BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
TRẦN THỊ TUYẾT NGA
TỔ CHỨC DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ PHẦN LỊCH SỬ
VIỆT NAM (THẾ KỈ X – XIX) CHO HỌC SINH LỚP 10,
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG DƢƠNG
QUANG ĐÔNG, TỈNH TRÀ VINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
HÀ NỘI, NĂM 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
TRẦN THỊ TUYẾT NGA
TỔ CHỨC DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ PHẦN LỊCH SỬ
VIỆT NAM (THẾ KỈ X – XIX) CHO HỌC SINH LỚP 10,
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG DƢƠNG
QUANG ĐÔNG, TỈNH TRÀ VINH
Chuyên ngành: Lý luận và phƣơng pháp dạy học Bộ môn Lịch sử
(theo chƣơng trình ứng dụng)
Mã số: 60.14.01.11
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS.Nguyễn Thị Bích
HÀ NỘI, NĂM 2017
LỜI CẢM ƠN
Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Bích, người đã tận
tình hướng dẫn, chỉ bảo, đóng góp ý kiến quý báu và tạo mọi điều kiện giúp đỡ em
hoàn thành luận văn này.
Em cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy cô giáo trường Đại học Sư Phạm
Hà Nội, trường Đại học Trà Vinh đã giảng dạy, định hướng, giúp đỡ em trong quá
trình học tập và thực hiện luận văn.
Em xin cảm ơn Ban giám hiệu, các thầy cô giáo đồng nghiệp và các em học
sinh trường THPT thành phố Trà Vinh, THPT chuyên Nguyễn Thiện Thành, THPT
Nhị Trường, THPT Dương Quang Đông đã nhiệt tình giúp đỡ và tạo mọi điều kiện
thuận lợi để em hoàn thành luận văn.
Em cũng xin trân trọng cảm ơn gia đình, bạn bè và đồng nghiệp đã luôn quan
tâm, động viên và giúp đỡ em trong suốt thời gian thực hiện và hoàn thành luận
văn.
Trà Vinh, ngày 25 tháng 6 năm 2017
Học viên
Trần Thị Tuyết Nga
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
DHLS
: Dạy học lịch sử
GV
: Giáo viên
HS
: Học sinh
LS
: Lịch sử
LSDT
: Lịch sử dân tộc
LSVN
: Lịch sử Việt Nam
Nxb
: Nhà xuất bản
PPDH
: Phương pháp dạy học
SGK
: Sách giáo khoa
THCS
: Trung học cơ sở
THPT
: Trung học phổ thông
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài .................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.................................................................................... 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 13
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................... 13
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .................................................. 14
6. Giả thuyết khoa học…………………………………………………………….14
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài ............................................................ 14
8. Đóng góp của đề tài ............................................................................................. 15
9. Cấu trúc của luận văn .......................................................................................... 15
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TỔ CHỨC DẠY
HỌC LỊCH SỬ THEO CHỦ ĐỀ Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ
THÔNG…………………………………………………………………………..16
1.1. Cơ sở lý luận…………………………………………………………...........16
1.1.1 Cơ sở xuất phát………………………………………………………….16
1.1.2. Một số khái niệm có liên quan đến đề tài………………………………23
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của việc tổ chức dạy học lịch sử theo chủ đề ở trường
THPT………………………………………………………………...................... 27
1.1.4. Quy trình tổ chức dạy học lịch sử theo chủ đề ở trường phổ thông…... 31
1.2. Thực trạng việc tổ chức dạy học lịch sử theo chủ đề ở trƣờng THPT
…………………………………………………………………………….............34
1.2.1. Điều tra thực trạng……………………………………………………..34
1.2.2. Nguyên nhân…………………………………………………………..40
Chƣơng 2. MỘT SỐ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC DẠY HỌC THEO CHỦ ĐỀ
PHẦN LỊCH SỬ VIỆT NAM (THẾ KỈ X – XIX) CHO HỌC SINH LỚP 10,
TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG DƢƠNG QUANG ĐÔNG, TỈNH
TRÀ VINH……………………………………………………………………….43
2.1. Vị trí, mục tiêu, nội dung cơ bản của phần lịch sử Việt Nam (thế kỉ X XIX)………………………………………………………………………………43
2.1.1. Vị trí…………………………………………………………………...43
2.1.2. Mục tiêu……………………………………………………………….43
2.1.3. Nội dung cơ bản của phần lịch sử Việt Nam (thế kỉ X - XIX)………..45
2.2. Xây dựng các chủ đề dạy học phần lịch sử Việt Nam (thế kỉ X – XIX) .... 47
2.3. Một số biện pháp tổ chức dạy học theo chủ đề phần lịch sử Việt Nam (thế
kỉ X – XIX) cho học sinh lớp 10, trƣờng THPT Dƣơng Quang Đông, tỉnh Trà
Vinh………………………………………………………………………………53
2.3.1. Vận dụng linh hoạt các dạng hoạt động học tập (toàn lớp, nhóm, cá
nhân) trong dạy học các chủ đề phần lịch sử Việt Nam (thế kỉ X – XIX)………..53
2.3.2. Sử dụng một số phương pháp, kĩ thuật dạy học hiện đại trong dạy học
các chủ đề phần lịch sử Việt Nam (thế kỉ X – XIX)……………………………...63
2.3.3. Tổ chức tốt việc kiểm tra, đánh giá các chủ đề lịch sử Việt Nam (thế kỉ
X – XIX)………………………………………………………………………….88
2.4. Thực nghiệm sƣ phạm.................................................................................... 93
2.4.1. Mục đích thực nghiệm............................................................................. 93
2.4.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm .......................................................... 94
2.4.3. Nội dung và phương pháp thực nghiệm………………………………..94
2.4.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm………………………………………….95
2.4.4.1. Biện pháp đánh giá…………………………………………………...95
2.4.4.2. Kết quả thực nghiệm ............................................................................ 96
KẾT LUẬN……………………………………………………………………...98
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………………..100
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Lịch sử (LS) là môn học có vai trò, tác động to lớn trong việc giáo dục thế
hệ trẻ những phẩm chất, nhân cách của một con người phát triển toàn diện. Các
nhà sử học cổ đại đã khẳng định “Lịch sử là cô giáo của cuộc sống”, “Lịch sử là
bó đuốc soi đường đi đến tương lai” [38, tr.95]. Nhà văn dân chủ Nga thế kỉ XIX,
Tsecnưsépxki đã từng viết: “Có thể không biết, không cảm thấy say mê học Toán,
tiếng Hilạp hoặc chữ Latinh, Hóa học, có thể không biết hàng nghìn môn học
khác, nhưng dù sao đã là người có giáo dục mà không yêu thích LS thì chỉ có thể
là một con người không phát triển đầy đủ trí tuệ” [39, tr.72].
