Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

BÀI GIẢNG CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH TÂM THẦN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.59 KB, 16 trang )

CHĂM SÓC NGƯỜI BỆNH TÂM THẦN

MỤC TIÊU HỌC TẬP
1.Trình bày được đại cươngvề tâm thần học và phân biệt bệnh tâm thần với bệnh thần kinh.
2.Kể được các nguyên nhân và các nhân tố thuận lợi gây phát sinh bệnh tâm thần.
3.Mô tả được các bệnh tâm thần thường gặp và cách nhận định tình trạng bệnh nhân.
1. Đại cương về tâm thần học
1.1 Mục tiêu và đối tượng của tâm thần học
Sức khoẻ cho mọi người là mục tiêu lớn, mục tiêu chiến lược của tổ chức y tế thế giới
(WHO), của nhiều quốc gia phát triển và của cả ngành y tế nước ta và cũng là thước đo chung
của mọi xã hội văn minh, nhân bản.
Không thể chia cắt sức khoẻ thể chất với sức khoẻ tâm thần xã hội và ngày càng phải
khẳng định vai trò quan trọng của sức khoẻ tâm thần trong một nỗ lực chung để nâng cao chất
lượng sống cho mọi người trong một xã hội phát triển.
Chính vì vậy, đối tượng của tâm thần học ngày nay không chỉ đóng khung trong khuôn
khổ bốn bức tường của bệnh viện
Chỉ tập trung vào những người bệnh tâm thần nặng như người bệnh tâm thần phân liệt,
rối loạn cảm xúc lưỡng cực, sa sút trí tuệ,... thuộc phạm vi tâm thần học truyền thống. Mà tâm
thần học hiện đại đang phải bươn trải để phấn đấu vì sức khoẻ toàn diện cả thể chất và tâm thần vì sự thoải mái cho tất cả mọi người sống trong cộng đồng.
1.2 Khái niệm về sức khỏe tâm thần
Trong khi sức khoẻ về thể chất đã được dần từng bước xã hội đặt đúng vào vị trí của nó,
thì sức khoẻ tâm thần còn phải bền bỉ phấn đấu để thay đổi dần nhận thức vẫn còn nhiều lệch lạc,
nhiều mặc cảm. Vậy sức khoẻ tâm thần là gì?
Sức khoẻ tâm thần không chỉ là một trạng thái không có rối loạn hay dị tật về tâm thần,
mà còn là một trạng thái tâm thần hoàn toàn thoải mái. Muốn có một trạng thái tâm thần hoàn
toàn thoải mái thì cần phải có chất lượng nuôi sống tốt, có được sự cân bằng và hoà hợp giữa các
cá nhân, môi trường xung quanh và môi trường xã hội. Như vậy, thực chất sức khoẻ tâm thần ở
cộng đồng là:
1. Một cuộc sống thật sự thoải mái.
2. Đạt được niềm tin vào giá trị bản thân, vào phẩm chất và giá trị của người
khác.


3. Có khả năng ứng xử bằng cảm xúc, hành vi hợp lý trước mọi tình huống.
4. Có khả năng tạo dựng, duy trì và phát triển thoả đáng các mối quan hệ.


5. Có khả năng tự hàn gắn để duy trì cân bằng khi có các sự cố gây mất thăng
bằng, căng thẳng (Tổ chức y tế thế giới. Geneva -1998).Vậy là chăm sóc bảo vệ sức khoẻ tâm
thần cho mọi người là một mục tiêu rất cụ thể, mang tính xã hội, nhưng cũng rất cao, rất lý
tưởng và phải phấn đấu liên tục để tiến dần từng bước, cuối cùng đạt được mục tiêu “Nâng cao
chất lượng cuộc sống” của con người Việt Nam.
1.3 Nội dung của tâm thần học
Tâm thần là một bộ môn trong y học, có nhiệm vụ nghiên cứu các biểu hiện lâm sàng,
bệnh nguyên, bệnh sinh các bệnh tâm thần, nghiên cứu các biện pháp phòng và chữa các bệnh
này.
Tâm thần học được chia ra 2 phần lớn: tâm thần học đại cương và tâm thần học hiện đại.
Trong quá trình phát triển, tâm thần học đã chia ra nhiều phân môn: tâm thần học người
lớn, tâm thần trẻ em, tâm thần học quân sự, tâm thần học người già, giám định pháp y tâm thần,
tâm thần học xã hội, dược lý tâm thần và sinh hóa tâm thần...
1.3.1. Tâm thần học truyền thống
♣Tâm thần học đại cương
- Lịch sử phát triển tâm thần học.
- Triệu chứng học, hội chứng học.
- Mối liên quan giữa tâm thần học và các môn khoa học khác.
- Phân loại các bệnh, các rối loạn tâm thần.
- Bệnh nguyên, bệnh sinh của một số bệnh và các rối loạn tâm thần.
- Tâm thần học xuyên văn hoá.
♣Bệnh học tâm thần
- Loạn thần thực tổn (rối loạn tâm thần liên quan các bệnh nội tiết, chấn thương,

thoái triển não: Alzheimer, Pick,...).
- Loạn thần nội sinh (tâm thần phân liệt, động kinh, rối loạn cảm xúc,...)

- Các rối loạn tâm thần liên quan đến stress (tâm căn, rối loạn cơ thể tâm sinh,

trạng thái phản ứng).
- Các rối loạn tâm thần do cấu tạo thể chất bất thường và sự phát triển tâm thần

bệnh lý (nhân cách bệnh, chậm phát triển tâm thần,...).
- Các rối loạn tập tính hành vi ở thanh thiếu niên (hành vi bạo lực, xâm phạm, rối

loạn sự học tập,...).
-

Rối loạn ăn uống.
Loạn chức năng tình dục không thực tổn.
Các rối loạn lo âu, ám ảnh sợ.
Các rối loạn phân định giới tính.


