Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Phân tích thực trạng tham nhũng ở việt nam thực trạng, giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.45 KB, 27 trang )

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THAM NHŨNG
I. KHÁI NIỆM THAM NHŨNG
1. Định nghĩa
Theo nghĩa rộng, tham nhũng được hiểu là hành vi của bất kỳ người nào có chức vụ, quyền hạn hoặc
được giao nhiệm vụ, quyền hạn và lợi dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc nhiệm vụ được giao để vụ lợi.
Theo Từ điển Tiếng Việt, tham nhũng là lợi dụng quyền hành để nhũng nhiễu nhân dân lấy của . Tài
liệu hướng dẫn của Liên hợp quốc về cuộc đấu tranh quốc tế chống tham nhũng (năm 1969) định
nghĩa tham nhũng trong một phạm vi hẹp, đó là sự lợi dụng quyền lực nhà nước để trục lợi riêng...
Theo nghĩa hẹp và là khái niệm được pháp luật Việt Nam quy định (tại Luật phòng, chống tham nhũng
năm 2005), tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn
đó vì vụ lợi . Người có chức vụ, quyền hạn chỉ giới hạn ở những người làm việc trong các cơ quan, tổ
chức, đơn vị thuộc hệ thống chính trị; nói cách khác là ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị có sử dụng ngân
sách, vốn, tài sản của Nhà nước. Việc giới hạn như vậy nhằm tập trung đấu tranh chống những hành vi
tham nhũng ở khu vực xảy ra phổ biến nhất, chống có trọng tâm, trọng điểm, thích hợp với việc áp
dụng các biện pháp phòng, chống tham nhũng như: kê khai tài sản, công khai, minh bạch trong hoạt
động của cơ quan, tổ chức, đơn vị, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu.
2. Những đặc trưng cơ bản
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, tham nhũng có những đặc trưng cơ bản như sau:
a) Chủ thể tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn
Đặc điểm của tham nhũng là chủ thể thực hiện hành vi phải là người có chức vụ, quyền hạn. Người có
chức vụ, quyền hạn bao gồm: cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công
nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ
quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân; cán bộ lãnh
đạo, quản lý trong doanh nghiệp của Nhà nước; cán bộ lãnh đạo, quản lý là người đại diện phần vốn
góp của Nhà nước tại doanh nghiệp; người được giao thực hiện nhiệm vụ, công vụ có quyền hạn trong
khi thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó (khoản 3, Điều 1, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005).
Nhìn chung, nhóm đối tượng này có đặc điểm đặc thù so với các nhóm đối tượng khác như: họ thường
là những người có quá trình công tác và cống hiến nên có nhiều kinh nghiệm; được đào tạo có hệ
thống, là những chuyên gia trên nhiều lĩnh vực khác nhau; là những người có quan hệ rộng và có uy
tín xã hội nhất định và thậm chí có thế mạnh về kinh tế. Những đặc điểm này của chủ thể hành vi tham
nhũng chính là yếu tố gây khó khăn cho việc phát hiện, điều tra, xét xử hành vi tham nhũng.


b) Chủ thể tham nhũng lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao
“Lợi dụng chức vụ, quyền hạn” để vụ lợi là đặc trưng thứ hai của tham nhũng. Khi thực hiện hành vi
tham nhũng, kẻ tham nhũng phải sử dụng “chức vụ, quyền hạn của mình” như một phương tiện để
mang lại lợi ích cho mình, cho gia đình mình hoặc cho người khác. Đây là yếu tố cơ bản để xác định
hành vi tham nhũng. Một người có chức vụ, quyền hạn nhưng không lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó
thì không thể có hành vi tham nhũng. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi của người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó đều được coi là hành vi tham nhũng. Ở đây có sự giao thoa
giữa hành vi này với các hành vi tội phạm khác, do vậy cần lưu ý khi phân biệt hành vi tham nhũng
với các hành vi vi phạm pháp luật khác.
c) Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi
Hành vi tham nhũng là hành vi cố ý. Mục đích của hành vi tham nhũng là vụ lợi. Nếu chủ thể thực
hiện hành vi không cố ý thì hành vi đó không là hành vi tham nhũng. Vụ lợi ở đây được hiểu là lợi ích
vật chất hoặc lợi ích tinh thần mà người có chức vụ, quyền hạn đã đạt được hoặc có thể đạt được thông
qua hành vi tham nhũng. Như vậy, khi xử lý về hành vi tham nhũng, không bắt buộc chủ thể tham
nhũng phải đạt được lợi ích.
Pháp luật Việt Nam hiện nay quy định việc đánh giá tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tham
nhũng chủ yếu dựa trên căn cứ xác định những lợi ích vật chất mà kẻ tham nhũng đạt được để từ đó
quyết định mức độ xử lý. Lợi ích vật chất hiện nay trong cơ chế thị trường thể hiện ở rất nhiều dạng
khác nhau, nếu chỉ căn cứ vào những tài sản phát hiện hoặc thu hồi được để đánh giá lợi ích mà kẻ


tham nhũng đạt được thì sẽ là không đầy đủ. Thêm nữa, các lợi ích vật chất và tinh thần đan xen rất
khó phân biệt; ví dụ như: việc dùng tài sản của Nhà nước để khuyếch trương thanh thế, gây dựng uy
tín hay các mối quan hệ để thu lợi bất chính. Trong trường hợp này, mục đích của hành vi vừa là lợi
ích vật chất, vừa là lợi ích tinh thần...
Đối với khu vực tư, khi có vụ việc tham nhũng xảy ra, pháp luật đã có những sự điều chỉnh nhất định.
Tuy nhiên, cũng có trường hợp, người có chức vụ, quyền hạn trong các tổ chức, doanh nghiệp thuộc
khu vực tư cấu kết, móc nối với những người thoái hoá, biến chất trong khu vực công hoặc lợi dụng
ảnh hưởng của những người này để trục lợi. Trong trường hợp đó, họ trở thành đồng phạm khi người
có hành vi tham nhũng bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

3. Các hành vi tham nhũng theo quy định của pháp luật hiện hành
Bộ luật hình sự, Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 đã phân loại tham nhũng theo hành vi. Theo
đó, những hành vi sau đây thuộc nhóm hành vi tham nhũng:
- Tham ô tài sản.
- Nhận hối lộ.
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục lợi.
- Giả mạo trong công tác vì vụ lợi.
- Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết công việc
của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì vụ lợi.
- Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
- Không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ lợi; cản trở,
can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì
vụ lợi.
Trong 12 hành vi tham nhũng nêu trên, có 7 hành vi đã được quy định trong Bộ luật hình sự năm
1999; được sửa đổi, bổ sung ngày năm 2009 và có hiệu lực từ ngày 1-1-2010, bao gồm:
- Tham ô tài sản: là lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý.
- Nhận hối lộ: là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ
nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào để làm hoặc không làm một việc
vì lợi ích hoặc theo yêu cầu của người đưa hối lộ
- Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi: là việc cá nhân vì vụ lợi
hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích
của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân
- Lạm quyền trong khi thi hành công vụ: là cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà vượt quá
quyền hạn của mình làm trái công vụ gây thiệt hại cho lợi ích của Nhà nước, của xã hội, quyền, lợi ích

hợp pháp của công dân.
- Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để trục lợi: là việc cá nhân lợi dụng
chức vụ, quyền hạn, trực tiếp hoặc qua trung gian đã nhận hoặc sẽ nhận tiền, tài sản hoặc lợi ích vật
chất khác dưới bất kỳ hình thức nào, gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử lý kỷ luật về hành vi này mà
còn vi phạm, để dùng ảnh hưởng của mình thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm hoặc không làm
một việc thuộc trách nhiệm hoặc liên quan trực tiếp đến công việc của họ hoặc làm một việc không
được phép làm
- Giả mạo trong công tác: là cá nhân vì vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác mà lợi dụng chức vụ, quyền
hạn thực hiện một trong các hành vi sau đây:
+ Sửa chữa, làm sai lệch nội dung giấy tờ, tài liệu;


+ Làm, cấp giấy tờ giả;
+ Giả mạo chữ ký của người có chức vụ, quyền hạn .
Hành vi thứ 8 đến hành vi thứ 12 mới được bổ sung do đây là những hành vi đã phát sinh và đang trở
nên phổ biến trên thực tế, cần được quy định cụ thể làm cơ sở pháp lý cho việc xử lý. So với những
hành vi tham nhũng tại Pháp lệnh chống tham nhũng năm 1998 và các tội phạm về tham nhũng trong
Bộ luật hình sự năm 1999; được sửa đổi, bổ sung năm 2009 thì Luật phòng, chống tham nhũng có bổ
sung 5 hành vi tham nhũng mới. Đây là những hành vi xuất hiện ngày càng phổ biến trong thời gian
gần đây. Việc quy định thêm 5 loại hành vi mới này là cần thiết và là cơ sở pháp lý để đấu tranh với
những biểu hiện ngày càng phức tạp của tham nhũng. Tuy nhiên, không phải mọi hành vi tham nhũng
đều bị xử lý về hình sự mà chỉ những hành vi hội đủ các dấu hiệu cấu thành tội phạm quy định trong
Bộ luật hình sự thì mới được xác định là tội phạm và bị xử lý bằng biện pháp hình sự, (các hành vi
được quy định từ khoản 1 đến khoản 7, Điều 3 của Luật) còn những hành vi khác (từ khoản 8 đến
khoản 12, Điều 3 của Luật) được xác định là hành vi tham nhũng nhưng chưa cấu thành tội phạm thì
được xử lý bằng biện pháp kỷ luật.
- Về hành vi “đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền hạn để giải quyết
công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi”: Đây là một biểu hiện mới của tệ
tham nhũng. Do vẫn còn tồn tại cơ chế “xin - cho” trong nhiều lĩnh vực nên có nhiều cá nhân đại diện
cho cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương đã tìm cách hối lộ cho người có chức vụ, quyền hạn phụ

trách việc phê duyệt chương trình, dự án, cấp kinh phí, ngân sách để được lợi cho cơ quan, tổ chức,
đơn vị, địa phương mình và thông qua đó để đạt được các lợi ích cá nhân. Hành vi này được coi là
hành vi tham nhũng. Điều cần lưu ý là hành vi đưa hối lộ, môi giới hối lộ là tội danh được quy định
trong Bộ luật hình sự không thuộc nhóm các tội phạm về tham nhũng mà thuộc nhóm các tội phạm về
chức vụ. Còn hành vi đưa hối lộ, làm môi giới hối lộ được thực hiện bởi chủ thể có chức vụ, quyền
hạn để giải quyết công việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì vụ lợi thì mới được coi là
hành vi tham nhũng. Hành vi này vừa chịu sự điều chỉnh của pháp luật hình sự với tội danh tương ứng
(nếu hành vi đó cấu thành tội phạm), vừa là hành vi tham nhũng theo sự điều chỉnh của pháp luật về
tham nhũng.
- Về hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản nhà nước vì vụ lợi”: Đây là hành
vi lợi dụng việc được giao quyền quản lý tài sản của nhà nước để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc một
nhóm người nào đó thay vì phục vụ cho lợi ích công. Biểu hiện cụ thể của hành vi này thường là cho
thuê tài sản như: nhà xưởng, trụ sở, xe ôtô và các tài sản khác nhằm vụ lợi. Số lượng tài sản cho thuê
nhiều khi lớn.
- Về hành vi “nhũng nhiễu vì vụ lợi”: Nhũng nhiễu là hành vi đã được mô tả trong phần thuật ngữ khái
niệm. Cần nhấn mạnh thêm hành vi này xuất hiện trong hoạt động của một số cơ quan công quyền,
nhất là tại các cơ quan hành chính, nơi trực tiếp giải quyết công việc của công dân và doanh nghiệp.
Một số cán bộ, công chức không thực hiện trách nhiệm với thái độ công tâm và tinh thần phục vụ mà
ngược lại thường tìm cách lợi dụng những sơ hở hoặc không rõ ràng của các thủ tục, thậm chí tự ý đặt
ra các điều kiện gây thêm khó khăn cho công dân và doanh nghiệp để buộc công dân và doanh nghiệp
biếu xén cho mình quà cáp. Thực chất của hành vi này là sự ép buộc đưa hối lộ được che đậy dưới
hình thức tinh vi rất khó có căn cứ để xử lý. Cũng có thể coi hành vi nhũng nhiễu là hành vi “đòi hối
lộ” một cách gián tiếp hoặc ở mức độ chưa thật nghiêm trọng và có thể dùng biện pháp xử lý hành
chính.
- Về hành vi “lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm pháp luật vì vụ
lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án vì vụ lợi”. Hành vi tham nhũng nhiều khi được che chắn thậm chí là có sự đồng lõa của những
người có chức vụ, quyền hạn ở cấp cao hơn. Vì vậy, việc phát hiện và xử lý tham nhũng là hết sức khó
khăn. Việc bao che cho người có hành vi tham nhũng, việc cản trở quá trình phát hiện tham nhũng có
khi được che đậy dưới rất nhiều hình thức khác nhau như: thư tay, điện thoại, nhắc nhở, tránh không

thực hiện trách nhiệm của mình hoặc có thái độ, việc làm bất hợp tác với cơ quan có thẩm quyền…


- Hành vi “không thực hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi” là hành vi thường được gọi là “bảo kê” của
những người có trách nhiệm quản lý, đặc biệt là một số người làm việc tại chính quyền địa phương cơ
sở, đã “lờ” đi hoặc thậm chí tiếp tay cho các hành vi vi phạm để từ đó nhận lợi ích từ những kẻ phạm
pháp.
II- NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN
CỦA THAM NHŨNG
Định nghĩa và đặc trưng của tham nhũng cho thấy, tham nhũng luôn luôn gắn với quyền lực và lợi ích
cá nhân. Những nghiên cứu về tham nhũng trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng cũng cho
thấy tham nhũng là một hiện tượng xã hội gắn với sự xuất hiện chế độ tư hữu, sự hình thành giai cấp
và sự ra đời, phát triển của bộ máy nhà nước, quyền lực nhà nước và các quyền lực công khác. Tham
nhũng tồn tại ở mọi chế độ với những mức độ khác nhau. Khi nhà nước và quyền lực chính trị còn tồn
tại thì còn có điều kiện để xảy ra tham nhũng. Nhận thức như vậy không đồng nghĩa với việc coi tham
nhũng trong bộ máy nhà nước là điều đương nhiên phải chấp nhận mà để chúng ta có ý thức rõ ràng về
nguy cơ tiềm tàng của nó đồng thời có các giải pháp “ngăn chặn và từng bước đẩy lùi” tệ nạn này
Cùng với sự phát triển của các hình thái nhà nước, đặc biệt là trong điều kiện phát triển kinh tế thị
trường, các quan hệ chính trị - kinh tế tạo ra những tiền đề khách quan quan trọng làm cho tham nhũng
phát triển. Lợi ích là yếu tố chủ quan dẫn đến tham nhũng. Khi còn điều kiện để lợi ích kết hợp với sự
lạm quyền của những người có chức vụ, quyền hạn thì vẫn còn có khả năng xảy ra tham nhũng.
Có nhiều nguyên nhân và điều kiện phát sinh tham nhũng, trong đó có những nguyên nhân, điều kiện
cơ bản sau:
1. Nguyên nhân và điều kiện khách quan
a) Việt Nam là nước đang phát triển, trình độ quản lý còn lạc hậu, mức sống thấp, pháp luật chưa hoàn
thiện
Thực tế cho thấy, tham nhũng thường xuất hiện ở những nước chậm phát triển hoặc đang phát triển.
Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của mình, Nhà nước đại diện cho xã hội quản lý mọi mặt của đời
sống. Nếu Nhà nước quản lý xã hội lỏng lẻo sẽ tạo ra các kẽ hở cho tệ tham nhũng nảy sinh và phát
triển.