Tuy nhiên, có một thực trạng đáng buồn hiện nay phần lớn học sinh (HS)
không thích tìm hiểu về lịch sử dân tộc (LSDT), ngày càng nhiều em cho rằng học
Sử chỉ là thuộc lòng mất nhiều thời gian, coi đó là môn học của các sự kiện ghi
nhớ khô khan, nhàm chán. Sự phát triển nhanh chóng của xã hội hiện đại với xu
thế hội nhập khu vực và quốc tế ngày càng mạnh mẽ, những tác động của cơ chế
thị trường, lối sống thực dụng… đã dẫn đến một bộ phận không nhỏ phụ huynh,
HS không coi trọng môn học LS, lựa chọn môn học, ngành học nào có thu nhập
cao. Điều này được thể hiện rõ trong quá trình dạy học môn học LS ở các nhà
trường và nhất là qua kì thi tốt nghiệp Trung học phổ thông (THPT) để đăng kí xét
tuyển vào các trường Cao đẳng và Đại học. Các nhà giáo dục đã đi tìm nguyên
nhân, xác định các giải pháp giúp HS yêu thích môn học LS, trong đó đặc biệt
nhấn mạnh đến việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) của thầy – trò theo
hướng phát triển năng lực của các em.
Đổi mới PPDH được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng
của cải cách giáo dục sau 2015 ở Việt Nam theo tinh thần Nghị quyết số 29NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban Chấp hành Trung ương về đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo“Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo
hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến
thức,kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ
1
máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để
người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lựcchuyển từ
học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động
xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
và truyền thông trong dạy và học” [2].
Thực hiện chủ trương trên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tổ chức triển khai
tập huấn đổi mới cách dạy học theo chủ đề/chuyên đề cho giáo viên (GV) toàn
quốc từ năm học 2014-2015 nhằm giúp họ nhận thức và thực hiện tốt hơn việc đổi
mới để từng bước nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Dạy học theo chủ đề có
nhiều điểm mới so với cách dạy truyền thống: các nhiệm vụ học tập được giao cho
HS, các em chủ động tìm hướng giải quyết vấn đề; kiến thức không vụn vặt, riêng
lẻ mà được tổ chức lại thành hệ thống, có quan hệ chặt chẽ; HS sau phần học
không chỉ là hiểu, biết, vận dụng mà còn biết phân tích, tổng hợp, đánh giá.
Thực tế việc vận dụng dạy học theo chủ đề hiện nay ở trường phổ thông
còn nhiều bất cập, hiệu quả chưa cao. Một số GV chưa nhận thức đúng tầm quan
trọng của việc triển khai bài học theo chủ đề để phát huy vai trò tích cực, chủ động,
sáng tạo của HS, nên chưa thật sự quan tâm tổ chức dạy học theo chủ đề trong các
giờ học LS. Phần lớn các GV vẫn là dạy theo kiểu truyền thống lớp – bài cụ thể
trong sách giáo khoa (SGK). Tình trạng dạy học theo kiểu tóm tắt SGK, nặng về
truyền thụ kiến thức vẫn còn khá phổ biến. HS thụ động và phụ thuộc nhiều vào
GV trong quá trình tiếp nhận kiến thức. Nếu có thực hiện dạy học theo chủ đề thì
GV vẫn chủ yếu sử dụng một số PPDH như vấn đáp, thuyết trình, thảo luận
nhóm... chưa vận dụng nhiều các PPDH hiện đại vào trong giờ học LS. Vì vậy,
việc tổ chức dạy học theo chủ đề chưa thực sự phát huy được vai trò vốn có của nó.
Cho nên HS cảm thấy giờ học còn LS nặng nề, nhàm chán, nhiều em không hứng
thú với bộ môn LS, làm cho chất lượng dạy học bộ môn thấp, chưa đáp ứng được
yêu cầu đặt ra.
Lịch sử Việt Nam (LSVN) từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX có vị trí quan trọng
trong tiến trình LSDT. Đây là thời kì nhân dân Việt Nam vừa tiến hành xây dựng
2
nền văn hóa dân tộc, vừa phát triển kinh tế đất nước và đấu tranh chống xâm lược
để bảo vệ Tổ quốc, giải phóng dân tộc. Nhiều sự kiện, nhân vật, thành tựu kinh tế,
văn hóa của giai đoạn này còn nguyên giá trị đến nay, thông qua đó giáo dục lòng
yêu nước, truyền thống giữ gìn và phát huy nền văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc.
Vấn đề đặt ra là tổ chức dạy học chủ đề như thế nào để giúp HS lĩnh hội kiến thức,
khơi gợi được niềm say mê, hứng thú học tập trong giờ học LS.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề “Tổ chức
dạy học theo chủ đề phần lịch sử Việt Nam (thế kỉ X – XIX) cho học sinh lớp 10,
trường THPT Dương Quang Đông, Tỉnh Trà Vinh” để làm đề tài nghiên cứu luận
văn thạc sĩ chuyên ngành Lý luận và Phương pháp dạy học Bộ môn LS.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đã có nhiều tài liệu nghiên cứu về dạy học theo chủ đề và các vấn đề có
liên quan. Chúng tôi tìm hiểu vấn đề nghiên cứu qua các nguồn tài liệu nước ngoài
và trong nước.
2.1. Tài liệu nƣớc ngoài
Trong cuốn “Những cơ sở của lí luận dạy học” (Nxb Giáo dục, năm
1971), B.P.Êxipốp đã nêu ra các nguyên tắc dạy học, trong đó nhấn mạnh đến tính
hệ thống và tính vững chắc của việc lĩnh hội kiến thức. Ông cho rằng “sự lĩnh hội
kiến thức là quá trình liên tục đào sâu, chính xác hóa và củng cố kiến thức”. “Ở
giai đoạn dạy học đầu tiên GV sẽ đưa ra không phải là toàn bộ khối lượng tri thức
mà chỉ nội dung cơ bản của khối lượng đó; trong công việc tiếp sau đó nhằm đào
tạo sâu và củng cố tri thức, khối lượng đó cần được mở rộng thêm, nêu ra những
ví dụ mới nhằm chính xác hóa hay minh họa sâu hơn cho điều khái quát”
[21, tr.75]. Không đề cập trực tiếp đến dạy học theo chủ đề nhưng những chỉ dẫn
của ông trong việc lĩnh hội kiến thức giúp chúng tôi xác định đúng những kiến
thức cơ bản trong chủ đề dạy học để từ đó củng cố, hệ thống hóa kiến thức và làm
sâu sắc thêm nhận thức cho HS.
Tiếp nối quan điểm của B.P.Êxipốp, I.A. Ilinna trong cuốn “Giáo dục
học”, tập 2, Nxb Giáo dục Hà Nội, 1973 đã nhấn mạnh vai trò của việc lĩnh hội
3
toàn diện kiến thức và đề ra một số phương pháp giúp HS nắm vững kiến thức như
sử dụng phương pháp làm việc với SGK, luyện tập, ôn tập… Trong đó, tác giả đặc
biệt nhấn mạnh việc phát huy tính tích cực là một yếu tố quan trọng giúp HS hứng
thú và lĩnh hội kiến thức hiệu quả.