-

Lạm dụng và nghiện chất (lạm dụng rượu, nghiện rượu, loạn thần do rượu, lạm dụng ma tuý,
nghiện ma tuý, thuốc lá, ...).
1.3.2 Tâm thần học hiện đại
♣Tâm thần học truyền thống
♣Tâm thần học cộng đồng
- Vệ sinh phòng bệnh và các rối loạn tâm thần.
- Tâm thần học xã hội (nghiên cứu ảnh hưởng của môi trường, đặc biệt môi trường
tâm lý xã hội và sức khoẻ tâm thần).
- Giáo dục sức khoẻ tâm thần cho gia đình, nhà trường và cộng đồng.
- Phục hồi chức năng tâm lý xã hội.
- Các hình thái hoạt động rèn luyện thể chất, thẩm mỹ.

- Các kỹ năng ứng xử, giao tiếp.
1.4 Thế nào là bệnh tâm thần
Là những bệnh do hoạt động của não bộ bị rối loạn do nhiều nguyên nhân khác nhau gây
ra: nhiễm khuẩn, nhiễm độc, sang chấn tâm thần, bệnh cơ thể.....làm rối loạn chức năng phản ánh
thực tại.
Các quá trình cảm giác, tri giác, tư duy, ý thức.......bị sai lệch cho nên bệnh nhân tâm thần
có những ý nghĩ, cảm xúc, hành vi, tác phong không phù hợp với thực tại, với môi trường xung
quanh.
Phạm vi các bệnh tâm thần rất rộng. Bệnh tâm thần là loại bệnh rất phổ biến, công nghiệp
ngày càng phát triển, sự tập trung dân cư vào các thành phố ngày càng đông, cuộc sống ngày
càng căng thẳng thì bệnh ngày càng tăng.
Có những bệnh tâm thần nặng (các bệnh loạn thần), quá trình phản ánh thực tại sai
lệch trầm trọng, hành vi, tác phong bị sai lệch nhiều. Có những bệnh nhân tâm thần nhẹ
(các bệnh tâm căn, nhân cách bệnh), quá trình phản ánh thực tại cũng như hành vi tác phong
rối loạn ít, bệnh nhân vẫn còn có thể sinh hoạt, lao động, học tập được, tuy có giảm sút.
Bệnh tâm thần thường không gây chết đột ngột nhưng làm đảo lộn sinh hoạt, gây
căng thẳng cho các thành viên trong gia đình và tổn thất cả về kinh tế. Bệnh tâm
thần nếu không được chữa trị kịp thời có thể dẫn đến trạng thái tâm thần sa sút,
người bệnh trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội. Phát hiện sớm và ngăn
chặn kịp thời là để ngăn chặn sự tiến triển xấu này.
Theo Tổ chức y tế thế giới (WHO): các rối loạn tâm thần (RLTT) rất thường gặp trong
mạng lưới chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ). Các rối loạn này không dễ tự khỏi hay tự hạn
chế lại nếu không được điều trị. Nhiều RLTT như trầm cảm, rối loạn cảm xúc lưỡng cực, rối loạn


hoảng sợ… có thể điều trị một cách có hiệu quả hơn so với điều trị các bệnh tăng huyết áp hay
bệnh mạch vành.

1.5. Phân biệt bệnh tâm thần với bệnh thần kinh
- Điểm khác nhau

+ Bệnh tâm thần(còn gọi là tâm bệnh) chưa phát hiện được tổn thương đặc hiệu về mặt
hình thái của hệ thần kinh mà chỉ phát hiện được những biến đổi tinh vi về mặt sinh hóa, miễn
dịch, di truyền......
Ða số các dấu hiệu bệnh là do rối loạn chức năng của não. Phần lớn bệnh nhân có thể ăn
khỏe, chơi khỏe, đi đứng bình thường nhưng có ý nghĩ, cảm xúc, hành vi không phù hợp, kỳ dị,
khó hiểu.
Bệnh nhân tâm thần thường không nhận thấy mình bị bệnh, từ chối điều trị tại chuyên
khoa tâm thần.
+ Bệnh nhân thần kinh có nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra làm tổn thương
thực thể tại các phần khác nhau của hệ thần kinh như não bộ, tủy sống, dây thần kinh ngoại vi
gây rối loạn chủ yếu chức năng tiếp thu và thực hiện của con người.Người bệnh ít có các hành vi
kỳ dị, ý nghĩ bất bình thường nhưng có thể tê liệt nửa người, khó khăn đi đứng, ăn nói, điếc,
mù....). Đa số bệnh nhân còn ý thức được bệnh của mình.
- Điểm liên quan với nhau
+ Bệnh thần kinh có tổn thương ở tổ chức não, ít nhiều, có rối loạn tâm thần kèm theo:
rối loạn trí nhớ, trí tuệ, ý thức.....
+ Bệnh nhân tâm thần (bệnh tâm thần nội sinh) tuy chưa phát hiện được tổn thương thực
thể ở não, có thể có những rối loạn thần kinh kèm theo (rối loạn trương lực cơ, phản xạ, thần
kinh thực vật...)
2. Nguyên nhân gây nên bệnh tâm thần
2.1. Nguyên nhân thực tổn: do tổn thương não hoặc ngoài não gây ảnh hưởng đến hoạt động
của não.
- Chấn thương não
- Nhiễm trùng thần kinh: viêm não, giang mai thần kinh,...
- Nhiễm độc thần kinh: do rượu, ma túy, nhiễm độc hóa chất,...
- Các bệnh mạch máu, các tổn thương não khác: u não, teo não, tai biến mạch máu não,...
- Do các bệnh cơ thể ảnh hưởng đến hoạt động của bộ não: các bệnh nội khoa, bệnh nội
tiết, bệnh chuyển hóa,...
2.2. Nguyên nhân tâm lý:
- Do căng thảng tâm lý dẫn đến bệnh tâm căn, rối loạn dạng cơ thể,..

- Bệnh loạn thần phản ứng: rối loạn stress sau sang chấn, rối loạn thích ứng,..


