Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Phân tích thực trạng và một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu công nghiệp bà rịa vũng tàu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 114 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
-----------------------------------

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC
NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP BÀ RỊA –VŨNG TÀU

PHẠM THƯỜNG MINH

Hà Nội 2006


1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
---------------------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP
THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO
CÁC KHU CÔNG NGHIỆP BÀ RỊA –VŨNG TÀU

NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
PHẠM THƯỜNG MINH


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS TRẦN TRỌNG PHÚC

HÀ NỘI 2006


2

LỜI CAM ĐOAN
Sau gần một năm tập trung thực hiện đề tài, bằng vốn kiến thức tích luỹ
được trong quá trình theo học và qua nghiên cứu sưu tầm tài liệu từ các
nguồn; đặc biệt được hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của PGS.TS Trần Trọng
Phúc, đến nay đề tài đã hoàn thành. Đó là kết quả sau hơn 2 năm theo học lớp
Cao học Quản trị kinh doanh của Khoa Sau Đại học – Trường Đại học Bách
Khoa Hà Nội.
Về lĩnh vực Đề tài mà luận văn đề cập, xét trên bình diện cả nước đã có
một số công trình nghiên cứu công bố kết quả dưới những góc độ khác nhau,
tuy nhiên đối với Bà Rịa – Vũng Tàu nói chung và các KCN Bà Rịa – Vũng
Tàu nói riêng thì đây là công trình nghiên cứu mang tính hệ thống đầu tiên
được thực hiện trong tỉnh.
Tác giả thực hiện luận văn này là người duy nhất chịu trách nhiệm về
nội dung của luận văn và cam đoan luận văn được thực hiện trên sự tìm tòi,
nghiên cứu, không sao chép hoàn toàn từ bất cứ công trình đã công bố nào
khác.
Tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Trần Trọng Phúc và các Thầy, Cô
giáo Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã nhiệt tình chỉ bảo, hướng dẫn và
giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 8 năm 2006
Người thực hiện luận văn

Phạm Thường Minh



3

MỤC LỤC
Trang 1
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ 2
MỤC LỤC……………………………………………………………………3
PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI, VỀ CÁC KCN....................................................... 166
1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI……………16
1.1.1. Vài nét về tình hình và xu hướng phát triển đầu tư trực tiếp nước ngoài
trên thế giới và trong khu vực ………………………………………………16
1.1.2. Các khái niệm về đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài….......................19
1.2. VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ NÓI CHUNG VÀ VỐN ĐTTTNN ĐỐI
VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ………….20
1.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ SỰ PHÁT TRIỂN CÁC KCN……27
1.4. PHÂN TÍCH TÁC ĐỘNG CỦA KHU CÔNG NGHIỆP ĐẾN SỰ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ……………………………………………………………37
1.5.PHÂN TÍCH XU THẾ PHÁT TRIỂN VÀ THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO CÁC KCN CẢ NƯỚC………………………...40
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI VÀO CÁC KCN TỈNH BÀ RỊA - VŨNG TÀU…47
2.1. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC KCN BÀ RỊA VŨNG TÀU…………………………………………………………………47
2.2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC
NGOÀI VÀO CÁC KCN BÀ RỊA - VŨNG TÀU………………………….54
2.3. PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THU HÚT
ĐẦU VÀO CÁC KCN BÀ RỊA - VŨNG TÀU…………………………….67
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP

NƯỚC NGOÀI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY……………………..87
3.1. CÁC CĂN CỨ, ĐỊNH HƯỚNG………………………………………..87
3.1.1. Định hướng chung………………………………………………….....87
3.1.2. Định hướng phát triển công nghiệp…………………………………...88
3.2. QUAN ĐIỂM ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP…………………………………89
3.3. CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP………………………………………...91
3.3.1. Các cơ sở mang tính vĩ mô……………………………………………91
3.3.2. Các cơ sở bên trong…………………………………………………...94
3.4. CÁC GIẢI PHÁP CỤ THỂ……………………………………………101
KẾT LUẬN………………………………………………………………..112
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………..113


4

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Ý NGHĨA VÀ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI:
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam được bắt đầu cùng với
đường lối đổi mới, mở cửa do Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt
Nam năm 1986 khởi xướng, và được cụ thể hóa bằng việc Quốc hội khóa IX
ban hành Luật đầu tư nước ngoài vào ngày 27/12/1987. Tiếp theo đó, trong
văn kiện đại hội Đảng các khoá VII, VIII, IX đều xác định vốn đầu tư nước
ngoài là một trong các thành phần kinh tế, cấu thành nền kinh tế của đất nước.
Gần đây nhất, trong các Văn kiện Đại hội X của Đảng đã khẳng định rõ“Thu
hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài. Cải thiện môi trường
kinh tế và pháp lý, đa dạng hoá các hình thức và cơ chế để thu hút mạnh các
nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào các ngành, nghề, các lĩnh vực
kinh doanh quan trọng. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài kinh doanh thuận lợi như doanh nghiệp Việt Nam” và coi các doanh
nghiệp đầu tư nước ngoài là một bộ phận qua trọng của nền kinh tế thị trường

định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Như vậy, trong quá trình đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế và hội nhập
quốc tế, Đảng và Chính phủ Việt nam thường xuyên nhấn mạnh tầm quan
trọng và có chính sách thỏa đáng cho việc kêu gọi, thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài. Kết quả là, trong 20 năm qua, chúng ta đã thu hút được hơn 50 tỷ
USD vốn đầu tư trực tiếp kèm theo đó là công nghệ và kỹ năng quản lý hiện
đại. Nhìn lại chặng đường 20 năm kể từ khi có Luật đầu tư nước ngoài năm
1987, dù phải trải qua những bước thăng trầm nhất định, nhưng dòng vốn đầu
tư nước ngoài đã không ngừng gia tăng và khu vực kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài đã và đang ngày càng củng cố vị thế của mình như là một bộ phận
cấu thành quan trọng của nền kinh tế. Với môi trường đầu tư kinh doanh ngày