Qua gần 20 năm đổi mới, mặc dù chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng trình độ quản
lý còn lạc hậu, mức sống thấp. Vì vậy, nạn tham nhũng có điều kiện xảy ra phổ biến trong nhiều lĩnh
vực, nhiều ngành, nhiều cấp.
b) Quá trình chuyển đổi cơ chế, tồn tại và đan xen giữa cái mới và cái cũ
Quá trình chuyển đổi đòi hỏi phải có thời gian, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để tiếp tục hoàn thiện. Cơ
chế cũ bị thay thế nhưng nếp nghĩ, thói quen thì vẫn còn. Trong khi đó, cơ chế mới hình thành còn sơ
khai ngay trong nhận thực nên quá trình thực hiện không tránh khỏi lúng túng. Các chuẩn mực đánh
giá không rõ ràng; vì thế không ít đối tượng lợi dụng danh nghĩa đổi mới, năng động, sáng tạo để
chiếm đoạt tài sản của Nhà nước, lợi dụng chủ trương xã hội hoá một số lĩnh vực để "thương mại hoá",
thu lợi ích tối đa cho cá nhân hoặc một nhóm người, hoặc có thể là một cơ quan, đơn vị hay một địa
phương. Tình trạng không rõ ràng trong cơ chế quản lý trên một số lĩnh vực là điều kiện cho nạn tham
nhũng phát triển. Không ít cá nhân, tập thể có lúc được biểu dương như điển hình của sự năng động,
dám nghĩ dám làm, thậm chí được tôn vinh, nhưng sau một thời gian lại bị phát hiện và xử lý vì có
hành vi tiêu cực trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, lợi dụng sơ hở của cơ chế quản lý để tham
nhũng, vụ lợi cá nhân.
c) Ảnh hưởng của mặt trái của cơ chế thị trường
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đã áp dụng việc quản lý nền kinh tế theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đã đạt được những thành tích cơ bản, đáng tự hào. Tuy
nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, cơ chế thị trường đã bộc lộ nhiều nhược điểm. Đó là sự cạnh
tranh khốc liệt, sự chi phối của lợi ích vật chất làm cho người sản xuất, kinh doanh có xu hướng tối đa
hoá lợi nhuận bằng mọi giá, tìm cách hối lộ công chức nhà nước để tạo lợi thế trong kinh doanh. Trong
xã hội, sự phân hoá giàu nghèo ngày càng rõ rệt, có những giá trị xã hội bị đảo lộn, việc kiếm thật
nhiều tiền đôi lúc đã trở thành sức ép, làm xuất hiện tâm lý mọi việc đều có thể mua bán. Những


nghiên cứu gần đây cho thấy tác hại to lớn của những yếu tố tiêu cực từ mặt trái của cơ chế thị trường
đã đến mức báo động. Chính điều này đã góp phần làm gia tăng tệ tham nhũng thông qua việc thúc
đẩy các hành vi phạm pháp của cán bộ, công chức, ganh đua làm giàu phi pháp, đục khoét tiền của
Nhà nước và nhân dân.
d) Do ảnh hưởng của tập quán văn hoá

Tập quán văn hoá của người á Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng có rất nhiều điều kiện
khiến cho tệ tham nhũng, mà biểu hiện tập trung nhất là nạn quà cáp hối lộ, có cơ sở tồn tại và phát
triển. Chuyện biếu quà được coi là một nét văn hoá của người Việt Nam nhưng hiện nay nhiều nét văn
hoá của người Việt như “miếng trầu là đầu câu chuyện”, “ăn quả nhớ người trồng cây”... đã và đang bị
lợi dụng để thực hiện hành vi tham nhũng.
2. Nguyên nhân và điều kiện chủ quan
a) Hệ thống chính trị chậm được đổi mới, hoạt động của bộ máy nhà nước kém hiệu quả
Đây là một trong những nguyên nhân gây nên sự yếu kém và bất cập của quá trình đổi mới đất nước,
trong đó có tham nhũng. Một quốc gia quản lý tốt phải có bộ máy nhà nước tốt. Ở nước ta, sự quản lý,
lãnh đạo, điều hành đất nước là sự thống nhất và phối hợp giữa vai trò lãnh đạo của Đảng, trách nhiệm
quản lý của Nhà nước và sự tham gia tích cực, có hiệu quả của các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể
quần chúng. Các yếu tố trong hệ thống chính trị phải thực hiện đúng vai trò của mình. Tuy nhiên, sự
chưa rõ ràng trong phân cấp, phân công vai trò, chức năng, hoạt động giữa các yếu tố trong hệ thống
chính trị vẫn đã phần nào làm giảm hiệu quả lãnh đạo, quản lý, điều hành xã hội. Một số nơi, tổ chức
đảng đã ít nhiều can thiệp vào hoạt động quản lý, cơ quan nhà nước còn ỷ lại, thụ động chưa làm hết
trách nhiệm của mình. Một số tổ chức chính trị - xã hội và đoàn thể quần chúng lúng túng, không xác
định được vai trò của mình cũng như chương trình hoạt động cho phù hợp. Về nguyên tắc, Đảng lãnh
đạo thông qua chủ trương, đường lối và công tác cán bộ, Nhà nước quản lý bằng chính sách, pháp luật,
còn các tổ chức, đoàn thể phải động viên nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội thông
qua tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục động viên. Tuy nhiên, trong thực tế, vẫn còn tồn tại hiện tượng
chồng chéo lẫn lộn về tổ chức và hoạt động của các yếu tố trong hệ thống chính trị nước ta.
b) Phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên bị suy thoái; công tác quản lý, giáo dục cán
bộ, đảng viên còn yếu kém
Trước tác động của mặt trái của cơ chế thị trường, nhiều cán bộ, đảng viên do không tự giác rèn luyện,
tu dưỡng đã có những hành vi phạm pháp, không giữ được đạo đức “cần, kiệm, liêm, chính”. Có thể
thấy rõ sự đi xuống về đạo đức, phẩm chất chính trị của một bộ phận cán bộ, đảng viên qua đánh giá
trong các văn kiện của Đảng. Tháng 6-1996, Đại hội Đảng lần thứ VIII chỉ rõ: “Một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng bản thân, phai nhạt lý tưởng, mất cảnh giác, giảm ý chí, kém ý
thức tổ chức kỷ luật, sa đọa về đạo đức lối sống”1. Tháng 6-1997, Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khóa VIII nhận định: “một bộ phận cán bộ thoái hoá, biến chất về đạo đức, lối sống,

lợi dụng chức quyền để tham nhũng, buôn lậu, làm giàu bất chính, lãng phí của công, quan liêu, ức
hiếp dân, gia trưởng, độc đoán”, “đáng chú ý là những biểu hiện tiêu cực này có chiều hướng phát
triển làm xói mòn bản chất cách mạng của đội ngũ cán bộ, công chức, làm suy giảm uy tín của Đảng,
làm suy giảm niềm tin của nhân dân đối với chế độ” .
Tháng 1-1999, Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII nhận định:
“Sự suy thoái về tư tưởng, chính trị, tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán
bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn” …
Ngày 21-8-2006, Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X nhận định:
“Công tác cán bộ nói chung và việc quản lý, giáo dục cán bộ, đảng viên, công chức nói riêng còn
nhiều yếu kém. Một bộ phận không nhỏ đảng viên, cán bộ, công chức suy thoái về tư tưởng chính trị,
phẩm chất, đạo đức, lối sống. Không ít cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp, các ngành, kể cả cán bộ lãnh
đạo cao cấp, còn thiếu gương mẫu trong việc giữ gìn phẩm chất đạo đức; chưa đi đầu trong cuộc đấu
tranh chống tham nhũng, lãng phí và thực hành tiết kiệm”.
c) Chính sách pháp luật chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán


Sự nghiệp đổi mới mà trọng tâm là đổi mới quản lý kinh tế, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa đã đặt ra yêu cầu hết sức quan trọng là phải xây dựng một hệ thống cơ chế,
chính sách, pháp luật đầy đủ, từng bước hoàn thiện. Trong khi đó, mặc dù chúng ta đã có rất nhiều cố
gắng nhưng việc xây dựng thể chế pháp luật vẫn không đáp ứng được nhu cầu, chưa phản ánh và điều
chỉnh kịp thời những vấn đề đang đặt ra trong quá trình phát triển.
Cơ chế, chính sách, pháp luật trong thời kỳ đổi mới chưa hoàn thiện, thiếu cụ thể, có nhiều sơ hở và
thậm chí có những vấn đề thiếu nhất quán. Việc phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương,
phân biệt quản lý nhà nước và quản lý sản xuất, kinh doanh có phần chưa rõ. Quá trình cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước diễn ra chậm chạp và thiếu sự kiểm soát chặt chẽ. Cơ chế quản lý tài sản công,
quản lý vốn và tài sản trong doanh nghiệp nhà nước còn lỏng lẻo.
d) Cải cách hành chính vẫn còn chậm và lúng túng, cơ chế “xin - cho” trong hoạt động công vụ còn
phổ biến; thủ tục hành chính phiền hà, nặng nề, bất hợp lý
Cơ chế “xin - cho” được nhìn nhận là một trong những nguy cơ của tệ tham nhũng, hối lộ mà cho đến
nay vẫn chưa có cách khắc phục. Chế độ công vụ của cán bộ, công chức mới bắt đầu được quan tâm

xây dựng, hiện tại còn thiếu cơ chế kiểm tra, giám sát có hiệu quả. Chế độ, trách nhiệm của cán bộ,
công chức chưa rõ ràng, cụ thể, đặc biệt là trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo đối với những sai phạm,
tiêu cực xảy ra trong cơ quan, đơn vị mình. Chế độ tiền lương đối với đội ngũ cán bộ, công chức còn
bất hợp lý, chậm được cải cách. Lương không đủ đảm bảo nhu cầu của cuộc sống cho cán bộ, công
chức dẫn đến tình trạng vì cuộc sống của bản thân và gia đình, cán bộ, công chức thực hiện hành vi
tham nhũng, tiêu cực khi có điều kiện, cơ hội. Công tác quản lý đất đai còn nhiều yếu kém, việc đăng
ký quyền sử dụng đất, cấp đất, giao đất, cho thuê đất, chuyển giao quyền sử dụng đất, v.v., còn nhiều
kẽ hở, tạo điều kiện cho tiêu cực, sai phạm nảy sinh. Cơ chế quản lý tài chính công, mua sắm công,
quản lý đầu tư xây dựng cơ bản phải trải qua nhiều khâu, nhiều “cửa”. Trình tự, thủ tục này tưởng như
chặt chẽ nhưng trên thực tế, cơ chế kiểm soát lại rất lỏng lẻo, tạo điều kiện cho tiêu cực, tham nhũng,
lãng phí, thất thoát. Việc đổi mới phương thức thanh toán còn chậm làm cho việc kiểm soát và phát
hiện được các giao dịch phi pháp gặp nhiều khó khăn.
Việc kiểm soát và minh bạch hoá thu nhập và tài sản của cán bộ, công chức còn gặp nhiều khó khăn và
chưa đạt kết quả mong muốn. Chế định kê khai tài sản đối với cán bộ, công chức đã được áp dụng
nhưng chỉ mang tính hình thức, một phần là do chế độ quản lý tiền tệ và thanh toán qua ngân hàng còn
chưa hiệu quả; mặt khác, việc quản lý tài sản, đặc biệt là nhà đất ở nước ta, vì nhiều lý do, hầu như
không thực hiện được. Bên cạnh đó, việc không có cơ quan chủ trì, tổng hợp, kiểm tra, xử lý, và không
có các quy định về trách nhiệm của cán bộ, công chức trong vấn đề kê khai tài sản đã dẫn đến sự thực
thi không triệt để các quy định về kê khai tài sản, mặc dù đây là một chủ trương đúng đắn, tích cực
được xã hội đồng tình, ủng hộ.
e) Sự lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác phòng, chống tham nhũng trong một số trường hợp chưa chặt
chẽ, sâu sát, thường xuyên; xử lý chưa nghiêm đối với hành vi tham nhũng
Những năm qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, văn bản quy phạm pháp
luật về đấu tranh chống tham nhũng tuy nhiên việc tổ chức thực hiện trên thực tế còn nhiều hạn chế.
Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng và cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp chưa đề cao trách nhiệm của người
đứng đầu, chưa có kế hoạch, giải pháp để tích cực phòng, chống tham nhũng trong cơ quan, ngành
mình. Công tác ngăn ngừa, phát hiện hành vi tham nhũng tuy đã đạt được một số kết quả nhất định
nhưng chưa đáp ứng yêu cầu. Một số vụ án tham nhũng lớn đã được phát hiện và đưa ra xét xử nghiêm
minh, tạo nên sự tin tưởng của nhân dân. Tuy nhiên, dư luận vẫn băn khoăn đối với việc xử lý một số
vụ án. Đây là những vấn đề làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả, hiệu lực của cuộc đấu tranh

chống tham nhũng những năm qua.
f) Chức năng, nhiệm vụ của nhiều cơ quan nhà nước trong đấu tranh chống tham nhũng chưa rõ ràng,
thậm chí chồng chéo, thiếu một cơ chế phối hợp cụ thể, hữu hiệu
Trước đây, việc thành lập các ban công tác chống tham nhũng tại các tỉnh, thành, và các bộ, ngành sau
khi có Quyết định 240 năm 1990 của Hội đồng Bộ trưởng và Ban Công tác chống tham nhũng, chống
buôn lậu của Chính phủ (thành lập theo Quyết định số 35/TTg ngày 19-1-1996 của Thủ tướng Chính


phủ) đã mang lại được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, hoạt động của các đơn vị này chưa đạt
được kết quả như mong muốn. Các quy định về phòng, chống tham nhũng khi đó chưa đầy đủ và chưa
được thực hiện nghiêm túc, thiếu một cơ quan có trách nhiệm làm đầu mối theo dõi, đôn đốc, kiểm tra
việc thực hiện.
Để khắc phục tình trạng trên, sau khi Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 được ban hành, Uỷ
ban Thường vụ Quốc hội đã ra Nghị quyết số 1039/2006/NQ-UBTVQH11 ngày 28-8-2006 về tổ chức,
nhiệm vụ, quyền hạn và quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng
và Nghị quyết số 294A/2007/NQ-UBTVQH12 ngày 27-9-2007 về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và
quy chế hoạt động của ban chỉ đạo tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về phòng, chống tham
nhũng. Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 13/2007/QĐ-TTg ngày 24-01-2007 về việc
thành lập, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, tổ chức và quy chế hoạt động của Văn phòng Ban Chỉ đạo
Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Các cơ quan bảo vệ pháp luật như Thanh tra Chính phủ, Bộ
Công an, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao đã thành lập những đơn vị chuyên trách về phòng, chống
tham nhũng.
g) Thiếu các công cụ phát hiện và xử lý tham nhũng hữu hiệu
Những năm qua, hoạt động điều tra, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát đã thu được một số kết
quả tích cực nhưng trên thực tế vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác đấu tranh phòng, chống
tham nhũng. Cơ chế phối hợp của các cơ quan nói trên còn có những hạn chế; nhiệm vụ, quyền hạn và
trách nhiệm của từng cơ quan trong cuộc đấu tranh chung còn chưa rõ ràng, cụ thể dẫn đến tình trạng
lẫn lộn, chồng chéo, thiếu hiệu quả trong hoạt động phát hiện và xử lý tham nhũng.
Về pháp luật, chúng ta chưa có những quy định cho phép các cơ quan chức năng áp dụng các biện
pháp đặc biệt để có thể phát hiện các hành vi tham nhũng nên hiệu quả phát hiện tham nhũng chưa

cao. Tham nhũng là một loại tội phạm đặc biệt, chủ thể của nó là những người có chức vụ, quyền hạn,
có trình độ, thực hiện hành vi tham nhũng rất tinh vi, khó phát hiện và trong nhiều trường hợp kẻ vi
phạm dùng nhiều thủ đoạn, kể cả dưới danh nghĩa nhà nước để cản trở việc điều tra và truy cứu trách
nhiệm. Đặc biệt, việc thu thập chứng cứ để chứng minh hành vi phạm tội tham nhũng là cực kỳ khó
khăn, nhất là đối với hành vi nhận hối lộ. Các cơ quan tiến hành tố tụng khó khăn trong việc quy trách
nhiệm hoặc buộc phải kết luận hành vi sai phạm của họ là “cố ý làm trái…” hoặc “thiếu trách nhiệm
gây hậu quả nghiêm trọng”. Đó là những hành vi không bị coi là tham nhũng và có mức xử lý nhẹ hơn
hành vi tham nhũng.
h) Việc huy động lực lượng đông đảo của nhân dân cũng như sự tham gia của lực lượng báo chí vào
cuộc đấu tranh chống tham nhũng còn chưa được quan tâm đúng mức
Báo chí và các phương tiện thông tin đại chúng đóng một vai trò rất quan trọng trong việc phát hiện và
đấu tranh chống những hành vi vi phạm trong hoạt động của bộ máy nhà nước, nhất là tệ tham nhũng.
Báo chí vừa có tác dụng cảnh báo những nơi có nguy cơ tham nhũng, vừa tham gia phát hiện và đặc
biệt là tạo nên dư luận mạnh mẽ đòi xử lý tham nhũng. Đây là kinh nghiệm chung của các nước trên
thế giới.
Mấy năm qua, báo chí ở nước ta đã phát huy vai trò nhất định của mình trong đấu tranh chống tham
nhũng nhưng nhìn chung sự đóng góp của báo chí đối với công tác đấu tranh chống tham nhũng vẫn
còn nhiều hạn chế. Nguyên nhân bắt nguồn từ phía các cơ quan quản lý nhà nước và từ bản thân cơ
quan báo chí, nhất là sự phối hợp giữa hai cơ quan này. Vì những lý do khác nhau mà một số cơ quan
nhà nước còn e ngại trước sự tham gia của báo chí, hoặc là vì bản thân sự thông tin đôi khi không
chính xác hoặc không đúng thời điểm đã gây khó khăn cho việc phát hiện và xử lý triệt để các vụ việc
tham nhũng. Thêm nữa, báo chí mới chỉ đấu tranh chống tham nhũng bằng việc phê phán những hành
vi tiêu cực mà chưa coi trọng việc truyền đạt kịp thời những chủ trương, đường lối của Đảng và chính
sách, pháp luật của Nhà nước, những gương người tốt, việc tốt, sáng kiến hay, những hoạt động lành
mạnh, những thông tin tích cực, biểu dương và cổ vũ, động viên đến toàn xã hội để tạo môi trường tốt
cho sự phát triển, để cái tốt lấn át cái xấu, để tham nhũng dần dần không có chỗ trong các tiêu chí
chuẩn mực và trong các quan hệ xã hội. Đây có thể coi là một hạn chế không nhỏ trong hoạt động báo
chí hiện nay với tư cách là công cụ của Đảng và nhân dân trong đấu tranh chống tham nhũng.