- Rối loạn hành vi thanh thiếu niên do giáo dục không tốt, môi trường giáo dục không
thuận lợi,...
- Rối loạn ám ảnh, lo âu,...
2.3. Do cấu tạo bất thường của cơ thể
- Các dị tật bẩm sinh.
- Thiếu sót về hình thành nhân cách.
2.4. Các nguyên nhân chưa rõ ràng:
Do có sự kết hợp phức tạp của nhiều nguyên nhân khác nhau (di truyền, chuyển hóa,
miễn dịch,...) nên khó xác định nguyên nhân chủ yếu. Các RLTT nội sinh thường gặp:
- Bệnh tâm thần phân liệt.
- Rối loạn cảm xúc.
- Động kinh nguyên phát.
3. Các nhân tố thuận lợi cho bệnh tâm thần phát sinh
- Nhân tố di truyền
Vấn đề di truyền tất nhiên có ảnh hưởng xấu đến một số bệnh tâm thần nhưng không phải
là tuyệt đối. Có khi bệnh tâm thần phát sinh trong một thành viên của gia đình mà không thấy
trong các thành viên khác, có trường hợp cha mẹ đều có bệnh mà con cháu vẫn khỏe mạnh bình
thường. Cũng có trường hợp nhân tố di truyền không tác động vào thế hệ tiếp theo mà vào thế hệ
sau nữa.
- Yếu tố nhân cách
+ Nhân cách bao gồm: thích thú, khuynh hướng, năng lực, tính cách, khí chất...
+ Nhân cách mạnh, bền vững là một nhân tố chống lại sự phát sinh các bệnh tâm thần,
nhất là các bệnh do căn nguyên tâm lý. Khi bị bệnh tâm thần thì người có nhân cách vững bị nhẹ
hơn và hồi phục nhanh hơn.
+ Nhân cách yếu, không bền vững là một yếu tố thuận lợi cho bệnh tâm thần phát sinh,
khi mắc bệnh tâm thần sẽ hồi phục khó khăn và chậm.
- Tuổi tác

+ Mỗi lứa tuổi có những đặc điểm tâm lý riêng, vì thế có những loại bệnh tâm thần
thường hay xảy ra ở lứa tuổi này mà ít xảy ra ở lứa tuổi khác.
- Giới tính
+ Nam giới thường hay mắc bệnh tâm thần nhiều hơn nữ giới. Các bệnh tâm thần do chấn
thương sọ não, nghiện rượu, bệnh động kinh...thường gặp ở nam giới.
+ Các bệnh rối loạn phân ly (histeria), rối loạn cảm xúc lưỡng cực, trầm cảm, lo âu...hay
gặp ở nữ giới. Đặc biệt phụ nữ còn có những rối loạn tâm thần do những sự biến động của nội
tiết vào các thời kỳ: dậy thì, kỳ kình nguyệt, sinh nở, tiền mãn kinh mà và mãn kinh.


- Tình trạng sức khỏe tâm thần
+ Trên thực tế lâm sàng thường gặp những bệnh tâm thần phát sinh khi sức khỏe bị
giảm sút, mất ngủ kéo dài, thiếu dinh dưỡng lâu ngày, làm việc quá sức...Khi người bệnh tâm
thần quá suy kiệt thì cần phải nâng cao thể trạng để giúp người bệnh nhanh chóng hồi phục.
4. Ý nghĩa của việc phát hiện sớm một số bệnh tâm thần.
Phát hiện sớm bệnh tâm thần đóng góp trên 50% đến kết quả điều trị của người thầy
thuốc. Phát hiện sớm giúp cho việc điều trị nhẹ nhàng hơn và hiệu quả nhanh hơn, đồng thời
giảm khả năng người bệnh đi đến mạn tính và tàn phế.
Phát hiện sớm và dự phòng các rối loạn tâm lý - tâm thần có ý nghĩa:
- Hạn chế nguy cơ suy giảm nhận thức và giao tiếp xã hội.
- Kiểm soát tình trạng lạm dụng chất (rượu, ma tuý...).
- Làm giảm tác hại của các Stress cấp.
- Giảm lạm dụng các thuốc hướng thần.
Phát hiện sớm bệnh tâm thần còn có ý nghĩa về mặt kinh tế: Làm giảm ngày điều trị, sớm
đưa người bệnh về cộng đồng, xã hội. Giảm chi phí trong quá trình điều trị bao gồm cả chi phí
của cá nhân, gia đình người bệnh và xã hội. Vấn đề này ngoài việc làm giảm tỷ lệ người bệnh
tâm thần đi đến mạn tính và tàn phế, làm giảm tỷ lệ gây rối trật tự xã hội, nó còn làm giảm tỷ lệ
tử vong nói chung.
5. Triệu chứng lâm sàng
Các rối loạn phân liệt có đặc điểm chung là sự rối loạn cơ bản và đặc trưng về tư duy, tri

giác và cảm xúc không thích hợp hay cùn mòn, ý thức của bệnh nhân còn rõ ràng và năng lực trí
tuệ còn được duy trì mặc dù có một số thiếu sót về nhận thức có thể xuất hiện trong quá trình tiến
triển. Các nhóm triệu chứng có tầm quan trọng đặc biệt và thường đi với nhau là:
- Tư duy vang thành tiếng, bị đánh cắp, bị phát thanh.
- Hoang tưởng bị kiểm tra, bị chi phối.
- Có các ảo thanh thường xuyên bình phẩm về bệnh nhân, có thể xuất phát từ một bộ
phận nào đó của cơ thể.
- Có các loại hoang tưởng dai dẳng khác không thích hợp về mặt văn hoá và hoàn toàn
không thể có được (ví dụ: bệnh nhân cho rằng mìmh có khả năng tiếp xúc với người ngoài hành
tinh, có khả năng làm thay đổi thời tiết...).
- Ảo giác dai dẳng bất cứ loại nào có khi kèm theo hoang tưởng thoáng qua hay chưa
hoàn chỉnh.
- Tư duy gián đoạn, hay thêm từ khi nói, ngôn ngữ không liên quan, không thích
hợp và ngôn ngữ bịa đặt.
- Tác phong căng trương lực như kích động, giữ nguyên dáng, uốn sáp, phủ định, sững
sờ.
- Có các triệu chứng âm tính: vô cảm, ngôn ngữ nghèo nàn, học tập kém, lao động giảm
sút.
- Biến đổi không thường xuyên và có ý nghĩa về chất lượng toàn diện của tập tính cá