5
càng được cải thiện, các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài đã hoạt động sản
xuất kinh doanh ngày càng phát triển, thể hiển ở các chỉ tiêu vốn thực hiện,
doanh thu, xuất khẩu và nộp ngân sách nhà nước ngày càng tăng. Giá trị xuất
khẩu của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (không tính xuất khẩu dầu
thô) chiếm 35% kim ngạch xuất khẩu của cả nước, nếu tính cả dầu thô thì tỷ
lệ trên đạt 56%. Nộp ngân sách của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài
ngày càng tăng cao và riêng trong năm 2005 lần đầu tiên vượt 1 tỷ USD (1,29
tỷ USD). Các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 40% sản lượng
công nghiệp; chiếm 80% ô tô, máy giặt, tủ lạnh, điều hòa nhiệt độ, máy tính;
chiếm 60% sản lượng thép cán; chiếm 76% dụng cụ y tế chính xác, chiếm
49% da giày, chiếm 30% xi măng,… tạo ra hàng triệu việc làm trực tiếp và
khoảng trên 2 triệu việc làm gián tiếp, góp phần trực tiếp nâng cao tay nghề
và thu nhập cho người lao động. Tốc độ tăng trưởng sản lượng công nghiệp
khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài hàng năm đạt khoảng 20% gấp 1,3 lần tốc
độ tăng trưởng chung của cả nước.
Kết quả trên đây là cả một quá trình cải cách liên tục hướng tới việc

xây dựng môi trường đầu tư ngày càng thông thoáng và bình đẳng nhằm tăng
cường phát huy và thu hút mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế. Hàng loạt các
quy định, hướng dẫn mới được ban hành, sửa đổi theo hướng ngày càng thông
thoáng, hoàn thiện nhằm tạo lập một môi trường pháp lý thuận lợi cho việc
thu hút đầu tư trong và ngoài nước. Những nỗ lực đó nhằm đáp ứng các nhu
cầu phát triển đa dạng của một nền kinh tế đang lên với sự gia tăng nhanh
chóng của một thị trường nội địa rộng lớn và những cơ hội thâm nhập sâu hơn
vào các thị trường quốc tế trong bối cảnh tiếp tục cải cách và hội nhập kinh tế
quốc tế sâu rộng hơn.
Năm năm trở lại đây, các nỗ lực cải cách theo hướng tạo lập một môi
trường kinh doanh thông thoáng, thân thiện và bình đẳng hơn càng được thể


6
hiện một cách sắc nét. Điển hình là việc thông qua Luật Doanh nghiệp năm
2000, mở ra những cơ hội đầu tư và kinh doanh chưa từng có cho khu vực
kinh tế tư nhân; Luật Đầu tư chung (có hiệu lực từ 01/7/2006) tạo ra sân chơi
bình đẳng hơn, chuẩn bị các điều kiện cho nước ta trở thành thành viên của
Tổ chức thương mại Quốc tế (WTO); quá trình phân cấp ngày càng thực chất
và sâu rộng hơn nhằm nâng cao tính chủ động và sáng tạo của các cấp chính
quyền địa phương trong việc điều hành, quản lý quá trình phát triển tại địa
phương, trong đó có việc thu hút đầu tư.
Bối cảnh phát triển mới với những nỗ lực cải cách tầm quốc gia nói
trên đã và đang mang lại nhiều cơ hội và thách thức cho sự phát triển của đất
nước. Một mặt, những cơ hội đầu tư và nguồn lực phát triển mới sẽ được phát
sinh ngày càng đa dạng và phong phú hơn. Nhiều vấn đề về cơ cấu như cơ sở
hạ tầng, điều kiện tự nhiên hoặc sẽ được cải thiện, hoặc sẽ thay đổi vai trò để
tạo nên sự hấp dẫn mới cho các nhà đầu tư. Trong bối cảnh đó, năng lực quản
lý của chính quyền địa phương trở thành nhân tố quan trọng đối với khả năng
thu hút và phát huy các nguồn vốn đầu tư phục vụ phát triển. Thái độ của

chính quyền địa phương đối với sự phát triển của doanh nghiệp; tính thân
thiện và khả năng phản ứng kịp thời, xử lý thoả đáng các nhu cầu chính đáng
của các doanh nghiệp và các nhà đầu tư đã trở thành những yếu tố quan trọng,
ảnh hưởng đến các quyết định của các nhà đầu tư.
Bà Rịa – Vũng Tàu là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm miền
Đông Nam bộ, có nhiều tiềm năng phát triển công nghiệp, đồng thời là một
trong những địa phương đầu tiên của cả nước tiếp nhận đầu tư nước ngoài
(vào năm 1984), bằng việc Xí nghiệp liên doanh dầu khí Việt – Xô tiến hành
xây dựng cơ sở hậu cần tại TP. Vũng Tàu để khai thác dầu khí trên thềm lục
địa, trước khi ban hành Luật đầu tư nước ngoài 3 năm. Kể từ khi thành lập
tỉnh vào năm 1991 đến nay, tại văn kiện Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ các


7
khoá I, II, III, IV đều đặt vấn đề thu hút đầu tư nước ngoài là nhiệm vụ quan
trọng mà các cấp chính quyền toàn tỉnh phải tập trung thực hiện.
Đến nay Bà Rịa – Vũng Tàu đã thu hút được 150 dự án ĐTTTNN với
tổng vốn đầu tư đăng ký 3,5 tỷ USD, hiện đứng thứ 5 trong tổng số 64 tỉnh và
thành phố trong cả nước về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(ĐTTTNN). Các dự án ĐTNN vào Bà Rịa – Vũng Tàu chủ yếu tập trung đầu
tư vào các lĩnh vực du lịch, công nghiệp và dịch vụ cảng biển. Hàng năm khu
vực vốn đầu tư nước ngoài đóng góp 40% sản lượng công nghiệp của toàn
tỉnh nếu không tính dầu khí, tính cả dầu khí thì tỷ lệ này là 80%; đóng góp
ngân sách tỉnh không tính dầu khí là 30%, nếu tính cả dầu khí là trên 75%;
các sản phẩm sản xuất từ khu vực vốn đầu tư nước ngoài chiếm đáng kể trong
tổng sản phẩm sản xuất công nghiệp tại tỉnh. Về thép chiếm 50%, xay lúa mỳ
chiếm 100%, điện chiếm 36,7% trong tổng công suất 3.900 MW; xi măng
chiếm 100% với công suất 1 triệu tấn; cảng tổng hợp với công suất thông qua
cảng trên 2 triệu tấn/năm…
Để thu hút mạnh hơn dự án ĐTTTNN tạo nguồn vốn bổ sung phát

