Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Phân tích và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện hoạt động đầu tư vốn tại tập đoàn công nghiệp cao su việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
..................................

Nguyễn Thị Anh Thuyên

Phân tích và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện
hoạt động đầu tư vốn tại Tập đoàn Công nghiệp
Cao Su Việt Nam

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

HÀ NỘI – 2010


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả trình bày trong luận án
là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất
cứ công trình nào khác.
Tác giả của luận văn

Nguyễn Thị Anh Thuyên

4


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1

Nguồn vốn chủ sở hữu của Tập đoàn công nghiệp cao su



Trang
43

Việt Nam
Bảng 2

Kết quả sản xuất kinh doanh của Tập đoàn công nghiệp cao

52

su Việt Nam
Bảng 3

Một số chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn của công ty mẹ

53

Bảng 4

Tình hình tài sản của công ty mẹ năm 2006 - 2009

54

Bảng 5

Đầu tư vốn của công ty mẹ vào công ty con 100% vốn nhà

56


nước
Bảng 6

Tổng hợp các vốn đầu tư ra bên ngoài của Công ty mẹ

57

Bảng 7

Danh mục đầu tư vốn của công ty mẹ lớn hơn số vốn cam kết

58

Bảng 8

Đầu tư vốn của các công ty con 100% vốn nhà nước

61

Bảng 9

Tổng hợp góp vốn thành lập mới các doanh nghiệp của các

62

công ty con
Bảng 10

Kế hoạch đầu tư vốn của Tập đoàn giai đoạn 2011 – 2015


5

82


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ VÀ ĐỒ THỊ

Trang
Hình 1

Cấu trúc sở hữu đơn giản của Tập đoàn kinh tế

30

Hình 2

Công ty mẹ đầu tư vốn trực tiếp vào công ty cấp 3

30

Hình 3

Cấu trúc hỗn hợp của Tập đoàn kinh tế

31

Hình 4

Sơ đồ tổ chức Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam


37

Hình 5

Sơ đồ tổ chức Tập đoàn công nghiệp cao su Việt nam trách

78

nhiệm hữu hạn một thành viên
Biểu đồ 1 Nguồn vốn Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam

6

55


LỜI NÓI ĐẦU
Ngành cao su Việt Nam được hình thành từ đầu thế kỷ XX chủ yếu ở Miền
đông Nam bộ dưới thời Pháp thuộc. Sau tháng 4/1975, Nhà nước Việt Nam Dân
Chủ Cộng Hòa đã thành lập Tổng cục Cao su. Trong quá trình đổi mới kinh tế của
đất nước, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cao su được tổ chức sắp xếp lại.
Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 252/QĐ-TTg ngày 29/4/1995 thành lập
Tổng công ty Cao su Việt Nam, Tập đoàn công nghiệp Cao su Việt Nam được hình
thành theo Quyết định số 248/2006/QĐ-TTg ngày 30/10/2006 của Thủ tướng Chính
phủ trên cơ sở chuyển đổi hoạt động Tổng công ty Cao su Việt Nam.
Cùng với các hoạt động sản xuất kinh doanh khác, từ năm 2006 Tập đoàn tập
trung đầu tư phát triển trong và ngoài ngành cao su. Các hoạt động đầu tư mang đến
cho Tập đoàn những cơ sở vật chất mới, những bài học thành công, chưa thành
công. Kết quả đầu tư của các Tập đoàn kinh tế nhà nước đang đặt ra cho Chính phủ,
nhất là vấn đề sử dụng hiệu quả vốn nhà nước đối với dư luận xã hội. Đây là vấn đề

thời sự nóng của tình hình kinh tế Việt Nam hiện nay.
Qua nghiên cứu hoạt động tài chính của Tập đoàn công nghiệp cao su Việt
Nam, tác giả nhận thấy hoạt động đầu tư vốn trong thời gian qua có những thành
tựu cũng như hạn chế. Với mong muốn có một đóng góp nhỏ cho Tập đoàn và
ngành nông nghiệp, tác giả chọn đề tài: Phân tích và đề xuất một số giải pháp
hoàn thiện hoạt động đầu tư vốn tại Tập đoàn Công nghiệp Cao Su Việt Nam.
Do thời gian có hạn, năng lực cũng còn hạn chế nên đề tài chắc chắn sẽ còn
những khiếm khuyết. Tác giả mong nhận được những ý kiến góp ý từ cán bộ công
nhân viên chức của Tập đoàn công nghiệp Cao su Việt Nam, từ các thầy cô giáo,
từ các bạn bè, các đồng nghiệp để tiếp tục hoàn thiện đề tài này.