nhân như mất những sở thích cũ, lười nhác, mải mê suy nghĩ về bản thân và cách ly xã hội.
- Trí tuệ còn được duy trì, ý thức còn rõ ràng.
* Tiêu chuẩn chẩn đoán: phải có ít nhất 2 trong số các triệu chứng liệt kê dưới xuất hiện
rõ ràng trong thời gian 1 tháng:
- Hoang tưởng.
- Ảo giác.
- Ngôn ngữ thanh xuân thường là nói hổ lốn hoặc không liên quan.
- Hành vi hung bạo vô lối hoặc căng trương lực.
- Các triệu chứng âm tính: cùn mòn cảm xúc, suy giảm ý chí, ngôn ngữ.

Chỉ cần 1 trong các triệu chứng đó khi có: hoang tưởng kỳ quái hoặc ảo thanh bình phẩm
hành vi hay ý nghĩ của cá nhân hoặc ảo thanh là 2 hay nhiều giọng nói trò chuyện với nhau.
Tiêu chuẩn thứ 2 là các triệu chứng gây ra những tổn thiệt đáng kể.
6. Các bệnh tâm thần thường gặp
6.1. Bệnh Tâm thần phân liệt
Các rối loạn phân liệt có đặc điểm chung là rối loạn cơ bản và đặc trưng về tư duy, tri
giác và cảm xúc không thích hợp hay cùn mòn, ý thức còn rõ ràng và năng lực trí tuệ thường
được tư duy.
Bệnh nhân thường cảm thấy ý nghĩ của mình hình như bị người khác biết hay lấy bớt,
hay ý nghĩ của mình vang thành tiếng hay bị bị phát thanh. Cảm thấy có sức mạnh tự nhiên hay
siêu nhiên đang hoạt động làm ảnh hưởng đến ý nghĩ, cảm xúc hay hành vi của mình. Tri giác
thường bị rối loạn theo những cách khác nhau, thường có những ảo thanh bình luận về bệnh
nhân.
Nét đặc trưng của cảm xúc là nông cạn, thất thường hay không thích hợp. Trong một số
trường hợp tư duy trở nên gián đoạn hay thêm từ khi nói hoặc lời nói không thích hợp.Tác phong
có thể trở nên rối loạn trầm trọng, kích động hay sững sờ giữ nguyên tư thế, tập tính cá nhân có
thể biến đổi, trở nên mất thích thú, thiếu mục đích, lười nhác và cách ly xã hội. cụ thể là :
- Cảm thấy đuối sức trước cuộc sống.
- Khả năng học tập, làm việc dần dần giảm sút, đầu óc mù mờ khó suy nghĩ.
- Tình cảm trở nên lạnh nhạt và thiếu quan tâm với người thân, một số người bệnh ngại
tiếp xúc chỗ đông người, không muốn giao tiếp với bạn bè và người xung quanh.
- Giảm dần những thích thú trước đây, khó thích ứng với môi trường xung quanh.


- Một số người bệnh biểu hiện trạng thái giống suy nhược thần kinh: Đau đầu, mất ngủ,
mệt mỏi, khó tiếp thu cái mới, bồn chồn lo âu vô cớ, dễ bùng nổ...
- Có những suy nghĩ viển vông, hành vi kỳ lạ không phù hợp với thực tế hoặc say xưa
đọc các loại sách triết học hoặc nghi ngờ mọi người theo dõi làm hại mình...
Bệnh thường gặp ở lứa tuổi 18 đến 30, tỷ lệ mắc bệnh từ 0,5% đến 1% dân số.
Điều trị chủ yếu bằng các thuốc an thần kinh phối hợp với liệu pháp lao động thích ứng

xã hội.
6.2. Bệnh động kinh
Bệnh động kinh được xếp vào bảng phân loại chuyên khoa thần kinh, nhưng ở nước ta do
ngành tâm thần quản lý và điều trị ngoại trú.
Đây là bệnh mãn tính, có nhiều nguyên nhân khác nhau, đặc trưng là sự lặp đi lặp lại các
cơn co giật do sự phóng điện quá mức của các tế bào thần kinh não bộ.
Bệnh cảnh lâm sàng đa dạng và có 2 đặc điểm sau:
-Tính chất phát sinh đột ngột.
- Các triệu chứng bệnh lý man tính và nặng dần.Có nhiều thể lâm sàng của bệnh động
kinh. Đặc điểm lâm sàng chủ yếu của động kinh thái dương (động kinh tâm thần) là rối loạn tâm
thần xuất hiện đột ngột, trong cơn thường có rối loạn ý thức, thường có những hành vi nguy
hiểm như giết người trong cơn chạy thẳng. Rối loạn tồn tại trong thời gian ngắn và sau đó mất đi
đột ngột, sau cơn quên tất cả sự việc xảy ra trong cơn.
Tỷ lệ mắc bệnh động kinh từ 0,4 -0,5% dân số, thường bắt đầu ở lứa tuổi < 20.
Phương pháp cận lâm sàng phát hiện động kinh là ghi điện não có sóng động kinh.
Điều trị chủ yếu bằng các thuốc kháng động kinh. Đối với động kinh tâm thần cần phối
hợp thuốc kháng động kinh với các thuốc an thần kinh.
6.3 Bệnh hoang tưởng
Hoang tưởng là một triệu chứng của rối loạn tư duy, là triệu chứng chủ yếu trong các
bệnh loạn thần. Hoang tưởng là những ý tưởng, phán đoán sai lầm, không phù hợp với thực tế,
do bệnh nhân tâm thần gây ra, nhưng bệnh nhân tâm thần cho là hoàn toàn chính xác, không thể
giải thích và đả thông được.
Hoang tưởng chỉ mât đi khi bệnh nhân khỏi bệnh hay thuyên giảm.
Hoang tưởng được chia làm 2 loại chính: hoang tưởng suy đoán và hoang tưởng cảm thụ.
- Hoang tưởng suy đoán được xây dựng thuần túy theo logic lệch lạc của bệnh nhân, biểu
hiện sự rối loạn trong việc phản ánh mối liên hệ giữa các sự vật và hiện tượng, đồng thời cũng
biểu hiện khuynh hướng tưởng tượng, sự mơ ước hay tư duy chưa trưởng thành của bệnh nhân.
Thường là những hoang tưởng dai dẳng, phát triển thành hệ thống và làm biến đổi nhân
cash một cách sâu sắc.
Bao gồm các hoang tưởng bị hại, bị chi phối, ghen tuông, tự buộc tội, nghi bệnh, tự cao,