I.F.Kharlamốp, trong công trình “Phát huy tính tích cực học tập của học
sinh như thế nào”, tập I, Nxb Giáo dục, 1978 đã khẳng định dạy học là quá trình
lĩnh hội một cách vững chắc kiến thức của HS, song việc nhận thức của HS không
phải là do GV hình thành mà là quá trình tự lĩnh hội kiến thức. HS chỉ “thực sự
nắm vững cái mà chính bản thân dành được bằng chính sức lao động của mình”
[28, tr.17]. Từ đó tác giả đi đến kết luận “Học tập là một quá trình nhận thức tích
cực của HS, HS muốn nắm vững kiến thức một cách sâu sắc thì phải thực hiện đầy
đủ một chu trình trí tuệ: bao gồm những hành động tri giác tài liệu, thông hiểu, ghi
nhớ, luyện tập kĩ năng, kĩ xảo và cuối cùng là hành động khái quát hoá hệ thống
hoá kiến thức nhằm xác lập mối quan hệ trong từng đề tài, giữa các đề tài và các
môn học” [28,tr. 29]. Tư tưởng về sự tự lĩnh hội, khám phá kiến thức của HS cũng
chính là tư tưởng chủ đạo của việc tổ chức dạy học theo chủ đề.
Trong cuốn “Giáo dục học”, tập 1 (Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1983),
N.V.SaVin đề cập đến nội dung dạy học và các hình thức tổ chức dạy học. Theo
tác giả, “Nội dung giáo dục phải thực sự là toàn diện. Mỗi một chương phải là
mức độ trọn vẹn trong hệ thống các tri thức về môn học” [51, tr. 45]. Khi đề cập
tới các hình thức tổ chức dạy học, tác giả cho rằng việc tổ chức các hoạt động học
tập ở trên lớp dưới sự điều khiển, hướng dẫn, tổng kết, đánh giá của GV có tác
dụng phát huy tính tích cực, sự sáng tạo của HS trong việc lĩnh hội toàn diện tri
thức. . .
Ở một góc nhìn khác, N.G.Đai-ri trong quyển “Chuẩn bị giờ học lịch sử
như thế nào?”, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1973 đã nêu ra tầm quan trọng của việc
chuẩn bị giờ học LS và cách tổ chức giờ học LS một cách có hiệu quả nhất. Tác
giả cũng nhấn mạnh đến việc thiết lập hệ thống kiến thức trong các bài học vì “Nội
dung của hầu như giờ học nào cũng đều gắn bó chặt chẽ với những giờ học trước
4
và giờ học sau” [18, tr. 98]. Cho nên, việc xây dựng và tổ chức thành các chủ đề
dạy học trong môn LS sẽ giúp HS thấy rõ hệ thống kiến thức, xâu chuỗi được các
sự kiện, hiểu được mối quan hệ của chúng trong tiến trình phát triển của nó.
Tác giả I.Ia.Lecne với “Phát triển tư duy của học sinh trong dạy học lịch
sử” (Nxb Giáo dục Matxcova, 1982 - Người dịch: Trần Kim Vân, Đinh Ngọc Bảo,
Phạm Huy Khánh, Nguyễn Thị Côi) đã đưa ra yêu cầu đối với GV trong DHLS
phải tạo ra “tình huống có vấn đề nhằm nâng cao kĩ năng nhận thức tích cực để
giải quyết tốt các vấn đề” trong quá trình dạy học. Theo tác giả, thông qua các biện
pháp này sẽ kích thích năng lực sáng tạo, nhận thức tích cực của HS nâng cao chất
lượng dạy học môn LS. Đây là gợi ý rất tốt giúp chúng tôi triển khai các chủ đề
học tập.
Các tác giả Robert J. Marzano, Debra J. Pickering, Jane E. Pollock, trong
cuốn “Các phương pháp dạy học hiệu quả”, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2011 đưa ra
hệ thống các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng cho quá trình tổ chức dạy học
như: việc khích lệ học tập, học theo nhóm, lập mục tiêu, gợi ý câu hỏi…Các tác giả
khẳng định, dù áp dụng biện pháp nào đi chăng nữa thì việc quan trọng nhất là GV
phải nuôi dưỡng hoạt động học tập đích thực cho người học, kích thích HS tích
cực, chủ động tham gia vào quá trình lĩnh hội tri thức. “Học tập đích thực bao giờ
cũng là một quá trình gian nan và bổn phận của người thầy là làm thế nào để quá
trình đó ít gian nan đối với người học” [42, tr. 5]. Những gợi ý này thực sự có ý
nghĩa đối với việc tổ chức dạy học theo chủ đề bởi trong đó vai trò của HS được đề
cao dưới sự tổ chức, hướng dẫn, hỗ trợ của GV là rất quan trọng.
Trong quyển “Lí luận dạy học hiện đại” của Bernd Meier và Nguyễn Văn
Cường, Nxb Đại học Sư phạm, 2014 đã đưa ra một số vấn đề về đổi mới PPDH,
các quan điểm dạy học, các kĩ thuật dạy học tích cực, các loại phương tiện dạy học,
đề cập đến các thuyết học tập như thuyết hành vi, thuyết nhận thức và thuyết kiến
tạo dựa trên cơ sở Tâm lí học. Nếu vận dụng các PPDH như dạy học nhóm, đóng
vai, dạy học nêu vấn đề...cùng với các kĩ thuật dạy học như kĩ thuật khăn trải bàn,
kĩ thuật 3-2-1…trong dạy học tích hợp theo chủ đề thì sẽ tạo động cơ học tập và
5
kích thích tư duy của HS trong giờ học LS. Những đề xuất của tác giả là gợi ý cho
chúng tôi tổ chức các chủ đề dạy học thành công.
2.2. Tài liệu trong nƣớc
Trong cuốn “Giáo dục học”, tập 1 của Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt (Nxb
Giáo dục, Hà Nội, 1987) đã đề cập đến ý nghĩa của việc phát triển toàn diện năng
lực của HS thông qua nguồn kiến thức mà các em được tiếp nhận. Qua đó, các tác
giả cho rằng trong quá trình dạy học việc phát huy tính tự giác, tích cực, độc lập,
sáng tạo của HS là quan trọng nhất.
Tác giả Trần Bá Hoành trong cuốn “Đổi mới phương pháp dạy học,
chương trình và sách giáo khoa”, Nxb Đại học sư phạm, 2007 cho rằng dạy học
lấy HS làm trung tâm là “chuẩn bị cho HS thích ứng với đời sống xã hội, tôn trọng
mục đích, nhu cầu, khả năng hứng thú, lợi ích học tập của HS” [24, tr.8]. Đồng
thời, tác giả cũng đưa ra các biện pháp dạy học tích cực cần phát triển ở trường phổ
thông là vấn đáp, dạy học đặt và giải quyết vấn đề, dạy học hợp tác trong nhóm
nhỏ…Qua đây, chúng tôi cho rằng muốn tổ chức dạy học theo chủ đề đạt được
hiệu quả cần phải vận dụng phối hợp nhiều PPDH với nhau.