triển, trong thời gian qua Bà Rịa - Vũng Tàu đã có các chính sách thích hợp,
tạo môi trường trường thuận lợi thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài như tiến
hành quy hoạch, thành lập các KCN, thành lập Ban Quản lý các KCN để tạo
cơ sở hạ tầng, mặt bằng thuận lợi cho các nhà đầu tư xây dựng dự án; ban
hành Quyết định số 4734/1999/QĐ.UB ngày 15/9/1999 về công bố chính sách
khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài trên địa bàn tỉnh Bà Rịa - Vũng
Tàu; thành lập Trung tâm Xúc tiến đầu tư tỉnh để thống nhất đầu mối kêu gọi,
thu hút nâng cao hiệu quả thu hút vốn ĐTTTNN vào địa bàn tỉnh, đặc biệt là
tỉnh đã có chủ trương phát triển mạnh các KCN với cơ chế, chính sách thuận
lợi, cơ sở hạ tầng được đầu tư đồng bộ để thu hút các dự án ĐTTTNN.


8
Trong bối cảnh đó, Các KCN Bà Rịa - Vũng Tàu đã chính thức được
thành lập vào năm 1997 bằng Quyết định số 485/TTg ngày 29/7/1996 của
Thủ tướng Chính Phủ, với mục đích nhằm tạo bước đột phá chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong 10 năm qua, các
KCN Bà Rịa - Vũng Tàu đã thu hút được 54 dự án đầu tư ĐTTTNN với tổng
số vốn đăng ký là 2,35 tỷ USD, đóng góp đáng kể vào nguồn vốn đầu tư trên
toàn tỉnh, qua đó góp phần quan trọng đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế địa
phương, tạo thêm nhiều công ăn việc làm mới.
Mặc dù đã đạt mức tăng trưởng cao, nhưng kết quả thu hút đầu tư nước
ngoài trong những năm qua vào các KCN Bà Rịa - Vũng Tàu vẫn chưa tương
xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh; tỷ lệ các dự án đầu tư nước ngoài có sử
dụng công nghệ cao, công nghệ nguồn còn thấp. Trong số các đối tác nước
ngoài, thì Hoa Kỳ, Nhật Bản và các nước EU đầu tư chưa nhiều; môi trường
đầu tư và kinh doanh tuy đã tiếp tục được cải thiện nhưng vẫn có những dự án
vì những rào cản, lý do chủ quan, sau khi khảo sát các KCN Bà Rịa - Vũng
Tàu đã chuyển sang đầu tư nước khác hoặc chuyển sang đầu tư tại các KCN
khác. Một số dự án gặp vướng mắc kéo dài chưa được xử lý dứt điểm gây ảnh

hưởng xấu đến môi trường đầu tư. Một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài khi đi vào hoạt động cần tuyển dụng lao động có tay nghề kỹ thuật để
đáp ứng yêu cầu công việc nhưng không tuyển dụng được do dịch vụ đào tạo,
cung ứng lao động tại địa phương còn rất yếu kém.
Kết quả là vốn đầu tư và số lượng dự án ĐTTTNN thu hút trong thời
gian qua còn rất khiêm tốn, chiếm tỉ lệ rất thấp so với số lượng dự án
ĐTTTNN mà các địa phương trong vùng thu hút được, cụ thể tỉnh Đồng Nai
trong giai đoạn 1996-2005 bình quân hàng năm thu hút được 55 dự án
ĐTTTNN, vốn đầu tư 400 triệu USD; tỉnh Bình Dương trong giai đoạn 19962005 bình quân hàng năm thu hút được 32 dự án ĐTTTNN, vốn đầu tư 150


9
triệu USD, trong khi Bà Rịa – Vũng Tàu chỉ thu hút được trung bình 10 dự
án, vốn đầu tư 100 triệu USD. Bên cạnh đó tỷ lệ các dự án giải thể trước thời
hạn vẫn còn ở mức cao, nhất là các dự án được cấp phép trong những năm
trước khủng hoảng.
Những yếu tố này đã làm cho việc nghiên cứu, xác định rõ các rào cản,
xây dựng các biện pháp đẩy mạnh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các
KCN Bà Rịa - Vũng Tàu ngày càng trở nên cấp bách, góp phần đưa Bà Rịa Vũng Tàu trở thành một trong các địa phương dẫn đầu cả nước về thu hút đầu
tư nước ngoài, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, sớm đạt mục tiêu trở thành
tỉnh công nghiệp của cả nước như Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ IV
đã xác định.
Đây chính là ý nghĩa và tính cấp thiết của đề tài “Phân tích thực trạng
và một số giải pháp thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN Bà
Rịa – Vũng Tàu”.
2. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI:
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về thu hút đầu tư nước ngoài vào
các KCN tỉnh.
- Phân tích thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN
tỉnh từ năm 1996 cho đến nay, các tiêu chí phân tích gồm số lượng dự án thu

hút, vốn đầu tư đăng ký, phân tích về cơ cấu đầu tư, vốn đầu tư theo quốc gia,
lãnh thổ,… đồng thời tiến hành phân tích hiệu quả hoạt động, hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các dự án ĐTNN đang hoạt động tại các KCN tỉnh. Trên
cơ sở các phân tích đó sẽ xác định những điểm mạnh, điểm yếu, các cơ hội và
thách thức về thu hút đầu tư nước ngoài vào các KCN Bà Rịa – Vũng Tàu
trong bối cảnh mới.
- Phân tích những nhân tố ảnh hưởng đến môi trường thu hút đầu tư của
các KCN Bà Rịa – Vũng Tàu, đặc biệt đánh giá những tác động từ hệ thống