phát sinh....


- Hoang tưởng cảm thụ thường xuất hiện sau các rối loạn của tri giác, của cảm xúc hay ý
thức.
Bệnh nhân không có logic lệch lạc, mà chỉ có những ý thức rời rạc không kế tục, cảm xúc
căng thẳng, bàng hoàng, ngơ ngác, nhân cách của bệnh nhân không bị hoang tưởng làm biến đổi
nhiều. Bao gồm các hoang tưởng nhận nhầm, gán ý, đóng kịch, kỳ quái....Điều trị chủ yếu bằng
các thuốc an thần kinh.
6.4. Bệnh trầm cảm
Trầm cảm là một hội chứng rối loạn cảm xúc ngược lại với hưng cảm. Hội chứng trầm
cảm điển hình gồm 3 thành phần chủ yếu, biểu hiện quá trình ức chế toàn bộ tâm thần.
- Cảm xúc bị ức chế: khí sắc giảm, bệnh nhân buồn rầu, ủ rũ, ít quan tâm đến người khác
mất thích thú cũ, bi quan về tiền đồ, cảm thấy lo lắng bất an vô cớ . Nét mặt trở nên cau có, đôi
khi nước mắt lưng tròng, thở dài và tăng sự mệt mỏi. Cảm Giác mệt mỏi, giảm sự tập trung chú ý
vào công việc dẫn tới hiệu xuất học tập, công tác, lao động giảm dần.
- Tư duy bị ức chế: bệnh nhân suy nghĩ chậm chạp, liên tưởng khó khăn, do dự, thiếu tự
tin cho mình là hèn kém. Trường hợp nặng có hoang tưởng tự buộc tội đưa đến ý tưởng và hành
vi tự sát.
- Vận động bị ức chế: bệnh nhân ít đi lại, ít nói, ăn uống kém, thường hay ngồi lâu trong
một tư thế, có thể có hiện tượng bất động sững sờ. Đôi lúc trở nên lăn lộn, vật vã, khóc
lóc......Hội chứng trầm cảm có thể gặp trong nhiều bệnh tâm thần khác nhau. Trầm cảm là một
hội chứng cần theo dõi chặt chẽ và cấp cứu, đặc biệt đối với trầm cảm có ý tưởng và hành vi tự
sát.
Ngoài ra,
- Giấc ngủ không sâu, độ dài giấc ngủ giảm dần.
- Ngại tiếp xúc chỗ đông người, sợ tiếng ồn, các hoạt động thường ngày giảm giần.
Điều trị trầm cảm chủ yếu bằng các thuốc chống trầm cảm, trong trường hợp trầm cảm
nặngcó thể sốc điện.
6.5. Các bệnh tâm thần trẻ em

Tâm thần học trẻ em là một phân môn trong tâm thần học, có liên quan nhiều đến thần
kinh, sinh lý, di truyền và giáo dục học.
Ngành tâm thần học trẻ em có nhiệm vụ nghiên cứu các bệnh tâm thần của trẻ em từ lúc
sơ sinh cho đến 15 tuổi để phòng và chữa bệnh này.
- Thông thường có 3 nguyên chính gây ra các bệnh tâm thần của trẻ em:
+ Do tổn thương não trước, trong và sau khi sanh.
+ Do tác nhân xã hội (giáo dục không đúng, môi trường xã hội không lành mạnh..)
+ Yếu tố di truyền.
-Các bệnh tâm thần trẻ em bao gồm nhiều loại mà chủ yếu là:
+ Bệnh tâm căn trẻ em.


+ Động kinh và các cơn co giật của trẻ em.
+ Chậm phát triển tâm thần.
+ Các bệnh tâm thần nội sinh.....
6.6 Chậm phát triển tâm thần
- Chậm phát triển tâm thần là một nhóm trạng thái bệnh lý có bệnh nguyên và bệnh sinh
khác nhau, nhưng được thống nhất lại là vì bệnh cảnh lâm sàng cơ bản giống nhau: thiểu năng
lực trí tuệ, thường có tính chất bẩm sinh hoặc xuất hiện trong những năm đầu sau khi sanh, khi
trí tuệ chưa trưởng thành. Khả năng nhận thức rất yếu hay không có, thường kèm theo dị dạng cơ
thể, nội tạng, trí nhớ, hiểu biết kém, thường có những động tác vô nghĩa và dễ bị lợi dụng. Chậm
phát triển tâm thần không chữa khỏi được, bằng giáo dục đặc biệt, huấn luyện, lao động có thể
cải thiện được phần nào.
- Việc đánh giá mức độ trí tuệ bao gồm các kết quả lâm sàng, tác phong thích ứng (trong
mối quan hệ với xã hội) và kết quả test tâm lý.
- Chậm phát triển tâm thần được chia làm 4 mức độ: nhẹ, vừa, nặng và trầm trọng

