnh
hưởng của Tam giáo rất sâu rộng trong các tầng lớp dân chúng, nhất là Phật giáo. Và đến lượt mình, các tầng
lớp dân chúng tại Việt Nam đã tiếp thu các tôn giáo mới một cách có chọn lọc và sáng tạo, hay nói cách khác
các tôn giáo mới du nhập đã được bản địa hoá để phù hợp với phong tục tập quán và tín ngưỡng của người dân
địa phương
Công giáo được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ 16, tuy việc truyền đạo lúc bấy giờ gặp nhiều khó khăn nhưng
ở Việt Nam từ lúc đầu cũng đã có một số lượng người theo Công giáo, từ cuối thế kỷ 19 khi thực dân Pháp đã
xâm lược hoàn toàn Việt Nam thì việc truyền đạo mới được tự do dễ dàng. Hiện nay Việt Nam có khoảng 8% dân


10

CHƯƠNG 2. VĂN HÓA VIỆT NAM

Tín đồ đạo Cao Đài ở Tây Ninh


số là tín đồ Công giáo, đứng hàng thứ 2 ở Đông Nam Á sau Philippines
Cùng với Công giáo, một hệ phái khác của đạo Cơ đốc là Tin Lành cũng xâm nhập vào Việt Nam từ đầu thế
kỷ 20, đạo Tin Lành được phổ biến tới các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc, Tây Nguyên,…ước tính hiện nay có
khoảng hơn 1 triệu người theo đạo
Đạo Hồi là tôn giáo của một bộ phận người Chăm ở Việt Nam, được du nhập vào từ thế kỷ 15 tại vương quốc
Chăm Pa ở miền Trung Việt Nam, sau đó theo chân một bộ phận người Chăm di cư tới vùng An Giang, Tây Ninh
vào thế kỷ 19
Ngoài các tôn giáo du nhập từ bên ngoài trên, tại miền Nam Việt Nam có các tôn giáo Hoà Hảo và Cao Đài. Đây
là hai tôn giáo bản địa Việt Nam, đạo Hoà Hảo được sáng lập từ năm 1939 và đạo Cao Đài được sáng lập từ năm
1926. Hiện nay hai tôn giáo bản địa này phát triển mạnh khắp Nam Bộ và ra cả một số tỉnh ở miền Trung và Tây
Nguyên và miền Bắc.

2.3.3

Ngôn ngữ

Về mặt ngôn ngữ, các nhà dân tộc học đã chia các dân tộc ở Việt Nam thành 8 nhóm ngôn ngữ của họ:
• Nhóm Việt-Mường: gồm người Việt, người Mường, người Chứt, người ổ
• Nhóm Tày-ái: gồm người Tày, ái, Nùng, Bố Y, Sán Chay, Lào,…
• Nhóm Dao-Hmông: gồm người Hmông, Dao, Pà ẻn,…
• Nhóm Tạng-Miến: gồm người Hà Nhì, Lô Lô, Si La, La Hủ,…
• Nhóm Hán: gồm người Hoa, Sán Dìu, Ngái,…


2.3. VĂN HÓA VIỆT NAM THEO QUAN ĐIỂM DÂN TỘC HỌC

11

Một trang Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum tức Từ điển Việt-Bồ-La in năm 1651


• Nhóm Môn-Khmer: gồm người Khmer, Kháng, Hrê, Xơ Đăng, Ba Na, Khơ Mú, Cơ Ho, Mạ, Xinh Mun,…
• Nhóm Mã Lai-Đa đảo: gồm người Chăm, Gia Rai, Ê Đê, Ra Glai, Chu Ru,…
• Nhóm hỗn hợp Nam Á: gồm la Chí, La Ha, Pu Chéo, Cơ Lao,…
Tiếng Việt thuộc về ngôn ngữ Việt-Mường, hiện nay là ngôn ngữ chính thức của nước Việt Nam, là tiếng mẹ đẻ