10
các chính sách của tỉnh về kêu gọi, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào địa
bàn tỉnh nói chung và vào các KCN nói riêng.
- Đề xuất được các quan điểm và định hướng về thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài trong giai đoạn 2006-2010, tầm nhìn đến 2015.
- Đưa ra một số giải pháp nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào các KCN. Các giải pháp chiến lược phải phát triển được các
thành tựu, khắc phục những tồn tại trong môi trường thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào các KCN tỉnh đã phân tích ở Chương 2, đồng thời các giải
pháp phải tận dụng các cơ hội, tính đến các xu hướng phát triển của cả nước
về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài và hạn chế được các nguy cơ thách thức
đối với môi trường thu hút đầu tư tại tỉnh.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU:
3.1 Đối tượng nghiên cứu:
Đề tài sẽ nghiên cứu thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
các KCN tỉnh từ khi các KCN được triển khai thành lập trên địa bàn vào năm
1996, bao gồm: các nhân tố khách quan (bên ngoài) và chủ quan (bên trong),
nhân tố thuộc cơ chế chính sách, sự quản lý của nhà nước và bản thân các
doanh nghiệp ĐTTTNN đang hoạt động tại các KCN.
3.2 Phạm vi nghiên cứu:

* Phạm vi về các vấn đề:
Đề tài này đề cập về các vấn đề có liên quan đến thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào các KCN gồm: các vấn đề thuộc cơ chế chính sách, tổ
chức và cách thức thực hiện, về hiệu quả kinh tế xã hội…
* Phạm vi về không gian nghiên cứu:
Đánh giá toàn diện thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN
trên địa bàn tỉnh, chỉ rõ những thuận lợi, những khó khăn trong thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào các KCN.


11
* Phạm vi về thời gian:
Đa số những số liệu ở đề tài được cập nhật từ thời điểm bắt đầu thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài năm 1987 và bắt đầu thành lập các KCN tỉnh năm
1996 tới tháng 12/2005 và một số số liệu được cập nhật tới sát thời điểm hoàn
thành Đề tài tháng 6/2006.
4. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU:
4.1 Tổng quan nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài:
* Tình hình nghiên cứu trong nước:
Thời gian qua ở nước ta, nhiều tỉnh, thành phố đã nghiên cứu và vận
dụng nhiều chính sách linh hoạt nhằm tăng cường tính hấp dẫn trong thu hút
đầu tư của địa phương. Các biện pháp chủ yếu đã và đang được nhiều địa
phương áp dụng bao gồm:
- Chính sách ưu đãi trong xúc tiến đầu tư: nhiều tỉnh tổ chức các đợt
xúc tiến đầu tư và thương mại trong và ngoài nước nhằm thúc đẩy khả năng
thu hút đầu tư trên địa bàn và tăng cường cơ hội kinh doanh cho các doanh
nghiệp trên địa bàn. Đây là việc làm khá phổ biến hiện nay đối với nhiều địa
phương trong cả nước.
- Đẩy mạnh đầu tư phát triển hạ tầng đến hàng rào các KCN, hỗ trợ chi
phí cơ sở hạ tầng đến tận cơ sở sản xuất: Nhiều tỉnh tự bỏ vốn xây dựng hạ

tầng khu công nghiệp để cho doanh nghiệp thuê đất với mức phí rất thấp như
Đà Nẵng, Thái Bình (0,13 USD/m2/năm); cá biệt còn có tỉnh không thu phí
thuê đất trong KCN như tỉnh Quảng Nam.
- Đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: Đây là tiền đề để tạo
dựng môi trường đầu tư bền vững vì chất lượng nguồn nhân lực đã và sẽ luôn
là lợi thế quan trọng nhất trong thu hút đầu tư không chỉ trong giai đoạn hiện
tại mà còn có tính chất quyết định về thu hút đầu tư trong tương lai. Nhiều
tỉnh, thành phố trong cả nước những năm gần đây đã có nhiều chính sách đặc


12
biệt quan tâm đến phát triển nguồn nhân lực thông qua việc phát triển các
trường, cơ sở đào tạo nghề cho người lao động. Các địa phương đã gặt hái
được nhiều thành công trong lĩnh vực này là: Bình Dương, Đà Nẵng, Hà
Nội,…
- Ưu đãi về thuế, phí: Những năm vừa qua do có sự cạnh tranh gay gắt
trong thu hút đầu tư từ các địa phương nên nhiều tỉnh, thành phố đã đưa ra
nhiều chính sách ưu đãi về thuế, phí nằm ngoài các quy định của nhà nước
như tăng thời hạn miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp. Nhiều nơi, các
khoản ưu đãi này đã vượt quá khung quy định của nhà nước.
- Cải cách hành chính: Đơn giản hoá các thủ tục hành chính, thực hiện
cơ chế “một cửa, một dấu” tại các Ban Quản lý các KCN các tỉnh, giảm tình
trạng quan liêu,… là những mục tiêu được nhiều địa phương thực hiện. Tiêu
biểu cho tiêu chí này là các địa phương như TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương,
Vĩnh Phúc.
Về các công trình nghiên cứu
Thực tiễn sinh động về việc vận dụng nhiều chính sách linh hoạt phục
vụ sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội ở địa phương nói chung và nâng cao
khả năng thu hút đầu tư nước ngoài của các KCN nói riêng trong thời gian
qua ở nước ta đã thu hút sự chú ý, quan tâm của nhiều nhà khoa học, nhiều cơ

quan nghiên cứu và hoạch định chính sách. Các nghiên cứu của Bộ Kế hoạch
& Đầu tư, Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam, của Viện Nghiên
cứu Kinh tế TP. Hồ Chí Minh và nhiều tác giả khác đã đề cập đến nhiều khía
cạnh, dưới các góc độ khác nhau của vấn đề này. Nhiều nghiên cứu xung
quanh vấn đề tạo dựng môi trường kinh doanh và thu hút đầu tư trực tiếp
nước ngoài cũng được triển khai khá mạnh mẽ. Nhìn chung, các nghiên cứu
đều khẳng định vai trò quan trọng của các địa phương trong việc tạo lập môi
trường thông thoáng thu hút đầu tư, đồng thời chỉ ra những thách thức mới


