Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Hoàn thiện hoạt động quản lý ngân sách xã trên địa bàn tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH

HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NGÂN SÁCH
XÃ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH NAM ĐỊNH

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC : TS NGUYỄN BÌNH GIANG
NGƯỜI THỰC HIỆN
: TRẦN THỊ THANH VÂN

Hà Nội, 2010


LỜI CAM ĐOAN
Tên tôi là Trần Thị Thanh Vân,học viên lớp cao học Quản trị
kinh doanh trường Đại học Bách Khoa Hà Nội khóa 2008-2010.
Tôi xin cam đoan đề tài này là công trình nghiên cứu của riêng
tôi.Các số liệu,tài liệu,kết quả trong luận văn này là thực tế.
Tôi xin chịu trách nhiệm mọi vấn đề lien quan đến nội dung đề
tài này.


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
NSNH
QH
NSX
NS
HĐND


UBND
KBNN
VAT
QLNN
TNCS
ĐTXDCB
XDCB
HLCS
THCS
TNDN
GD
SNKT
SNVHTT
SNTDTT
BHYT
MTTQ
DT
TH

Ngân sách Nhà Nước
Quốc hội
Ngân sách xã
Ngân sách
Hội đồng nhân dân
Ủy ban nhân dân
Kho bac Nhà Nước
Thuế gia trị gia tăng
Quản lý Nhà Nước
Thanh niên Cộng sản
Đầu tư xây dựng cơ bản

Xây dựng cơ bản
Hoa lợi công sản
Trung học cơ sở
Thu nhập doanh nghiệp
Giáo dục
Sự nghiệp kinh tế
Sự nghiệp văn hóa thông tin
Sự nghiệp thể dục thể thao
Bảo hiểm y tế
Mặt trận Tổ quốc
Dự toán
Thực hiện


-1-

Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu:
Ngân sách xã có vị trí, vai trò rất quan trọng đối với chính quyền cơ sở.
Ngân sách xã là công cụ của cấp uỷ chính quyền cơ sở để thực hiện nhiệm vụ
chính trị, phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo anh ninh nông thôn và thúc đẩy sự
nghiệp xây dựng nông thôn mới.
Những năm qua, ngân sách xã của nước ta nói chung và tỉnh Nam Định
nói riêng đã có những chuyển biến tích cực có sự thay đổi, phát triển nhanh
của Đảng, chính quyền, đoàn thể và đầu tư phát triển, đã góp phần quan trọng
trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Việc huy động,

động viên nhân dân đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng, các công trình phúc lợi
xã hội đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn tại nhiều xã, phường, thị trấn. Công
tác quản lý, điều hành ngân sách xã được nâng cao về chất lượng góp phần
thúc đẩy phát triển kinh tế, ổn định chính trị và an ninh nông thôn.
Mặc dù, những năm qua công tác quản lý ngân sách xã đã đạt được
những kết quả quan trọng nhưng vẫn còn những hạn chế, yếu kém, bất cập
như quản lý thu ngân sách ở nhiều địa phương chưa tốt, còn để thất thu, nợ
đọng nhiều; chưa quan tâm nuôi dưỡng nguồn thu ; Công tác quản lý chi ngân
sách chưa thực sự tiết kiệm và hiệu quả, nhất là công tác quản lý đất đai, đầu
tư xây dựng cơ bản còn buông lỏng, phát sinh tiêu cực gây thắc mắc, khiếu
kiện trong dân, gây bất ổn an ninh nông thôn ở nhiều địa phương. Từ đó, ngân
sách xã chưa phát huy hết vai trò là công cụ sắc bén của cấp uỷ chính quyền
cơ sở trong việc phát triển kinh tế, xã hội, xây dựng nông thôn trong tình hình
mới.
Từ những bất cập, tồn tại trên tôi lựa chọn đề tài : “Hoàn thiện hoạt
động quản lý ngân sách xã tại tỉnh Nam Đinh” làm đề tài luận văn thạc sỹ của
mình.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích chung
Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010

-2-

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội


Đánh giá hoạt động quản lý ngân sách xã trên địa bàn tỉnh Nam Định,
từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý ngân
sách xã của tỉnh và ổn định theo quy định của Luật NSNN nước Cộng hòa
XHCN Việt Nam.
2.2. Mục đích cụ thể
Phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động quản lý ngân sách xã ở tỉnh
Nam Định giai đoạn 2005-2009, làm cơ sở đề ra phương hướng và giải pháp
hoàn thiện hoạt động quản lý ngân sách xã nhằm góp phần phát triển kinh tế xã hội ở tỉnh Nam Định.
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp thu thập thông tin và số liệu
- Sử dụng phương pháp kế thừa tất cả các thông tin, tài liệu về NSNN
và NSX; Thông tin tài liệu được khai thác trên cơ sở các văn bản, báo cáo
quyết toán, dự toán NSNN hàng năm, báo cáo tổng kết qua các năm, các công
trình nghiên cứu….. có liên quan về NSNN và NSX. Nguồn từ: các văn bản,
Sở Tài chính tỉnh Nam Định; các phòng ban của Sở như phòng Quản lý ngân
sách, Quản lý ngân sách xã; Cục thống kê, Cục thuế ….. trên địa bàn tỉnh
Nam Định.
- Sử dụng phương pháp phỏng vấn về hoạt động quản lý tài chính ngân
sách xã, phường đối với cán bộ làm công tác quản lý tài chính xã và cán bộ
theo dõi ngân sách xã của Sở Tài chính tỉnh Nam Định.
3.2. Phương pháp phân tích số liệu
Luận văn sử dụng phương pháp thống kê thông qua số liệu đã thu thập
mô tả quy mô thu, chi… một cách tổng thể cũng như đối với từng chỉ tiêu của
ngân sách xã. Từ đó so sánh, đối chiếu các chỉ tiêu thu, chi ngân sách xã trên
cơ sở đó đánh giá mức tăng thu, tăng chi ngân sách xã qua các năm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động quản lý ngân sách xã trên địa bàn
tỉnh Nam Định.
Trần Thị Thanh Vân


Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010

-3-

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

Phạm vi nghiên cứu: Đề tài thực hiện đánh giá hoạt động quản lý ngân
sách xã gồm lập dự toán, chấp hành dự toán (hoạt động thu, chi NSX) và
quyết toán NSX. Đề tài tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý ngân sách xã
trên địa bàn tỉnh: 229 xã, phường, thị trấn.
5. Đóng góp của Luận văn
Làm rõ những vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của NSNN và quản
lý NSX. Đánh giá thực trạng hoạt động quản lý NSX trên địa bàn tỉnh Nam
Định và đưa ra những giải pháp hữu hiệu để nâng cao hiệu quả quản lý NSX
trong giai đoạn tới. Từ đó góp phần:
- Ổn định ngân sách địa phương, vững mạnh NSNN và nền tài chính
quốc gia.
- Thấy được những việc đã làm được và những bất cập tồn tại để điều
chỉnh trong thời gian tới.
- Nâng cao hiệu quả quản lý NSX giúp tăng thu, tiết kiệm chi tạo đà
phát triển kinh tế - xã hội tại các xã, phường, thị trấn nhằm ổn định tình hình
chính trị, an ninh, trật tự xã hội tại cơ sở theo chủ trương của Đảng và Nhà
nước đề ra.
6. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về ngân sách nhà nước và quản lý ngân sách


Chương 2: Đánh giá thực trạng hoạt động quản lý ngân sách xã tỉnh
Nam Định
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động quản lý ngân
sách xã trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Tuy nhiên, do hạn chế về mặt thời gian cũng như trình độ, đề tài không
tránh khỏi những thiếu sót nhất định, em rất mong nhận được sự tham gia,
góp ý của các thầy cô, các nhà quản lý tài chính và những người quan tâm
đến đề tài.
Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010

-4-

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH XÃ
1.1. Những vấn đề chung về ngân sách nhà nước.
1.1.1. Khái niệm chung về ngân sách nhà nước.
Ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong
một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
Từ xưa đến nay có rất nhiều quan điểm về khái niệm ngân sách nhà
nước, tuy nhiên chỉ có ba quan điểm khá phổ biến đó là:
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Ngân sách nhà nước là quỹ tiền tệ tập

trung của Nhà nước, là kế hoạch tài chính cơ bản của nhà nước.
Quan điểm thứ hai cho rằng: Ngân sách nhà nước là bản dự toán thu,
chi tài chính của Nhà nước trong một khoảng thời gian nhất định thường là
một năm.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Ngân sách nhà nước là những quan hệ kinh
tế phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài
chính khác nhau.
Từ những quan điểm trên về ngân sách Nhà nước thấy rằng các quan
điểm này có những nhân tố hợp lý song vẫn chưa đầy đủ, nó mới cho thấy
được mặt cụ thể, mặt vật chất của Ngân sách Nhà nước mà chưa thấy hết
được các mặt về kinh tế - xã hội của Ngân sách nhà nước. Khái niệm về Ngân
sách Nhà nước phải thể hiện được nội dung kinh tế xã hội của Ngân sách nhà
nước, phải được xem xét trên các mặt hình thức, thực thể và quan hệ kinh tế
chứa đựng trong ngân sách Nhà nước (1) - Đại học Kinh tế quốc dân-Giáo
trình lý thuyết tài chính tiền tệ.

Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010

-5-

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

Nếu xét về hình thức: Ngân sách Nhà nước là một bản dự toán thu và
chi của Chính phủ lập ra, được trình lên Quốc hội phê chuẩn và giao cho
Chính phủ tổ chức thực hiện.

Nếu xét về thực thể: Ngân sách Nhà nước bao gồm những nguồn thu cụ
thể, những khoản chi cụ thể và được định lượng. Các nguồn thu đều được nộp
vào quỹ tiền tệ gọi là quỹ ngân sách nhà nước và các khoản chi đều được lấy
từ quỹ tiền tệ này. Trong quá trình thực hiện thu và chi quỹ này có mối quan
hệ ràng buộc với nhau được gọi là cân đối. Cân đối thu, chi Ngân sách Nhà
nước là một cân đối lớn trong nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy mà có thể
khẳng định ngân sách nhà nước là một quỹ tiền tệ lớn của Nhà nước.
Nếu xét về các quan hệ kinh tế chứa đựng trong ngân sách Nhà nước:
các khoản thu, chi từ quỹ Ngân sách Nhà nước đều phản ánh những quan hệ
kinh tế nhất định giữa Nhà nước với người nộp, giữa Nhà nước với các cơ
quan, đơn vị thụ hưởng từ quỹ Ngân sách Nhà nước. Hoạt động thu, chi ngân
sách nhà nước là hoạt động tạo lập, sử dụng ngân sách nhà nước làm cho vốn
tiền tệ, nguồn tài chính vận động giữa một bên là Nhà nước và một bên là các
chủ thể phân phối và ngược lại trong quá trình phân phối các nguồn tài chính.
Trên thực tế thì hoạt động của Ngân sách Nhà nước rất đa dạng và vô cùng
phong phú, nó thực hiện ở rất nhiều lĩnh vực và có sự tác động đến tất cả các
chủ thể kinh tế - xã hội. Những quan hệ về thu, nộp và cấp phát Ngân sách
nhà nước là những quan hệ được xác định trước, được định lượng và Nhà
nước sử dụng chúng làm công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế.
Từ đó người ta rút ra: “Ngân sách Nhà nước phản ánh các quan hệ kinh
tế phát sinh gắn liền với quá trình tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ tiền tệ
tập trung của Nhà nước khi Nhà nước tham gia phân phối các nguồn tài chính
quốc gia nhằm thực hiện chức năng của Nhà nước trên cơ sở Luật định” (2)Dương Đăng Chinh (2000) Lý thuyết Tài chính – NXB Tài chính, Hà Nội
2000.

Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý



Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010

-6-

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

Đối với nước ta, năm 1996 Luật Ngân sách nhà nước chính thức ra đời.
Luật Ngân sách nhà nước được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thông qua ngày 20/3/1996 (sau này được sửa đổi bổ sung năm 1998
và được thay thế bằng Luật Ngân sách nhà nước ban hành năm 2002 để phù
hợp với điều kiện thực tế của đất nước ta trong quá trình hội nhập và phát
triển). Luật Ngân sách Nhà nước ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt quan
trọng trong quản lý và điều hành về tài chính, ngân sách của nước ta.
Tại Điều 1 của Luật NSNN năm 2002 đã quy định: “Ngân sách nhà
nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực
hiện các chức năng nhiệm vụ của Nhà nước” (3) –Luật NSNN – NXB Tài
chính, Hà Nội tháng 7/2003.
Các khoản thu Ngân sách nhà nước bao gồm: Các khoản thu từ thuế,
phí, lệ phí, các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nước, các khoản đóng
góp của các tổ chức và cá nhân, các khoản viện trợ, các khoản thu khác theo
quy định của pháp luật (4).
Các khoản chi ngân sách nhà nước bao gồm: Các khoản chi phát triển
kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo đảm các hoạt động của bộ máy Nhà
nước, chi trả nợ Nhà nước, chi viện trợ và các khoản chi khác theo quy định
của pháp luật (4)- Bộ Tài chính (1997)Hướng dẫn quản lý thu, chi ngân sách
xã, phường, thị trấn – NXB Tài chính, Hà Nội tháng 4/1997..
1.1.2. Một số đặc điểm của Ngân sách Nhà nước
Ngân sách nhà nước có một số đặc điểm chung như sau (1):
Thứ nhất: Ngân sách nhà nước là một bộ phận chủ yếu của hệ thống tài

chính quốc gia. Ngân sách nhà nước bao gồm những mối quan hệ tài chính
nhất định trong tổng thể các quan hệ tài chính quốc gia.
Thứ hai: Các quan hệ tài chính thuộc Ngân sách nhà nước gồm những
đặc điểm:
Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010

-7-

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

- Các hoạt động thu, chi của Ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với
quyền lực về kinh tế, chính trị của Nhà nước, nó được thể hiện bằng thể chế,
bằng luật định và những công cụ hành chính.
- Ngân sách nhà nước luôn gắn chặt với sở hữu nhà nước, luôn chứa
đựng lợi ích chung, lợi ích công cộng. Toàn bộ các hoạt động thu, chi của
Ngân sách nhà nước chứa đựng bao hàm các nội dung về kinh tế, xã hội và
chứa đựng tổng thể các mặt lợi ích của các đối tượng liên quan. Các mối quan
hệ lợi ích đó luôn được hài hoà và đảm bảo công bằng giữa các đối tượng.
Nhưng vấn đề lợi ích của quốc gia, lợi ích của tập thể vẫn phải được đặt lên
hàng đầu, nó thực hiện việc chi phối tất cả các mặt lợi ích khác.
- Ngân sách nhà nước cũng có những đặc điểm như các quỹ tiền tệ
khác. Nét riêng của Ngân sách nhà nước là một quỹ tiền tệ tập trung của Nhà
nước được chia thành nhiều quỹ nhỏ, có tác dụng riêng và được dùng cho
những mục đích đã định trước.
- Hoạt động thu, chi của Ngân sách Nhà nước được thực hiện theo

nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu.
1.1.3. Chức năng của ngân sách Nhà nướ c (1)
Ngân sách Nhà nước có một vai trò quan trọng trong toàn bộ hoạt
động kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của đất nước. Chức
năng, vai trò của ngân sách Nhà nước luôn gắn liền với chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước và nó tuỳ thuộc vào từng thời kỳ, từng giai đoạn khác nhau mà
có những biểu hiện khác nhau và luôn thể hiện ba chức năng chính:
- Chức năng thứ nhất là chức năng phân phối: đây là công cụ chủ yếu
phân bổ trực tiếp hoặc gián tiếp các nguồn tài chính của quốc gia; Cung cấp
các phương tiện vật chất cho sự tồn tại và hoạt động của bộ máy Nhà nước từ
Trung ương đến địa phương, đảm bảo an ninh quốc gia, giữ vững trật tự an
toàn xã hội, đảm bảo phát triển đời sống kinh tế - xã hội của đất nước.

Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010

-8-

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

- Chức năng thứ hai là chức năng điều tiết: đây là công cụ điều chỉnh vĩ
mô nền kinh tế xã hội; Là công cụ tài chính quan trọng để quản lý điều chỉnh
các hoạt động kinh tế xã hội của đất nước; Định hướng phát triển nền kinh tế,
sản xuất, điều tiết thị trường, bình ổn giá cả, điều chỉnh trong lĩnh vực thu
nhập nhằm đem lại sự công bằng và thực hiện việc giải quyết những vấn đề,
những mâu thuẫn nảy sinh trong xã hội.

- Chức năng thứ ba là chức năng kiểm tra: xuất phát từ mối quan hệ
mật thiết của ngân sách Nhà nước với các khâu trong hệ thống tài chính quốc
gia, xuất phát từ lợi ích chung, ngân sách Nhà nước kiểm tra các hoạt động tài
chính trong việc làm nghĩa vụ nộp thuế, các khoản phải nộp, việc sử dụng các
nguồn tài chính Nhà nước, sử dụng các tài sản quốc gia và việc thực hiện luật
pháp, chính sách về ngân sách cũng như các pháp luật, chính sách có liên
quan khác. Kiểm tra của ngân sách Nhà nước gắn chặt với quyền lực của hệ
thống hành chính Nhà nước; nó là một loại kiểm tra đơn phương theo hệ
thống thứ bậc cơ quan quyền lực và cơ quan hành chính Nhà nước các cấp về
nghĩa vụ phải thực hiện đối với ngân sách cũng như việc sử dụng vốn, kinh
phí, tài sản của Nhà nước. Như vậy, kiểm tra của ngân sách Nhà nước đối với
hoạt động tài chính khác là một mặt trong hoạt động quản lý và kiểm tra của
Nhà nước, có tác động sâu sắc tới các hoạt động tài chính khác và có vai trò
quan trọng góp phần xây dựng một xã hội công bằng, văn minh, dân chủ.
1.1.4. Tổ chức hệ thống và phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước
1.1.4.1. Tổ chức hệ thống ngân sách Nhà nước ở Việt Nam
Hệ thống ngân sách Nhà nước: là tổng thể các cấp ngân sách Nhà nước
gắn bó hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi
cấp ngân sách.
Nguyên tắc tổ chức hệ thống ngân sách Nhà nước:

Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


-9-

Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010


Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

- Nguyên tắc thống nhất và tập trung dân chủ: Hệ thống ngân sách Nhà
nước được xây dựng căn cứ vào Hiến pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
Đối với nước ta, theo quy định của Hiến pháp, Việt Nam là một quốc
gia thống nhất, quyền lực Nhà nước thống nhất; nguyên tắc tổ chức là nguyên
tắc tập trung dân chủ. Do đó chỉ có ngân sách Nhà nước thống nhất do Quốc
hội phê chuẩn dự toán và quyết toán; Chính phủ thống nhất quản lý ngân sách
Nhà nước;.
- Nguyên tắc đảm bảo tính phù hợp giữa cấp ngân sách với chính quyền
Nhà nước. Nguyên tắc này xuất phát từ yêu cầu đảm bảo nguồn tài chính cho
việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của mỗi cấp chính quyền Nhà nước.
Đối với Việt Nam hiện nay, hệ thống chính quyền Nhà nước được phân
thành bốn cấp. Vì vậy ứng với mỗi cấp chính quyền thì có một cấp ngân sách
tương ứng do đó hệ thống ngân sách Nhà nước của ta gồm các cấp được thể
hiện trên hình 1.1
Ngân sách nhà nước