12

CHƯƠNG 2. VĂN HÓA VIỆT NAM

của người Việt và đồng thời là ngôn ngữ hành chính chung của 54 dân tộc sống trên đất nước Việt Nam, tiếng
Việt được 86% người dân sử dụng. Mặc dù là ngôn ngữ chung của người Việt nhưng nó có sự khác biệt về mặt
ngữ âm và từ vựng ở các vùng miền dẫn tới phương ngữ tiếng Việt được phân chia làm nhiều vùng phương ngữ
khác nhau từ miền Bắc, miền Trung và miền Nam
Về nguồn gốc, tiếng Việt được xem là có nguồn gốc với ngôn ngữ Nam Á về mặt từ vựng kết hợp với ngôn ngữ
Tày-ái về mặt thanh điệu. Trong quá trình phát triển Tiếng Việt đã tiếp thu và đồng hoá nhiều từ Hán và được
gọi là từ Hán-Việt, ngoài ra tiếng Việt còn tiếp thu một số lượng khá lớn các từ khoa học kỹ thuật của các ngôn
ngữ Pháp, Nga, Anh từ đầu thế kỷ 20 đến nay[3]
Về chữ viết, theo một số nghiên cứu khảo cổ, từ thời Hùng Vương người Việt đã có chữ viết riêng gọi là chữ
Khoa Đẩu mà người Trung ốc miêu tả là giống đàn nòng nọc đang bơi. Tới thời Bắc thuộc, chữ Hán là chữ
viết chính thức ở Việt Nam. Sau khi dành độc lập từ thế kỷ 10, với ý thức dân tộc cũng như các từ vựng không
có trong chữ Hán, người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm dùng song hành với chữ Hán. chữ Nôm được hoàn chỉnh
vào thế kỷ 12 và phát triển rực rỡ vào thế kỷ 18. Tuy nhiên chữ Nôm chỉ được dùng trong lĩnh vực văn chương,
còn trong hành chính thì vẫn dùng chữ Hán
Từ thế kỷ 17, khi các nhà truyền giáo phương Tây vào Việt Nam truyền đạo Công giáo đã dựa trên ký tự Latinh
để chuyển âm tiếng Việt sang chữ Lalinh và đây là cơ sở cho sự ra đời của chữ ốc ngữ hiện nay của Việt Nam.
Mặc dù chữ quốc ngữ đã có từ thế kỷ 17 nhưng phải tới đầu thế kỷ 20 khi người Pháp đô hộ hoàn toàn Việt Nam
thì họ mới cho phổ biến chữ ốc ngữ làm thành một công cụ giao tiếp thuận lợi trong xã hội Việt Nam
Ngoài chữ ốc ngữ là chữ viết chung của người Việt và của Việt Nam, một số dân tộc khác cũng sử dụng song

hành chữ viết của dân tộc mình như chữ Khmer của người Khmer ở Nam Bộ, chữ Akhar rah của người Chăm,
chữ ái của người ái ở vùng Tây bắc, chữ Mnông của người Mnông ở Tây Nguyên,…nhằm gìn giữ văn hoá
của dân tộc mình cũng như tiếp nhận các tri thức mới từ chữ quốc ngữ dịch sang. eo thống kê hiện nay có 26
dân tộc thiểu số tại Việt Nam có chữ viết riêng của mình ngoài chữ ốc ngữ