13
đối với yêu cầu nâng cao tính hấp dẫn trong thu hút đầu tư của địa phương
trong thời gian tới trong bối cảnh gia tăng cải cách và hội nhập kinh tế quốc
tế.
Có nhiều tác giả như TS Đinh Văn Ân, TS Phạm Mạnh Dũng, TS
Nguyễn Bích Đạt, TS Phan Hữu Thắng thuộc Bộ Kế hoạch & Đầu tư viết
sách và các bài báo. Các công trình này được xuất bản và đăng trên các tạp
chí uy tín như Thời báo Kinh tế Việt Nam, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, báo
Đầu tư… bàn về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; nhiều cuộc hội thảo và
nhiều đánh giá tổng kết về tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài qua
các năm 2000, 2001, 2002 được Bộ Kế hoạch & Đầu tư chủ trì thực hiện.
Các tác phẩm khoa học mà tác giả được tiếp cận viết về đầu tư trực tiếp
nước ngoài đáng chú ý là:
(1) Những vấn đề cơ bản về quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam
do Bộ Kế hoạch & Đầu tư soạn thảo dưới dạng đề cương chi tiết phục vụ làm
tài liệu giảng dạy, học tập về ĐTTTNN.
(2) Báo cáo Đánh giá chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài từ
góc độ phát triển bền vững do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương
thuộc Bộ Kế hoạch & Đầu tư thực hiện.
* Tình hình nghiên cứu trong tỉnh:

Tác giả chưa được tiếp cận với các công trình nghiên cứu khoa học
hoàn chỉnh về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào địa bàn tỉnh nói chung
và vào KCN nói riêng. Tác giả chỉ được tiếp cận các bài báo, các tham luận
về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào địa bàn tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
mang tính chất riêng lẻ, không có tính hệ thống.
4.2 Những vấn đề mới đề tài đặt ra nghiên cứu:
Đây là công trình đầu tiên tổng kết đánh giá toàn diện thực trạng thu
hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu qua 10


14
năm kể từ khi KCN đầu tiên của Bà Rịa – Vũng Tàu được thành lập. Những
vấn đề mới mà đề tài dự kiến sẽ thể hiện trong quá trình thực hiện bao gồm cả
những vấn đề về lý luận và phương pháp nghiên cứu. Đó là:
- Hoàn thiện luận cứ về chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào các KCN trên địa bàn tỉnh.
- Sử dụng các phương pháp nghiên cứu so sánh chéo: so sánh giữa các
KCN Bà Rịa – Vũng Tàu với các KCN thuộc các địa phương khác trong cả
nước. Phương pháp này cho phép đánh giá hiện trạng cũng như xu hướng vận
động trong tính hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài của các KCN tỉnh một cách
khách quan trong mối tương quan với các địa phương khác.
Trong quá trình phân tích, đề tài còn đề cập đến kinh nghiệm thu hút
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN của các địa phương trong vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam để:
+ Làm rõ các điều kiện để thu hút thành công dự án ĐTTTNN vào các
KCN.
+ Kiến nghị về mô hình bộ máy trung tâm xúc tiến đầu tư tỉnh.
+ Đề xuất các giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào các KCN tỉnh.
5. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU:

Nội dung chính của đề tài gồm 110 trang; chứa đựng 16 bảng, 18 biểu
và 2 sơ đồ; chia làm 3 chương.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI, VỀ CÁC KCN
Chương này tác giả làm rõ khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài;
nghiên cứu vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với tăng trưởng,
phát triển kinh tế nói chung.


15
Đưa ra các khái niệm về KCN; khái quát sự ra đời các KCN Việt Nam,
cách thức tổ chức và nội dung quản lý nhà nước về các KCN; phân tích vai
trò, tác động của các KCN đối với phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nghiên cứu những đặc điểm
khác biệt về đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN so với đầu tư trực tiếp
nước ngoài ngoài KCN. Phân tích xu thế phát triển của các KCN Việt Nam và
tình hình thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các KCN trong giai đoạn
1996-2005.
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI CÁC KCN BÀ RỊA – VŨNG TÀU
Ở chương này tác giả phân tích tổng quan về thực trạng thu hút đầu tư
trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam và vùng kinh tế trọng điểm Đông Nam bộ,
có nhận xét tóm lược; phân tích thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
vào các KCN Bà Rịa – Vũng Tàu; đặc biệt tập trung đánh giá phân tích thực
trạng phát triển các KCN Bà Rịa – Vũng Tàu, các nhân tố ảnh hưởng đến môi
trường thu hút đầu tư vào các KCN Bà Rịa – Vũng Tàu so với các địa phương
khác; rút ra những điểm mạnh, điểm yếu trong môi trường thu hút đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào các KCN, trên cơ sở đó đưa ra mô hình SWOT. Kết quả
phân tích của chương này là thực tiễn quan trọng để tác giả đề xuất các giải
pháp ở Chương 3.

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI VÀO CÁC KCN BÀ RỊA – VŨNG TÀU TRONG ĐIỀU
KIỆN HIỆN NAY
Ở chương này tác giả trình bày các căn cứ, định hướng, mục tiêu, quan
điểm, và cơ sở đề xuất các giải pháp; đưa ra bảng ma trận SWOT trên cơ sở
đó đề xuất một số giải pháp chính, mỗi giải pháp đều nêu rõ cách thức thực
hiện.


16

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI, VỀ CÁC KCN
1.1. TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
1.1.1. Vài nét về tình hình và xu hướng phát triển đầu tư trực tiếp nước
ngoài trên thế giới và trong khu vực:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN) là một dạng xuất khẩu tư bản,
hình thành và phát triển rất sớm cùng với sự hình thành và phát triển quan hệ
kinh tế quốc tế thời kỳ tư bản chủ nghĩa. Qua những nghiên cứu về đầu tư
trực tiếp nước ngoài từ trước đến nay, đặc biệt là những năm gần đây có thể
rút ra một số nhận xét sau:
- Đầu tư nước ngoài luôn phát triển nhanh và trở thành một loại hình
quan hệ kinh tế có vai trò quan trọng có tính tất yếu đối với sự phát triển của
nền kinh tế thế giới và hầu hết các quốc gia; trong đó, các nước công nghiệp
phát triển là lực lượng chi phối chủ yếu.
Từ đầu những năm 60 đến nay, ĐTTTNN thế giới luôn tăng nhanh qua
các năm, bình quân khoảng 20%/năm. Nếu như tổng ĐTTTNN thế giới chỉ là
vài chục tỷ USD/năm trong những năm 70 thì đến thập niên 80 đã là hàng
trăm tỷ USD/năm; đến năm 1995 đã đạt con số là 315 tỷ USD, năm 1997 đạt