Trong “Tài liệu chủ đề tự chọn bám sát chương trình nâng cao lịch sử 10
dùng cho giáo viên” của tác giả Phan Ngọc Liên (chủ biên), Nxb Giáo dục, 2006
đã nêu ra rằng việc dạy và học các chủ đề tự chọn là một bước phát huy tính độc
lập, tự chủ của HS, phục vụ mục đích nâng cao chất lượng và hiệu quả trong dạy
học lịch sử (DHLS).
Tác giả Nguyễn Thị Côi trong cuốn “Các con đường, biện pháp nâng cao
hiệu quả dạy học lịch sử ở trường phổ thông” (Nxb Đại học Sư phạm, 2008) đề
cập tới vấn đề làm thế nào để tổ chức giờ học hiệu quả. Theo tác giả, để làm được
điều này, “trước hết GV cần thực hiện những yêu cầu cơ bản đối với bài học LS,
mặt khác cần vận dụng cấu trúc bài học mềm dẻo” [14, tr.98]. Một bài học LS có
cấu trúc như sau: đặt mục đích học tập, tổ chức giải quyết vấn đề, tổ chức kiểm tra
hoạt động nhận thức, giao bài tập về nhà. Chúng tôi có thể căn cứ vào đây để tiến
hành tổ chức dạy học theo chủ đề một cách có hiệu quả.
6
Trong giáo trình “Phương pháp dạy học môn lịch sử ở trường phổ thông”,
Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2014, các tác giả Vũ Quang Hiển và Hoàng
Thanh Tú đã trình bày khái niệm chung về dạy học tích hợp và những ưu điểm của
xu hướng dạy học này, trong đó còn nhấn mạnh đến cách xây dựng và tổ chức chủ
đề DHLS. Việc tích hợp lại thành các chủ đề, chuyên đề trong môn LS là phù hợp
và cần thiết vì giữa các chương, các bài có mối liên hệ chặt chẽ với nhau, khi thiết
kế như thế sẽ giúp cho HS hiểu tính hệ thống, lôgíc và chiều sâu của LS. Vì thế,
khi tổ chức dạy học theo chủ đề, GV sẽ là người chủ động lựa chọn các phương
pháp, phương tiện dạy học phù hợp trong quá trình triển khai dạy học theo chủ đề
và HS sẽ tích cực, chủ động trong khâu chuẩn bị bài cũng như cách thức học tập và
thực hiện công việc mà GV giao.
Trong cuốn “Tài liệu tập huấn cán bộ quản lí và giáo viên trung học phổ
thông xây dựng các chuyên đề dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát
triển năng lực học sinh môn lịch sử” của Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014) đã đề cập
đến việc xây dựng các chuyên đề dạy học theo định hướng phát triển năng lực HS
môn LS. Trong đó có đề cập đến việc xây dựng mỗi chuyên đề dạy học cần thực
hiện theo quy trình sau: “thứ nhất là xác định vấn đề cần giải quyết trong dạy
họcchuyên đề sẽ xây dựng; hai là xây dựng nội dung chuyên đề; ba là xác định
chuẩn kiến thức, kĩ năng, thái độ theo chương trình hiện hành; bốn là xác định và
mô tả mức độ yêu cầu; năm là biên soạn các câu hỏi/bài tập và cuối cùng là thiết
kế tiến trình dạy học” [10, tr.30-35]. Chúng tôi có thể dựa vào đây để thiết kế lại
quy trình và tiến hành tổ chức dạy học theo chủ đề trong phần LSVN (thế kỉ X XIX).
Vấn đề dạy học tích hợp có những ưu điểm nhất định và những ưu điểm
này đã được trình bày khá cụ thể trong cuốn “Tài liệu tập huấn cán bộ quản lí và
giáo viên THPT dạy học tích hợp liên môn lĩnh vực khoa học xã hội” (Bộ Giáo dục
và Đào tạo, 2015). Các tác giả đã đưa ra ý kiến của mình về ưu điểm của việc dạy
học theo chủ đề tích hợp như sau: Các chủ đề liên môn, tích hợp có tính thực tiễn
nên sinh động hấp dẫn, có ưu thế trong việc tạo ra động cơ, hứng thú học tập cho
7
HS. Học các chủ đề tích hợp, liên môn HS được tăng cường vận dụng kiến thức
tổng hợp vào giải quyết các tình huống thực tiễn, ít phải ghi nhớ kiến thức một
cách máy móc. Điều quan trọng hơn là các chủ đề tích hợp, liên môn giúp cho HS
không phải học lại nhiều lần cùng một nội dung kiến thức ở các môn học khác
nhau, vừa gây quá tải, nhàm chán, vừa không có được sự hiểu biết tổng quát cũng
như khả năng ứng dụng của kiến thức tổng hợp vào thực tiễn [12, tr.4, 5].
Trong bài viết “Xu thế tích hợp môn học trong nhà trường phổ thông”
đăng trên Tạp chí giáo dục 2/2002 của tác giả Nguyễn Minh Phương và Cao Thị
Thặng đã chỉ ra đến những ưu điểm và nhược điểm của dạy học tích hợp và xu
hướng này đã được nhiều nước trên thế giới áp dụng như Pháp, Mĩ, Australia, Nhật
Bản, Thái Lan, Inđônêxia…. Các tác giả cũng đã đề ra cách thức xây dựng môn
học theo quan điểm tích hợp ở Việt Nam đối với bậc Tiểu học và Trung học cơ sở
(THCS). Như vậy, tích hợp là một xu thế mới tích cực trong việc xây dựng chương
trình và sách giáo khoa sau 2015 và việc dạy học tích hợp sẽ giúp cho việc hình
thành và phát triển năng lực của HS một cách có hiệu quả như năng lực giải quyết
vấn đề, năng lực làm việc nhóm, năng lực tự học…
“Kỷ yếu hội thảo dạy học tích hợp và dạy học phân hóa ở trường trung học
đáp ứng nhu cầu đổi mới chương trình và SGK sau năm 2015” (Viện Nghiên cứu
Giáo dục thuộc trường Đại học Sư phạm Thành Phố Hồ Chí Minh, 2014) có nhiều
bài viết liên quan đến dạy học tích hợp như: “Dạy học tích hợp trong chương trình
giáo dục phổ thông” của tác giả Nguyễn Thị Kim Dung; “Tích hợp trong dạy học
bộ môn ở trường phổ thông” của tác giả Võ Văn Duyên Em hay “Thực trạng dạy
học tích hợp, phân hóa hiện nay và đề xuất phát triển chương trình, sách giáo
khoa cho giáo dục phổ thông Việt Nam sau 2015” của tác giả Ngô Minh Oanh,
Trương Công Thanh. Nhìn chung trong bài viết của mình các tác giả đã đưa ra
nhiều mô hình dạy học tích hợp và cách thức vận dụng dạy học tích hợp trong dạy
học bộ môn ở trường phổ thông Việt Nam. Đây là những nguồn tài liệu quí báu gợi
ý cho chúng tôi xây dựng và vận dụng cách tổ chức dạy học tích hợp chủ đề trong
chương trình LSVN.