Ngân sách Trung ương

Ngân sách tỉnh và
TP trực thuộc TW

Ngân sách địa phương

Ngân sách huyện,
quận, thị xã, TP
thuộc tỉnh


Ngân sách xã,
phường, thị trấn

Hình 1.1: Hệ thống ngân sách Nhà nước Việt Nam
Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010

- 10 -

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

1.1.4.2. Phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước ở Việt Nam (5) – Quốc hội
nước CHXHCN Việt Nam (1998) Luật số 06/1998/QH10 Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật NSNN – NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998.
Phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước: là sự phân chia quyền hạn, trách
nhiệm giữa các cấp chính quyền trong việc quản lý, điều hành nhiệm vụ của
ngân sách Nhà nước.
Yêu cầu của phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước:
- Đảm bảo tính thống nhất của ngân sách Nhà nước, nguồn thu và
nhiệm vụ chi cho mỗi cấp chính quyền được ổn định theo luật định.
- Phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước phải phù hợp với phân cấp các
lĩnh vực khác của Nhà nước, xác định rõ mối quan hệ giữa ngân sách cấp trên
và ngân sách cấp dưới, quan hệ giữa trung ương và địa phương.
- Nội dung của phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước phải phù hợp với
Hiến pháp và luật pháp quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm của các cấp chính quyền, đảm bảo mỗi cấp ngân sách có các nguồn

thu, nhiệm vụ chi, quyền và trách nhiệm về ngân sách tương xứng.
- Quốc hội là cơ quan quyết định dự toán ngân sách Nhà nước, phân bổ
ngân sách Nhà nước trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước;
Hội đồng nhân dân các cấp được chủ động quyết định dự toán ngân sách địa
phương, quyết định phân bổ dự toán ngân sách địa phương.
Nội dung phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước: Đây chính là việc giải
quyết các mối quan hệ về quyền lực, quan hệ vật chất giữa các cấp chính
quyền trong quá trình quản lý và sử dụng ngân sách Nhà nước bao gồm các
nội dung sau:
- Giải quyết mối quan hệ quyền lực giữa các cấp chính quyền trong
việc ban hành các chính sách, chế độ thu, chi và chế độ quản lý ngân sách
Nhà nước.
- Giải quyết mối quan hệ vật chất trong quá trình phân giao nhiệm vụ
chi, nguồn thu và cân đối ngân sách Nhà nước.
Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010

- 11 -

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

- Giải quyết mối quan hệ trong quá trình thực hiện chu trình ngân sách
Nhà nước.
Nguyên tắc phân cấp quản lý ngân sách Nhà nước:
- Phân cấp ngân sách phải được tiến hành đồng bộ với phân cấp kinh tế
và tổ chức bộ máy hành chính.

- Đảm bảo thể hiện vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương và vị trí
độc lập của ngân sách địa phương trong hệ thống ngân sách Nhà nước thống
nhất.
- Đảm bảo nguyên tắc công bằng trong phân cấp ngân sách.
Trong hoạt động quản lý ngân sách, phân cấp quản lý ngân sách là tất
yếu khách quan bắt nguồn từ sự phân cấp kinh tế và hệ thống tổ chức hành
chính Nhà nước. Phân cấp quản lý ngân sách không chỉ giới hạn ở việc phân,
giao nhiệm vụ thu, chi mà phải bao quát tất cả các lĩnh vực của hoạt động
ngân sách ở từng cấp và phải thực hiện trên những nguyên tắc nhất định.
Đối với nước ta hiện nay, thực hiện phân cấp quản lý theo các cấp ngân
sách từ ngân sách trung ương đến ngân sách tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương (gọi chung là ngân sách cấp tỉnh); ngân sách huyện, quận, thị xã, thành
phố trực thuộc tỉnh (gọi chung là ngân sách cấp huyện); ngân sách xã,
phường, thị trấn (gọi chung là ngân sách cấp xã).
Trong hệ thống ngân sách Nhà nước, ngân sách trung ương giữ vai trò
chủ đạo, chi phối trong hệ thống ngân sách Nhà nước. Ngân sách trung ương
thực hiện nhiệm vụ chi quan trọng, có tính chất điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế,
đảm bảo chi cho an ninh, quốc phòng và các chương trình mục tiêu quốc gia,
phát triển toàn diện nền kinh tế - xã hội và thực hiện chức năng hỗ trợ cho
ngân sách cấp dưới.
Ngân sách tỉnh có nhiệm vụ chủ đạo khai thác nguồn thu tại chỗ, tận
dụng tăng thu những nguồn thu được phân cấp, đồng thới sắp xếp lại các
khoản chi, chú trọng đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế, xã hội

Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010


- 12 -

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

trên phạm vi tỉnh quản lý, ngoài ra còn thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ cho ngân
sách cấp dưới.
Ngân sách huyện là cấp ngân sách trung gian có nhiệm vụ thu, chi theo
luật ngân sách đồng thời là cấp dự toán thực hiện quản lý, cấp phát theo chức
năng nhiệm vụ được phân cấp.
Ngân sách cấp xã vừa là cấp ngân sách cơ sở trong hệ thống ngân sách
Nhà nước, vừa là đơn vị dự toán đặc biệt với tư cách thụ hưởng ngân sách
Nhà nước. Nó đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của chính quyền Nhà nước cấp cơ sở.
1.1.5. Chu trình quản lý ngân sách Nhà nước
1.1.5.1. Khái niệm
Ngân sách Nhà nước là bảng dự toán thu, chi bằng tiền của Nhà nước
trong khoảng thời gian nhất định, nó thường được xác định cho một năm. Đối
với nước ta, thời gian nhất định này được gọi là năm ngân sách và năm ngân
sách trùng với năm dương lịch tính từ ngày 01/01 đến 31/12 của năm. Tuy các
nước có mốc tính năm ngân sách khác nhau, song thông thường đều tính 12
tháng .
Để thực hiện được năm ngân sách, bao giờ cũng được bắt đầu từ khâu
lập dự toán, sau đó tiến hành thực hiện dự toán. Sau khi dự toán được thực
hiện hoàn thành, để đánh giá việc thực hiện dự toán phải tiến hành một khâu
gọi là quyết toán ngân sách. Việc tiến hành thực hiện ba khâu này trong năm
ngân sách khi năm ngân sách kết thúc thì tiếp tục bắt đầu năm ngân sách mới.
Vì vậy hoạt động của ngân sách có tính chu kỳ lặp đi lặp lại và hình thành nên
chu trình liên tục của ngân sách Nhà nước.
Như vậy: Chu trình quản lý ngân sách Nhà nước là quá trình quản lý