Công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của xã hội về tham nhũng và đấu tranh chống tham nhũng
mặc dù đã nhận được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước nhưng chưa tạo ra một sự chuyển biến tích
cực trong ý thức xã hội trong việc phản ứng với tệ nạn tham nhũng cũng như đề cao ý thức trách
nhiệm của người dân trong việc tham gia vào cuộc đấu tranh chống tham nhũng.
III- TÁC HẠI CỦA THAM NHŨNG
Tham nhũng có thể gây ra rất nhiều hậu quả nghiêm trọng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Có thể khái quát những tác hại chủ yếu của tham nhũng ở những điểm chính sau:
1. Tác hại về chính trị
Tham nhũng là trở lực lớn đối với quá trình đổi mới đất nước và làm xói mòn lòng tin của nhân dân
đối với Đảng, Nhà nước, đối với sự nghiệp xây dựng đất nước, tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Tinh thần đổi mới đất nước một cách toàn diện đã mang đến cho đất nước ta thế và lực mới. Những
điều chỉnh đúng đắn về chiến lược và sách lược đã phát huy tác dụng của nó và tạo đà cho sự phát
triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, tình trạng tham nhũng lại là một trở lực lớn đối với quá trình này.
Quan điểm và tư duy đổi mới cùng với cơ chế, pháp luật đúng đắn, phù hợp đã bị tệ tham nhũng làm
cho méo mó. Đối tượng tham nhũng đã lợi dụng sự thông thoáng của cơ chế, chính sách để thực hiện
hành vi tham nhũng. Ngược lại, kẻ tham nhũng lại lợi dụng yêu cầu tăng cường kiểm tra, giám sát và
các biện pháp khác để doạ dẫm, đòi hối lộ của các đối tượng bị thanh tra, kiểm tra. Cơ chế, chính sách
đã trở thành công cụ để thực hiện những lợi ích cá nhân.
Trong lĩnh vực đầu tư nước ngoài, tham nhũng sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư nếu chúng ta không có
biện pháp kịp thời ngăn chặn và đẩy lùi mặc dù Việt Nam được coi là quốc gia ổn định, an toàn về
chính trị, xã hội. Nhìn vào những thành quả của việc đổi mới có thể nhận thấy chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng luôn đúng đắn, kiên quyết và mạnh mẽ nhưng khi thực hiện thì bị cản trở rất
nhiều do người thực hiện xuất phát từ mưu lợi cá nhân. Mặc dù cải cách hành chính tiến bộ bước đầu
nhưng cho đến nay, cần thừa nhận rằng, tính phục vụ và tính công tâm nhìn chung vẫn còn là một điều
xa lạ của nền hành chính nước ta. Pháp luật về doanh nghiệp và kinh doanh của chúng ta đã được sửa
đổi, bổ sung tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng, cởi mở, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân sản
xuất, kinh doanh nhưng trên thực tế các doanh nghiệp vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Luật đất đai thường
xuyên được sửa đổi, bổ sung nhưng trong quá trình thực hiện vẫn xảy ra rất nhiều vi phạm; chính sách
ưu tiên cho con em dân tộc miền núi trong quá trình cử tuyển vào đại học, xét tuyển vào làm công
chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước đã bị biến thành đặc quyền, đặc lợi của con cháu những

người có chức, có quyền hoặc của những kẻ có tiền, chính sách thưởng điểm cho học sinh giỏi khi thi
vào đại học bị lợi dụng và trở thành cơ hội cho nạn mua bán điểm hoạt động…
Hiện nay, tình hình tham nhũng ở nước ta đã ở mức nghiêm trọng, đáng báo động. Tham nhũng không
chỉ xảy ra ở cấp Trung ương, ở những chương trình, dự án lớn mà còn xuất hiện nhiều trong các cấp
chính quyền cơ sở - là cơ quan tiếp xúc với nhân dân hằng ngày, giải quyết những công việc liên quan
trực tiếp đến lợi ích của nhân dân. Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá IX chỉ rõ: “... Điều làm cho nhân dân còn nhiều bất bình, lo lắng, bức xúc nhất hiện nay là tình
trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng, chính trị và phẩm chất, đạo đức, lối sống
của một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn rất nghiêm trọng...”1.
“Tham nhũng lớn” bị phát hiện ngày càng tăng về số lượng, mức độ thiệt hại, thất thoát. Đi cùng với
nó, nhiều vụ “tham nhũng nhỏ” diễn ra công khai. Điều đó làm giảm lòng tin của nhân dân vào sự lãnh
đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, gây ra sự bất bình, bức xúc, thậm chí phản ứng của nhân dân
đối với chính quyền.
Tác hại nguy hiểm của tệ tham nhũng, lãng phí gây ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả của việc thực
hiện chủ trương, chính sách về kinh tế - xã hội hoặc một nhiệm vụ quản lý nhất định của Nhà nước.
Tổng quát hơn, sự nghiệp cách mạng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là sự nghiệp của
toàn Đảng, toàn dân. Nhân dân chính là động lực, chủ thể, mục đích của cách mạng. Để nhân dân mất
niềm tin, tức là chúng ta đã đánh mất một sức mạnh vô cùng to lớn, thậm chí có tính chất quyết định
đối với sự nghiệp cách mạng. Năm 1992, tại Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khoá VII, đã nêu: “Tệ tham nhũng, hối lộ, ăn chơi phung phí tài sản của nhân dân rất nghiêm trọng và


kéo dài. Những hiện tượng đó gây tác hại rất lớn, làm tổn hại thanh danh của Đảng” . Tháng 1-1994,
Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII đánh giá lại: “Tệ quan liêu, tham nhũng và suy
thoái về phẩm chất đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên làm cho bộ máy của Đảng và Nhà
nước suy yếu, lòng tin của nhân dân đối với Đảng, đối với chế độ bị xói mòn” . Tháng 4-2001, Đại hội
Đảng lần thứ IX lại tiếp tục khẳng định: “Điều cần nhấn mạnh là: tình trạng tham nhũng và sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đang cản
trở việc thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, gây bất bình và làm giảm lòng tin trong
nhân dân” . “Nạn tham nhũng diễn ra nghiêm trọng, kéo dài, gây bất bình trong nhân dân và là một

nguy cơ lớn đe doạ sự sống còn của chế độ ta" . Nghị quyết số 14 ngày 15-5-1996 của Bộ Chính trị về
lãnh đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng đã nêu khái quát tác hại của tệ tham nhũng như sau: "Tình
trạng tham nhũng đã và đang gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng, làm xói mòn bản chất của Đảng và
Nhà nước, làm tha hoá đội ngũ cán bộ, đảng viên, tiếp tay cho các thế lực thù địch lợi dụng chống phá
ta, uy hiếp sự tồn vong của chế độ" . Nghị quyết số 04/NQ-TW ngày 21-8-2006 của Hội nghị lần thứ
ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác
phòng, chống tham nhũng, lãng phí tiếp tục nhấn mạnh: “Tham nhũng, lãng phí vẫn diễn ra nghiêm
trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu
về nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân, là một trong những nguy cơ lớn đe dọa sự tồn vong
của Đảng và chế độ ta”.
Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 tiếp tục khẳng định: Tình hình tham
nhũng vẫn diễn biến phức tạp trên nhiều lĩnh vực, nhất là trong quản lý, sử dụng đất đai, đầu tư xây
dựng, cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước, quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước, gây hậu quả xấu về
nhiều mặt, làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước,
tiềm ẩn các xung đột lợi ích, phản kháng về xã hội, làm tăng thêm khoảng cách giàu nghèo. Tham
nhũng trở thành vật cản lớn cho thành công của công cuộc đổi mới, cho sức chiến đấu của Đảng, đe
dọa sự tồn vong của chế độ.
2. Tác hại về kinh tế
Tham nhũng gây thiệt hại rất lớn về tài sản của Nhà nước, của tập thể và của công dân.
Ở nước ta, trong thời gian qua, nạn tham nhũng diễn ra trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
gây thiệt hại lớn đến tài sản của Nhà nước, tiền của, thời gian, công sức của nhân dân. Hàng loạt vụ
tham nhũng lớn, nghiêm trọng đã bị phát hiện như: vụ Dệt Nam Định, vụ Tamexco, vụ EPCO Minh
Phụng, vụ Mường Tè, vụ Lã Thị Kim Oanh, vụ việc ăn hối lộ trong đường dây chạy Quota dệt may, vụ
điện kế điện tử tại Thành phố Hồ Chí Minh… Giá trị tài sản bị thiệt hại, bị thất thoát liên quan tới
tham nhũng của mỗi vụ lên tới hàng chục, hàng trăm, thậm chí là hàng ngàn tỉ đồng. Đó là những con
số lớn và đáng lo ngại so với số thu ngân sách hằng năm của nước ta. Trong điều kiện là một nước
đang phát triển, mọi nguồn lực cần phải huy động tối đa cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
đồng thời phải nỗ lực cho việc xoá đói, giảm nghèo và thực hiện các chính sách xã hội khác thì việc
lãng phí, thất thoát tài sản, tiền của, thời gian, công sức do tham nhũng cần được coi là một thứ tội ác
phải đấu tranh và xử lý mạnh mẽ.

Với động cơ vụ lợi, một số người đã lợi dụng vị trí của mình trong bộ máy nhà nước hoặc lợi dụng
những quyền hạn nhất định được pháp luật hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao cho để thực
hiện các hành vi nhằm chiếm đoạt tài sản hoặc các lợi ích khác của Nhà nước, của tập thể hoặc cá
nhân. Hậu quả của hành vi tham nhũng không chỉ là việc tài sản, lợi ích của Nhà nước, của tập thể
hoặc của cá nhân bị biến thành tài sản riêng của người thực hiện hành vi tham nhũng, mà nguy hiểm
hơn, hành vi tham nhũng còn gây thiệt hại, gây thất thoát, lãng phí một lượng lớn tài sản của Nhà
nước, của tập thể, của công dân. Vì lợi ích cá nhân mà những kẻ tham nhũng sẵn sàng nhập cả một dây
chuyền sản xuất đã lạc hậu hay một con tàu mua về chỉ có thể bán sắt vụn, những công trình xây dựng
chưa sử dụng đã hư hỏng...
Ở mức độ thấp hơn, việc một số cán bộ, công chức quan liêu, sách nhiễu đối với nhân dân trong khi
thực thi công vụ, lạm dụng quyền hạn trong khi thi hành công vụ khiến cho nhân dân phải mất rất
nhiều thời gian, công sức, tiền bạc để có thể thực hiện được công việc của mình như xin cấp các loại


giấy phép, giấy chứng nhận, hoặc các loại giấy tờ khác. Nếu xét từng trường hợp một thì giá trị vật
chất bị lãng phí có thể không quá lớn, nhưng nếu tổng hợp những vụ việc diễn ra thường xuyên, liên
tục trong cuộc sống hằng ngày thì con số bị thất thoát đã ở mức độ nghiêm trọng.
3. Tác hại về xã hội
Tham nhũng xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo lộn những chuẩn mực đạo đức xã hội, tha hoá đội
ngũ cán bộ, công chức nhà nước.
Trước những lợi ích bất chính đã hoặc sẽ có được khi thực hiện hành vi tham nhũng, nhiều cán bộ,
công chức đã không giữ được phẩm chất đạo đức của người cán bộ cách mạng. Cán bộ, công chức khi
thực hiện hành vi tham nhũng đã không còn làm việc vì mục đích phục vụ sự nghiệp cách mạng, phục
vụ nhân dân mà hướng tới việc thu được các lợi ích bất chính, bất chấp việc vi phạm pháp luật, làm
trái công vụ, trái lương tâm, đạo đức nghề nghiệp. Vì vậy, tham nhũng không chỉ phát sinh ở trong các
lĩnh vực kinh tế, tài chính, ngân hàng, đầu tư, xây dựng cơ bản, quản lý đất đai… mà còn có xu hướng
lan sang các lĩnh vực mà từ trước tới nay ít có khả năng xảy ra tham nhũng như: văn hoá, y tế, giáo
dục, thể dục, thể thao. Hành vi tham nhũng còn xảy ra trong một số chương trình trợ cấp cho thương
binh, liệt sĩ, các gia đình chính sách; tham nhũng cả tiền, hàng hoá cứu trợ cho đồng bào gặp thiên tai;
tham nhũng trong cả xét duyệt công nhận di tích lịch sử, văn hoá, thi đua khen thưởng. Tham nhũng

còn xảy ra ở một số cơ quan bảo vệ pháp luật, những cơ quan đại diện cho công lý và công bằng xã
hội.
Điều đáng báo động là một số cán bộ, công chức coi việc tham nhũng trở thành bình thường. Họ cho
rằng, đối tượng quản lý đương nhiên phải "bồi dưỡng" khi muốn thực hiện các công việc thuộc trách
nhiệm của người cán bộ, công chức. Đó chính là biểu hiện của sự suy thoái, xuống cấp về đạo đức một
cách nghiêm trọng. Hơn thế, tham nhũng còn xâm phạm những giá trị đạo đức truyền thống của dân
tộc, khi người thực hiện hành vi tham nhũng có khi là giáo viên, bác sĩ, những người hoạt động trong
lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội - những người xây dựng nền tảng tinh thần cho xã hội.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THAM NHŨNG VÀ CÁC BIỆN PHÁP PHÒNG CHỐNG THAM
NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Thực trạng tham nhũng tại Việt Nam
Thực trạng tham nhũng ở Việt Nam hiện nay là rất nghiêm trọng, hiện tượng tham nhũng không những
đặc biệt lan tràn trong số các quan chức làm việc tại các cơ quan chuyên trách về kinh tế đối nội và đối
ngoại mà nó xảy ra phổ biến ở hầu hết các lĩnh vực như luật pháp, văn hoá, giáo dục, ... Tham nhũng
đã và đang làm xói mòn lòng tin của nhân dân, của xã hội vào Đảng và Nhà nước. Sự tha hoá của một
số cán bộ Đảng viên cộng thêm thế lực thù địch lợi dụng diễn biến phức tạp cuả tình hình thế giới và
trong nước ra sức tuyên truyền, kích động, thực hiện diễn biến hoà bình đang trở thành một nguy cơ to
lớn uy hiếp đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Theo cách xếp hạng Nhận thức về Tham nhũng của Tổ chức Minh bạch Quốc tế (tức Transparency
International), công bố năm 2010 thì Việt Nam được 2,7 trên 10 điểm (những nước có điểm số dưới 5
bị coi là có tình trạng tham nhũng cao).Sang năm 2011, số điểm và vị trí xếp hạng của Việt Nam cho
thấy tham nhũng vẫn là mối lo ngại chính. So sánh hai năm 2010-2011 thì không có thay đổi đáng kể
nào trong cuộc chiến chống tham nhũng của chính phủ.
Sau đây, chúng ta cùng điểm lại danh sách 10 vụ tham nhũng lớn nhất Việt Nam hiện nay theo nhận
xét và thống kê của nhiều nguồn báo chí:
+ Vụ EPCO-Minh Phụng
Vụ án EPCO-Minh Phụng là một trong những vụ án kinh tế nổi tiếng nhất của Việt Nam thập niên 90.
EPCO-Minh Phụng từng là công ty liên doanh của Thành phố Hồ Chí Minh. Vụ án đã khiến lần lượt
những đại gia có tiếng và cán bộ ngành ngân hàng phải vào tù vì những sai phạm trong quản lý tài
chính, vi phạm các quản lý nhà nước, như Tăng Minh Phụng, Phạm Nhật Hồng, Nguyễn Ngọc Bích,

Nguyễn Tuấn Phúc,… Trong vụ án này, tòa án đã tuyên 6 án tử hình, điển hình như Tăng Minh Phụng,
Liên Khui Thìn.