7. Nguyên nhân bệnh tái phát
- Dùng thuốc không đều: Phần lớn người bệnh nghĩ rằng mình không mắc bệnh nên
không đi khám, không uống thuốc, bỏ dở thuốc...Một số trường hợp do tác dụng phụ của thuốc

làm người bệnh khó chịu nên họ bỏ thuốc.
- Những Stress tâm lý: Thái độ giễu cợt, hắt hủi, ngược đãi, bỏ rơi, hành hạ người bệnh,
phân biệt đối xử trong phân công công việc, mất mát về tình cảm, danh dự, cái chết của người
thân... các yếu tố trên sẽ thúc đẩy người bệnh khởi phát, khiến bệnh nặng hơn, hay tái phát.
8. Chăm sóc
8.1. Nhận định chăm sóc:
- Bệnh nhân đang trong trạng thái mất kiểm soát: dãy dụa, khó thở, mệt mỏi, la hét, đập
phá,...
- Bênh nhân đang có những sang chấn tâm lý nặng nề.
- Bệnh nhân đang ở trạng thái trầm cảm.
- Bệnh nhân phủ định, không chịu ăn, không nói, không tiếp xúc.
- Bệnh nhân dễ bùng nổ những xung động về tâm thần.
8.2. Chẩn đoán chăm sóc:
- Không tiếp xúc với mọi người xung quanh.
- Không nói, không chịu há miệng, nói nhỏ.
- Không chịu ăn uống.
- Đòi hỏi thái quá.


- Kêu rên đau mỏi nhiều nơi.
- Không uống thuốc theo hướng dẫn của NVYT.
- Không làm theo chỉ dẫn của thầy thuốc.
8.3. Lập kế hoạch chăm sóc:
- Động viên bệnh nhân qua cơn bằng liệu pháp tâm lý, a,s thị.
- Phụ giúp thầy thuốc làm liệu pháp tâm lý.
- Cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng cho bệnh nhân.
- Giải thích hợp lý cho người bệnh hiểu về tình trạng của mình.
- Thực hiện đầy đủ các y lệnh: tiêm thuốc, cho ăn,…
- Giáo dục sức khỏe bệnh nhân.
8.4. Thực hiện kế hoạch chăm sóc:

- Từ lời nói đến việc làm, trang phục của nhân viên y tế phải thật đúng mực để tác dộng
tích cực đến liệu pháp tâm lý của thầy thuốc.
- Tuyệt đối không được coi thường người bệnh, nhất là cho là người bệnh giả vờ, từ đó
mà có thái độ chế dễu, bỏ rơi, hắt hủi.
- Tránh thái độ quá lo lắng, quá sốt sắng, chiều chuộng hoặc theo dõi quá chặt làm người
bệnh tưởng rằng mình bị bệnh quá nặng, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình tâm lý trong quá trình
điều trị.
- Khi tiếp xúc với người bệnh phải nghiêm túc nhưng niềm nở, ân cần, chu đáo tạo điều
kiện cho người bệnh lao động, vui chơi, giải trí, hòa mình vào tập thể xung quanh, đồng thười
luôn gần gũi thân mật để hiểu được hoàn cảnh và diễn biến tâm lý của người bệnh để cung cấp
them tư liệu cho thầy thuốc.
- Phải chú ý tới một số điểm cơ bản trong khi tiếp xúc với người bệnh, như lời nói của
NVYT phải khớp với lời nói của thầy thuốc, những câu nói không khéo, những tiếng cười thiếu ý
thức những lười giải thích không đúng có thể làm mất đi tác dụng của liệu pháp tâm lý.
- Khi thầy thuốc đang tiến hành liệu pháp tâm lý trực tiếp, DD cần có mặt để người bệnh
yên tâm tin tưởng tiếp thu lời nói của thầy thuốc.
- Thực hiện đầy đủ, chính xác, kịp thời các y lệnh của thầy thuốc với cử chỉ nhẹ nhàng,
lịch thiệp, phối hợp ăn khớp với thầy thuốc.
- Phải biết động viên, an ủi, khích lệ người bệnh đúng lúc đúng chỗ làm bệnh nhân an
tâm tin tưởng tuyệt đối vào chuyên môn của thầy thuốc.
- Khi thầy thuốc tiến hành các phương pháp điều trị như chấm cứu, bấm huyệt, tiêm
thuốc thì DD cần tích cực trợ giúp để tăng tác dụng tâm lý chữa bệnh.
- Nếu thầy thuốc có chỉ định cho người bệnh thư giản luyệt tập, DD phải hướng dẫn cụ
thể, tỷ mỷ để người bệnh tiếp thu dễ dàng và luyện tập thành công.


- Giáo dục sức khỏe cho người bệnh, bồi dưỡng nhân cách và tính tự tin cho người bệnh,
hướng dẫn gia đình người bệnh có phương pháp chăm sóc nuôi dạy, hướng dẫn sinh hoạt, lao
động, học tập và nghĩ ngơi hợp lý.
- Điều trị các bệnh mạn tính, tập luyện thân thể, phòng chống bệnh nói chung.