thực hiện các khâu lập, chấp hành và quyết toán ngân sách của một chu trình
ngân sách.
1.1.5.2. Nội dung chủ yếu của chu trình quản lý ngân sách Nhà nước
a. Lập ngân sách Nhà nước
Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010

- 13 -

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

Lập ngân sách Nhà nước là xây dựng dự toán các khoản thu, chi của
ngân sách trong một năm ngân sách. Lập ngân sách là công việc khởi đầu
trong quá trình hình thành ngân sách.
Yêu cầu lập ngân sách Nhà nước:
- Bảo đảm xây dựng dự toán thu, chi ngân sách Nhà nước dựa trên hệ
thống chế độ, chính sách và tiêu chuẩn định mức đúng đắn phù hợp với thực
tiễn kinh tế - xã hội đang vận động.
- Bảo đảm xây dựng dự toán thu, chi ngân sách Nhà nước tiến hành
đúng với trình tự và thời gian quy định.
- Xây dựng dự toán thu, chi ngân sách Nhà nước bảo đảm mối quan hệ
đúng đắn giữa kế hoạch hiện vật và kế hoạch giá trị trong bối cảnh cung cầu
giá cả luôn biến động.
Căn cứ lập dự toán ngân sách Nhà nước:
- Phương hướng, chủ trương, nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội, an ninh, quốc phòng của Nhà nước.

- Các chỉ tiêu của kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước
trong năm.
- Hệ thống các chính sách, chế độ, tiêu chuẩn, định mức thu-chi của
ngân sách Nhà nước.
Ngoài ra, việc lập dự toán ngân sách Nhà nước phải căn cứ vào kết quả
phân tích việc thực hiện dự toán ngân sách trong thời gian trước để bổ sung
những kinh nghiệm cần thiết cho việc lập dự toán kỳ kế hoạch.
b. Chấp hành ngân sách Nhà nước:
Chấp hành ngân sách Nhà nước là việc thực hiện dự toán ngân sách
Nhà nước đã được phê chuẩn.
Nội dung chính quá trình chấp hành ngân sách Nhà nước: Đây là quá
trình tổ chức thực hiện thu ngân sách Nhà nước và bố trí cấp phát kinh phí
của ngân sách Nhà nước cho các nhu cầu đã được phê chuẩn. Sau khi dự toán
ngân sách Nhà nước được phê duyệt, năm ngân sách Nhà nước bắt đầu thì dự
Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010

- 14 -

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

toán ngân sách Nhà nước bắt đầu được thực hiện. Việc thực hiện dự toán
chính là việc tổ chức thực hiện thu ngân sách và chi ngân sách cho các nhu
cầu đã được duyệt trong dự toán.
c. Quyết toán ngân sách Nhà nước:
Quyết toán ngân sách Nhà nước là giai đoạn tổng kết đánh giá toàn bộ

kết quả hoạt động ngân sách Nhà nước sau một năm ngân sách, đây là khâu
cuối cùng trong chu trình quản lý ngân sách Nhà nước. Thông qua quyết toán
ngân sách Nhà nước sẽ cho thấy được toàn bộ kết quả toàn diện về hoạt động
kinh tế - xã hội của Nhà nước, hoạt động ngân sách với tư cách là công cụ vĩ
mô của Nhà nước trong thời gian qua. Do đó quyết toán ngân sách Nhà nước
cần phải được đảm bảo chính xác, trung thực và kịp thời. Muốn vậy cần phải
thực hiện những yêu cầu cơ bản sau :
- Phải soát lại toàn bộ chế độ hiện hành về kế toán và quyết toán ngân
sách Nhà nước, đảm bảo quyết toán nhanh gọn, chính xác, kịp thời.
- Đổi mới quá trình lập báo cáo, phê chuẩn quyết toán và tổng quyết
toán ngân sách Nhà nước theo hướng tăng cường trách nhiệm của các đơn vị,
cơ quan địa phương, nâng cao vai trò của cơ quan tài chính, Chính phủ và
Quốc hội. Thực hiện việc quyết toán từ cơ sở, gắn chặt cơ quan chuẩn chi, cơ
quan cấp phát, cơ quan quản lý trong quá trình thực hiện quyết toán ngân sách
Nhà nước.
- Nâng cao vai trò của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp trong việc
xem xét, phê chuẩn quyết toán và tổng quyết toán ngân sách Nhà nước.
Đồng thời trong quá trình thực hiện chu trình của ngân sách Nhà nước
đó là tiến hành việc phân tích, kiểm tra, kiểm toán ngân sách Nhà nước. Đây
là công tác thường được thực hiện trong quá trình thực hiện và sau khi một
chu kỳ ngân sách Nhà nước kết thúc. Nó được tiến hành nhằm đánh giá việc
thực hiện dự toán, chấp hành dự toán, kế toán, quyết toán ngân sách Nhà nước
trong một chu kỳ hoặc một năm tài chính. Thông qua việc kiểm tra, kiểm toán
thấy được những mặt tích cực, những mặt còn hạn chế, những vướng mắc
Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010