Vụ án đã gây thiệt hại kinh tế rất lớn cho một số bên liên quan, đặc biệt là các ngân hàng cấp tín dụng,
với số tài sản, tiền phải thi hành án gần 6.000 tỷ đồng, nhưng tới nay còn khoảng 3.000 tỷ chưa thi
hành được. Cụ thể, cả hai công ty EPCO và Minh Phụng phải bồi thường và thanh toán các khoản nợ
cho 6 ngân hàng gồm: Ngân hàng Công thương Việt Nam (Incombank, nay là Vietinbank), Ngân hàng
Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), Ngân hàng Thương mại cổ phần xuất nhập khẩu Việt Nam
(Eximbank), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn Công Thương, Ngân hàng Thương mại cổ
phần Đại Nam, Ngân hàng Thương mại cổ phần Gia Định, tổng số tiền gần 6.000 tỷ đồng và 32,6 triệu
USD.
Dư luận bấy giờ cho rằng toàn bộ tài sản to lớn của Minh Phụng và EPCO bao gồm hệ thống các
xưởng sản xuất may mặc, nhiều nhà cửa, khách sạn và đất đai bị nhà nước tịch biên, nếu được bán
theo giá thị trường, Minh Phụng có khả năng hoàn trả nợ dễ dàng và chỉ phải chịu hình phạt về gian
lận tài chính, nhưng không đến mức bị tử hình.
+ Vụ PMU18
Vụ PMU 18 (Đơn vị quản lý dự án số 18) là một vụ bê bối liên quan đến tham nhũng trong Bộ Giao
thông Vận tải (GTVT) đầu năm 2006. Vụ này đã gây xôn xao dư luận tại Việt Nam cũng như các nước
và tổ chức cung cấp viện trợ phát triển chính thức (ODA) cho Việt Nam, đã khiến Bộ trưởng Bộ
GTVT Đào Đình Bình phải từ chức và Thứ trưởng Thường trực Nguyễn Việt Tiến bị bắt giam.
Cũng liên quan đến vụ việc này, có thêm nhiều quan chức cấp cao khác bị tố cáo tham gia chạy án cho
các bị can. Trong đó phải kể đến Thiếu tướng công an Cao Ngọc Oánh(Tổng cục phó Tổng cục Cảnh
sát Nhân dân, Thủ trưởng cơ quan điều tra Bộ Công an) và ông Nguyễn Văn Lâm (Phó chủ nhiệm Văn
phòng Chính phủ). Chính vì việc này mà ông Cao Ngọc Oánh mất cơ hội vào Trung ương cũng như
thăng chức lên Thứ trưởng Bộ Công an. Sau khi lên làm Thủ tướng, Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu 2
nhân vật này không giữ các vị trí quan trọng khi công tác điều tra đang diễn ra. Đến cuối tháng 01 năm
2007, cơ quan điều tra mới khẳng định ông Cao Ngọc Oánh không liên quan tới việc chạy án.
Sau thời gian 18 tháng điều tra, cơ quan công an đã truy tố Bùi Tiến Dũng và 5 thuộc cấp, miễn truy tố
trách nhiệm hình sự đối với ông Nguyễn Việt Tiến, đồng thời khởi tố một số nhà báo và các cảnh sát

viên điều tra vụ án này.
+ Vụ tham nhũng PCI
Vụ hối lộ quan chức Việt Nam của công ty PCI (Pacific Consultants International, viết tắt là PCI,
Công ty Tư vấn Quốc tế Thái Bình Dương) Nhật Bản là vụ việc nổi đình đám trong năm 2008 tại Việt
Nam, liên quan đến việc đưa hối lộ của một số quan chức công ty PCI với Ban Quản lý dự án PMU tại
Thành phố Hồ Chí Minh, cụ thể là với ông Huỳnh Ngọc Sĩ, Phó Giám đốc Sở Giao thông Công chính
Thành phố Hồ Chí Minh kiêm Giám đốc Ban Quản lý PMU Đông – Tây.
Vụ việc đã khiến cho sự ủng hộ của công chúng Nhật Bản giảm sút nghiêm trọng. Tại Hội nghị nhóm
các nhà tư vấn tài trợ cho Việt Nam khai mạc sáng 04 tháng 12 năm 2008, Đại sứ Nhật Bản tại Việt
Nam Mitsuo Sakaba cho biết các dự án ODA dự kiến trong nửa đầu năm tài khoá 2008 của Nhật Bản
dành cho Việt Nam đã bị tạm dừng lại, đồng thời Nhật Bản cũng chưa thể công bố viện trợ mới cho tới
khi Ủy ban hỗn hợp phòng chống tham nhũng giữa hai nước xem xét lại việc thực hiện vốn ODA của
Nhật tại Việt Nam. Sự cố ODA nói trên gây ảnh hưởng nặng nề tới nhiều dự án thực hiện bằng nguồn
vốn ODA tại Việt Nam.
+ Vụ tham nhũng Đề án 112
Đề án 112 hay còn gọi là Đề án Tin học hóa hành chính nhà nước của Chính phủ Việt Nam nhằm mục
đích xây dựng chính phủ điện tử ở Việt Nam. Đây là một chương trình hiện đại hóa hành chính của
chính quyền Việt Nam giai đoạn từ 2001 – 2010 về cải cách thủ tục hành chính nhà nước.
Đề án 112 được Thủ tướng Chính phủ Việt Nam quyết định vào năm 2001, thực hiện giai đoạn 1 đến
năm 2005. Nhưng đến cuối năm 2005, đầu năm 2006, đề án 112 thất bại sau khi phát lộ nhiều sai
phạm và chi phí quá lớn nhưng mang lại hiệu quả quá thấp.
Kết quả giai đoạn 1 của đề án 112 là cả 5 mục tiêu cụ thể mà đề án đặt ra đều chưa được hoàn thành
hoàn chỉnh và cảnh sát Việt Nam đã khởi tố bắt giam Vũ Đình Thuần, Lương Cao Sơn, cùng hàng
chục người khác liên quan đến tiêu cực và tham nhũng. Số tiền đã chi tiêu là 1.534 tỷ đồng trong đó


tổng kinh phí đã sử dụng là gần 1.160 tỷ đồng Việt Nam, số tiền đã tạm ứng chưa chi tiêu cần thu hồi
lại là trên 300 tỷ đồng (tổng dự toán của đề án: 3.800 tỷ đồng).
+ Vụ Nexus Technologies công ty Mỹ hối lộ quan chức Việt Nam
Thông cáo báo chí ra ngày 29/6 của Văn phòng Bộ Tư pháp ở tiểu bang Pennsylvania, nơi công ty

Nexus Technologies có văn phòng, nói người nhận tội là ông Joseph T. Lukas, năm nay 60 tuổi và
đồng sở hữu công ty tư nhân Nexus cho tới năm 2005.
Bộ Tư pháp Mỹ nói: “Cùng với việc nhận tội, ông Lukas thừa nhận rằng từ năm 1999 tới năm 2005,
ông và các nhân viên khác của Nexus Technologies Inc. đã đồng ý trả, và cố ý đưa hối lộ cho các quan
chức chính phủ Việt Nam để đổi lấy các hợp đồng với các cơ quan mà những quan chức này phụ trách.
Các khoản hối lộ được che giấu dưới hình thức ‘hoa hồng’ trong tài khoản của công ty”.
+ Vụ Công ty của Úc Securency hối lộ in tiền Polime ở Việt Nam
Theo BBC: cảnh sát Úc tìm thấy chứng cứ và đang điều tra vụ hối lộ 10 triệu Úc kim liên quan đến
ông Lê Đức Thúy trong đợt in tiền polyme. Như cách phân tích của The Age, người ta có cảm tưởng từ
Lương Ngọc Anh tới bố con ông Lê Ðức Thúy, trong vụ án ăn hối lộ in tiền cho Ngân hàng Nhà nước,
cũng có thể chỉ là những người trung gian đứng dàn xếp đầu cầu dịch vụ in tiền. Còn tiền hối lộ, như
đã được viết nhiều lần hồi năm ngoái, ít nhất là 12 triệu Úc kim hoặc $10 triệu được bỏ thẳng vào một
số trương mục bí mật ở ngân hàng Thụy Sĩ.
Theo tờ The Age của Úc, công ty in tiền Securency cũng đã trả hối lộ cho ông Thúy bằng cách trả tiền
học phí cho con ông tại một đại học tại Anh. Doanh nhân Anh Bill Lowther, 71 tuổi đã bị đưa ra tòa án
Anh vào tháng 9/2011 về tội mua chuộc ông Thúy bằng cách xin được chỗ và trả tiền học tại đại học
Durham và chỗ cư trú cho người con trai ông là Lê Đức Minh để được hợp đồng cho hãng Securency
in tiền cho Việt Nam.
+ Vụ chia chác đất công ở Đồ Sơn, Hải Phòng
Vụ án tham nhũng đất công đặc biệt nghiêm trọng ở Đồ Sơn, TP Hải Phòng là một trong các vụ án
tham nhũng lớn được điều tra năm 2005. Theo cáo trạng, Vũ Đức Vận - nguyên Bí thư Thị ủy Đồ Sơn,
Hoàng Anh Hùng - nguyên Chủ tịch thị xã Đồ Sơn, Lưu Kim Thái – nguyên Phó Chủ tịch thị xã Đồ
Sơn đã lợi dụng chủ trương cấp đất tái định cư cho những người thuộc diện di dời giải phóng mặt bằng
để chia chác đất công. Tuy nhiên, Hội đồng xét xử hình sự sơ thẩm lần một của Tòa án nhân dân
(TAND) TP Hải Phòng đã tuyên phạt cảnh cáo đối với ba bị cáo này. TAND tối cao đã yêu cầu chánh
án TAND TP Hải Phòng tổ chức kiểm điểm, xác định rõ trách nhiệm tập thể lãnh đạo TAND TP Hải
Phòng trong việc để xảy ra các sai lầm, khuyết điểm khi giải quyết, xét xử sơ thẩm vụ chia chác đất
công ở Đồ Sơn.
+ Vụ Vinashin
Tại phiên họp ngày 31/7/2010, Bộ Chính trị Đảng cộng sản Việt Nam đã thảo luận và kết luận Tập

đoàn Công nghiệp Tàu thuỷ Việt Nam (Vinashin) “đang gặp nhiều khó khăn rất lớn, bộc lộ nhiều yếu
kém, sai phạm nghiêm trọng”:
– Đầu tư mở rộng quá nhanh, quy mô lớn, dàn trải trên nhiều lĩnh vực, địa bàn trái với quy hoạch được
phê duyệt. Trong đó có những lĩnh vực không liên quan đến công nghiệp đóng và sửa chữa tàu biển,
nhiều lĩnh vực kém hiệu quả, có nhiều công ty, dự án thua lỗ nặng nề.
– Tình hình tài chính đứng trước bờ vực phá sản.
– Sản xuất, kinh doanh đình trệ; bị mất hoặc giảm nhiều đơn đặt hàng; nhiều dự án đầu tư dở dang,
không hiệu quả.
– Tình hình nội bộ diễn biến phức tạp.
Cũng theo kết luận của Bộ chính trị, những yếu kém nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan
và khách quan. Nguyên nhân chủ quan là chủ yếu. Trách nhiệm trực tiếp thuộc về Hội đồng Quản trị
và Ban lãnh đạo Vinashin trong đó có Chủ tịch Hội đồng Quản trị Tập đoàn. Một số cơ quan quản lý
nhà nước có liên quan ở Trung ương và địa phương cũng có trách nhiệm. Các nguyên nhân cụ thể bao
gồm:


– Lãnh đạo Vinashin, trước hết là Hội đồng Quản trị và người đứng đầu có nhiều khuyết điểm, sai lầm
trong tổ chức, quản lý, điều hành, xác định lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, quản lý các công ty con,
công ty liên kết, tiến hành các hoạt động đầu tư xây dựng, quản lý vốn, tài chính, vay và trả nợ.
– Người đứng đầu Vinashin có năng lực hạn chế, thiếu trách nhiệm, tuỳ tiện, báo cáo không trung
thực, cố ý làm trái, vi phạm pháp luật trong việc chấp hành các quy định của Nhà nước, của Thủ tướng
Chính phủ khi chỉ đạo các hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn và bố trí cán bộ.
– Tập đoàn đã chậm xây dựng Điều lệ hoạt động và các quy định quản lý tài chính khác.
+ Vụ Vinalines
Tháng 4 năm 2012, Cơ quan An ninh điều tra Bộ Công an đã khởi tố vụ án “Tham ô tài sản” xảy ra tại
Công ty tài chính TNHH một thành viên Công nghiệp tàu thủy Việt Nam (thuộc Vinashin) và công ty
vận tải Biển Đông (thuộc Vinalines). Bốn người bị bắt tạm giam, trong đó có cựu phó tổng giám đốc
Vinalines Bùi Quốc Anh.
Phó Tổng Giám đốc đương nhiệm Trần Hữu Chiều đã bị bắt vào giữa tháng 5. Ngày 18 tháng 5, liên
quan đến những sai phạm trong việc điều hành Vinalines, hai nhân vật lãnh đạo Dương Chí Dũng (Cục

trưởng Hàng hải, cựu Chủ tịch hội đồng quản trị Vinalines) và Mai Văn Phúc (Vụ phó Vụ Vận tải, cựu
tổng giám đốc Vinalines) chính thức bị khởi tố và tạm giam 4 tháng để điều tra trách nhiệm hình sự về
hành vi cố ý làm trái quy định nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng. Những sai phạm
bị đưa ra xem xét xử lý bao gồm dự án đầu tư mua ụ nổi 83M.
+ Vụ PVC Trịnh Xuân Thanh
Theo kết luận của Ủy ban Kiểm tra Trung ương, trong năm 2007-2013, dù đã có kiến nghị, cảnh báo
của các cơ quan thanh tra, kiểm toán về tình hình thua lỗ và tiềm ẩn thua lỗ nhưng ông Trịnh Xuân
Thanh và Ban Thường vụ Đảng ủy, Hội đồng quản trị, Ban tổng giám đốc, Ban Kiểm soát Tổng công
ty đã thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, quản lý điều hành, thiếu kiểm tra, giám sát,… Hậu quả,
doanh nghiệp này mắc nhiều sai phạm và thua lỗ gần 3.300 tỷ đồng (giai đoạn 2011-2013).
Ngày 15/9/2016, C46 đã khởi tố vụ án để điều tra khoản thua lỗ gần 3.300 tỷ tại Tổng công ty Xây lắp
dầu khí Việt Nam (PVC) thuộc Tập đoàn Dầu khí Việt Nam. Theo kết luận của Ủy ban kiểm tra trung
ương, ông Thanh phải chịu trách nhiệm chính về những sai phạm này với cương vị người đứng đầu.
Liên quan vụ án, bốn cựu lãnh đạo PVC gồm: ông Vũ Đức Thuận (ủy viên HĐQT kiêm tổng giám
đốc), Nguyễn Mạnh Tiến (phó tổng giám đốc), Trương Quốc Dũng (phó tổng giám đốc), Phạm Tiến
Đạt (kế toán trưởng) đã bị bắt, khởi tố cùng về tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý
kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.
2.2. Thực trạng chống tham nhũng ở Việt Nam.
2.2.1. Những thành tựu, kết quả đạt được trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở
nước ta trong những năm qua
2.2.1.1. Về chủ trương, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Trên suốt chặng đường lịch sử lãnh đạo sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn chú trọng công
tác phòng, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí và các hiện tượng tiêu cực khác thông qua việc ban
hành nhiều nghị quyết, khởi xướng nhiều cuộc vận động phòng, chống tham nhũng với mong muốn
giảm thiểu tác hại của hiện tượng tiêu cực này.
Ngay từ khi thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ nhất xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Đảng ta đã
tiến hành cuộc vận động “Nâng cao ý thức, trách nhiệm, tăng cường quản lý kinh tế, tài chính, cải tiến
kỹ thuật, chống tham ô, lãng phí quan liêu” (gọi tắt là Ba xây, Ba chống) theo tinh thần Nghị quyết Bộ
chính trị ngày 24-7-1963. Sau khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, cả nước đi lên xây dựng
chủ nghĩa xã hội, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta tập trung vào nhiệm vụ phát triển sản xuất kinh

doanh, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, bảo đảm trật tự, kỷ cương quản lý nhà nước. Trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ đó, Đảng ta đã chú trọng đến việc ngăn ngừa, đấu tranh chống các hành vi tham ô,
ăn cắp, nhận hối lộ… Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ ba (khóa IV) đã nhấn
mạnh: Nghiêm khắc thi hành kỷ luật của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với những phần tử ăn
cắp của công, móc ngoặc, hối lộ, lợi dụng chức quyền ức hiếp quần chúng, vi phạm pháp chế xã hội
chủ nghĩa.