400 tỷ USD, năm 1998 đạt con số 600 tỷ USD, năm 1999 trên 700 tỷ USD.
Hầu hết các nước trên thế giới bao gồm cả các nước công nghiệp phát triển và
đang phát triển đều mở cửa thu hút ĐTTTNN. Tuy nhiên nếu như những năm
50, 60, ĐTTTNN tập trung chủ yếu vào các nước đang phát triển (khoảng
70%) thì từ những năm đầu thập niên 70 trở lại đây tình hình đã thay đổi theo
chiều ngược lại. Trong những năm 90, trung bình khoảng 75% ĐTTTNN thế
giới chảy vào các nước công nghiệp phát triển. Các nước này đồng thời cũng


17
là các nước xuất khẩu ĐTTTNN lớn nhất, chiếm khoảng 80% ĐTTTNN toàn
cầu. Dòng vốn ĐTTTNN trên thế giới lưu chuyển chủ yếu trong nội bộ và
giữa 3 trung tâm kinh tế thế giới là Bắc Mỹ - Tây Âu - Nhật Bản và Đông Bắc
Á.
- Xuất hiện đa cực, đa biên và hiện tượng hai chiều hay lưỡng tính
trong ĐTTTNN; các Công ty đa quốc gia trở thành chủ thể đầu tư quan
trọng:
Sau chiến tranh thế giới lần thứ 2, Mỹ và các Công ty Mỹ trước hết là
các Công ty xuyên quốc gia là lực lượng gần như độc tôn tiến hành các hoạt
động đầu tư ra nước ngoài theo kế hoạch Marshall. Nhưng sau đó không lâu,
các công ty, đặc biệt là các Công ty xuyên quốc gia của các nước Tây Âu,
Nhật Bản đã lớn mạnh vì thế đã tiến hành các hoạt động ĐTTTNN cạnh tranh
với cá Công ty của Mỹ. Thị trường ĐTTTNN ngày nay không còn là thị
trường của riêng các Công ty Mỹ nữa mà ngược lại có sự cạnh tranh ngày
càng gay gắt giữa các Công ty của nhiều nước khác có đầu tư ra nước ngoài.
Cùng với sự vươn lên của Tây Âu, Nhật Bản và các nước NICs, tính “đa
biên”, “đa cực” đã xuất hiện và hoàn toàn thay thế tính đơn cực trong
ĐTTTNN.
Từ cuối những năm 70, đầu những năm 80 trở lại đây đã xuất hiện hiện
tượng “2 chiều” hay “lưỡng tính” trong ĐTTTNN đó là hiện tượng một nước

vừa nhận ĐTTTNN vừa thực hiện đầu tư ra nước ngoài. Mỹ là nước điển hình
nhất về hiện tượng này, vừa là nước đầu tư ra nước ngoài lớn nhất (chiếm
khoảng 17% ĐTTTNN thế giới) nhưng đồng thời cũng là nước thu hút
ĐTTTNN lớn nhất (chiếm gần 30% ĐTTTNN của thế giới). Tổng ĐTTTNN
đầu tư ra nước ngoài của các nước G7 chiếm khoảng 80% tổng ĐTTTNN
toàn cầu, nhưng chính họ lại thu hút khoảng 70% ĐTTTNN của thế giới vào
nước mình. Tình hình tương tự cũng diễn ra ở hầu hết các nước công nghiệp


18
phát triển thuộc nhóm OECD và các nước NICs. Nhiều nước đang phát triển
trong đó có các nước trong khu vực đồng thời với việc rất chú trọng trong thu
hút ĐTTTNN vẫn tiến hành các hoạt động xuất khẩu ĐTTTNN.
Hiện nay, các Công ty xuyên quốc gia đang chi phối, kiểm soát phần
lớn sản xuất kinh doanh và ĐTTTNN trên thế giới. Kết quả nghiên cứu 100
Công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới cho thấy các Công ty xuyên quốc
gia này chiếm tới 1/3 ĐTTTNN toàn thế giới và tổng tài sản ở nước ngoài của
chúng lên đến 1.400 tỷ USD, sử dụng tới 72 triệu lao động trong đó có 12
triệu lao động ở nước ngoài. Thời kỳ 1990 – 1995, tỷ trọng vốn đầu tư nước
ngoài trong tổng vốn đầu tư của các Công ty xuyên quốc gia Mỹ là 55%, của
các Công ty xuyên quốc gia Nhật Bản và các nước Tây Âu là 63%.
- Cạnh tranh thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài giữa các nước, đặc
biệt là giữa các nước đang phát triển diễn ra hết sức gay gắt; hình thành
nhiều định chế về hợp tác đầu tư; xuất hiện làn sóng tự do hoá đầu tư.
Nhận thức được vai trò quan trọng của ĐTTTNN đối với tăng trưởng
kinh tế và giải quyết vấn đề việc làm nên cả các nước công nghiệp phát triển
lẫn các nước đang phát triển đều chú trọng thu hút đầu tư nước ngoài. Với
việc hình thành AFTA, EU, AIA…, môi trường đầu tư tại các khu vực này trở
nên hấp dẫn, cạnh tranh hơn vì được mở và tự do hoá ở mức cao hơn. Các
nước công nghiệp phát triển đang đàm phán để đi đến ký kết hiệp định đa

biên về đầu tư (MAI) nhằm tự do hoá đầu tư. Nhiều nước đang tiếp tục nỗ lực
tạo điều kiện thuận lợi cho ĐTTTNN thông qua các hiệp định song phương và
những chính sách ưu đãi đầu tư trong phạm vi khu vực và từng nước để tạo đà
đi lên. Các thoả thuận về hợp tác đầu tư, ở mức độ khác nhau đều đề cập đến
vấn đề mở cửa thị trường đầu tư và tiến tới tự do hoá đầu tư.
Riêng trong năm 1997, đã có 151 thay đổi trong quy định về ĐTTTNN
ở 76 nước, gần 90% các thay đổi này theo hướng tạo điều kiện thuận lợi hơn