2.4 Tính truyền thống qua phong tục, tập quán
2.4.1

Phong tục

eo nghĩa Hán-Việt, Phong là nền nếp đã lan truyền rộng rãi và Tục là thói quen lâu đời. Phong tục ở Việt Nam
có truyền thống lâu đời hàng ngàn năm nay, nó đã trở thành luật tục, sâu đậm và gắn chặt trong người dân có
sức mạnh hơn cả những đạo luật. eo sự thăng trầm của lịch sử của dân tộc, phong tục của người Việt Nam
cũng không ngừng biến đổi theo trào lưu biến đổi văn hoá xã hội. Tuy nhiên có những phong tục mất đi những
cũng có nhưng phong tục khẳng định được tính đúng đắn, cái hay, cái đẹp của nó qua việc những phong tục đó
còn hiện hữu trong cuộc sống ngày nay của người Việt Nam[4]
Sớm nhất được nhắc đến trong lịch sử là tục ăn trầu có từ thời Hùng Vương trải qua hàng nghìn năm người Việt
cùng một số dân tộc khác vẫn giữ được tập tục này trong cuộc sống ngày nay, tục ăn trầu bắt nguồn từ truyện
sự tích Trầu Cau để rồi thành biểu tượng cho tình anh em, vợ chồng của người Việt, theo thời gian ý nghĩa của
tục ăn trầu được mở rộng sang việc giao hiếu, kết thân của người Việt Nam[5]
Cùng ra đời từ xa xưa với tục ăn trầu là phong tục đón năm mới hay còn gọi là Tết, Tết vừa là một phong tục
đồng thời cũng là một tín ngưỡng và cũng là một lễ hội của người Việt cùng một số dân tộc khác. Một số dân
tộc khác đón năm mới trong thời gian khác và tên gọi đặc trưng của mình như Chol Chnam may (khoảng
tháng 4) của người Khmer, Katê (khoảng tháng 10) của người Chăm Bàlamôm,…Từ Tết Nguyên Đán đón năm
mới, theo thời gian với những ảnh hưởng từ Trung ốc, người Việt Nam bổ sung thêm vào những phong tục
Tết khác như Tết Nguyên tiêu, Tết Hàn thực, Tết Đoan ngọ, Tết Trung thu, Tết anh minh[6]
Không thấy nhắc đến sớm trong sử sách nhưng các phong tục hôn nhân, sinh đẻ, tang lễ, cũng đã song hành với
người Việt Nam từ xa xưa và đến ngày nay vẫn là những phong tục gắn liền với đời sống người Việt Nam

2.4.2


Ẩm thực


2.4. TÍNH TRUYỀN THỐNG QUA PHONG TỤC, TẬP QUÁN

13

Đám cưới của người Ê Đê ở Đắk Lắk, một phong tục ít nhiều ảnh hưởng từ đám cưới của người Việt

Ẩm thực Việt Nam chú trọng ăn ngon tuy đôi khi không đặt mục tiêu hàng đầu là ăn bổ. Bởi vậy trong hệ thống
ẩm thực người Việt ít có những món hết sức cầu kỳ, hầm nhừ ninh kỹ như ẩm thực Trung Hoa, cũng không thiên
về bày biện có tính thẩm mỹ cao độ như ẩm thực của Nhật Bản, mà thiên về phối trộn gia vị một cách tinh tế để
món ăn được ngon, hoặc sử dụng những nguyên liệu dai, giòn thưởng thức rất thú vị dù không thực sự bổ béo.
Trong thực tế nhiều người nhận thấy, một cách cảm tính, đặc trưng ẩm thực Việt Nam là sự trung dung trong
cách pha trộn nguyên liệu không quá cay, quá ngọt hay quá béo. Các nguyên liệu phụ (gia vị) để chế biến món
ăn Việt Nam rất phong phú, bao gồm nhiều loại rau thơm, gia vị thực vật, quả hoặc lá non; các gia vị lên men và
các gia vị đặc trưng của các dân tộc Đông Nam Á nhiệt đới nói trên được sử dụng một cách tương sinh hài hòa
với nhau và thường thuận theo nguyên lý "âm dương phối triển”.
Số lượng món ăn và cách thức kết hợp thực phẩm trong món ăn Việt Nam là vô cùng đa dạng do có sự kết hợp
Đông Tây, ẩm thực Trung Hoa và ẩm thực các nước Đông Nam Á, đặc biệt là sự sáng tạo của người Việt để bản
địa hóa và tìm ra những phương thức thích hợp nhất. Có những món ăn không hề thay đổi trong hàng nghìn
năm qua. (Danh sách các món ăn Việt Nam)
Năm 2015, CNN đã công bố Top 8 nền ẩm thực mới nổi có sức lan tỏa nhất thế giới, trong đó có Việt Nam[7] .
Tuy nhiên việc thịnh hành ẩm thực phương Tây nhất là ở các đô thị, trong một bộ phận dân chúng nhất là người
giàu và sính ngoại đe dọa đến bản sắc ẩm thực Việt Nam, và cả nông sản Việt Nam.