8
“Quy trình xây dựng chủ đề tích hợp liên môn bồi dưỡng năng lực dạy học
tích hợp cho giáo viên THPT” của Phạm Thị Kim Giang, Nguyễn Hoàng Trang,
Vũ Thị Thu Hoài, Phạm Thị Kiều Duyên đã nêu lên quan điểm về dạy học tích
hợp, theo các tác giả thì dạy học tích hợp là một trong những xu hướng dạy học tất
yếu và phù hợp với định hướng đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục theo hướng
phát triển năng lực người học [22].
Tác giả Hoàng Thanh Tú trong bài viết “Biên soạn SGK lịch sử sau năm
2015 theo hướng phát triển năng lực HS” được đăng trên Tạp chí Khoa học Đại
học Quốc gia Hà Nội tập 30, số 1 (2014) đã đề cập cách học LS theo hướng đổi
mới như LS cần hướng đến hình thành và phát triển các năng lực chủ chốt cho HS
như: năng lực nhận thức, tư duy LS; năng lực nêu và giải quyết vấn đề; năng lực tự
học; năng lực sử dụng công nghệ thông tin. Ngoài ra, tác giả còn cho rằng SGK
sau 2015 bậc THPT bài viết theo chủ đề trong đó cần tập trung vào các chủ đề như:
Giáo dục cho HS ý thức về chủ quyền lãnh thổ thống nhất, toàn vẹn của Tổ quốc
hay truyền thống dân tộc ... Tích hợp LS thế giới và LSVN. Trong từng thời kì, mỗi
chủ đề phân tích sâu một nội dung theo lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa,
quân sự. Học LS không phải là nhớ nhiều sự kiện mà là nhớ những gì cơ bản.Trên
cơ sở đó, HS cần nhận thức và lí giải được mối liên hệ giữa các sự kiện LS; mối
liên hệ giữa con người, địa danh LS cụ thể với cuộc sống hiện tại. Điều này giúp
hiểu biết của HS mang tính hệ thống và quá khứ LS cũng gần gũi hơn [58, tr.75,
76]. Những biện pháp mà tác giả đề xuất có vai trò định hướng hết sức quan trọng
trong việc biên soạn SGK lịch sử THPT sau 2015 nói chung và đổi mới PPDH chủ
đề theo hướng phát triển năng lực HS trong môn LS nói riêng.
Đồng thời, trong bài viết “Những định hướng và thực tiễn dạy học lịch sử
ở Việt Nam” tác giả Hoàng Thanh Tú cũng đã đưa ra định hướng cho chương trình
giáo dục phổ thông mới sẽ chuyển từ tập trung trang bị kiến thức, kỹ năng sang
định hướng phát triển phẩm chất, năng lực HS. Dạy học phân hóa và dạy học tích
hợp được xác định là yêu cầu bắt buộc nhằm mục đích phát triển năng lực HS.
Trong đó, LS được tích hợp trong các môn học Tìm hiểu xã hội (lớp 4, 5), Khoa
9
học Xã hội (cấp THCS) và là môn học bắt buộc; là môn học riêng biệt và tự chọn ở
cấp THPT. Nội dung môn học được cấu trúc theo chủ đề (khác với cấu trúc theo
tiến trình LS như chương trình hiện hành); PPDH khuyến khích HS được trải
nghiệm, sáng tạo thông qua các hình thức tổ chức dạy học đa dạng như: hoạt động
nhóm/cá nhân tự học, học trên lớp/ở bảo tàng, thực địa, học qua dự án...[59].
Chúng tôi nhận thấy nhận định của tác giả đã có tính chất cụ thể hơn về vấn đề dạy
học tích hợp nói chung cũng như dạy học tích hợp theo chủ đề trong LS nói riêng.
Bài báo cáo giáo dục vào ngày 06/09/2015 “Dạy học theo chủ đề với chủ
trương đổi mới giáo dục hiện nay” của trường THPT Quyết Thắng, Thị xã Lai
Châu đã nêu lên những giải pháp để lí giải tại sao nên quan tâm đến dạy học theo
chủ đề trong tiến trình đổi mới giáo dục hiện nay? “Một, trước yêu cầu đổi mới
căn bản, toàn diện về giáo dục – trong đó chú trọng đổi mới phương pháp, cách
tiếp cận dạy học theo định hướng phát huy tính tích cực của học sinh; Hai, tính
giới hạn về định lượng nội dung trong SGK và quá trình bùng nổ thông tin, tri thức
kèm theo đó là nhu cầu cập nhật kiến thức vô hạn đối với sự học của người học;
Ba, với cách tiếp cận giảng dạy truyền thống hiện có, liệu chúng ta đủ khả năng để
thực hiện các mục tiêu dạy học tích cực như: tăng cương tích hợp các vấn đề cuộc
sống, thời sự vào bài giảng; tăng cường sự vận dụng kiến thức của HS sau quá
trình học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn; rèn luyện các kĩ năng sống phong
phú vốn rất cần cho người học hiện nay? Thêm vào đó, ngoài việc quá trình dạy
học hướng tới định hướng nội dung học như đã có, thì đổi mới dạy học hiện nay
còn có tham vọng tiến xa hơn, đó là định hướng hình thành năng lực cho HS. Do
đó, dạy học theo chủ đề với những lợi thế về đặc điểm như đã so sánh ở trên với
dạy học theo cách tiếp cận truyền thống, đặc biệt là nó có thể giải quyết được ba
vấn đề trên, chính là bước chuẩn bị tương đối phù hợp cho đổi mới chương trình
và SGK trong thời gian tới” [16, tr.1 - 4]. Chúng tôi cho rằng đây là những giảỉ
pháp có tính chất toàn diện, khá phù hợp với xu hướng dạy và học LS theo hình
thức chủ đề tích hợp.
10
Hay với “Dạy học tích hợp và thiết kế chủ đề tích hợp trong dạy học ở tiểu
học” của Phạm Quang Tiệp, Phạm Thị Vui (Tạp chí giáo dục, số 384, Kì 26/2016), các tác giả cũng bàn về những ưu thế của dạy học tích hợp: 1. Dạy học
tích hợp góp phần hình thành và phát triển năng lực cho người học, 2. Dạy học
tích hợp cập nhật thông tin, tri thức có tính cấp thiết vào chương trình giáo dục, 3.
Dạy học tích hợp hướng tới một xã hội phát triển bền vững [55, tr.34 - 35]. Qua
những ưu thế của việc dạy học tích hợp trên đây chúng tôi cho rằng đây là những
đặc điểm rất quan trọng của việc dạy học theo hướng tích hợp nhằm phát huy tối
đa vai trò của người học trong dạy học bộ môn LS.