9. Phương pháp điều trị
9.1. Thuốc
9.1.1. Thuốc chống trầm cảm.
Thuốc chống trầm cảm được sử dụng để điều trị các loại bệnh trầm cảm và đôi khi các
vấn đề khác. Thuốc chống trầm cảm có thể giúp cải thiện các triệu chứng như buồn bã, tuyệt
vọng, thiếu năng lượng, khó tập trung và thiếu quan tâm trong hoạt động. Thuốc chống trầm cảm
được nhóm lại theo cách nó ảnh hưởng đến hóa học não bộ, và một số loại khác có sẵn. Các
thuốc chống trầm cảm phổ biến nhất theo quy định là chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn
lọc (SSRIs) như fluoxetine (Prozac) và citalopram (Celexa). Hiện cũng có nhiều loại thuốc chống
trầm cảm khác, tốt nhất phụ thuộc vào tình hình cụ thể và cơ thể phản ứng với thuốc thế nào.
9.1.2. Thuốc ổn định tâm trạng.
Thuốc ổn định tâm trạng thường được sử dụng để điều trị rối loạn lưỡng cực, được đặc
trưng bởi xen kẽ các giai đoạn hưng cảm và trầm cảm. Thuốc ổn định tâm trạng bao gồm lithium
(Lithobid), divalproex (Depakote), lamotrigine (Lamictal) và những loại khác. Đôi khi, thuốc ổn
định tâm trạng được thêm vào thuốc chống trầm cảm để điều trị trầm cảm.
9.1.3. Thuốc chống lo âu.
Thuốc chống lo âu, như tên gọi của nó cho thấy, được sử dụng để điều trị rối loạn lo âu,
như rối loạn lo âu tổng quát và rối loạn hoảng sợ. Cũng có thể hữu ích trong việc giúp làm giảm
kích động và mất ngủ. Những thuốc này thường nhanh chóng tác động, giúp giảm các triệu
chứng trong ít nhất là 30 phút. Tuy nhiên, một nhược điểm lớn là nó có khả năng gây ra phụ
thuộc. Thuốc chống lo âu bao gồm alprazolam (Xanax), lorazepam (ATIVAN) và nhiều loại
khác.
9.1.4. Thuốc chống loạn thần.
Thuốc chống loạn thần, còn gọi là thuốc an thần kinh, thường được sử dụng để điều trị
các rối loạn tâm thần như tâm thần phân liệt. Thuốc chống loạn thần cũng có thể được dùng để
điều trị rối loạn lưỡng cực hoặc thêm vào thuốc chống trầm cảm để điều trị trầm cảm. Thuốc
chống loạn thần bao gồm clozapine (Clozaril), olanzapine (Zyprexa) và những loại khác.
9.2. Tâm lý trị liệu
Tâm lý trị liệu là một thuật ngữ chung cho quá trình điều trị bệnh tâm thần bằng cách nói
về tình trạng và các vấn đề liên quan với một nhà cung cấp sức khỏe tâm thần. Trong tâm lý trị

liệu, tìm hiểu về tình trạng và tâm trạng, cảm xúc, suy nghĩ và hành vi. Sử dụng những hiểu biết
và kiến thức có được trong tâm lý trị liệu, có thể tìm hiểu đối phó và kỹ năng quản lý stress. Tâm
lý trị liệu thường có thể thành công hoàn thành trong một vài tháng, nhưng trong một số trường
hợp, điều trị lâu dài có thể hữu ích. Tâm lý trị liệu có thể diễn ra một ngày một, trong một nhóm
hay cùng với các thành viên trong gia đình.


Có rất nhiều loại cụ thể của tâm lý trị liệu, mỗi cách tiếp cận riêng để cải thiện tinh thần
được tốt. Các loại tâm lý đúng phụ thuộc vào tình hình cá nhân. Ví dụ về tâm lý liệu pháp nhận
thức hành vi bao gồm (CBT), điều trị (IPT), liệu pháp hành vi biện chứng (DBT), và cam kết
chấp nhận và điều trị (ACT).
9.3. Phương pháp điều trị kích thích não
Kích thích não đôi khi được sử dụng, là phương pháp điều trị trầm cảm và một số rối loạn
sức khỏe tâm thần khác. Thường là dành cho các tình huống trong đó thuốc và tâm lý đã không
hiệu quả. Chúng bao gồm:
Trị liệu sốc điện (ECT). Sốc điện trị liệu (ECT) là một thủ tục trong đó dòng điện được
chuyển qua bộ não, cố tình gây ra sự co giật ngắn. Điều này dường như làm thay đổi hóa học
não, có thể nhanh chóng làm giảm triệu chứng của một số bệnh tâm thần, chẳng hạn như trầm
cảm. Bởi vì nó có thể cung cấp những cải tiến đáng kể các triệu chứng và nhanh hơn so với tâm
lý hay thuốc men, ECT có thể là lựa chọn điều trị tốt nhất trong các tình huống nhất định. Quyết
định xem liệu pháp sốc điện có là một lựa chọn tốt cho một người thân có thể khó khăn. ECT có
thể gây ra một số tác dụng phụ. Hãy chắc chắn rằng hiểu tất cả những ưu và khuyết điểm.
Kích thích xuyên sọ. Phương pháp này sử dụng nam châm mạnh để kích thích các tế bào
ở các bộ phận của bộ não liên quan đến cảm xúc. Điều này để làm giảm các triệu chứng trầm
cảm ở một số người.
Kích thích dây thần kinh phế vị. Quy trình này sử dụng một thiết bị nhỏ chạy pin (xung
điện) cấy vào ngực trên. Nó kết nối với một sợi dây thần kinh ở cổ dẫn đến não (các dây thần
kinh phế vị). Các máy phát xung điện định kỳ kích thích các dây thần kinh phế vị. Các tín hiệu
điện sau đó đi lên các dây thần kinh phế vị đến não. Điều này được cho là giúp giảm trầm cảm
bằng cách kích thích các tế bào não.

Kích thích não bộ sâu. Với thủ thuật này, một máy phát xung nằm ở ngực trên gửi kích
thích điện qua dây dẫn đến các khu vực sâu trong não. Điều này được cho là ảnh hưởng đến các
bộ phận của não liên quan đến tâm trạng, giảm nhẹ triệu chứng trầm cảm. Nó cũng có thể hữu
ích cho chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Bởi vì nó liên quan đến việc phẫu thuật não và phẫu
thuật ngực, điều này được xem là một điều trị cuối.