2.4.3

Trang phục


Trang phục Việt Nam rất đa dạng. Ở thời phong kiến, người ta có những quy định rất khắt khe về cách ăn mặc.
Dân thường không được phép mặc đồ nhuộm bất kì màu nào khác ngoài những màu đen, nâu hay trắng. ần
áo của người dân hầu hết là tầm thường và đơn sơ, để hợp với thân phận của mình trong xã hội (ngoài những
dịp lễ quan trọng hoặc lễ cúng tế, đám cưới…).


14

CHƯƠNG 2. VĂN HÓA VIỆT NAM

Đám cưới trên đường quê

Một trong những y phục cổ xưa nhất được người phụ nữ bình dân mặc cho đến đầu thế kỉ XX là bộ "Áo tứ thân”.
Có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng là "Áo tứ thân” có thể đã ra đời từ thế kỷ 12.Trong đời sống thường nhật ngày
nay, trang phục đã theo phong cách phương tây. Những bộ quần áo truyền thống chỉ được mặc trong những dịp
đặc biệt.
Ngoài ra, áo dài cho cả nam lẫn nữ được coi như quốc phục của Việt Nam.

2.4.4

Lễ hội

Cũng giống như nhiều nước khác, Việt Nam là một nước có nhiều lễ hội dân gian là hình thức sinh hoạt của
cộng đồng. Trong lễ hội, các lễ nghi tín ngưỡng, các phong tục tập quán, các thể lệ và hình thức sinh hoạt của
một cộng đồng đã được tái hiện một cách rất sinh động. Lễ hội được tổ chức vào những thời điểm khác nhau
trong một năm, tuỳ thuộc vào phong tục tập quán của từng dân tộc, nhưng lễ hội vẫn tập trung nhiều nhất vào
mùa Xuân[3]
Việt Nam có nhiều loại lễ hội lớn và long trọng như lễ tế các thần linh, các lễ hội nhằm tưởng nhớ tới công ơn
tổ tiên, nòi giống như hội Đền Hùng, có những lễ hội tưởng nhớ tới các anh hùng như hội Đền Mẫu Đợi, hội

Gióng, hội Đền Kiếp Bạc, hội Đống Đa, có những lễ hội tưởng nhớ người có công mở mang bờ cõi, các ông tổ
các ngành nghề,…của người Việt. Bên cạnh các lễ hội lớn của người Việt, các dân tộc khác cũng có những lễ hội
lớn như lễ hội Katê của người Chăm, lễ cúng Trăng của người Khmer, lễ hội xuống Đồng của người Tày, người
Nùng, Lễ hội hoa ban của người ái, Hội đua voi của người Mnông,..[8]
Ngoài các lễ hội lớn và long trọng tại Việt Nam từ bắc đến nam còn có hàng nghìn lễ hội lớn nhỏ khác nhau của
các dân tộc Việt Nam. Các lễ hội ở Việt Nam rất đa dạng, những lễ hội về nông nghiệp, hội văn nghệ vui chơi,
thi tài, hội giao duyên, hội lịch sử,… Đặc biệt là hội mừng năm mới (Tết Nguyên Đán) của người Việt và một số
dân tộc khác
Cùng với các lễ hội dân gian, các lễ hội của các tôn giáo ban đầu chỉ mang ý nghĩa nội bộ nhưng theo thời gian
các lễ hội đó lan sang các tầng lớp xã hội khác và thành những lễ hội mang tính cộng đồng như lễ Phật đản của


2.4. TÍNH TRUYỀN THỐNG QUA PHONG TỤC, TẬP QUÁN

Phụ nữ trong bộ áo dài được cải tiến mang tính thời trang hiện đại

15


16

CHƯƠNG 2. VĂN HÓA VIỆT NAM

trò chơi Bịt mắt bắt Dê của người Việt tại Hội Lim, Bắc Ninh

Phật giáo và lễ Noel của Công giáo.