Tác giả Nguyễn Thị Thế Bình và Lê Thị Thu với bài viết “Dạy học theo
chủ đề trong môn lịch sử ở trường THPT” đăng trên Tạp chí giáo dục số 388, kì 28/2016 đã cho rằng “để tổ chức dạy học theo chủ đề trong môn LS, cần vận dụng
linh hoạt, đa dạng các hình thức và PPDH” [5, tr.52]. Ngoài ra, các tác giả còn đề
xuất cách tiến hành tổ chức dạy học theo chủ đề trong môn LS có các bước: Bước
1. Nêu vấn đề, thu hút sự chú ý của HS vào nội dung trọng tâm của chủ đề; bước 2.
Cung cấp nguồn sử liệu, hướng dẫn HS tìm hiểu nội dung của chủ đề LS; bước 3.
Tổ chức, hướng dẫn HS trao đổi, thảo luận, đánh giá về các sự kiện, hiện tượng và
cuối cùng là củng cố, kiểm tra hoạt động nhận thức, đánh giá kết quả thực hiện
nhiệm vụ học tập của HS [5, tr.52-53]. Chúng tôi nhận thấy những biện pháp mà
các tác giả đề xuất có vai trò định hướng hết sức quan trọng trong việc tiến hành
dạy học theo chủ đề nói chung và tổ chức dạy học theo chủ đề trong môn LS nói
riêng là hết sức cần thiết, phù hợp với cách học và cách dạy LS theo hướng đổi
mới hiện nay.
Trong cuốn “Nghiên cứu và giảng dạy LS trong bối cảnh hiện nay, Nxb
Lý luận chính trị (2016) tác giả Nghiêm Đình Vỳ trong bài viết “Đổi mới việc biên
soạn chương trình và SGK lịch sử mới theo định hướng phát triển năng lực của HS
trong quá trình hội nhập quốc tế” đề xuất dự kiến chương trình và SGK lịch sử
mới sẽ biên soạn theo hướng không lặp lại về nội dung ở cấp ba như hiện nay mà
chương trình lịch sử THPT sẽ được thiết kế theo chủ đề và trong mỗi chủ đề lại có
11
chủ đề nhỏ. Trong các chủ đề này có thể có một phần “đồng tâm” để khái quát lại
những nét cơ bản nhất về LS thế giới, LS khu vực và LSDT, mà trọng tâm là các
vấn đề về chính trị, kinh tế, tư tưởng, văn hóa, quan hệ quốc tế... Như vậy, có thể
thấy dạy học theo chủ đề là một trong những định hướng được các nhà nghiên cứu,
các nhà sử học đưa ra tại hội thảo và đây sẽ là một trong những hướng đi đúng đắn,
phù hợp với thực tế việc dạy và học LS ở nước ta hiện nay.
Tác giả Nguyễn Thị Bích trong bài viết “Tổ chức hiệu quả việc dạy học
chủ đề LS ở trường THPT” được đăng trong cuốn “Nghiên cứu và giảng dạy LS
trong bối cảnh hiện nay”, Nxb Lý luận chính trị, 2016 đã làm rõ khái niệm dạy học
theo chủ đề và đưa ra những gợi ý về các cách thức, con đường, biện pháp để tổ
chức hiệu quả việc dạy học các chủ đề LS ở trường THPT.
Bên cạnh đó cũng có nhiều luận án, luận văn, khóa luận tốt nghiệp của
nghiên cứu sinh, học viên, sinh viên đã nghiên cứu về dạy học theo chủ đề này,
như“Vận dụng phương pháp dạy học theo chủ đề của Australia vào phần lịch sử
Việt Nam từ thế kỉ X đến giữa thế kỉ XIX, lớp 10, THPT (Chương trình chuẩn)”của
tác giả Bùi Thị Liên (Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Giáo Dục năm 2014);
“Xây dựng và tổ chức dạy học theo chủ đề trong chương trình lịch sử Việt Nam
lớp 10 ở trường THPT” của tác giả Đặng Thị Nhung (Khóa luận tốt nghiệp,
Trường Đại học Giáo Dục năm 2016)…Các tác giả đã thống nhất hiểu dạy học
theo chủ đề là mô hình xây dựng một nội dung dạy học thành một kết cấu chặt chẽ,
lôgíc theo một hệ thống chứ không thành những bài học rời rạc. HS phải tự tìm tòi
các kiến thức thực tế liên quan đến nội dung học và vận dụng kiến thức vào giải
quyết các nhiệm vụ học tập.
Từ nghiên cứu của các tác giả nước ngoài và trong nước về việc dạy học
theo chủ đề, chúng tôi nhận thấy: các công trình chủ yếu tập trung làm rõ vấn đề
dạy học theo chủ đề và nhấn mạnh vận dụng dạy học tích hợp theo chủ đề trong
môn LS, cho rằng dạy học theo chủ đề là xu hướng chung của nhiều nước trên thế
giới và là xu thế tất yếu trong quá trình đổi mới giáo dục ở nước ta hiện nay. Ngoài
ra, các tài liệu còn đưa ra những cơ sở lý luận, một số biện pháp, cách thức tổ chức
12
dạy học nói chung, DHLS nói riêng. Đây là nguồn tham khảo quý báu đã cung cấp
cho chúng tôi những tư liệu đáng quý để góp phần hoàn thành Luận văn. Tuy
nhiên, các nguồn tài liệu trên lại chưa đề cập đến cách thức tổ chức dạy học theo
chủ đề phần LSVN (thế kỉ X – XIX) cho học sinh THPT trong DHLS. Chính điều
này đặt ra cho chúng tôi cần thực hiện các nhiệm vụ sau: trình bày cơ sở lí luận,
thực tiễn của việc tổ chức dạy học LS theo chủ đề, đề xuất xây dựng một số chủ đề
và các biện pháp sư phạm để tổ chức dạy học chủ đề LSVN (thế kỉ X – XIX) một
cách có hiệu quả…Đây là những vấn đề chúng tôi sẽ tập trung giải quyết trong
Luận văn của mình.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu: của đề tài là việc tổ chức dạy học các chủ đề
LS ở trường THPT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Về nội dung: Đề tài tập trung vào việc tổ chức dạy học theo chủ đề phần
LSVN (thế kỉ X – XIX).
- Về hình thức: Tập trung vào bài học nội khóa.
- Về địa bàn khảo sát, thực nghiệm: Các trường THPT trên địa bàn tỉnh
Trà Vinh (THPT thành phố Trà Vinh, THPT chuyên Nguyễn Thiện Thành, THPT
Nhị Trường, THPT Dương Quang Đông).
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu: Khẳng định vai trò, ý nghĩa của việc DHLS
theo chủ đề, từ đó đề xuất và xây dựng các chủ đề và tổ chức dạy học theo chủ đề
trong phần LSVN (thế kỉ X – XIX) lớp 10, THPT - Chương trình chuẩn nhằm nâng
cao chất lượng DHLS.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, đề tài cần thực
hiện các nhiệm vụ:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc tổ chức dạy học theo chủ đề trong dạy
học LSVN (thế kỉ X – XIX).