Từ năm 1986, đất nước ta tiến hành công cuộc đổi mới do Đảng đề xướng và lãnh đạo, trong đó lấy
đổi mới kinh tế làm trọng tâm. Những năm đầu thực hiện đổi mới, bộ mặt đất nước đã có những thay
đổi, nền kinh tế - xã hội đã thu được những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, trong điều kiện xây dựng,
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã nảy sinh nhiều hiện tương tiêu cực mới, phát sinh các loại tệ nạn
xã hội mới; tạo môi trường cho tham nhũng phát triển với tính chất, mức độ và hình thức biểu hiện
mới ngày càng tinh vi, phức tạp hơn. Vì thế, Nghị quyết 8B của Ban Chấp hành Trung ương khoá VI
đã xác định công tác đấu tranh chống tham nhũng phải là ưu tiên hàng đầu trong đấu tranh chống các
hiện tượng tiêu cực. Quán triệt tinh thần đó, Ban Bí thư đã đưa ra Chỉ thị 64-CT ngày 10-10-1990 và
Hội đồng Bộ trưởng đã ra quyết định 240/HĐBT ngày 26-6-1990 về đấu tranh chống tham nhũng;
trong đó xác định mục tiêu cơ bản là tập trung chống tham ô, hối lộ, cố ý làm trái chính sách, pháp luật
và sử dụng lãng phí tiền bạc, tài sản của Nhà nước. Tiếp đó, Nghị quyết 80 14-BCT ngày 15-5-1996
của Bộ Chính trị đã gắn đấu tranh chống tham nhũng với chống buôn lậu, lãng phí, xác định trọng tâm
của cuộc đấu tranh chống tham nhũng tập trung vào hai loại hành vi chủ yếu, gồm tham ô, chiếm đoạt,
làm thất thoát tài sản của Nhà nước; nhận hối lộ và đòi hối lộ. Tiếp theo, các Nghị quyết của Hội nghị
Đại biểu giữa nhiệm kỳ khoá VII, Đại hội VIII, Đại hội IX đều xác định tham nhũng là một trong bốn
nguy cơ đối với cách mạng nước ta và đề ra những giải pháp, quyết tâm chống loại tệ nạn này. Đại hội
lần thứ IX của Đảng khẳng định: “Tăng cường tổ chức và cơ chế, tiếp tục đẩy mạnh cuộc đấu tranh
chống tham nhũng trong bộ máy nhà nước và toàn bộ hệ thống chính trị, ở các cấp, các ngành, từ trung
ương đến cơ sở. Gắn chống tham nhũng với chống lãng phí, quan liêu, buôn lậu, đặc biệt chống các
hành vi lợi dụng chức quyền để làm giàu bất chính. Các biện pháp chống tham nhũng phải được thực
hiện đồng bộ.

Tinh thần đó tiếp tục được Đảng ta đề cập, phân tích, đánh giá trong các Văn kiện Đại hội X, Đại hội
XI như đã nêu ở trên: từ đó, đề ra những giải pháp cụ thể để đẩy lùi nạn tham nhũng với quyết tâm
chính trị ngày càng cao hơn.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng được thống nhất cao tại cuộc họp Thường trực Ban chỉ đạo TƯ
về phòng, chống tham nhũng do Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng chủ trì ngày 17/4 tại Hà Nội, đó là
truy tố, xét xử dứt điểm 12 đại án.
Theo đó, 12 đại án gồm:
1. Vụ án “cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng; vi phạm
quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” xảy ra tại Ngân hàng TMCP Xây dựng
VN (VNCB), Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương tín (Sacombank), Ngân hàng TMCP Tiên Phong
(TPBank), Ngân hàng TMCP Đầu tư và phát triển VN (BIDV).
2. Vụ án “thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Ngân hàng Nhà nước VN.
3. Vụ án “cố ý làm trái các quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” liên
quan đến hành vi của Phạm Thị Trang.
4. Vụ án “vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” liên quan đến hành
vi của nhóm Hội đồng tín dụng Ngân hàng Đại Tín gồm Hoàng Văn Toàn và các thành viên khác.
5. Vụ án “cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”, “vi phạm
quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” xảy ra tại Ngân hàng TMCP Đại Tín
liên quan đến hành vi của Hứa Thị Phấn.
6. Vụ án “vi phạm các quy định về xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Tổng công ty cổ
phần xuất nhập khẩu xây dựng VN.
7. Vụ án “tham ô tài sản”, “lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”, “cố ý làm trái
quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Công ty TNHH MTV
đầu tư và phát triển nông nghiệp Hà Nội.
8. Vụ án “lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xảy ra tại Công ty cổ phần Tập đoàn đầu tư xây dựng nhà đất
(Housing Group).
9. Vụ án “cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại
Công ty cho thuê tài chính, Ngân hàng Đầu tư và phát triển VN.



10. Vụ án “lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, “vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức
tín dụng” xảy ra tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển VN, chi nhánh Tây Sài Gòn và Công ty TNHH
đầu tư thương mại giao dịch xuất nhập khẩu Thiện Linh.
11. Vụ án “lạm quyền trong khi thi hành công vụ” xảy ra tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn, chi nhánh 6 TP.HCM.
12. Vụ án “đưa hối lộ” và “nhận hối lộ” xảy ra tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, chi
nhánh 7 TP.HCM.
Tại cuộc họp, Thường trực Ban chỉ đạo TƯ về phòng, chống tham nhũng đã thảo luận, cho ý kiến về
tiến độ, kết quả, khó khăn, vướng mắc trong xác minh, điều tra, truy tố, xét xử đối với các vụ việc, vụ
án thuộc diện Ban chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo; cho ý kiến chỉ đạo xử lý, đẩy nhanh hơn nữa tiến độ điều
tra, truy tố, xét xử các vụ án, xác minh, xử lý các vụ việc thuộc diện Ban chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo;
thống nhất kế hoạch kết thúc điều tra, truy tố, xét xử 12 vụ án thuộc diện Ban chỉ đạo theo dõi, chỉ đạo
trong năm 2017; thảo luận, cho ý kiến về kế hoạch kiểm tra, giám sát việc thanh tra vụ việc, khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử các vụ án tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm
tại một số địa phương.
Như vậy, có thể thấy, Đảng ta coi tham nhũng là một trong những nguy cơ đối với chế độ ta, hành vi
chủ yếu của tham nhũng là tham ô, chiếm đoạt, đòi và nhận hối lộ, các hành vi lợi dụng chức vụ,
quyền hạn để làm giàu bất chính. Đảng ta xác định đấu tranh phòng, chống tham nhũng là một bộ phận
hợp thành của sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân. Công tác đấu tranh phòng, chống tham
nhũng đòi hỏi phải sử dụng đồng bộ nhiều biện pháp; đấu tranh phòng, chống tham nhũng có hiệu quả
là góp phần quan trọng thúc đẩy sự nghiệp đổi mới và công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc Việt Nam.
Đó cũng là cơ sở chính trị đặc biệt quan trọng để Nhà nước xây dựng, ban hành thể chế, chính sách
phục vụ công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng. Đây là thành tựu quan trọng về mặt lý luận, soi
sáng cho thực tiễn đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2.2.1.2. Về thể chế của Nhà nước:
Cam kết của Chính phủ Việt Nam đối với công cuộc phòng, chống tham nhũng được thể hiện qua các
nỗ lực hoàn thiện khung pháp lý và hệ thống thể chế. Thành tựu đầu tiên về thể chế là sự ra đời của
Luật phòng, chống tham nhũng. Luật này đã được Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29112005, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01-6-2006 và cũng đã được sửa đổi, bổ sung tại kỳ họp thứ
nhất, Quốc hội khóa XII ngày 04-8-2007; mới đây Luật này lại tiếp tục được sửa đổi, bổ sung tại kỳ
họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII ngày 2311-2012. Sau đó, thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 (Khóa X)

về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và Luật phòng,
chống tham nhũng. Chiến lược quốc gia phòng, chống tham nhũng đến năm 2020 đã được ban hành
kèm theo Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12-5-2009 của Chính phủ. Chiến lược xác định rõ 5 quan
điểm, 5 mục tiêu cụ thể, 5 nhóm giải pháp với 3 giai đoạn thích hợp nhằm từng bước ngăn chặn, đẩy
lùi và loại trừ những nguy cơ phát sinh hành vi tham nhũng.
Bên cạnh đó, đồng tình, hưởng ứng cùng với cộng đồng quốc tế trong công cuộc phòng, chống tham
nhũng và lưu tâm đến tính chất toàn cầu của hiện tượng tham nhũng. Việt Nam cũng đã phê chuẩn
Công ước Liên hợp quốc tế về phòng, chống tham nhũng (UNCAC) cũng vào năm 2009.
Cụ thể hóa các văn bản trên, Nghị định số 68/2011/NĐ-CP ngày 08-8-2011 của Chính phủ sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nhị định số 37/2007/NĐ-CP ngày 09-3-2007 của Chính phủ về minh bạch tài
sản, thu nhập là bước tiến lớn trong nhận thức của Chính phủ Việt Nam về công cụ phòng, chống tham
nhũng.
Đi liền với hệ thống thể chế là việc các cơ quan đặc trách phòng, chống tham nhũng các cấp từ Trung
ương đến địa phương đã được thành lập, kiện toàn về tổ chức và củng cố về nhân sự. Có thể kể đến
một số cơ quan sau:
+ Ban chỉ đạo trung ương về phòng chống tham nhũng
Ngày 28-8-2006, Ủy ban thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết 1039/2006/NĐ-UBTVQH11 quy
định về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và quy chế hoạt động của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng,
chống tham nhũng ( sau đây gọi là Ban Chỉ đạo). Ban Chỉ đạo do Thủ tướng Chính phủ đứng đầu có


trách nhiệm chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc hoạt động phòng, chống tham nhũng trong phạm vi
cả nước; giúp việc cho Ban chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng có các bộ phận thường
trực hoạt động chuyên trách. Ban Chỉ đạo chịu trách nhiệm trước Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ về việc
thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình trong công tác phòng, chống tham nhũng theo đúng quy định
của Hiến pháp và pháp luật.
Thực hiện Nghị quyết 1039/2006/NQ-UBTVQHll, Ban Chỉ đạo Trung ương đã được thành lập và bắt
đầu hoạt động từ tháng 10-2006 với chức năng chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, đôn đốc công tác phòng,
chống tham nhũng trong phạm vi cả nước. Thủ tướng Chính phủ - Trưởng Ban Chỉ đạo và Phó Thủ

tướng Chính phủ - Phó Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã chủ trì nhiều
cuộc họp, làm việc với các cơ quan chức năng để chỉ đạo phối hợp giải quyết các vướng mắc và cho
chủ trương xử lý đối với các vụ việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp nhằm đẩy nhanh tiến
độ và nâng cao chất lượng xử lý. Các thành viên Ban Chỉ đạo đã có nhiều cố gắng tích cực trong thực
hiện nhiệm vụ được giao, nhất là triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch công tác của Ban Chỉ đạo
theo các lĩnh vực công tác được phân công trong đó có việc kiểm tra, đôn đốc công tác phòng, chống
tham nhũng tại các địa phương và các lĩnh vực trọng tâm, trọng điểm này.
Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng đã được thành lập và bắt đầu đi vào
hoạt động từ đầu năm 2007. Đến nay, tổ chức, bộ máy của Văn phòng Ban Chỉ đạo Trung ương về
phòng, chống tham nhũng về cơ bản đã được kiện toàn; phối hợp với các cơ quan, tổ chức trong việc
nghiên cứu, xây dựng các văn bản pháp luật về phòng chống tham nhũng và đôn đốc việc thực hiện
các văn bản này.
Sau Hội nghị Trung ương 6 (khóa XI), theo Quyết định số 162-QĐ/TW ngày 01-02-2013 của Bộ
Chính trị thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng thì Ban Chỉ đạo hiện nay
trực thuộc Bộ Chính trị, chức vụ Trưởng Ban Chỉ đạo được giao cho Tổng Bí thư nhằm bảo đảm tính
độc lập của cơ quan chỉ đạo về phòng, chống tham nhũng đối với bộ máy hành chính nhà nước.
+ Ban Chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng:
Thực hiện Nghị quyết số 294A/2007/UBTVQH12 ngày 27-9-2007 của Ủy ban thường vụ Quốc hội vê
tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn và Quy chế hoạt động của Ban chỉ đạo tỉnh, Thành phố trực thuộc Trung
ương về phòng, chống tham nhũng đến đầu năm 2009, tại tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương đã thành lập Ban chỉ đạo (Văn phòng Ban chỉ đạo cấp tỉnh về phòng, chống tham nhũng). Các
Văn phòng Ban chỉ đạo cấp tỉnh đã tham mưu, giúp việc và phục vụ cho các Ban chỉ đạo cấp tỉnh
trong việc xây dựng chương trình, kế hoạch phòng, chống tham nhũng, báo cáo kết quả công tác
phòng, chống tham nhũng; chuẩn bị nội dung, chương trình cho các cuộc họp của Ban chỉ đạo, giúp
các thành viên Ban chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, đôn đốc về phòng, chống tham nhũng trên địa
bàn…
+ Thành lập các đơn vị chuyên trách về phòng chống tham nhũng:
Theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Luật phòng, chống tham nhũng hiện hành, trong Thanh tra Chính
phủ, Bộ Công an, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có đơn vị chuyên trách về chống tham nhũng. Theo
tinh thần đó, các đơn vị chuyên trách về chống tham nhũng tại Thanh tra Chính phủ (Cục Chống tham

nhũng), Viện kiểmsát nhân dân tối cao (Vụ Thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra án tham
nhũng),Bộ Công an (Cục Cảnh sát điều tra tội phạm về tham nhũng) đểu đã được thành lập, kiện toàn
tổ chức và đi vào hoạt động nghiệp vụ, từng bước phát huy hiệu quả, nâng cao chất lượng thanh tra,
điều tra, truy tố các vụ việc, vụ án tham nhũng, góp phần tích cực trong công tác phòng chống tham
nhũng.
Thanh tra là hoạt động kiểm soát có tính chất nội bộ cả bộ máy hành chính nhà nước. Thanh tra Chính
phủ mà tiền thân là Ban Thanh tra đặc biệt được thành lập theo Sắc lệnh số 64/SL ngày 23-11-1945,
đến nay, đã có hơn 65 năm hoạt động và phát triển, Sau một thời gian dài có nhiều thay đổi về tổ
chức,cơ cấu cũng như chức năng, nhiệm vụ, hoạt động của Thanh tra đã đi vào ổn định từ sau khi Luật
thanh tra mới được ban hành vào năm 2010. Điều này có ý nghĩa to lớn đối với công tác phòng, chống
tham nhũng của Việt Nam khi ghi nhận chức năng của Thanh tra ở Điều 5;“Cơ quan thanh tra nhà


nước trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện và giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền
thực hiện quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham
nhũng; tiến hành thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng theo quy định của
pháp luật”.
Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thanh tra Chính phủ có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo,
hướng dẫn công tác thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về phòng, chống tham nhũng;
trường hợp phát hiện hành vi tham nhũng thì đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý; Bên cạnh
đó, Thanh tra Chính phủ xây dựng hệ thống dữ liệu chung về phòng, chống tham nhũng11.
Ngoài ra, để phối hợp phòng, chống tham nhũng trong phạm vi, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Kiểm
toán Nhà nước có trách nhiệm tổ chức thực hiện việc kiểm toán nhằm phòng ngừa, phát hiện tham
nhũng, trường hợp phát hiện tham nhũng thì đề nghị cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xử lý; Bộ Công
an, Bộ Quốc phòng có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo thực hiện hoạt động điều tra tội phạm về tham
nhũng; Viện kiểm sát nhân dân tối cao có trách nhiệm tổ chức, chỉ đạo thực hiện hoạt động truy tố các
tội phạm về tham nhũng; kiểm soát hoạt động điều tra xét xử, thi hành án đối với các tội phạm về tham
nhũng; Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm xét xử, hướng dẫn công tác xét xử các tội phạm về
tham nhũng. Các cơ quan chức năng ban hành nhiều quy định về cơ chế phối hợp trong phòng, chống
tham nhũng, như Quy chế phối hợp công tác giữa Ban Chỉ đạo Trung ương và Ủy ban Kiểm tra Trung