2.4.5

Võ thuật


Võ thuật Việt Nam là tên gọi khái quát hệ thống võ thuật, các võ phái, bài thảo, võ sư khai sinh và phát triển
trên đất nước Việt Nam, hoặc do người Việt làm chưởng môn, gây dựng sáng tạo tại ngoại quốc từ xưa đến nay,
có những đặc trưng riêng biệt trong sự đối sánh với các võ phái nước ngoài khác. Võ thuật Việt Nam có nội hàm
khái niệm rộng hơn thuật ngữ võ cổ truyền Việt Nam (thường biết đến với tên gọi võ Ta phân biệt với võ Tàu)
vốn thường dùng để chỉ những võ phái đã phát triển trong khoảng từ giữa thế kỷ 20 trở về trước trên lãnh thổ
Việt Nam, theo đó, võ thuật Việt Nam có thể bao gồm cả những môn phái mới sinh thành trong thời điểm hiện
tại, và bao quát cả những võ phái đã phát triển trong suốt trường kỳ lịch sử Việt Nam.
Các phái võ Việt Nam, hay còn được gọi với tên “Võ thuật Cổ Truyền” vẫn thể hiện những đặc điểm khác biệt
rõ rệt với các nền võ học khác trên thế giới nói chung và Trung Hoa nói riêng:
1. Sự xuất hiện của lời thiệu bằng thơ, phú;
2. Bộ pháp vận hành theo đồ hình bát quái (lưỡng túc bát quái vi căn), khi đứng thì vững như đá tảng, khi di
chuyển thì nhẹ nhàng linh hoạt như lá bay;
3. Bộ tay áp dụng theo ngũ hành pháp (song thủ ngũ hành vi bản);
4. Kỹ thuật đòn thế được chọn lọc, phân thế riêng phù hợp với cách đánh của từng dạng đối tượng, địa hình,
nhất là lối đánh cận chiến một người chống lại nhiều người;
5. Tận dụng triệt để lối đánh “cộng lực” - dựa vào sức lực đối phương để triệt hạ đối phương.


2.5. NGHỆ THUẬT

17

2.5 Nghệ thuật

Nghệ thuật của một dân tộc là yếu tố đặc trưng nhất và tiếp cận nhanh nhất với thế giới bên ngoài trong bối
cảnh toàn cầu hóa hiện nay. Nền nghệ thuật Việt Nam có từ hàng nghìn năm nay, bắt đầu từ nghệ thuật truyền
thống hay còn gọi là nghệ thuật dân gian Việt Nam.