- 15 -

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

trong quá trình thực hiện và từ đó có các biện pháp khắc phục, xử lý kịp thời
theo quy định.
1.2. Khái quát chung về ngân sách xã
1.2.1. Khái niệm về ngân sách xã
Các nước trên thế giới có hệ thống chính quyền từ cấp Trung ương đến
cấp xã và phân cấp quản lý NSNN thì ngân sách xã là một bộ phận của chính
quyền nhà nước cấp xã và là một cấp của hệ thống NSNN.
Đối với nước ta, từ khi cấp xã, phường, thị trấn được công nhận là một
cấp chính quyền trong hệ thống chính quyền từ trung ương đến cấp cơ sở của
Nhà nước pháp quyền thì NSX cũng được xác nhận là một cấp của hệ thống
NSNN, là một bộ phận của chính quyền cấp xã. Ngân sách xã được Nhà nước
ta quy định bằng các văn bản pháp luật cụ thể. NSX được quy định cụ thể
trong Luật NSNN số 47/1996/QH10 (5). Ngoài ra, NSX cũng được quy định
cụ thể tại một số văn bản quy phạm khác của Chính phủ (6)- Chính phủ nước
CHXHCN Việt Nam (2003) Ban hành quy chế xem xét, quyết định dự toán
và phân bổ dự toán ngân sách địa phương, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa
phương, Nghị định số 73/NĐ-CP ngày 23/6/2003, (7)- Bộ Tài chính 2001
Quản lý NSX, phường, thị trấn – NXB Tài chính, Hà Nội tháng 6/2001). Theo
quy định NSX là một bộ phận, là một cấp của NSNN; NSX là cấp ngân sách
địa phương cuối cùng trong hệ thống NSNN (8) – Bộ Tài chính (2003) Thông
tư số 60/2003/TT-BTC quy định về quản lý NSX và các hoạt động tài chính
khác của xã, phường, thị trấn – NXB Tài chính, Hà Nội 2003.
Nói một cách cụ thể: NSX là toàn bộ các khoản thu, chi được quy định
trong dự toán của một năm do Hội đồng nhân dân xã quyết định và giao cho
UBND xã chấp hành nhằm đảm bảo thực hiện các chức năng nhiệm vụ của

chính quyền xã.
Tuy NSX là một phần của NSNN, khi xem xét khái niệm NSX không
được tách rời NSNN, nhưng cũng không thể coi khái niệm về NSNN là khái
niệm NSX. Từ quan điểm náy chúng ta có thể thấy được cơ quan quyết định
Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010

- 16 -

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

ngân sách và cơ quan chấp hành ngân sách mà chưa thể thấy được hết mối
quan hệ lợi ích chứa đựng trong ngân sách xã.
Các mối quan hệ bao gồm:
Thứ nhất: Quan hệ chính quyền cấp xã với chính quyền cấp trên. Đây là
mối quan hệ được thể hiện trong việc xác định nguồn thu, nhiệm vụ chi cho
cấp xã.
Thứ hai: Quan hệ chính quyền cấp xã với các tổ chức Đảng, tổ chức
chính trị, xã hội trong xã. Đó là việc tạo lập các khoản chi cho hoạt động của
các tổ chức này.
Thứ ba: Quan hệ giữa chính quyền xã với các tổ chức kinh tế, các HTX
trên địa bàn. Đây là việc thực hiện thu nộp từ các tổ chức này.
Thứ tư: Quan hệ giữa chính quyền xã với dân cư trong xã. Đây là việc
thực hiện thu từ dân, hộ kinh doanh theo quy định vào NSX hoặc những
khoản chi từ NSX để phục vụ trực tiếp cho những nhu cầu của dân. Đay là
mối quan hệ vô cùng phức tạp, thể hiện sự đảm bảo công bằng trong các vấn

đề về tài chính.
Thứ năm: Quan hệ giữa chính quyền Nhà nước cấp trên với dân cư
trong xã. Mối quan hệ này thường thông qua các chương trình quốc gia, các
chương trình mục tiêu, chương trình dự án….. từ cấp trên, từ các tổ chức.
Tóm lại: NSX vừa là kế hoạch tài chính, vừa là quỹ tiền tệ của xã được
hình thành từ các nguồn thu và các khoản chi phân giao của xã. Nó phản ánh
những mối quan hệ kinh tế giữa một bên là chính quyền xã với một bên là các
chủ thể thong qua sự vận động của các nguồn tài chính nhằm đảm bảo thực
hiện chức năng nhiệm vụ của chính quyền xã trên mọi lĩnh vực kinh tế, chính
trị, an ninh trật tự và văn hóa, xã hội.
1.2.2. Vai trò của chính quyền cấp xã và ngân sách xã
1.2.2.1. Vai trò của chính quyền cấp xã
Chính quyền cấp xã là cấp chính quyền cơ sở do nhân dân trong xã bầu
ra, nó có một vị trí, vai trò đặc biệt trong hệ thống chính quyền Nhà nước của
Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010

- 17 -

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

nước ta; là cấp chính quyền tiếp xúc trực tiếp với dân trong địa phương. Vì
thế chính quyền cơ sở có vững mạnh thì nhân dân mới tin tưởng chính quyền
thực hiện tốt chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ban
hành. Do vậy, chính quyền cấp xã có một vai trò hết sức to lớn trong hoạt
động nhà nước mà đặc biệt trong công cuộc phát triển nông thôn, xóa đói

giảm nghèo thực hiện tốt sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Vai trò của chính quyền cấp xã được thể hiện cụ thể:
Thứ nhất: Chính quyền cấp xã là nơi đóng vai trò trực tiếp, gần nhất đối
với người dân địa phương về việc tổ chức thực hiện Hiến pháp và pháp luật,
các chủ trương đường lối của Đảng, các chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Chính quyền xã thay mặt Nhà nước quan hệ trực tiếp với người dân, nó còn
thể hiện tính cộng đồng, dòng họ, huyết thống, tình làng nghĩa xóm, truyền
thống văn hóa mang đậm bản sắc dân tộc. Những công việc được giải quyết
không chỉ theo chính sách pháp luật mà còn phải thể hiện được thấu tình đạt
lý, phù hợp với điều kiện thực tế.
Thứ hai: Chính quyền cấp xã còn có một vai trò quan trọng đó là quản
lý hành chính Nhà nước về các mặt chính trị, kinh tế, văn hóa-xã hội, an ninh
quốc phòng trên khu vực địa phương.
- Về mặt chính trị: Chính quyền cấp xã là nền tảng cơ sở cho hệ thống
hành chính, bảo vệ và phát triển hệ thống chính trị cấp cơ sở. Tổ chức thực
hiện, phổ biến các đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước trong quần
chúng nhân dân.
- Về mặt kinh tế: Chính quyền cấp xã thể hiện vai trò quản lý, giám sát
về mặt pháp luật đối với các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình sản xuất kinh
doanh, định hướng cho SXKD của địa phương, tạo cơ hội, điều kiện cho phát
triển SXKD. Bên cạnh đó chính quyền xã còn óp phần tạo điều kiện về hành
lang pháp lý, thực hiện quyền lợi hợp pháp cho mọi hoạt động SXKD trên địa
bàn. Thực hiện việc xây dựng các cơ sở hạ tầng, các công trình như điện,
đường, trường, trạm…..
Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010