19
cho ĐTTTNN. Nhiều ngành trước đây được xem là đóng cửa đối với
ĐTTTNN như viễn thông, phát thanh, bảo hiểm, năng lượng… đã được mở ra
cho ĐTTTNN và tự hoá hơn. Trung Quốc là nước thu hút ĐTTTNN thành
công nhất trong số các nước đang phát triển. Năm 1998, ĐTTTNN vào Trung
Quốc chiếm 80% tổng ĐTTTNN vào Châu Á và 35% toàn bộ ĐTTTNN vào
các nước đang phát triển. Các nước Ấn Độ, Hàn Quốc mới chuyển hướng,
chú trọng hơn vào ĐTTTNN và đang trở thành đối thủ cạnh tranh đáng gờm
của các nước thu hút ĐTTTNN Châu Á.
Tóm lại, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã được nhiều quốc
gia trên thế giới thực hiện từ rất lâu và có đủ cơ sở thực tiễn để khẳng định vai
trò quan trọng của ĐTTTNN đối với nền kinh tế đất nước. Chính vì vai trò
quan trọng của ĐTTTNN đối với thúc đẩy phát triển kinh tế nên hiện nay trên
phạm vi toàn thế giới cũng như trong phạm vi khu vực, cạnh tranh về thu hút
ĐTTTNN đang diễn ra hết sức gay gắt, nhất là giữa các quốc gia đang phát
triển. Việc cạnh tranh giữa các quốc gia về thu hút ĐTTTNN đã làm cho môi
trường đầu tư tại các nước này ngày càng minh bạch, tự do và hiệu quả, nâng
cao được việc sử dụng các nguồn lực vào phát triển kinh tế.
1.1.2. Các khái niệm về đầu tư, đầu tư trực tiếp nước ngoài:
Trên bình diện xã hội, đầu tư là việc sử dụng vốn vào quá trình tái sản
xuất xã hội nhằm tạo ra năng lực sản xuất lớn hơn.

Trên giác độ doanh nhân hoặc doanh nghiệp, đầu tư là việc đưa vốn
vào một hoạt động nào đó nhằm mục đích thu lợi nhuận.
Vốn đầu tư bao gồm tiền và các tài sản khác như các động sản, các bất
động sản, tài sản hữu hình, tài sản vô hình…
Đầu tư nước ngoài là đầu tư của tổ chức cá nhân nước này tại một số
nước khác. Yếu tố nước ngoài của đầu tư nước ngoài được thể hiện ở 2 đặc


20
trưng chủ yếu; đó là có sự tham gia của chủ thể nước ngoài và có sự di
chuyển vốn từ nước ngoài vào.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (ĐTTTNN) là việc trực tiếp đưa vốn, đồng
thời trực tiếp tham gia quản lý điều hành dự án đầu tư cụ thể.
Theo Luật Đầu tư chung được Quốc hội khoá XI ban hành ngày
29/11/2005 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2006, đầu tư nước ngoài là việc nhà
đầu tư nước ngoài đưa vào Việt Nam vốn bằng tiền hoặc bất kỳ tài sản nào để
tiến hành các hoạt động đầu tư. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao
gồm doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện các hoạt
động đầu tư tại Việt Nam; doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài
mua cổ phần, sáp nhập, mua lại dưới các hình thức: Hợp đồng hợp tác kinh
doanh; hợp đồng BOT, hợp đồng BTO; hợp đồng BT; doanh nghiệp liên
doanh; doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài; doanh nghiệp cổ phần.
1.2. VAI TRÒ CỦA VỐN ĐẦU TƯ NÓI CHUNG VÀ VỐN ĐTTTNN
ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ.
Cùng với nguồn nhân lực, vốn đầu tư được coi là nhân tố quan trọng
đến tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế. Vốn đầu tư không chỉ là điều
kiện trực tiếp tạo ra vốn sản xuất của các doanh nghiệp và của nền kinh tế mà
còn là cơ sở để nâng cao trình độ khoa học – công nghệ, góp phần đáng kể
vào việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá quá trình sản xuất. Việc thu hút
vốn đầu tư cũng góp phần vào việc giải quyết công ăn việc làm cho người lao

động và nâng cao mức sống nhân dân. Do vậy khả năng thu hút đầu tư cho
một nền kinh tế hay cho một địa phương ngày càng trở nên quan trọng cho sự
phát triển.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là nhiệm vụ của Đảng và Nhà
nước ta trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH. Trong quá trình này, chúng
ta cần nhiều vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý. Trong khi đó các nguồn


21
khác như ngoại thương, ODA, nội lực là rất có hạn và cũng đặt ra không ít
thách thức. Hơn nữa, việc phát huy nội lực lại có quan hệ hữu cơ, mật thiết
với việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác đầu tư với nước ngoài. Thông
qua kênh đầu tư trực tiếp nước ngoài chúng ta có thể khai thác, phát huy tốt
hơn tiềm năng, lợi thế so sánh của đất nước, góp phần phân bổ công nghiệp
hợp lý, nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển kinh tế trong điều kiện năng lực
sản xuất, trình độ quản lý của nội tại bản thân nền kinh tế đất nước còn nhiều
hạn chế và yếu kém...
Qua nghiên cứu, tổng kết, đánh giá của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh
tế Trung ương công bố tháng 4/2006 thì vai trò của vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài đối với nền kinh tế nước ta được thể hiện ở những khía cạnh cơ bản
sau:
1.2.1. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Khu vực kinh tế đầu tư trực tiếp nước ngoài luôn giữ vai trò đầu tàu
tăng trưởng. Tỷ lệ đóng góp của khu vực này trong GDP tăng dần qua các
năm: năm 1995 là 6,3%; năm 1998 là 10,1%; năm 2000 là 13,3%; năm 2003
tăng lên 14,5% và năm 2005 đã tăng lên 16,1% thông qua đóng góp vào tổng
mức đầu tư của xã hội. Tăng trưởng kinh tế là kết quả của việc tăng đầu tư
trong nước và tăng đầu tư nước ngoài, trong đó có nguồn vốn mới đổ thêm
vào và của ngồn vốn ĐTTTNN đang hoạt động. Tốc độ tăng trưởng GDP của
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng đầu tư nhà

nước và đầu tư tư nhân trong nước.
1.2.2. Tổng vốn đầu tư.
ĐTTTNN đóng góp phần vốn bổ sung quan trọng vào tổng đầu tư xã
hội, đồng thời kích thích huy động vốn đầu tư trong nước. Vai trò tạo ra cú
“hích” là trong giai đoạn đầu khi mức tích luỹ của nền kinh tế còn thấp.