9.4. Nhập viện và chương trình điều trị
Đôi khi bệnh tâm thần trở nên nghiêm trọng cần phải nhập viện tâm thần. Nhập viện
thường được khuyến cáo khi không thể chăm sóc cho chính mình đúng cách hoặc khi đang ở
trong nguy hiểm, ngay lập tức gây hại cho bản thân hoặc người khác. Lựa chọn bệnh viện tâm
thần bao gồm chăm sóc bệnh nhân nội trú 24 giờ, một phần hoặc nhập viện ngày, hoặc xử lý tại
khu dân cư, trong đó cung cấp một nơi hỗ trợ để sinh sống.
9.5. Lạm dụng chất điều trị


Lạm dụng chất thường xảy ra cùng với bệnh tâm thần. Thường thì nó cản trở điều trị và
làm xấu đi bệnh tâm thần. Nếu không thể ngừng sử dụng thuốc hoặc uống rượu, cần điều trị.
Điều trị lạm dụng chất bao gồm:
Tư vấn tâm lý, còn được gọi là tâm lý trị liệu.
Thuốc men, có thể giúp giảm triệu chứng cai hoặc giảm thèm.
Điều trị nội trú chẳng hạn như điều trị cai (cai nghiện).
Điều trị ngoại trú, có yêu cầu tại nhà thường xuyên cho một khoảng thời gian.
Hỗ trợ các nhóm hoặc các chương trình 12 bước chẳng hạn như Alcoholics Anonymous
(AA).
10. Các biến chứng liên quan đến bệnh tâm thần
- Không hạnh phúc và hưởng thụ cuộc sống giảm.
- Xung đột gia đình.
- Mối quan hệ khó khăn.
- Cô lập xã hội.
- Lạm dụng chất.

- Làm việc hỏng hay học thất bại, hoặc các vấn đề khác liên quan đến công việc hay
trường học.
- Bệnh tim và điều kiện y tế khác.
- Đói nghèo.
- Vô gia cư.
- Tự tử.
11. Phòng chống
Không có cách nào chắc chắn để ngăn ngừa bệnh tâm thần. Tuy nhiên, nếu không có
bệnh tâm thần, tiến hành các bước để kiểm soát stress, để tăng khả năng đàn hồi và để tăng
cường lòng tự trọng có thể giúp giữ các triệu chứng dưới sự kiểm soát. Thực hiện theo các bước
sau:
- Tham dự vào kế hoạch điều trị
Uống thuốc theo chỉ dẫn. Ngay cả khi đang cảm thấy tốt, chống lại bất kỳ cám dỗ để bỏ
thuốc. Nếu dừng lại, triệu chứng có thể trở lại. Cũng có thể tái lại các triệu chứng từ một loại
thuốc ngăn chặn quá đột ngột. Đừng bỏ qua các buổi trị liệu, thậm chí nếu không cảm thấy cải
thiện. Nếu có tác dụng phụ khó chịu hay các vấn đề khác với điều trị, hãy nói chuyện với bác sĩ
trước khi thực hiện thay đổi.
- Chú ý đến dấu hiệu cảnh báo


Làm việc với bác sĩ hoặc bác sĩ chuyên khoa để tìm hiểu những gì có thể gây ra các triệu
chứng. Thực hiện một kế hoạch để biết phải làm gì nếu triệu chứng trở lại. Liên hệ với bác sĩ
hoặc chuyên gia trị liệu nếu nhận thấy bất kỳ thay đổi trong các triệu chứng hoặc cảm thấy khác.
Hãy xem xét đến thành viên gia đình hoặc bạn bè liên quan biết dấu hiệu cảnh báo.
- Hãy thường xuyên chăm sóc y tế
Đừng bỏ qua hoặc bỏ qua kiểm tra, đặc biệt là nếu không cảm thấy tốt. Có thể có một vấn
đề sức khỏe mới cần phải được điều trị, hoặc có thể gặp tác dụng phụ của thuốc.
Điều kiện sức khỏe tâm thần có thể rất khó điều trị nếu chờ cho đến khi các triệu chứng
trở nên tồi tệ. Duy trì điều trị dài hạn cũng có thể giúp ngăn ngừa tái phát các triệu chứng.
- Sinh hoạt lành mạnh

Ngủ đủ, ăn uống lành mạnh và tập thể dục thường xuyên đều có thể giúp đỡ cho bệnh
tâm thần.
Hoạt động thể chất và tập thể dục có thể giúp quản lý nhiều triệu chứng như stress, trầm
cảm và lo âu. Hoạt động cũng có thể chống lại các tác động của một số thuốc tâm thần có thể gây
tăng cân. Xem xét việc đi bộ, chạy bộ, bơi, làm vườn hoặc hình thức tập thể dục ưa thích.
Tránh thuốc và rượu. Rượu và ma túy bất hợp pháp có thể làm trầm trọng thêm các triệu
chứng bệnh tâm thần hoặc tương tác với thuốc.
LƯỢNG GIÁ BÀI HỌC
I. Phần câu trả lời đúng sai: Đánh dấu A cho câu đúng–B cho câu sai
1. Sức khỏe tâm thần là một trạng thái không chỉ không có rối loạn hay dị tật tâm
thần mà còn là một trạng thái tâm thần hoàn toàn thoải mái.
A. Đúng.
B. Sai.
2. Tâm thần học là một bộ môn trong y học, có nhiệm vụ nghiên cứu các biểu hiện lâm sàng,
cơ chế bệnh sinh, phòng và chữa các bệnh này.
A. Đúng.
B. Sai.
3. Những loại bệnh tâm thần thường hay xảy ra ở lứa tuổi này mà ít xảy ra ở lứa tuổi khác vì mỗi
lứa tuổi có những đặc điểm tâm lý chung.
A. Đúng.
B. Sai.
4. Nguyên nhân thực thể gây ra bệnh tâm thần là do tổn thương trực tiếp tổ chức não hay ngoài
não gây trở ngại hoạt động của não.


A. Đúng.
B. Sai
5. Bệnh tâm thần thường có tổn thương thực thể ở tổ chức não, ít nhiềucó rối loạn thần kinh kèm
theo.
A. Đúng.

B. Sai



×