- 18 -

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

- Về mặt văn hóa – xã hội: Chính quyền cấp xã là nơi trực tiếp tổ chức
các hoạt động văn hóa xã hội, văn hóa truyền thống, các hoạt động thể dục thể
thao quần chúng; thực hiện các chương trình kế hoạch hóa gia đình, xóa nạn
mù chữ, giáo dục cộng đồng, bảo vệ chăm sóc sức khỏe cộng đồng, phòng
chống các tệ nạn xã hội trong nhân dân…..
- Về an ninh, quốc phòng, trật tự an toàn xã hội: Chính quyền cấp xã là
nơi giải quyết các vấn đề nảy sinh về an ninh trật tự địa phương, quản lý hộ
tịch, hộ khẩu, giữ gìn trật tự, huấn luyện dân quân tự vệ; là nơi trực tiếp tham
gia xây dựng lực lượng quốc phòng trên khu vực dân cư, tổ chức tuyển quân
cho quân đội.
1.2.2.2. Vai trò của ngân sách xã
Ngân sách xã là một cấp ngân sách, là một bộ phận cấu thành của
NSNN, chính vì vậy mà NSX thể thiện đầy đủ vai trò của NSNN; NSX cũng
là một bộ phận của bộ máy chính quyền cấp xã, vì vậy nó còn có những vai
trò riêng (7) – Bộ Tài chính (2001) quản lý ngân sách xã, phường, thị trấn –
NXB Tài chính, Hà Nội tháng 6/2001.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng theo chủ nghĩa xã hội ở nước
ta hiện nay, NSX cơ bản có vai trò chung của NSNN. Tuy nhiên có những đặc
thù và vai trò riêng biệt được thể hiện:
Thứ nhất: NSX cung cấp các phương tiện vật chất, tiền tài vật lực cho
sự tồn tại và hoạt động của bộ máy chính quyền cấp xã. Để đảm bảo cho sự
tồn tại và hoạt động của bộ máy chính quyền cấp xã thì chỉ có nguồn tài chính
từ NSNN. Như vậy mọi chi phí cho bộ máy cấp xã phải do NSX đảm đương.
Thứ hai: Ngân sách xã là công cụ tài chính quan trọng để chính quyền
cấp xã quản lý một cách toàn diện mọi hoạt động kinh tế, xã hội trên địa bàn

xã trong lĩnh vực được phân cấp được thể hiện thông qua hoạt động thu, chi
ngân sách:
- Hoạt động thu ngân sách: Từ thu ngân sách đã tạo lập ra quỹ NSX, từ
đó có điều kiện để hoạt động và còn có thể đầu tư cho mục đích phát triển
Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010

- 19 -

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

kinh tế - xã hội của địa phương. Thông qua hoạt động thu còn giúp chính
quyền xã thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát và điều chỉnh các hoạt động ẩn
xuấ kinh doanh đi theo đúng hướng, đúng khuôn khổ của pháp luật. Thu ngân
sách còn góp phần thực hiện các chính sách về công bằng xã hội …..Việc
thực hiện chế độ thu phạt vi phạm đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm không
những tạo nguồn thu cho ngân sách mà còn góp phần răn đe, giáo dục và buộc
phải chấp hành đúng chính sách pháp luật, giữ gìn an ninh trật tự xã hội.
- Hoạt động chi ngân sách: Từ việc chi ngân sách mà sự tồn tại và hoạt
động của bộ máy chính quyền được duy trì và phát triển liên tục, ổn định. Từ
đó, đảm bảo được vai trò quản lý hành chính cấp cơ sở của chính quyền. Chi
ngân sách xã có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm phát triển kinh tế, văn
hóa xã hội, giữ vững an ninh chính trị, tạo công bằng xã hội ….. Từ đó góp
phần phát triển toàn diện khu vực dân cư mà đặc biệt là khu vực nông thôn,
thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn và thành thị.
1.3. Quản lý ngân sách xã

1.3.1. Khái niệm về quản lý ngân sách xã
Ngân sách xã là một cấp ngân sách, là một bộ phận của chính quyền cơ
sở trong hệ thống Nhà nước pháp quyền. Ngân sách xã do Ủy ban nhân dân
xã, phường, thị trấn trực tiếp quản lý, thực hiện và Hội đồng nhân dân xã
quyết định, giám sát thực hiện (7).
Ngân sách xã là một cấp của hệ thống NSNN, chính vì vậy việc quản lý
NSX chính là quản lý NSNN, nó tuân thủ đầy đủ chu trình quản lý NSNN từ
khâu lập dự toán, chấp hành dự toán và quyết toán ngân sách.
Ngân sách xã được xây dựng bằng các nguồn thu được phân cấp và các
khoản chi được giao để thực hiện các công việc thuộc chức năng nhiệm vụ
của chính quyền xã theo quy định của pháp luật.
Quản lý ngân sách xã là một hoạt động quản lý kinh tế, đó là việc quản
lý toàn bộ các hoạt động về thu, chi ngân sách của chính quyền xã. Vấn đề đặt

Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010

- 20 -

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

ra là việc quản lý thực hiện như thế nào cho phù hợp và đạt được hiệu quả cao
nhất.
1.3.2. Mục tiêu quản lý ngân sách xã
Thứ nhất: đó là phải khai thác triệt để, huy động, tập hợp được toàn bộ
các nguồn thu theo quy định vào ngân sách; Phải thực hiện thu đúng, thu đủ,