2.5.1


Văn học

Cũng như nền văn học của các nước khác trên thế giới, văn học Việt Nam bao gồm hai bộ phận đó là văn học
dân gian và văn học viết. Văn học dân gian là văn học truyền miệng của người dân và văn học viết gồm có văn
học chữ Hán, văn học chữ Nôm và văn học chữ ốc ngữ.
Kho tàng văn học dân gian của Việt Nam rất phong phú và đa dạng, để giữ gìn những truyền thống quý báu của
dân tộc, để bảo tồn những kinh nghiệm sống, kinh nghiệm sản xuất của các thế hệ người Việt Nam khi đại đa
số người dân trong thời phong kiến không có điều kiện biết chữ Hán, một hình thức văn học dân gian truyền
miệng đã ra đời và được truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác tại Việt Nam. Đó là những câu chuyện thần
thoại như ần Trụ Trời của người Việt, Đi san mặt Đất của người Lô Lô,…những sử thi như Đam San của người
E Đê, Đẻ đất đẻ nước của người Mường,…những truyền thuyết như Sơn Tinh uỷ Tinh, ánh Gióng của người
Việt, những cổ tích như ạch Sanh….và các truyện ngụ ngôn, truyện cười, tục ngữ, ca dao,…. Văn học dân gian
thường ca ngợi tài năng và lòng dũng cảm của con người trước thiên nhiên khắc nghiệt, trước kẻ thù độc ác, ca
ngợi lòng nhân hậu, độ lượng giúp đỡ nhau, ca ngợi tình yêu trai gái, tình chung thuỷ vợ chồng, yêu con người,
yêu thiên nhiên, yêu làng xóm, quê hương. Không những thế văn học dân gian Việt Nam còn là vũ khí đấu tranh
chống lại những thói hư tật xấu của con người, chống lại những bất công thối nát trong xã hội. Bằng ngôn ngữ
dân gian giàu hình ảnh, bằng nghệ thuật nhạc điệu sinh động, văn học dân gian Việt Nam đã thấm sâu vào lòng
người một cách tự nhiên và rất dễ dàng truyền lại cho đời sau[3]
Trong văn học viết, với chữ Hán và chữ Nôm được sử dụng trong một thời gian dài. Các tác phẩm văn học cổ
nhất còn lưu lại được sáng tác vào thế kỷ 11 và chủ yếu liên quan đến đạo Phật khi đó đang thịnh hành tại Việt
Nam. Đó là những bài thơ của các vị sư giải thích về cơ sở căn bản của đạo Phật cũng như bình luận về các biến
cố lịch sử hay các đề tài về ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, từ thế kỷ 13 nhiều công trình về lịch sử, địa lý và địa chí
bằng chữ Hán đã xuất hiện. Khi hệ thống chữ Nôm được hoàn chỉnh vào thế kỷ 13, nhiều tác phẩm văn học viết
bằng chữ Nôm lần lượt xuất hiện, một trong những tác phẩm sớm nhất bằng chữ Nôm còn để lại đến hôm nay là
các bài thơ của Nguyễn Trãi, các tác phẩm đồ sộ của ông bao gồm một tuyển tập hàng trăm bài thơ Nôm có tên
ốc âm thi tập ở thế kỷ 15, và kế tiếp là Chinh phụ ngâm của Đoàn ị Điểm, các bài thơ của Hồ Xuân Hương
và đặc biệt là tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Từ đầu thế kỷ 20, chữ quốc ngữ được phổ biến rộng rãi, với sự phát triển của công nghệ in ấn cùng với những
tiếp xúc với văn học phương Tây, văn học Việt Nam xuất hiện các thể loại văn học mới, văn xuôi chiếm vị trí

quan trọng trên văn đàn cùng với thơ ngự trị trước đó. Các thay đổi trong đời sống văn học đã xuất hiện với sự
ra đời của phong trào ơ Mới vào những năm 1930, đây là một phong trào hiện đại nhằm giải phóng thơ Việt
Nam ra khỏi những luật lệ gò bó của thơ Trung ốc cổ. Trong lĩnh vực văn xuôi, các hoạt động của nhóm Tự
Lực Văn Đoàn chịu ảnh hưởng từ phương Tây đã tạo ra thể loại tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
Nền văn học Việt Nam từ thời kỳ này xuất hiện nhiều trào lưu, có những tác phẩm chịu ảnh hưởng của chủ
nghĩa lãng mạn, có những tác phẩm theo chủ nghĩa hiện thực và cũng có những tác phẩm gắn liền với chính trị
đó là dòng tác phẩm cách mạng

2.5.2

Kiến trúc

Bắt đầu sớm nhất với kiến trúc dân gian với những hoạ tiết về nhà cửa trên mặt trống đồng Đông Sơn vào khoảng
thế kỷ 7 trước công nguyên, trải qua thời bắc thuộc kiến trúc Việt Nam chịu nhiều ảnh hưởng của nền kiến trúc
Trung ốc, từ thế kỷ 10 khi giành được độc lập kiến trúc Việt Nam là sự kết hợp giữa kiến trúc bản địa cùng
với những ảnh hưởng từ Trung ốc. Các công trình của Việt Nam quy mô thường không lớn, nhưng thường


18

CHƯƠNG 2. VĂN HÓA VIỆT NAM

Trang bìa minh hoạ sử thi Đẻ đất đẻ nước của người Mường

là sự kết hợp hài hoà giữa công trình chính và cảnh quan xung quanh, đặc biệt là sử dụng hồ, ao, sông ngòi để
điều tiết khí hậu và tạo cảnh quan. Từ cuối thế kỷ 19, với việc đô hộ của thực dân Pháp, kiến trúc Việt Nam bắt