ương; Quy chế phối hợp giữa Thanh tra Chính phủ , Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước trong việc trao đổi, cung cấp thông tin về
phòng, chống tham nhũng; Quy chế phối hợp giữa Văn phòng Ban chỉ đạo Trung ương về phòng,
chống tham nhũng, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc xử
lý các vụ án tham nhũng…
2.2.1.3. Về hoạt động thực thi phòng, chống tham nhũng:
Trên nhiều mặt, hoạt động thực thi phòng chống tham nhũng ở nước ta trong những năm qua đã đạt
những kết quả quan trọng và tạo được sự chuyển biến rõ nét. Công tác tuyên truyền, giáo dục phòng,
chống tham nhũng gắn liền với việc thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” trong các cơ quan Đảng, Nhà nước thuộc các cấp, các ngành, các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể quần chúng, đã tạo được chuyển biến tích cực trong nhận thức, ý thức và trở thành
hành động thực tiễn trong phòng, chống tham nhũng. Việc phòng ngừa tham nhũng với những giải
pháp đồng bộ đang từng bước phát huy tác dụng, mang lại hiệu quả thiết thực. Công tác phát hiện, xử
lý các vụ, việc, vụ án tham nhũng nghiêm trọng, phức tạp được phát hiện, xử lý nghiêm theo pháp luật.
Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng ở Trung ương và cấp tỉnh, cùng các đơn vị chuyên trách về
chống tham nhũng được hình thành khẩn trương đi vào hoạt động, đã giúp các cấp ủy, chính quyền và
người đứng đầu các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong triển khai nhiệm vụ phòng, chống tham nhũng.
Ngành Thanh tra và Kiểm tra, kiểm toán tập trung vào các lĩnh vực quản lý đất đai, thu chi tài chính,
ngân sách, đầu tư xây dựng cơ bản, thuế, cổ phần hóa doanh nghiệp. Ủy ban Kiểm tra Trung ương
Đảng đã tham mưu, giúp Ban Bí thư tổ chức kiểm tra về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí trong
quản lý, sử dụng ngân sách, đất đai, tài nguyên… Sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong công tác
này đã được phát huy.
Báo cáo sơ kết 5 năm thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng cho thấy, trong 5 năm, cả nước có 678
người đứng đầu và cấp phó của người đứng đầu bị xử lý do thiếu trách nhiệm xảy ra tham nhũng,
trong đó xử lý hình sự 101 trường hợp, xử lý kỷ luật 577 trường hợp. Một số tỉnh, thành phố xử lý
nhiều người đứng đầu là: Quảng Nam (77 người), Bình Thuận (46 người), Bắc Giang (41 người), Đắk
Lắk (38 người), Cao Bằng (31 người)…
Qua công tác thanh tra đã giải quyết 4.572 vụ tố cáo về tham nhũng trong tổng số 5.180 vụ việc tố cáo
tham nhũng thuộc thẩm quyền; qua đó, đã phát hiện 466 vụ việc với 727 người có hành vi tham
nhũng.
Cũng theo báo cáo tổng kết này, đã có 451 cán bộ, công chức nộp lại quà tặng cho cơ quan, tổ chức,

đơn vị với tổng giá trị trên 1.798 triệu đồng; nhiều các bộ, công chức, viên chức kiên quyết không
nhận quà tặng liên quan đến nhiệm vụ, công vụ và không nhận hối lộ.


Qua tổ chức kiểm tra thực hiện quy tắc ứng xử của 13.204 cơ quan, tổ chức tại 5 Bộ, ngành và 31 tỉnh,
thành phố trên cả nước đã phát hiện và xử lý 2.510 cán bộ, công chức, viên chức vi phạm. Cũng trong
5 năm qua, theo Chính phủ, các vụ án tham nhũng được phát hiện, xử lý với số lượng lớn.
Bảng 1: Kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng trong 5 năm thực hiện
Luật phòng, chống tham nhũng
Số vụ khởi tố
1.458
Số bị can
3.151
Số vụ truy tố
1.603
Số vụ xét xử
1.455
Số bị cáo
3.387
Số tiền tham nhũng được thu hồi
1.061,6 tỷ đồng
Việc phanh phui, Diện tích đất được thu hồi
vạch trần vụ việc đó,
218,8 ha
đưa những kẻ phạm
tội ra ánh sáng và
chịu sự phán xử nghiêm khắc theo quy định của pháp luật thể hiện sự quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà
nước, các cơ quan chức năng trong cuộc chiến chống tham nhũng. Đó cũng là những kết quả tích cực
của công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay; từng bước xoa dịu những bức xúc trong dư
luận xã hội và tạo được sự phấn khởi, tin tưởng của các tầng lớp nhân dân vào hiệu lực, hiệu quả công

tác thực thi pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
2.2.2. Những hạn chế, tồn tại trong công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở nước ta
trong những năm qua
2.2.2.1. Về thể chế:
Bối cảnh chuyển đổi xã hội đang trong giai đoạn quá độ cùng với sự trùng lặp về chức năng, nhiệm vụ
của các thiết chế chính trị -xã hội khiến cho trình độ, kỹ năng lập pháp, lập quy ở Việt Nam vẫn đang
tồn tại nhiều hạn chế, bất cập. Đến lượt mình, điều này khiến cho khung pháp lý và hệ thống thể chế
về phòng, chống tham nhũng chưa đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao mà thực tế đang đòi hỏi để có
thể phòng, chống tham nhũng một cách hiệu quả. Có thể chỉ ra những hạn chế, thiếu sót của hệ thống
thể chế về phòng, chống tham nhũng ở nước ta hiện nay.
Một là, Luật phòng, chống tham nhũng hiện hành và nghị định số 68/2011/NĐ-CP ngày 08-8-2011 của
Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 37/2007/NĐ-CP ngày 09-03-2017 của Chính
phủ về minh bạch tài sản, thu nhập đã quy định về minh bạch tài sản, thu nhập đối với các đối tượng:
cán bộ từ Phó trưởng phòng của Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh trở lên và
tương đương trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị; một số cán bộ công chức tại xã, phường, thị trấn;
người làm công tác quản lý ngân sách, tài sản của Nhà nước hoặc trực tiếp tiếp xúc và giải quyết công
việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân; người ứng cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân
dân…Tuy nhiên, những thông tin về kê khai tài sản, thu nhập của các đối tượng này chỉ dừng lại ở
việc vất giữ, lưu trữ trong hồ sơ cán bộ, công chức tại các cơ quan, đơn vị và được coi là tài liệu mật
(theo Điều 32 Nghị định số 37/2007/NĐ-CP ngày 09-03-2007). Việc kê khai tài sản, thu nhập của cán
bộ, công chức nhưng lại hạn chế hoặc không công khai những thông tin này làm một trong những
công cụ phòng, chống tham nhũng khá hữu hiệu – minh bạch tài sản của cán bộ, công chức- chưa đem
lại những hiệu quả như mong muốn ở Việt Nam. Khi không có được những thông tin cần thiết về tài
sản, thu nhập của cán bộ, công chức thuộc diện kê khai tài sản thì những cán bộ, công chức khác trong
cơ quan, đơn vị và những người dân sẽ không thể biết được những di biến động về tài sản, thu nhập
theo hướng gia tăng nhanh một cách đáng ngờ của các đối tượng này; do đó, cũng không thể có bất kỳ
nghi ngờ nào về hành vi tham nhũng đã hoặc đang xảy ra. Lẽ đương nhiên, điều này gây khó khăn,
cản trở đối với hoạt động phòng, chống tham nhũng.
Hai là, Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước năm 2000 đang có hiệu lực quy định phạm vi bí mật nhà
nước theo hướng giao thẩm quyền khá lớn cho các cơ quan hành chính nhà nước. Bên cạnh “tin, tài

liệu khác mà Chính phủ xác định là tối mật”, “tin, tài liệu khác mà Chính phủ xác định là tuyệt mật”,
còn “danh mục bí mật nhà nước thuộc độ Mật do người đứng đầu hoặc người được ủy quyền của cơ
quan, tổ chức đề nghị Bộ trưởng Bộ Công an quyết định”. Quy định này cùng với sự thiếu vắng cơ chế


bảo hiến đã tạo ra nguy cơ các cơ quan hành chính nhà nước có thể tự xác định các văn bản mật một
cách tùy tiện theo nhãn quan quản lý của chính cơ quan này. Điều đó sẽ có khả năng khiến cho những
nỗ lực, quyết tâm phòng, chống tham nhũng của quốc gia gặp phải những trở ngại to lớn khi thiếu
vắng hay không thể tiếp cận những thông tin cần thiết phục vụ hoạt động nghiệp vụ phòng, chống
tham nhũng.
Ba là, hoạt động đấu tranh phòng, chống tham nhũng luôn đòi hỏi sự kết hợp đồng bộ nhiều thể chế
khác nhau thì mới có thể tăng cường được hiệu lực, hiệu quả. Tuy nhiên, việc một số đạo luật có liên
quan đối với công cuộc phòng, chống tham nhũng còn chậm được ban hành, gây ảnh hưởng nhất định
đến công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, “vẫn còn một số
văn bản, để án chưa được ban hành như Nghị định về trách nhiệm giải trình của cán bộ, công chức,
viên chức; Nghị định về bảo vệ người tố cáo tham nhũng; Đề án về kiểm soát thu nhập của người có
chức vụ, quyền hạn... Một số quy định đã bộc lộ hạn chế, vướng mắc nhưng chậm dược sửa đối, bổ
sung như việc chuyển đối vi trí công tác, xử lý trách nhiệm của người đứng đầu khi để xảy ra tham
nhũng...”
2.2.2.2. Về thực thi chính sách, pháp luật phòng chống tham nhũng:
+ Giai đoạn trước khi Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 được ban hành:
Công tác phòng, chống tham nhũng đã được Đảng, Nhà nước ta quan tâm, chú trọng từ lâu. Trước khi
Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 được xây dựng, ban hành, tình hình tham nhũng đã xảy ra
rất nhiều, chủ yếu tập trung vào tội tham ô tài sản và tội nhận hối lộ, 2 loại tội này chiếm đến 90%
tổng số người phạm tội tham nhũng; nhưng việc phát hiện, xử lý thì còn ít. Theo đánh giá chung của
các nhà xã hội học cũng như của các cơ quan bảo vệ pháp luật thì các tội phạm về tham nhũng là loại
tội phạm cố tính ẩn dấu rất cao, nó được ví như “phần chìm của tảng băng trôi trên mặt nước”. Trong
khi đó, “việc xác định số liệu về các tội phạm ẩn dấu là công việc hết sức khó khăn và phức tạp,
thường chỉ trông chờ vào nhu cầu và sự tự nguyện khai báo của người bị hại và các nhân chứng”5.
Theo kết quả nghiên cứu, khảo sát thực tế tình hình tội phạm của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Bộ

Công an thì số các vụ tham ô tài sản được phát hiện xử lý chỉ chiếm khoảng 10 - 25%; các vụ nhận hối
lộ là 5 - 10%. Số liệu thống kê trong khoảng thời gian 10 năm (1995 - 2005) cho thấy có 4.938 vụ
tham ô và 359 vụ nhận hối lộ được phát hiện, điều tra. Nếu theo dự đoán về số liệu các vụ phạm tội
tham ô tài sản và nhận hối lộ trong 10 năm qua lên tới hàng ngàn vụ xảy ra nhưng chưa được phát
hiện, xử lý. Nguyên nhân của tình hình này có nhiều, nhưng có thể nêu một số nguyên nhân chính sau
đây:
Một là, tội phạm kinh tế nói chung và các tội phạm về tham nhũng nói riêng thường diễn ra phức tạp,
phổ biến và nghiêm trọng; tính chất, thủ đoạn thực hiện hành vi phạm tội cũng ngày càng trở nên tinh
vi, xảo quyệt hơn. Kẻ phạm tội đã triệt để lợi dụng những khe hở của pháp luật, của cơ chế quản lý
chưa được hoàn thiện, lợi dụng những khe hở của pháp luật, của cơ chế quản lý chưa được hoàn thiện,
lợi dụng những sơ hở, yếu kém trong công tác quản lý để thực hiện tội phạm. Mặt khác, chủ thể của tội
phạm tham nhũng thường là người có chức, có quyền nên giữa những kẻ phạm tội luôn có sự cấu kết,
móc nối chặt chẽ với nhau thành vòng tròn khép kín, biết cách che giấu hành vi phạm tội một cách tinh
vi nên gây rất nhiều khó khăn cho công tác phát hiện, điều tra, xử lý.
Hai là, trình độ chuyên môn và năng lực nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ điều tra, cán bộ làm công tác
bảo vệ pháp luật tuy đã được đào tạo, tăng cường, nhưng vẫn còn là khâu yếu, chưa đáp ứng yêu cầu
điều tra, truy tố, xét xử. Trang thiết bị kỹ thuật, điều kiện vật chất của các cơ quan pháp luật phục vụ
công tác đấu tranh chống tham nhũng còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, lạc hậu về công nghệ, chưa đáp
ứng được đòi hỏi ngày càng cao của công tác phát hiện, điều tra, truy tố và xét xử trước những diễn
biến phức tạp của cuộc đấu tranh chống tội phạm tham nhũng. Hầu hết những vụ án tham nhũng được
phát hiện, khám phá vào thời điểm rất muộn so với thời điểm xảy ra hành vi tội phạm. Vụ án tham
nhũng xảy ra ở những nhà máy dệt Nam Định trước đây là một minh chứng điển hình cho tình trạng
chậm trễ này.
Ba là, như đã nói ở trên, các tội phạm tham nhũng luôn có chủ thể là những người có chức vụ, quyền
hạn.Với các đối tượng này, khi hành vi tham nhũng xảy ra, việc đưa họ ra truy tố, xét xử thường gặp


nhiều khó khăn, phải thông qua một loạt thủ tục mang tính pháp lý phức tạp. Ngoài ra, khi đã phát
hiện, điểu tra ra các vụ việc tham nhũng thì chế tài xử lý lại chưa thật sự nghiêm minh, công bằng,
đúng người, đúng tội; đâu đó vẫn còn hiện tượng bao che, ô dù, phương thức giải quyết có xu hướng

chung là thiên về xử lý hành chính hoặc xử lý kỷ luật “nội bộ”, tìm mọi cách để né tránh xử lý hình sự;
không ít nơi còn có sự can thiệp trực tiếp từ phía cấp ủy, chính quyền vào việc giải quyết vụ án, “đòi”
được xử lý nội bộ và thậm chí tìm mọi biện pháp gò ép để được xử lý hành chính. Điều đó khiến cho
“vi rút tham nhũng” bị “kháng thuốc”, tiếp tục lây lan, gây nhức nhối dư luận xã hội.
Bốn là, công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm soát, giám sát sự hoạt động của các cơ quan công quyền,
nhất là ở những “địa hạt” dễ phát sinh tham nhũng, chưa được làm một cách thường xuyên, liên tục,
thậm chí có nơi, có lúc còn buông lỏng công tác này; vì thế, đã không kịp thời phát hiện các hành vi
tham nhũng. Thực tế đấu tranh chống tội phạm tham nhũng cho thấy rất nhiều vụ việc, kể cả những vụ
án tham nhũng được phát hiện và được đưa ra xử lý hình sự một cách nghiêm minh là do kết quả của
công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, giám sát thì sẽ dẫn đến bỏ lọt tội phạm. Vì vậy, nếu buông lỏng
công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát. Vì vậy, nếu buông lỏng công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát.
Vì vậy, nếu buông lỏng công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, giám sát thì sẽ dẫn đến bỏ lọt tội phạm.
+ Giai đoạn sau khi Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 được ban hành đến nay:
Sau khi Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005 được xây dựng, ban hành, tạo cơ sở pháp lý mạnh
mẽ hơn cho công tác phòng, chống tham nhũng, nhìn chung,chống tội phạm tham những ở nước ta đã
đạt được nhiều thành tựu, kết quả tích cực; song, tình hình tội phạm tham nhũng chưa có dấu hiệu
giảm, vẫn diễn ra phức tạp về tính chất cũng như mức độ thiệt hại, đặc biệt trong lĩnh vực ngân hàng,
tài chính, xây dựng cơ bản,quản lý đất đai và trong các tập đoàn, tổng công ty nhà nước làm thất thoát
tài sản của Nhà nước.
Trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục chủ trương, chính sách, pháp luật về phòng chống
tham nhũng, ở một số nơi, công tác tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham nhũng mới tập trung
chủ yếu vào đối tượng là đội ngũ cán bộ, công chức, đảng viên; việc tuyên truyền chưa được sâu rộng
đến từng cấp cơ sở và mọi tầng lớp nhân dân. Nội dung tuyên truyền, giáo dục về phòng, chống tham
nhũng chưa thật sự phong phú, đa dạng, hấp dẫn; nhiều lúc, nhiều nơi còn mang tính hình thức, phong
trào, chưa chú trọng chất lượng và hiệu quả tuyên truyền, giáo dục; số báo, đài ở Trung ương cũng như
địa phương có chuyên trang, chuyên mục về phòng, chống tham nhũng còn ít và chưa được duy trì
thường xuyên, đều đặn. Trên thực tế, vẫn còn một bộ phận cán bộ, công chức, quần chúng nhân dân
bộc lộ sự hạn chế trong nhận thức về công tác phòng, chống tham nhũng, thiếu chủ động, tự giác, tích
cực trong chấp hành các quy định pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Trong thực hiện các giải pháp phòng ngừa tham nhũng, việc công khai, dân chủ trên một số mặt, (như