thu các khoản thu phát sinh kịp thời vào ngân sách Nhà nước.
Thứ hai: Các khoản chi phải chi đúng đối tượng, đúng mục đích tiêu
chuẩn quy định, phải đảm bảo tiết kiệm, công khai, minh bạch, đúng nguyên
tắc, phải được kiểm tra, kiểm soát một cách chặt chẽ.
Thứ ba: Các hoạt động, nghiệp vụ phát sinh phải được hạch toán, ghi
chép theo đúng chế độ kế toán quy định và phải đảm bảo cân đối ngân sách.
Từ đó đưa hệ thống tài chính ngân sách xã ổn định, vững chắc, đảm bảo
thực hiện được các chức năng, nhiệm vụ của chính quyền Nhà nước cấp xã.
1.3.3. Bộ máy quản lý ngân sách xã
Theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và các văn bản hướng dẫn
thi hành Luật; bộ máy quản lý ngân sách xã gồm:
Hội đồng nhân dân xã: Thực hiện quyết định dự toán, quyết toán ngân
sách xã; Quyết định các chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân
sách xã; Quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách xã trong trường hợp cần
thiết; giám sát việc thực hiện ngân sách xã đã được Hội đồng nhân dân xã
quyết định.
Ủy ban nhân dân xã: Ủy ban nhân dân xã tổ chức quản lý thống nhất
ngân sách xã và các hoạt động tài chính khác của xã gồm: Lập dự toán ngân
sách xã, phương án phân bổ ngân sách xã, dự toán điều chỉnh ngân sách xã
trong trường hợp cần thiết trình Hội đồng nhân dân xã và báo cáo Hội đồng
nhân dân huyện và phòng Tài chính - Kế hoạch quyết định; Tổ chức quản lý,
điều hành ngân sách xã; báo cáo ngân sách xã với cấp trên theo quy định của
Luật ngân sách nhà nước.

Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010


- 21 -

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

Ban Tài chính xã: Uỷ ban nhân dân cấp xã phải tổ chức Ban Tài chính
để giúp Ủy ban nhân dân cấp xã xây dựng và thực hiện dự toán thu chi ngân
sách, lập báo cáo ngân sách hàng tháng, quyết toán ngân sách năm, tổ chức
quản lý tài sản và tài chính Nhà nước trên địa bàn theo quy định.
1.3.4. Quy trình quản lý ngân sách xã.
* Lập dự toán ngân sách xã.
Lập dự toán ngân sách xã là khâu đầu tiên trong chu trình quản lý ngân
sách xã. Lập dự toán ngân sách xã là một quá trình phân tích đánh giá giữa
khả năng và nhu cầu các nguồn tài chính của ngân sách xã để từ đó xác lập
các chỉ tiêu thu - chi dự kiến có thể đạt được trong kỳ kế hoạch; đồng thới xác
lập các biện pháp chủ yếu để đảm bảo thực hiện tốt các chỉ tiêu trong kỳ.
Yêu cầu cơ bản đối với việc lập dự toán ngân sách xã: Lập dự toán phải
bảm sát kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, phải tính toán
đầy đủ và chính xác các khoản thu theo đúng chế độ quy định và bố trí hợp lý
các nhu cầu chi tiêu đảm bảo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của chính
quyền cấp xã đồng thời góp phần xây dựng nông thôn phát triển.
Căn cứ để lập dự toán ngân sách xã dựa trên các nhiệm vụ phát triển
kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng, trật tự an toàn xã hội của xã;
Chính sách, chế độ thu ngân sách nhà nước, cơ chế phân cấp nguồn thu,
nhiệm vụ chi ngân sách xã và tỷ lệ phân chia nguồn thu do Hội đồng nhân dân
cấp tỉnh quy định; Chế độ, tiêu cuẩn, định mức chi ngân sách do Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính và Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định;
Số kiểm tra về dự toán ngân sách xã do Ủy ban nhân dân huyện thông báo;
Tình hình thực hiện dự toán ngân sách xã năm hiện hành và các năm trước.
* Chấp hành dự toán ngân sách xã.

Chấp hành dự toán ngân sách xã là quá trình sử dụng tổng hợp các biện
pháp kinh tế, tài chính và hành chính nhằm thực hiện các chỉ tiêu thu, chi
trong dự toán ngân sách đã được phê duyệt. Chấp hành dự toán ngân sách xã
bao gồm các nội dung sau:
Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


Luận văn Thạc sĩ QTKD 2010

- 22 -

Trường Đại họcBách Khoa Hà Nội

- Để làm căn cứ thanh toán và kiểm soát chi, Ủy ban nhân dân xã phân
bổ chi tiết dự toán chi ngân sách xã theo mục lục ngân sách nhà nước gửi Kho
bạc nhà nước nơi giao dịch. Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã hoặc người được ủy
quyền là chủ tài khoản thu, chi ngân sách xã.
- Số thu bổ sung từ ngân sách huyện cho ngân sách xã, Phòng Tài chính
huyện căn cứ vào dự toán số bổ sung đã giao cho từng xã, dự toán thu chi
hàng quý của các xã và khả năng cân đối của ngân sách huyện, thông báo số
bổ sung hàng quý (chia ra tháng) cho xã chủ động điều hành ngân sách.
Phòng Tài chính huyện cấp số bổ sung cho xã theo định kỳ hàng tháng.
- Tổ chức thu ngân sách: Ban Tài chính xã có nhiệm vụ phối hợp với cơ
quan thuế trên địa bàn tiến hành đôn đốc thu nộp các khoản thu ngân sách,
đảm bảo đúng, đủ và kịp thời vào ngân sách xã.
Tất cả các khoản thu đều phải có biên lai theo quy định và đều phải
được quản lý qua Kho bạc nhà nước. Nhà nước khuyến khích các đối tượng
thu nộp ngân sách trực tiếp tại Kho bạc nhà nước. Trường hợp đối tượng phải

nộp ngân sách không có điều kiện nộp tiền trực tiếp vào ngân sách tại Kho
bạc nhà nước thì các khoản thu thuộc nhiệm vụ thu của cơ quan nào cơ quan
đó thu và viết giấy nộp tiền mang tới Kho bạc nhà nước để nộp vào ngân
sách. Chứng từ thu phải được luân chuyển theo đúng quy định. Trường hợp
phải hoàn trả thu ngân sách xã, Kho bạc nhà nước xác nhận rõ số tiền đã thu
vào ngân sách xã để Ban Tài chính xã làm căn cứ thoái thu cho đối tượng
được hoàn trả theo quy định.
- Quản lý chi ngân sách xã: Chi ngân sách xã phải dựa trên các nguyên
tắc chi theo dự toán được giao. Chi ngân sách phải đảm bảo chi đúng, chi đủ
theo tiêu chuẩn, định mức, chế độ do Nhà nước quy định. Các khoản chi phải
do chủ tài khoản (hoặc người được ủy quyền) quyết định chi và phải được
thực hiện thanh toán theo đúng quy định về chế độ chứng từ kế toán ngân
sách.

Trần Thị Thanh Vân

Khoa Kinh tế và Quản lý


×