2.5. NGHỆ THUẬT


Một số tác phẩm văn học trung đại Việt Nam: Đại Việt sử ký toàn thư, Quốc âm thi tập, Hồng Đức bản đồ (từ trái sang phải):

Điện Thái Hòa tại Cố đô Huế

19


20

CHƯƠNG 2. VĂN HÓA VIỆT NAM

Đình Bảng, Bắc Ninh

đầu áp dụng rộng rãi các khuông mẫu và thủ pháp kiến trúc, xây dựng của phương Tây, nhiều công trình còn
tồn tại đến ngày nay ở các đô thị, đặc biệt là tại Hà Nội đã để lại một sắc thái kiến trúc đẹp và độc đáo[3]

2.5.3

Điện ảnh

Điện ảnh là môn nghệ thuật xuất hiện muộn nhất tại Việt Nam, trải qua nhiều giai đoạn. Ban đầu là những thể
loại phim do người Pháp thực hiện từ những năm 1920. Tới thập niên 1930, cùng với sự ra đời của các môn âm
nhạc, mỹ thuật hiện đại, điện ảnh cũng bắt đầu được người Việt Nam thực hiện. Tiếp đó sau sự chia cắt đất nước,
điện ảnh Việt Nam tại hai miền đều có những hướng phát triển riêng cùng với những ảnh hưởng từ bên ngoài
là hai nền điện ảnh miền Bắc và điện ảnh miền Nam. Sau những năm 1975 nền điện ảnh Việt Nam do nhà nước
thực hiện. Tới giai đoạn Đổi Mới, từ những năm 1986 sự tham gia của tư nhân vào lĩnh vực điện ảnh đã tạo ra
dòng phim mỳ ăn liền, dòng phim này thịnh hành trong những năm đầu của thập niêm 1990 và tự kết thúc vai
trò của mình từ những năm 1995 nhường chỗ cho dòng phim đương đại Việt Nam.

2.5.4


Mỹ thuật

Nền mỹ thuật bắt đầu với điêu khắc cổ được thể hiện trên mặt trống đồng Đông Sơn của cư dân Lạc Việt, trải
qua các thời kỳ cùng với những ảnh hưởng từ bên ngoài đã tạo ra nền điêu khắc Việt Nam phát triển rực rỡ vào
các thời Lý, Trần, Lê qua các công trình tôn giáo và cung điện các vương triều. Bên cạnh các công trình kiến trúc
và điêu khắc của người Việt thì nền điêu khắc kiến trúc Việt Nam được bổ sung các kỹ thuật tinh xảo trong việc
xây dựng các công trình tôn giáo tín ngưỡng của người Chăm và người Khmer Nam Bộ.


2.5. NGHỆ THUẬT

21

Áp phích một bộ phim Việt Nam năm 2003

Hội họa xuất hiện muộn hơn với tranh lụa, tranh truyền thần, tranh thờ, tranh chân dung, tranh sơn mài, tranh
khắc gỗ, hội họa cung đình và dòng tranh dân gian Việt Nam gồm tranh Tết, tranh Đông Hồ, tranh Hàng Trống.
Đề tài tranh dân gian thường giản dị và gần gũi với đời sống dân dã, mỗi bức tranh đều có ý nghĩa tượng trưng và
đều được cách điệu hoá. Cùng với các môn nghệ thuật hiện đại khác, mỹ thuật hiện đại Việt Nam cũng có những
bước tiến dài từ đầu thế kỷ 20 với ảnh hưởng của nghệ thuật phương Tây thời Pháp thuộc, với các trường phái
lãng mạn, hiện thực, ấn tượng, trừu tượng, siêu thực,…mặc dù chịu nhiều ảnh hưởng của phương Tây nhưng
khuynh hướng mỹ thuật hiện đại của Việt Nam vẫn gắn liền với lịch sử đất nước.