hoạt động cấp phép thăm dò, khai thác khoáng sản, đầu tư dự án, xây dựng,...) còn bộc lộ nhiều hạn
chế. Vẫn còn tình trạng lạm dụng các quy định về bí mật nhà nước để không thực hiện việc công khai,
minh bạch tại 23.522 cơ quan, đơn vị đã phát hiện và xử lý 1.704 cơ quan, đơn vị có vi phạm quy định
về công khai, minh bạch trong hoạt động”6.
Thực hiện quy định pháp luật về xây dựng, thực hiện chế độ, định mức, tiêu chuẩn trên tất cả các lĩnh
vực, nhất là một số lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng như đất đai, tài chính, đầu tư xây dựng, quản lý,
sử dụng tài sản công, các cấp, các ngành đã đẩy mạnh rà soát, xây dựng, thực hiện chế độ, định mức,
tiêu chuẩn, qua đó nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng kinh phí, tài sản của Nhà nước, góp phần tích
cực phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tuy nhiên, nhiều chế độ, định mức, tiêu chuẩn vẫn chậm
được sửa đổi, bổ sung nên không phù hợp với tình hình thực tế, không đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn
đời sống xã hội, nhất là các quy định về chi tiêu tài chính. “Tình trạng vi phạm về chế độ, định mức,
tiêu chuẩn vẫn còn xảy ra ở nhiều nơi. Qua tiến hành 35.753 cuộc kiểm tra việc thực hiện quy định về
chế độ, định mức tiêu chuẩn phát hiện 897 vụ vi phạm, đã xử lý kỷ luật 1.015, cán hộ, công chức, viên
chức; xử lý hình sự 64 cán hộ công chức, viên chức”7. Các Bộ, ngành, địa phương báo cáo có cán bộ,
công chức, viên chức bị xử lý hình sự do vi phạm quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn là: Ngân
hàng Nhà nước, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Giao thông Vận tải, Quốc phòng, tỉnh
Quảng Nam, Long An, KonTum, Hà Tĩnh, Bình Thuận, Bắc Ninh.


Việc kê khai tài sản, thu nhập đã có tác động tích cực đến nhận thức và hành động của cán bộ, công
chức về trách nhiệm minh bạch tài sản, thu nhập và có tác dụng phòng ngừa tham nhũng nhất định,
giúp cho công tác quản lý cán bộ, công chức, đảng viên được chặt chẽ hơn; song, việc thực hiện chưa
đồng đều, một số nơi triển khai thực hiện còn chậm, có nơi gặp khó khăn, vướng mắc do nhận thức
của các cấp, các ngành chưa nhất quán, chưa thấy rõ ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác này.
Trong công tác điều tra, truy tố, xét xử, số lượng vụ án, vụ việc về tham nhũng được phát hiện và điều
tra chưa tương xứng với thực tế tham nhũng xảy ra. Việc điều tra, giải quyết các vụ án tham nhũng
nghiêm trọng, phức tạp còn gặp nhiều khó khăn; thời gian điều tra phải kéo dài, phải trả hồ sơ để điều
tra bổ sung; một số vụ án chưa giải quyết dứt điểm, phải tạm đình chỉ điều tra do bị can bỏ trốn hoặc
bị kéo dài do chờ kết quả giám định thiệt hại…Các vụ việc, vụ án tham nhũng có quy mô lớn được
phát hiện, xử lý còn ít. Việc xử lý các vụ án tham nhũng thường bị kéo dài; tội phạm tham nhũng được

cho hưởng án treo tuy đã giảm so với năm 2011 nhưng vẫn còn chiếm tỷ lệ cao; tài sản bị tham nhũng,
gây thiệt hại do tham nhũng được thu hồi và bồi thường còn hạn chế. “Tuy có tiến bộ nhưng công tác
phát hiện và xử lý các vụ việc, vụ án tham nhũng vẫn còn những hạn chế, yếu kém. Hiệu quả phát hiện
tham nhũng qua thanh tra, kiểm tra, kiểm toán còn chưa cao. Các vụ việc, vụ án tham nhũng được phát
hiện, xử lý chủ yếu ở các cấp cơ sở và chủ yếu là đối tượng trực tiếp thực hiện; số vụ việc, vụ án có
quy mô lớn được phát hiện, xử lý còn ít. Việc xử lý các vụ án tham nhũng thường bị kéo dài, tội phạm
tham nhũng được cho hưởng án treo còn chiếm tỷ lệ cao, tài sản bị tham nhũng, gây thiệt hại do tham
nhũng được thu hồi và bồi thường còn rất hạn chế,v.v…
Hiện các vụ án tham nhũng lớn được phát hiện có thể nói đến gồm Vụ tham ô tài sản tại Tổng công ty
Vinalines thiệt hại hàng trăm tỷ đồng; vụ tham nhũng và lừa đảo chiếm đoạt tài sản xảy ra tại Phòng
giao dịch Điện Biên Phủ và Ngân hàng Công thương chi nhánh Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh gây
thiệt hại trên 2.000 tỷ đồng; vụ lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại Tổng
công ty Sabeco; vụ 3 lãnh đạo chi nhánh Hồng Hà của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông
thôn lạm quyền trong thi hành công vụ gây thiệt hại 487 tỷ đồng…
Bên cạnh đó, số vụ tham nhũng được đình chỉ còn cao. Theo nhận xét của cơ quan thẩm tra báo cáo là
Ủy ban tư pháp của Quốc hội, số vụ việc có dấu hiệu tham nhũng được phát hiện nhưng chỉ bị xử lý kỷ
luật có xu hướng tăng cũng như án tham nhũng được đình chỉ ở một số địa phương còn cao. Báo cáo
thẩm tra nêu ví dụ tại Bắc Giang, Cơ quan điều tra đã khởi tố 42 vụ vơi 93 bị can, đình chỉ điều tra 3
vụ với 5 bị can, Viện kiểm sát đình chỉ 4 vụ với 8 bị can; xử phạt hành chính 8 vụ có dấu hiệu của tội
phạm. Đồng thời, nhiều vụ án, bị can trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã được thay đổi sang tội
danh khác nhẹ hơn. Theo Báo cáo thẩm tra, những quyết định thay đổi tội danh “đã gây bất bình, bức
xúc trong cán bộ, công chức, viên chức, đảng viên và quần chúng nhân dân”.
Tóm lại, công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta trong những năm qua đã đạt được những thành
tựu, kết quả quan trọng; song, như Chính phủ đã phải thẳng thắn thừa nhận, công tác phòng, chống
tham nhũng, chưa đặt yêu cầu và mục tiêu ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng. Tham nhũng vẫn
còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, diễn ra ở nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều
ngành, gây bức xúc, bất bình trong xã hội; là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng; sự quản lý
của Nhà nước. Có tình trạng đó là do nhiều nguyên nhân, trong đó, những nguyên nhân chủ yếu là:
Thứ nhất, có lúc, một số cơ quan, đơn vị và người đứng đầu chưa thực sự vào cuộc một cách mạnh
mẽ, thiếu quyết liệt trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện và thực hiện công tác phòng, chống tham nhũng.

Nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình ở nhiều nơi bị buông lỏng, xem nhẹ. Một bộ
phận không nhỏ cán bộ, công chức, trong đó có cả những người giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một
số cán bộ cao cấp, đã thiếu tu dưỡng nhân cách, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống; giảm sút ý chí
chiến đấu, quên mất trách nhiệm, nghĩa vụ, bổn phận của mình trước Đảng, Nhà nước và trước nhân
dân. Việc tổ chức, thực hiện các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
ở một số nơi chưa tốt; kỷ cương xã hội, kỷ luật công vụ, công tác không nghiêm; còn có biểu hiện “nói
một đằng, làm một nẻo”, nói không đi đôi với làm hoặc có làm nhưng qua loa, chiếu lệ, hình thức.
Thứ hai, thể chế, chính sách về quản lý kinh tế-xã hội trên nhiều lĩnh vực vẫn còn bộc lộ nhiều sơ hở,
bất cập; việc tổ chức thực hiện ở nhiều khâu vẫn thiếu công khai, dân chủ, chưa minh bạch thông tin


về cơ chế, chính sách, pháp luật; chưa xóa bỏ cơ chế “xin-cho” vốn tồn tại từ thời kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, bao cấp…Tất cả những nhân tố đó vô tình hay hữu ý đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc
dung dưỡng lòng tham và làm nảy sinh tham nhũng, nhất là trên những lĩnh vực được coi là “màu
mỡ”, như quản lý đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng; khai thác tài nguyên, khoáng sản; đầu tư xây
dựng; quản lý vốn, tài sản nhà nước; công tác tổ chức-cán bộ; hoạt động tín dụng, ngân hàng, thị
trường chứng khoán; lĩnh vực y tế, giáo dục-đào tạo; hoạt động thanh tra, kiểm tra, hải quan;…
Thứ ba, nhiều quy định của Luật phòng, chống tham nhũng và các văn bản quy phạm pháp luật dưới
luật khi triển khai thực hiện trong thực tiễn xã hội đã và đang bộc lộ những hạn chế, bất cập. Chẳng
hạn, việc kê khai tài sản, thu nhập chỉ được thực hiện trong ba trường hợp; a) Phục vụ cho việc bầu cử,
bổ nhiệm, cách chức, miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc kỷ luật đối với người có nghĩa vụ kê khai tài sản khi
xét thấy cần thiết; b) Theo yêu cầu của Hội đồng bầu cử hoặc cơ quan, tổ chức có thẩm quyền; c) Có
hành vi tham nhũng. Điểu đó cho thấy việc kê khai tài sản còn mang hình thức, bởi, ví dụ. khi đã có
hành vi tham nhũng xảy ra thì việc kê khai gần như trở nên vô nghĩa. Ngoài ra, quy định việc xử lý
trách nhiệm người đứng đầu cũng còn nhiều vướng mắc, chưa nghiêm; việc luân phiên chuyển đối vị
trí công tác đối với một số chức danh cán bộ, công chức còn thiếu tính khả thi; trách nhiệm giải trình
của người có chức vụ, quyền hạn chưa rõ ràng; công khai minh bạch còn hình thức, đối phó...
Thứ tư, công tác kiểm tra, giám sát, giữ gìn kỷ cương, kỷ luật ở nhiều nơi, nhiều cấp chưa thường
xuyên, công tác thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử hiệu quả chưa cao, việc xử lý tham
nhũng còn chưa nghiêm, chưa kịp thời; các biện pháp hỗ trợ hoạt động tư pháp còn hạn chế, chưa kịp

đáp ứng được yêu cầu. Hành vi tham nhũng ngày càng tinh vi , phức tạp, vì vậy việc phát hiện và xử lý
tham nhũng gặp nhiều khó khăn.
Thứ năm, công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về phòng, chống tham nhũng chưa đúng
mức; chưa phát huy vai trò, trách nhiệm của xã hội và nhân dân trong phòng, chống tham nhũng; một
số nơi có tình trạng nhũng việc làm đúng, gương người tốt không được đề cao, bảo vệ; những sai sót,
vi phạm không được phê phán xử lý nghiêm minh, kịp thời. Vai trò giám sát của nhân dân thông qua
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội đạt hiệu quả chưa cao.
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG THAM NHŨNG Ở NƯỚC TA
3.1. Vai trò của các biện pháp phòng ngừa tham nhũng:
Thực hiện công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu
quan trọng. Kinh tế – xã hội có những bước phát triển khá, đời sống nhân dân được cải thiện, an ninh –
quốc phòng được giữ vững. Tuy nhiên chúng ta cũng đang phải đối mặt với những nguy cơ và thách
thức nghiêm trọng. Một trong những nguy cơ làm cản trở công cuộc đổi mới là tệ tham nhũng. Tham
nhũng cùng với sự lãng phí đang diễn ra trầm trọng, kéo dài, gây bất bình trong nhân dân, gây ra thiệt
hại lớn về tài sản Nhà nước, làm băng hoại đạo đức cán bộ, đảng viên, xâm hại trực tiếp đến công lý
và công bằng xã hội. Nhận thức rõ những nguy hại đó, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương
biện pháp đấu tranh với tệ tham nhũng và đã đạt được những kết quả ban đầu. Tuy nhiên, tham nhũng
hiện nay vẫn đang diễn ra hết sức phổ biến, có nguy cơ lan tràn ở mọi ngành, mọi cấp, trong mọi lĩnh
vực. Rõ ràng, cần phải có một nhận thức đầy đủ hơn về bản chất và nguyên nhân của tệ tham nhũng để
từ đó có những giải pháp hữu hiệu hơn. Cần phải có một loạt các biện pháp để đấu tranh với tệ tham
nhũng, trong đó các biện pháp phòng ngừa có một ý nghĩa hết sức quan trọng bởi vì:
1. Các biện pháp phòng ngừa được áp dụng một cách thường xuyên và có tác dụng rộng khắp đến
nhiều đối tượng. Chính tính chất thường xuyên, liên tục đó sẽ có tác dụng ngăn chặn ngay từ trong
mầm mống những hành vi tham nhũng.
2. Phòng ngừa tham nhũng sẽ làm giảm bớt tác hại rất nhiều nếu để tham nhũng xảy ra. Rõ ràng việc
ngăn chặn ngay từ đầu hành vi tham nhũng cũng đồng nghĩa với việc đã chủ động ngăn chặn và giảm
thiểu những thiệt hại có thể xảy ra từ hành vi tham nhũng. Thiệt hại ở đây không chỉ về kinh tế, có thể
đo được bằng con số cụ thể, mà bao gồm cả sự thiệt hại về con người và nhìn một cách rộng hơn là sự
xâm hại đến trật tự kỷ cương phép nước, công lý và công bằng xã hội, làm xói mòn niềm tin của nhân
dân vào Đảng và Nhà nước, vào sự nghiệp đổi mới đất nước.