13
- Tiến hành điều tra, khảo sát cơ bản đối với GV và HS ở một số trường để
đánh giá thực trạng việc tổ chức dạy học các chủ đề LS ở trường THPT.
- Nghiên cứu chương trình, SGK môn LS ở trường THPT.
- Xây dựng các chủ đề trong chương trình LSVN (thế kỉ X – XIX).
- Đề xuất cách tổ chức dạy học theo chủ đề trong dạy học phần LS Việt
Nam (thế kỉ X – XIX).
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm tại trường THPT Dương Quang Đông.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phƣơng pháp luận: Dựa theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về sử học và về giáo dục LS.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu lý luận: Tổng hợp, phân tích hệ thống hóa, khái
quát hóa vấn đề dạy học theo chủ đề nói chung, chủ đề LS nói riêng từ các nguồn
tài liệu lý luận dạy học nói chung, lý luận dạy học bộ môn nói riêng.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Khảo sát, điều tra bằng phiếu hỏi, dự
giờ, phỏng vấn, trao đổi với GV, HS để đánh giá về thực trạng dạy học theo chủ đề
trong DHLS ở trường THPT.
- Tiến hành thực nghiệm sư phạm tại các trường THPT để khẳng định tính
khả thi của các biện pháp đề xuất.
- Sử dụng phương pháp thống kê toán học phân tích số liệu điều tra và thực
nghiệm sư phạm để rút ra những kết luận cần thiết.
6. Giả thuyết khoa học: Nếu sử dụng các biện pháp tổ chức dạy học chủ đề LS
như đề xuất của luận văn sẽ góp phần tạo hứng thú học tập cho HS, nâng cao hiệu
quả DHLS ở trường THPT.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
7.1. Ý nghĩa khoa học: Làm phong phú lý luận dạy học bộ môn LS việc tổ
chức dạy học theo chủ đề.
7.2. Ý nghĩa thực tiễn: Là tài liệu tham khảo bổ ích cho GV phổ thông,
góp phần thực hiện tốt chủ trương đổi mới PPDH lịch sử trong các nhà trường.
14
8. Đóng góp của đề tài
8.1. Về lý luận: Khẳng định vai trò, ý nghĩa của cách tổ chức dạy học theo
chủ đề nhằm phát huy hứng thú, tích cực trong học tập của HS, nâng cao hiệu quả
bài học LS ở trường THPT.
8.2. Về thực tiễn:
- Đánh giá đúng thực trạng việc tổ chức dạy học các chủ đề LS ở trường
THPT hiện nay.
- Đề xuất một số biện pháp tổ chức dạy học theo chủ đề phần LSVN (thế kỉ
X- XIX) theo hướng giúp HS THPT hứng thú học tập và tiếp thu kiến thức một
cách dễ dàng, hiệu quả.
- Góp phần thực hiện chủ trương đổi mới chương trình, SGK lịch sử sau
năm 2015 theo hướng dạy học tích hợp, chuẩn bị cho GV và HS có bước tiếp cận
ban đầu, sẵn sàng và chủ động trong dạy và học theo yêu cầu mới.
9. Cấu trúc của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ
lục, luận văn gồm 2 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tổ chức dạy học lịch sử theo
chủ đề ở trường THPT
Chương 2. Một số biện pháp tổ chức dạy học theo chủ đề phần lịch sử Việt
Nam (thế kỉ X – XIX) cho học sinh lớp 10, trường THPT Dương Quang Đông, Tỉnh
Trà Vinh.
15
Chƣơng 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TỔ CHỨC DẠY HỌC LỊCH
SỬ THEO CHỦ ĐỀ Ở TRƢỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Cơ sở xuất phát
* Mục tiêu đổi mới giáo dục và đào tạo
Luật giáo dục Việt Nam năm 2005 (sửa đổi 2009) đã xác định rõ mục tiêu
chung của giáo dục là“đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo
đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp, trung thành với lí tưởng độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và
năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc” [20, tr.8]. Trên cơ sở mục tiêu chung, mục tiêu giáo dục THPT được xác
định là: “Giáo dục phổ thông nhằm giúp HS củng cố và phát triển những kết quả
của giáo dục THCS, hoàn thiện học vấn phổ thông và có những hiểu biết thông
thường về kĩ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện phát huy năng lực cá nhân để lựa
chọn hướng phát triển, tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung cấp, học nghề hoặc đi
vào cuộc sống lao động” [20, tr.14]. Mục tiêu giáo dục môn học LS ở trường phổ
thông được cụ thể hóa “nhằm giúp cho HS có được những kiến thức cơ bản, cần
thiết về LSDT và LS thế giới, góp phần hình thành ở HS quan điểm chung một cách
khoa học, biện chứng; giáo dục lòng yêu quê hương, đất nước, truyền thống dân
tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động, thái độ ứng xử đúng
đắn trong đời sống xã hội” [57, tr. 68].
Nghị quyết số 29-NQ/TW ngày 4/11/2013 của Ban chấp hàng Trung ương
Đảng về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo đã chỉ rõ việc đổi mới
chương trình giáo dục sau 2015 phải chuyển từ định hướng nội dung sang định
hướng phát triển năng lực. Từ chỗ chỉ quan tâm đến việc HS học được cái gì đến
cần phải quan tâm xem HS vận dụng được cái gì qua việc học, thực hiện mục tiêu
phát triển toàn diện nhân cách người học, chú trọng năng lực thực hành vào thực
tiễn. Trong công cuộc đổi mới căn bản và toàn diện, giáo dục Việt Nam đang
16
hướng tới những nguyên tắc chung của giáo dục thế kỉ XXI là học để học cách
học, học để làm, học để chung sống, học để khẳng định mình.
Nhằm đáp ứng được yêu cầu đổi mới của giáo dục thì dạy học nói chung,
dạy học LS nói riêng phải luôn tìm kiếm và vận dụng được những PPDH tích cực,
hiện đại giúp cho quá trình nhận thức của HS được diễn ra một cách thuận tiện
nhất, đạt hiệu quả cao nhất. Với bộ môn LS ở trường phổ thông việc đổi mới
PPDH cần chú trọng vào khuyến khích HS học tập tích cực, chủ động, chống lại
thói quen học tập tiêu cực, thụ động, loại bỏ PPDH truyền thụ một chiều, nhồi nhét
kiến thức; phải hướng vào phát triển năng lực tự học của HS, đa dạng hóa các hình
thức, phương pháp học tập để tạo điều kiện cho người học được hoạt động tích
cực, tự khám phá và giải quyết vấn đề, tự rút ra kết luận trên cơ sở hướng dẫn, tổ
chức và gợi ý của GV; phải hướng tới tăng cường sự tương tác, phối hợp giữa
người dạy với người học và tăng cường sử dụng các phương tiện kĩ thuật dạy học
hiện đại.