22
Trên thực tế vốn đầu tư nước ngoài vào nước ta không có những biến
động quá lớn. Về tổng số vốn tuyệt đối, vốn ĐTTTNN tăng dần và đạt đỉnh
điểm trong các năm 1996 và năm 1997, giảm dần cho đến năm 1999 rồi tiếp
tục tăng cho đến nay. Vốn thực hiện biến động ít hơn nhiều so với vốn đăng
ký. Năm 2005 vốn đầu tư đăng ký là 6,8 tỷ USD, vốn thực hiện là 3,5 tỷ.
Trong 6 tháng đầu năm 2006, vốn đầu tư đăng ký là 2,85 tỷ USD, vốn thực
hiện là 1,86 tỷ USD.
Biểu đồ 1.1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài giai đoạn 1988 - 2005
11.000,0
10.000,0
9.000,0
8.000,0
7.000,0
6.000,0
5.000,0
4.000,0
3.000,0
2.000,0
1.000,0
0,0

900

800
700
600
500
400
300
200
100
0
1988 1989 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
Số vốn đăng ký mới

Số vốn thực hiện

Số DA cấp mới

Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư

Về giá trị tương đối, xét theo tỷ lệ so với GDP, vốn ĐTTTNN tăng liên
tục trong suốt 20 năm qua, từ 2,4 % năm 1991 lên 15,1% năm 2005.
Biểu đồ 1.2: ĐTTTNN thực hiện so với tổng đầu tư toàn xã hội


23

35%

31% 30%

30%


26%

26%

28%

23%

25%

12,2%
10,1%

20% 17%

17%

9,1%

15%

6,7% 6,8% 6,9%

10%

7,4%

14,3%


13,8%

21%

13,3%

14,6%

15,1%

14,0%

13,9%

12,0%

19% 18% 18% 18% 19% 20% 10,0%
8,0%
6,0%
4,0%

3,6%

5%

16,0%

2,4%

2,0%


0%

0,0%
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005
% Đầu tư xã hội

% đóng góp FDI/GDP

Nguồn: Bộ Kế hoạch & Đầu tư

Theo tỷ trọng trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong giai đoạn 19911997 vốn ĐTTTNN chiếm tỷ trọng khá lớn, từ 17% năm 1991 lên đến đỉnh
điểm là 31% năm 1994. Từ năm 1998 tỷ trọng giảm hẳn từ 28% năm 1997
xuống 21% và sau đó duy trì ở mức 17 – 20%.
Bảng 1.1: Đầu tư nước ngoài trong tổng đầu tư xã hội.
Thời kỳ

1991-1995

1996-2000

2001-2005

24,5%

23,8%

16,4%

Qui mô ĐTTTNN


1.2.3. Kích thích đầu tư trong nước.
Về vĩ mô, trong khi đầu tư nước ngoài tính theo tỷ lệ so với GDP tăng
liên tục trong 20 năm qua thì không có bằng chứng rõ rệt về việc vốn trong
nước bị thay thế hay giảm sút. Bảng dưới cho thấy tỷ lệ vốn đầu tư trong nước
thay đổi tăng giảm không phụ thuộc vào biến động của vốn đầu tư nước
ngoài.
Bảng 1.2: Tỷ lệ vốn đầu tư so với GDP (%)
Tổng
đầu tư

1991

1992

1993

1994

1995

1996

1997

1998

1999

2000


2001

2002

2003

2004

17,6

22,4

30,9

31,9

29,7

29,2

30,9

26,7

26,6

27,9

30


33,7

35,9

36,3


24
ĐTNN

2,0

3,6

6,1

6,1

6,3

7,4

9,1

10,0

2,2

13,3


ĐTTN

15,6

18,8

24,8

25,8

23,4

21,8

21,8

16,7

24,4

14,6

13,8

13,8

14,5

17


Nguồn: Số liệu đến năm 2000: Báo cáo Bộ Kế hoạch & Đầu tư. Số liệu từ 2001 đến 2004:
Báo cáo kinh tế hàng năm của CIEM.

1.2.4. Thúc đẩy phát triển thương mại quốc tế.
* Xuất khẩu;
Nếu như thời kỳ 1991-1995, xuất khẩu của khu vực đầu tư trực tiếp
nước ngoài (ĐTTTNN) mới đạt trên 1,2 tỷ USD thì những năm 1996 - 2000
đạt 10,6 tỷ USD, tăng hơn 8 lần so với 5 năm trước và chiếm 23% kim ngạch
xuất khẩu của cả nước. Trong 5 năm 2001-2005 xuất khẩu của khu vực đầu tư
trực tiếp nước ngoài đạt 34,2 tỷ USD, riêng năm 2005 đạt 17,8 tỷ USD, chiếm
31,4% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của
khu vực ĐTTTNN luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của cả nước
(trừ năm 1995 và 1996). Tỷ lệ kim ngạch xuất khẩu của khu vực ĐTTTNN
trong kim ngạch xuất khẩu cả nước đã tăng liên tục qua các năm: từ 25% vào
năm 2000 lên 35% vào năm 2005, nếu tính cả dầu thô thì tỷ trọng tăng từ
45,2%, năm 2001 lên 56% năm 2005.
So sánh với các nước khác như Singapore đầu tư nước ngoài đóng góp
72% tổng kim ngạch xuất khẩu, Mêhicô 32%, Đài Loan 25,6%, Hàn Quốc
24,6%, Thái Lan 22,7%, Hồng Kông 16,5% thì Việt Nam thuộc loại trung
bình.
Đặc biệt trong những ngành công nghiệp xuất khẩu chủ yếu, ĐTTTNN
đóng góp đáng kể cho xã hội: dầu khí 100%; hàng điện tử 85%; giày dép 42%
và hàng may mặc 25%. Trong khi đó, ĐTTTNN hầu như không có vai trò gì
đáng kể trong xuất khẩu hàng nông sản. Tỷ trọng xuất khẩu so với doanh thu
của doanh nghiệp ĐTNN cũng đã tăng nhanh: bình quân thời kỳ 1991-1995
đạt 30%; thời kỳ 1996-2000 đạt 48,7%; trong 5 năm 2001-2005 đạt khoảng
50%.



×