22

CHƯƠNG 2. VĂN HÓA VIỆT NAM

2.5.5


Sân khấu

Sự ra đời và phát triển của sân khấu dân gian Việt Nam gắn liền với đời sống nông nghiệp, múa rối nước là nghệ
thuật dân gian của người nông dân làm ruộng nước ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, thường được biểu diễn trong dịp
hội hè, những lúc nông nhàn, múa rối nước là một nghệ thuật tổng hoà giữa các nghệ thuật điêu khắc, sơn mài,
âm nhạc, hội hoạ và văn học. Cùng với múa rối nước là các môn nghệ thuật chèo, tuồng, cải lương góp phần
làm phong phú nền sân khấu cổ truyền Việt Nam. Từ đầu thế kỷ 20, cùng với những ảnh hưởng của sân khấu
phương Tây, nghệ thuật sân khấu hiện đại Việt Nam được bổ sung thêm các môn nghệ thuật kịch, hài kịch, xiếc,
ảo thuật, múa, ballet, opera,…

2.5.6

Âm nhạc

Âm nhạc cổ truyền Việt Nam cũng có truyền thống lâu đời, bắt đầu với chầu văn, quan họ, ca trù, hát ví, dân
ca, vọng cổ, nhạc cung đình,…của người Việt và bên cạnh đó là âm nhạc dân gian của các dân tộc khác như hát
lượn của người Tày, hát Sli của người Nùng, hát Khan của người Ê Đê, hát dù kê của người Khmer…Cùng với
các môn nghệ thuật hiện đại khác, nền âm nhạc hiện đại Việt Nam từ những năm 1930 được hình thành và phát
triển đến ngày nay được gọi là tân nhạc Việt Nam với các dòng nhạc tiền chiến, nhạc đỏ, tình khúc 1954-1975,
nhạc vàng, nhạc hải ngoại và nhạc trẻ. Tính đến tháng 12 năm 2013, 6 trong số các hình thức âm nhạc cổ truyền
Việt Nam là dân ca quan họ, ca trù, nhã nhạc cung đình Huế, hát xoan, Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây
Nguyên (bao gồm cả âm nhạc Cồng Chiêng) và đờn ca tài tử được UNESCO vinh danh là kiệt tác di sản truyền
khẩu văn hóa phi vật thể của nhân loại (ở Việt Nam cũng thường gọi là Di sản văn hóa phi vật thể của thế giới).

2.6 Chú thích
[1] Một hướng tiếp cận văn hóa Việt Nam, Hồ Liên, Nhà xuất bản Văn Học 2008
[2] “Culture of Vietnam”. Truy cập 10 tháng 2 năm 2015.
[3] Các khía cạnh văn hóa Việt Nam, Nguyễn ị anh Bình - Dana Healy, Nhà xuất bản ế giới 2006
[4] />[5] Việt Nam phong tục, Phan Kế Bính, Nhà xuất bản Văn Học 2005

[6] An Nam phong tục sách, Mai Viên Đoàn Triển, Nhà xuất bản Hà Nội 2008
[7] Việt Nam lọt top nền ẩm thực có tầm ảnh hưởng trên thế giới
[8] Lễ hội Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh, Nhà xuất bản anh Niên 2008

2.7 Sách tham khảo
• An Nam phong tục sách, Mai Viên Đoàn Triển, Nhà xuất bản Hà Nội 2008
• Các khía cạnh văn hoá Việt Nam, Nguyễn ị anh Bình - Dana Healy, Nhà xuất bản ế giới 2006
• Cơ sở văn hóa Việt Nam, Trần ốc Vượng (chủ biên), Nhà xuất bản Giáo dục 2009
• Lễ hội Việt Nam, Vũ Ngọc Khánh, Nhà xuất bản anh Niên 2008
• Một hướng tiếp cận văn hóa Việt Nam, Hồ Liên, Nhà xuất bản Văn Học 2008
• Người Việt Đất Việt, Toan Ánh - Cửu Long Giang, Nhà xuất bản Văn Học 2003
• Nói về miền Nam, Cá tính miền Nam, uần phong mỹ tục Việt Nam, Sơn Nam, Nhà xuất bản Trẻ 2009


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×