Những năm qua đã có nhiều hình thức, PPDH mới được nghiên cứu áp
dụng trong giảng dạy như dạy học nêu và giải quyết vấn đề, dạy học dự án, dạy
học hợp tác, dạy học theo góc, dạy học theo chủ đề…Trong đó dạy học theo chủ đề
là sự kết hợp giữa việc truyền thụ kiến thức với định hướng phát triển năng lực, khi
vai trò người dạy và người học có sự thay đổi. Người thầy giữ vai trò tổ chức,
hướng dẫn giúp các em tự tìm kiếm thông tin, chủ động tiếp thu kiến thức. Như
vậy, dạy học theo chủ đề và việc vận dụng tốt các biện pháp tổ chức dạy học theo
chủ đề trong DHLS là một trong những con đường, cách thức góp phần phát triển
nhận thức độc lập, tư duy sáng tạo của HS, góp phần thiết thực trong việc đổi mới
và nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
* Đặc trưng của tri thức lịch sử
Môn học LS ở trường THPT cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản của
khoa học LS. Tuy nhiên kiến thức LS ở trường phổ thông không hoàn toàn đồng
nhất với mọi “thành tựu của khoa học LS” mà chỉ phản ánh những thành tựu mới
nhất của khoa học LS. Kiến thức LS ở trường phổ thông là những hiểu biết về quá
17
khứ đã được khoa học xác nhận, được các nhà nghiên cứu lựa chọn và ghi chép lại
trong SGK. Nó bao gồm các sự kiện, biểu tượng, khái niệm, quy luật LS…và
nhiều yếu tố có liên quan như thời gian, không gian, con người, diễn biến sự kiện
xảy ra…làm cho việc nhận thức của HS được cụ thể, toàn diện và có hệ thống
[9, tr.33]. So với các khoa học khác thì khoa học LS có những đặc trưng riêng, đó
là: tính quá khứ, tính cụ thể, tính không lặp lại, tính lôgíc, hệ thống, tính thống nhất
giữa “sử” và “luận”.
Lịch sử mang tính quá khứ vì các sự kiện đã xảy ra, chúng ta không thể
trực tiếp quan sát mà chỉ nhận thức chúng một cách gián tiếp thông qua các nguồn
tài liệu còn lưu lại như tài liệu thành văn, tư liệu gốc, hiện vật, di tích LS…. hoặc
trên cơ sở phân tích, suy luận dựa vào các sự kiện, hiện tượng LS tương tự. Khác
với khoa học tự nhiên có thể trực tiếp quan sát làm thí nghiệm, chúng ta không thể
dựng lại quá khứ LS đã qua. Điều này đòi hỏi GV khi tổ chức DHLS theo chủ đề
phải xác minh tính chính xác của tài liệu trước khi tổ chức cho HS nghiên cứu, học
tập.
Lịch sử mang tính cụ thể. Ph. Ăngghen đã viết: “Trong bất kì lĩnh vực
khoa học nào- trong lĩnh vực tự nhiên cũng như trong lĩnh vực xã hội- phải xuất
phát từ những sự kiện mà chúng ta đã biết”. Như vậy, sự kiện là cơ sở của nhận
thức LS. LS mang tính cụ thể luôn gắn liền với một thời gian, một địa điểm, một
nhân vật, với những diễn biến, kết quả cụ thể. LS xã hội loài người, LS của mỗi
quốc gia, dân tộc luôn luôn sống động, nếu sự kiện LS tách khỏi thời gian, không
gian, nhân vật thì không còn là LS nữa. Do vậy, khi tổ chức DHLS theo chủ đề,
GV không nên dạy một cách quá công thức, khô cứng mà nên trình bày các sự
kiện, hiện tượng LS càng cụ thể, sinh động, giàu hình ảnh bao nhiêu càng hấp dẫn
và gây hứng thú cho người học bấy nhiêu.
Lịch sử mang tính không lặp lại. Con đường hình thành kiến thức LS được
bắt đầu từ việc cung cấp các sự kiện LS. Trong khi đó sự kiện LS không lặp lại vì
mỗi sự kiện, hiện tượng LS chỉ xảy ra trong một không gian, thời gian nhất định.
Nếu kiến thức của các môn học khác được học đi học lại nhiều lần có thể quan sát
18
được đối tượng nghiên cứu hoặc tiến hành thí nghiệm thì môn LS không làm được
như thế. Các sự kiện LS thường chỉ được học một lần duy nhất, lần sau không
được trình bày lại nữa.Tính không lặp lại của kiến thức LS đòi hỏi GV khi tổ chức
DHLS theo chủ đề cần chọn những kiến thức nào là quan trọng nhất, cơ bản nhất
để nhấn mạnh cho HS, đồng thời giành khoảng thời gian thỏa đáng khi có điều
kiện để củng cố, nhắc lại những kiến thức đã học cho HS.
Lịch sử mang tính hệ thống. LS diễn ra trong một không gian, thời gian
rộng lớn ở nhiều thời đại khác nhau, ở nhiều nước khác nhau. LS mang tính hệ
thống với một lôgíc chặt chẽ điều đó có nghĩa là kiến thức LS có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau không tách rời nhau, không có một sự kiện, hiện tượng LS nào tự
nhiên xuất hiện và tự nhiên mất đi. Một sự kiện mất đi là nguyên nhân nảy sinh ra
sự kiện, hiện tượng mới và sự kiện mới xuất hiện là kết quả của những sự kiện
trước đó. Nội dung kiến thức trong môn LS rất phong phú, đề cập đến tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội loài người, bao gồm cả chính trị, quân sự, kinh tế, văn
hóa, nghệ thuật, khoa học kĩ thuật… không tồn tại độc lập mà có mối quan hệ chặt
chẽ, được sắp xếp trong một hệ thống. Đặc trưng này lưu ý cho GV khi tổ chức
DHLS theo chủ đề cần hướng dẫn cho HS xác định được mối liên hệ giữa các sự
kiện đồng đại (xảy ra cùng thời) và lịch đại (xảy ra trước và sau), tức là mối liên hệ
theo tiến trình LS, theo dòng thời gian, là mối liên hệ đồng thời xảy ra sự kiện, qua
đó có thể cung cấp cho người học tri thức LS khoa học, rèn luyện cho người học kĩ
năng phân tích, tổng hợp, liên hệ, so sánh và tư duy lôgíc.
Lịch sử mang tính thống nhất giữa “sử” và “luận”: kiến thức LS bao gồm
hai phần: một phần “sử” với các yếu tố thời gian đặc điểm, nhân vật, diễn biến, kết
quả và phần “luận” bao gồm những đánh giá, giải thích, bình luận về các sự kiện
LS. Hai phần này trong môn LS có quan hệ chặt chẽ với nhau, không tách rời
nhau, LS diễn ra như thế nào thì phải được đánh giá, giải thích như thế ấy. Ngược
lại mọi giải thích, đánh giá đều phải xuất phát từ các sự kiện LS cụ thể, chính xác
và đáng tin cậy. Do vậy, muốn tổ chức dạy học LS theo chủ đề một cách có hiệu
quả GV cần hướng dẫn cho HS biết rằng không một sự kiện, hiện tượng LS nào là
19