3. Việc nghiên cứu và áp dụng các biện pháp phòng ngừa tham nhũng nhiều khi đồng nghĩa với những
biện pháp đổi mới và cải cách mà chúng ta thực hiện theo yêu cầu chung của quá trình hoàn thiện bản
thân bộ máy quản lý và phương thức điều hành, cơ chế quản lý nền kinh tế nói riêng, xã hội nói chung.
3.2. CÁC GIẢI PHÁP CHỐNG THAM NHŨNG HIỆN NAY.
3.2.1. Đối với các cơ quan Đảng.
+ Tăng cường công tác chính trị tư tưởng phẩm chất người đảng viên.
Mọi sự thành công của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc trước kia và công cuộc đổi mới đất
nước ngày nay đều gắn liền với vai trò lãnh đạo của Đảng. Sức mạnh của Đảng thể hiện ở qua sức
chiến đấu của mỗi cán bộ đảng viên. Vì vậy hơn ai hết đảng viên phải là người đi đầu trong cuộc đấu
tranh chống tham nhũng, đặc biệt là những đảng viên giữ các cương vị lãnh đạo trong bộ máy Nhà
nước. Cuộc đấu tranh chống tham nhũng là cuộc đấu tranh chống lại sự cám dỗ của vật chất có điều
kiện phát huy ảnh hưởng và tác dụng mạnh mẽ trong môi trường kinh tế thị trường hiện nay. Công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức, phẩm chất người đảng viên không thể chỉ dừng lại trong các Chỉ
thị, Nghị quyết của Đảng mà phải trở thành nhiệm vụ thường xuyên quan trọng của các tổ chức Đảng
và trong các ý thức rèn luyện của các đảng viên. Đảng phải hướng dẫn và theo dõi cán bộ, đảng viên
rèn luyện đạo đức phẩm chất của mình qua những công việc cụ thể trên từng cương vị công tác. Giáo
dục chính trị tư tưởng và rèn luyện phẩm chất đạo đức không thể chỉ mang tính hình thức, mà phải có
những tiêu chí nhất định để mỗi đảng viên tự soi vào mà phấn đấu, rèn luyện và cũng để các tổ chức
đảng có thể hiểu rõ các thành viên của mình và có biện pháp hướng dẫn giúp đỡ.
+ Tăng cường quản lý đội ngũ cán Đảng viên.
Đây là vấn đề hết sức quan trọng. Điều cần lưu ý là phải tăng cường phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
Nhà nước trong việc quản lý đội ngũ cán bộ công chức, bởi vì đảng viên là cán bộ công chức chiếm đa
số, nhất là ở những vị trí lãnh đạo, quản lý. Quản lý đội ngũ cán bộ đảng viên ở đây được hiểu là quản
lý một cách toàn diện bao gồm từ khâu tuyển chọn bố trí, đề bạt, bổ nhiệm và sự đánh giá trong quá
trình sử dụng. Những sai lầm trong công tác quản lý cán bộ đảng viên là mảnh đất nuôi dưỡng không
ít những kẻ cơ hội để lọt vào trong bộ máy Đảng và Nhà nước, thậm chí leo tới những vị trí trọng yếu
với mục đích tạo lợi thế để thực hiện tham vọng cá nhân của mình. Đây là một vấn đề hết sức phức
tạp, đòi hỏi phải có một nhận thức đầy đủ về tính chất nguy hại của sự buông lỏng quản lý cán bộ đảng

viên và cần có giải pháp khắc phục kịp thời.
+ “Đưa tự phê bình và phê bình vào nề nếp sinh hoạt đảng thường xuyên” theo điều lệ Đảng và tinh
thần Nghị quyết Trung ương 6(lần 2), khoá VIII. Phê bình và tự phê bình là vũ khí sắc bén của Đảng.
“Đảng không che dấu những khuyết điểm của mình, không sợ phê bình. Đảng phải nhận khuyết điểm
của mình mà tự sửa chữa để tiến bộ và để dạy bảo cán bộ, phải thật thà tự phê bình, tự sửa chữa những
khuyết điểm của mình…kiên quyết chống bệnh tự mãn tự túc, tự tư tự lợi kiêu ngạo, ba hoa”8 . Lâu
nay phê bình và tự phê bình chưa được thực hiện một cách nghiêm túc, thậm chí có tình trạng qua loa,
đại khái. Tự bản thân cán bộ đảng viên chưa ý thức được trách nhiệm của mình, chưa thấy được tự phê
bình là phương pháp rèn luận đạo đức cách mạng, chưa sử dụng nó như một vũ khí chống lại những
thói hư tật xấu, những tư tưởng tiêu cực, tham nhũng của bản thân mình. Đồng thời nhiều cán bộ, đảng
viên cũng chưa thấy trách nhiệm của mình là phải phê bình, góp ý chân tình, thẳng thắn cho tổ chức
đảng và các đồng chí của mình để giữ vững bản chất tiên phong của giai cấp công nhân. Thậm chí có
nơi có lúc, phê bình đã bị lợi dụng để đấu đá nội bộ, kèn cựa tranh giành chức vụ, quyền lợi. Đó là
những biểu hiện hết sức tệ hại cần được khắc phục để phê bình và tự phê bình thực sự trở thành vũ khí
rèn luyện nâng cao sức chiến đấu của Đảng, ngăn chặn và loại trừ những biểu hiện của tệ tham nhũng
ngay từ trong tư tuởng của mỗi đảng viên .
+ Đề cao trách nhiệm, xử lý nghiêm khắc những cán bộ, đảng viên, nhất là những người giữ chức vụ
trọng yếu trong bộ máy của Đảng và Nhà nước có biểu hiện tiêu cực hay thiếu trách nhiệm để xảy ra
tham nhũng ở các ngành, cơ quan đơn vị mình phụ trách. Đây đang là mối quan tâm của toàn xã hội
và thực sự là thử thách lòng tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước. Sẽ không thể chờ đợi lòng
tin của người dân nếu những người vi phạm pháp luật, nhất là những đảng viên giữ cương vị lãnh đạo
có hành vi tham nhũng, tiêu cực có thể nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật ngay cả khi đã bị phát hiện và


lên án. Đồng thời sẽ không còn là một nền pháp chế, nếu những người có trách nhiệm trong bộ máy
Đảng và Nhà nước lại vô can với những vụ việc tiêu cực tham nhũng xảy ra trong phạm vi trách nhiệm
của mình. Chúng ta quán triệt tinh thần của Đảng là chống tham nhũng phải bảo đảm giữ vững ổn định
chính trị nhưng như thế không có nghĩa là chúng ta làm ngơ hay nương tay với những kẻ coi thường
uy tín của Đảng bất chấp pháp luật và coi thường lợi ích của nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức
nhất là những cán bộ giữ chức vụ cao đặt dưới sự lãnh đạo và quản lý của Đảng. Vì vậy, việc xử lý

nghiêm minh kịp thời những hành vi tham nhũng hay vô trách nhiệm để xảy ra tham nhũng trước hết
thuộc trách nhiệm của các tổ chức đảng. Một thái độ nghiêm khắc đối với sự vi phạm của các đảng
viên thể hiện trách nhiệm của Đảng trước nhân dân và sẽ là một biện pháp có trách nhiệm răn đe
phòng ngừa rất hữu hiệu với tệ tham nhũng.
3.2.2. Đối với các cơ quan Nhà nước.
+ Bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật của Nhà nước nhất là cơ chế quản lý kinh tế – tài chính,
quản lý tài sản công. Đây thực sự là biện pháp có hiệu quả để phòng ngừatham nhũng. Như đã đề cập
ở trên, tham nhũng tồn tại và phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Những sơ hở
trong cơ chế, chính sách chính là nơi thuận lợi nhất cho các hành vi tham nhũng mặc sức hoành hành.
Vì vậy, cần phải bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật, quy chế, quy định của Nhà nước, bảo đảm
các quy định đầy đủ, cụ thể rõ ràng, dễ thực hiện, trước hết về cơ chế quản lý kinh tế, tài chính, đất
đai, quản lý tài sản công, dịch vụ công. Đồng thời, đề cao chính sách chấp hành nghiêm chính sách
pháp luật không để sơ hở tuỳ tiện trong thực tế để kẻ xấu lợi dụng tham nhũng, thụ hưởng những đặc
quyền, đặc lợi bất chính.
+ Tiếp tục cải cách bộ máy nhà nước bảo đảm tinh gọn, nhiệm vụ cụ thể rõ ràng, đẩy mạnh cải cách
hành chính, xoá bỏ những thủ tục gây phiền hà, sách nhiễu doanh nghiệp và công dân, thủ tục công
khai hoá thủ tục hành chính. Đây là những biện pháp đã được nhận thức rõ nhưng chúng ta phải kiên
trì tiến hành từng bước mới mong đạt được những kết quả như mong muốn. Bộ máy nhà nước đặc biệt
là bộ máy quản lý hành chính phát triển theo xu hướng ngày càng đông về số lượng, ngày càng phức
tạp về chức năng nhiệm vụ do những nguyên nhân khách quan. Đó là sự tăng nhanh về dân số và sự
mở rộng nhanh chóng và không ngừng các lĩnh vực hoạt động kinh tế – xã hội của con người do tiến
bộ của khoa học kỹ thuật mang đến. Tuy nhiên có một thực tế là sự tăng trưởng bộ máy về số lượng
chưa đưa lại sự tương xứng về hiệu lực quản lý. Đây đáng là vấn đề đáng phải suy nghĩ. Sự gia tăng về
số lượng các cơ quan quản lý cũng như chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của nó đôi khi không dựa trên
các yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội và không dựa trên các luận cứ khoa học xác đáng, mà lại dựa
vào ý chí chủ quan duy ý chí, thậm chí xuất phát từ những tư tưởng lợi ích cục bộ của ngành hay địa
phương. Vì vậy, cần phải nghiên cứu sắp xếp lại bộ máy nhà nước theo hướng tinh gọn, chức năng
nhiệm vụ rõ ràng gắn liền với trách nhiệm công vụ của từng bộ phận của nền hành chính đến từng cán
bộ, công chức. Ngoài ra thủ tục hành chính phiền hà rắc rối, thiếu công khai, chưa đủ minh bạch đã
tạo điều kiện cho sự vòi vĩnh, sách nhiễu phát triển đến mức độ công nhiên, không thể chấp nhận

được. Chúng ta không phải không có những chủ trương và biện pháp nhằm cải cách thủ tục hành chính
và coi đó như một khâu đột phá trong tiến trình cải cách hành chính nhưng kết quả thu được còn hết
sức hạn chế. Vì vậy, cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa cải cách thủ tục hành chính, thường xuyên rà soát
và loại bỏ ngay những thủ tục vô lý, cản trở việc thực hiện quyền của công dân trong mọi lĩnh vực ở
mọi ngành, mọi cấp, đặc biệt ở những khâu, những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực.
+ Cải cách cơ bản chế độ tiền lương, nâng cao đời sống người hưởng lương, đồng thời xử lý nghiêm
khắc những người có hành vi tham nhũng, nâng cao chất lượng, phẩm chất chính trị, tính kỷ luật và
chuyên môn của cán bộ, công chức. Đây cũng là vấn đề rất quan trọng, bởi vì xét cho cùng một chế
độ, chính sách đều được thực hiện thông qua những con người cụ thể và bất kể ai lao động cũng trước
hết vì cuộc sống của bản thân, kể cả cán bộ công chức. Công tâm là yêu cầu đầu tiên của nền công vụ
đối với từng công chức. Nhưng người ta chỉ có thể thực sự công tâm khi không bị thúc ép bởi việc
mưu sinh. Chúng ta khó có thể đòi hỏi người cán bộ công chức phải tận tâm hết mình khi chế độ lương
chưa đủ sống, ít nhất ở mức trung bình xã hội. Vì vậy, cùng với việc thường xuyên giáo dục ý thức, tư
tưởng và trách nhiệm công chức thì cũng phải đẩy nhanh quá trình cải cách tiền lương. Đề án chế độ


cải cách chế độ tiền lương đang thu hút sự quan tâm của toàn xã hội và thực là một trong những yếu tố
quan trọng, một biện pháp cơ bản để phòng ngừa tham nhũng.
+ Thực hiện đúng các quy định của Đảng và Nhà nước về những điều cán bộ, công chức không được
làm cũng là biện pháp phòng ngừa tham nhũng có hiệu quả. Điều đó phải được các cơ quan Nhà nước
quán triệt đến từng cán bộ, công chức, đồng thời thủ trưởng các cơ quan nhà nước cũng phải thường
xuyên theo dõi và nhắc nhở các cán bộ, công chức thuộc quyền thực hiện nghiêm chỉnh các quy định
này. Ngoài ra cần thực hiện nghiêm túc việc kê khai tài sản (nhà đất và các tài sản có giá trị, nguồn
tiền cho vợ con đi học tự túc ở nước ngoài…) để từng bước quản lý thu nhập của cán bộ, công chức
nhằm phát hiện kịp thời những nguồn thu nhập không chính đáng. Tuy nhiên, công việc này cần tiến
hành thận trọng để tránh kẻ xấu lợi dụng gây tình hình phức tạp trong nội bộ các cơ quan Nhà nước.
+ Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát kịp thời phát hiện và ngăn chặn hành vi tham
nhũng, tăng cường kiểm tra, thanh tra hoạt động công vụ của cán bộ, công chức và cơ quan công
quyền, nhất là những quản lý nhiều tài sản, con người hoặc có quan hệ quản lý trực tiếp đối với các
doanh nghiệp và công dân nhằm ngăn chặn hành vi sách nhiễu, vòi vĩnh khi thi hành công vụ, nhiệm

vụ, kịp thời kiến nghị sửa đổi, bổ sung những sơ hở, khiếm khuyết của cơ chế chính sách để dẫn đến
tham nhũng. Thanh tra, kiểm tra, giám sát là biện pháp chống tham nhũng một cách chủ động và có
hiệu quả nhất. Lúc sinh thời, Hồ Chủ Tịch đã từng nói: “Chín phần mười khuyết điểm trong công việc
của chúng ta là thiếu sự kiểm tra và kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa kiểm
soát khéo về sau khuyết điểm sẽ bớt đi”.
Cơ chế thanh tra, kiểm tra hiện nay còn có nhiều khiếm khuyết. Các cơ quan có chức năng thanh tra,
kiểm tra thì nhiều, thậm chí có sự chồng chéo, lẫn lộn trong quá trình hoạt động, hiệu quả của công tác
thanh tra, kiểm tra còn hạn chế. Đây cũng là những vấn đề cơ bản đang được nghiên cứu để tìm ra
giải pháp thích hợp trong quá trình xây dựng Luật Thanh tra để trình Quốc hội xem xét thảo luận. Tuy
nhiên, để nâng cao hiệu quả của công tác này cần có sự phân định và phối hợp chặt chẽ giữa các
phương thức thanh tra, kiểm tra, giám sát như một chỉnh thể có tính hệ thống thì mới có thể phát huy
được tác dụng và hướng tới mục đích chung là đảm bảo hiệu quả quản lý nhà nước và phát huy quyền
dân chủ của công dân.
+ Thấm nhuần quan điểm của Hồ Chí Minh về công tác cán bộ, đổi mới và thức hiện tốt đường lối đào
tạo và sử dụng cán bộ của Đảng cũng là thiết thực góp phần phòng chống tệ nạn tham nhũng. Hồ Chí
Minh nói: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc, muốn việc thanh công hay thất bại đều do cán bộ thấp
kém”10. Cán bộ tham nhũng là cán bộ vi phạm chuẩn mực đạo đức cách mạng, là cán bộ kém. Do vậy,
làm công tác cán bộ phải hiểu rõ cán bộ, từ đó mà bố trí sử dụng cho phù hợp vào từng cương vị chức
trách. Nếu không căn cứ vào tài - đức, vào sở trường của từng cán bộ mà chỉ vì tình cảm cá nhân, nếu
không vì công việc, vì tập thể mà chỉ vì quen thân, “cánh hẩu” với nhau mà bố trí cất nhắc thì chẳng
những không phát huy được công tác của người cán bộ mà nhiều khi lại tạo thành những vây cánh, ê
kíp tiêu cực không làm lợi cho xã hội tập thể, tìm mọi cách bòn rút của công, lợi dụng chia chác các
lợi ích bất minh từ nguồn tài sản xã hội chủ nghĩa. Do vậy việc bố trí cất nhắc người quản lý lãnh đạo
quyết không được tuỳ tiện, bởi nó chẳng những liên quan đến số phận của chính người đó mà còn ảnh
hưởng trực tiếp đến sức mạnh của Đảng và Nhà nước. Trên thực tế hiện nay đã xuất hiện nhiều tiêu
cực trong công tác cán bộ như chạy chỗ, chạy chức, chạy quyền, chạy tiền… đã làm tha hoá một bộ
phận cán bộ lãnh đạo quản lý và tạo điều kiện cho tham nhũng phát triển.
Công tác cán bộ cần phải công tâm, chính tâm chọn mặt gửi vàng: nhận diện những kẻ giả danh tập thể
để bảo vệ lợi ích cá nhân mình, những kẻ nhân danh xã hội để vì lợi ích của đồng bọn, của nhóm
người tham nhũng lộng hành. Cần phải sáng suốt cất nhắc những người xứng đáng vào các cương vị

quản lý phù hợp với năng lực sở trường chuyên môn của họ, những người không có biểu hiện tham
nhũng mà còn dũng cảm tích cực đấu tranh chống tham nhũng.
3.2.3. Đối với các tổ chức xã hội, cơ quan báo chí và nhân dân.
+ Phát huy tinh thần làm chủ của nhân dân và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền giám sát của
mình và các cơ quan nước và cán bộ, công chức nhà nước, tích cực phát hiện và tố cáo những hành vi
và biểu hiện tham nhũng. Cần tổ chức thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở. Đó là những yếu tố


×