7


PHẦN MỞ ĐẦU
1- TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Vốn, tài sản nhà nước tại các Tập đoàn, tổng công ty nhà nước là bộ phận chủ
lực cấu thành nguồn lực quốc gia, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tổng tài
sản của 90 Tập đoàn, tổng công ty nhà nước đến 31/12/2008 là 1.241.000 nghìn tỷ
đồng. Với với vai trò quan trọng trong hệ thống kinh tế nhà nước, với quy mô về
vốn, tài sản, hoạt động của Tập đoàn, tổng công ty nhà nước trở thành lực lượng
chủ đạo trong phát triển kinh tế của đất nước. Trong năm 2008, khối doanh nghiệp
nhà nước mà nòng cốt là các Tập đoàn, tổng công ty, đã đóng góp gần 40% giá trị
GDP, tạo ra 39,5% giá trị sản xuất công nghiệp, trên 50% kim ngạch xuất khẩu và
28,8% tổng thu nội địa. Năm 2010, các doanh nghiệp nhà nước, chủ yếu là các Tập
đoàn và tổng công ty nhà nước, là những doanh nghiệp đóng thuế thu nhập doanh
nghiệp lớn nhất tại Việt Nam, chiếm đại đa số Top 10 Doanh nghiệp đứng đầu
Bảng xếp hạng V1000.
Trong nền kinh tế quốc dân, trên 70% dân số nước ta sống tại vùng nông thôn,

trong đó ngành nông nghiệp đóng góp 16% giá trị GDP, với tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân toàn ngành là 3,3 – 3,5% năm. Trong ngành nông nghiệp, các tổng
công ty nhà nước có vị trí, vai trò quan trọng là nòng cốt trong việc thực hiện các
chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân, nông
thôn, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, giải quyết việc làm tăng
thu nhập cho nông dân, góp phần xoá đói giảm nghèo nhất là đối với vùng sâu vùng
xa, góp phần đảm bảo an ninh quốc phòng.
Tính đến 31/12/2008, vốn chủ sở hữu của các Tập đoàn, tổng công ty nhà
nước ngành nông nghiệp đạt 26.568 tỷ đồng, trong đó Tập đoàn công nghiệp Cao su
Việt Nam có vốn chủ sở hữu 14. 953 tỷ đồng chiếm 56.3%.
Hiệu quả sử dụng vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước nói chung, tại
các Tập đoàn, tổng công ty nói riêng còn thấp, chưa xứng với quy mô, nguồn lực tài
chính nắm giữ trong nền kinh tế quốc dân.
8


Trong bối cảnh đó, vấn đề đặt ra là làm thế nào để sử dụng có hiệu quả vốn tại
các doanh nghiệp nhà nước nói chung, tại các Tập đoàn, tổng công ty nói riêng; làm
thế nào để đưa các Tập đoàn, tổng công ty hoạt động tương xứng với quy mô,
nguồn lực tài chính, vị trí và vai trò trong nền kinh tế? Hoạt động đầu tư vốn của
nhà nước tại các doanh nghiệp hiện nay đang là vấn đề thời sự nóng, là đề tài tranh
luận sôi nổi cả về mặt lý luận cũng như trên thực tiễn. Đề tài: Phân tích và đề xuất
một số giải pháp hoàn thiện hoạt động đầu tư vốn tại Tập đoàn công nghiệp
Cao Su Việt Nam có ý nghĩa thực tiễn đối với quản lý vốn của nhà nước đầu tư cho
doanh nghiệp cũng như thực hiện một số nhiệm vụ chính trị của Đảng và nhà nước
giao cho các doanh nghiệp nhà nước và cho ngành Nông nghiệp nói riêng.
2- MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI
- Từ thực tiễn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về cơ chế quản lý
vốn, đầu tư vốn trong Tập đoàn kinh tế thông qua hoạt động của Tập đoàn Công
nghiệp Cao su Việt Nam.

- Nghiên cứu rút ra kết luận về thực trạng hoạt động đầu tư vốn của Tập đoàn
Công nghiệp Cao Su Việt Nam, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần đưa
hoạt động đầu tư của Tập đoàn Công nghiệp Cao su Việt Nam đạt được hiệu quả.
3- ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU
- Vấn đề vốn, cơ chế quản lý vốn, cơ chế đầu tư vốn trong Tập đoàn kinh tế
nhà nước.
- Hoạt động đầu tư vốn của Tập đoàn công nghiệp Cao Su Việt Nam trong thời
gian từ 2006- 2009.
4- PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề
tài đi từ lý luận đến các vấn đề thực tiễn, kết hợp với các phương pháp phân tích,
thống kê, tổng hợp, so sánh các dữ liệu, gắn tác động của các cơ chế quản lý nhà
nước về đầu tư vốn đối với doanh nghiệp, từ đó khái quát các vấn đề mang tính hệ
thống để giải quyết các vấn đề nghiên cứu đặt ra.

9


5- DỰ KIẾN VỀ ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
- Làm rõ lý luận về cơ chế quản lý vốn, cơ chế đầu tư vốn trong Tập đoàn
kinh tế.
- Thông qua việc nghiên cứu thực trạng về hoạt động đầu tư vốn, từ đó đề tài
đề xuất một số giải pháp hoàn thiện cơ chế quản lý đầu tư vốn của Tập đoàn Công
nghiệp Cao su Việt Nam.
6 - KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo, phụ lục, đề tài gồm
3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận về vốn và đầu tư vốn của Tập đoàn kinh tế.
Chương 2: Thực trạng hoạt động đầu tư vốn của Tập đoàn công nghiệp Cao su
Việt Nam.

Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động đầu tư vốn tại Tập đoàn
công nghiệp cao su Việt Nam.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VỐN, ĐẦU TƯ VỐN CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ
1.1. Khái niệm cơ bản về vốn
1.1.1. Khái niệm vốn
Trong nền kinh tế, vốn là điều kiện tiên quyết để khởi sự kinh doanh, mọi
doanh nghiệp đều cần có vốn để tồn tại và phát triển. Các doanh nghiệp đều bắt đầu
bằng các yếu tố đầu vào và kết thúc là các yếu tố đầu ra. Đầu vào gồm nguyên
nhiên vật liệu, các sản phầm dịch vụ, sức lao động, máy móc thiết bị… tất cả những
yếu tố đầu vào đó phải được thuê, mua sắm bằng tiền.
Trong suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp, tiền được luân chuyển dưới
những hình thái tài sản khác nhau: tài sản lưu động và tài sản cố định. Khi kết thúc
một quá trình sản xuất kinh doanh, đầu ra của doanh nghiệp là những sản phẩm lại
được thu về bằng tiền với một giá trị lớn hơn giá trị ban đầu bỏ ra. Trong quá trình
đó, tiền được gọi là vốn. Vốn là một trong những yếu tố đầu vào để sản xuất kinh
doanh (đất đai, lao động…), vốn cũng là các sản phẩm được xuất ra để phục vụ cho
sản xuất (máy móc thiết bị, nguyên nhiên vật liệu…).
Vốn là một loại hàng hoá, bởi nó có đầy đủ hai thuộc tính là giá trị và giá trị
sử dụng. Nét đặc biệt của hàng hóa vốn là quyền sở hữu vốn có thể tách rời quyền
sử dụng vốn. Xét về bản chất, vốn chính là tiền, nhưng tiền chỉ được coi là vốn khi
được đưa vào lưu thông để tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh với mục đích
sinh lời.
1.1.2. Đặc trưng của vốn
Vốn là yếu tố quan trọng bậc nhấc đối với mọi loại hình doanh nghiệp, mọi
mô hình kinh tế. Vốn có nhiều đặc trưng và nhiều hình thái biểu hiện khác nhau.

Đặc trưng của vốn được thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, vốn là tiền có quá trình vận động để sinh lời.
Vốn được biểu hiện bằng tiền, nhưng tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn. Để
tiền biến thành vốn thì đồng tiền đó phải vận động với mục đích sinh lời. Trong quá

11


trình vận động, tiền có thể thay đổi hình thái biểu hiện, kết thúc vòng tuần hoàn nó
trở về hình thái ban đầu của nó là tiền với giá trị lớn hơn. Quá trình vận động của
vốn chia thành 3 giai đoạn.
Giai đoạn 1: Vốn hoạt động trong phạm vi lưu thông. Vốn tiền tệ (T) tích luỹ
được đem ra thị trường mua hàng hoá tư liệu sản xuất, sức lao động với tư cách các
yếu tố chuẩn bị cho giai đoạn sản xuất. Giai đoạn này vốn chuyển từ hình thái tiền
tệ sang hình thái vốn sản xuất.
Giai đoạn 2: Vốn rời khỏi lĩnh vực lưu thông đi vào lĩnh vực sản xuất. Các yếu
tố của vốn sản xuất (tư liệu sản xuất) được kết hợp với sức lao động để sản xuất ra
hàng hoá. Ở giai đoạn này, vốn sản xuất được chuyển hoá thành vốn hàng hoá.
Giai đoạn 3: Vốn trở lại lưu thông dưới hình thái vốn hàng hoá. Khác với giai
đoạn 1, chủ doanh nghiệp không thực hiện chức năng mua mà thực hiện chức năng
bán hàng hoá. Kết thúc giai đoạn này, vốn hàng hoá được chuyển về hình thái vốn
tiền tệ ban đầu nhưng với số lượng lớn hơn.
Quá trình vận động liên tục của vốn từ hình thái này sang hình thái kia và trải
qua ba giai đoạn và quay về hình thái ban đầu được gọi là chu trình tuần hoàn vốn.
Thứ hai, vốn có giá trị về mặt thời gian
Giá trị về mặt thời gian của vốn biểu hiện ở chỗ một đồng vốn ngày hôm sau
có thể có giá trị nhỏ hơn một đồng vốn ngày hôm trước, tức là cùng một lượng tiền
đó nhưng lượng hàng hoá mà nó mua được sẽ ít đi. Tập đoàn kinh tế sử dụng khả
năng điều hoà vốn trong nội bộ để vốn vận động liên tục thì cũng có nghĩa là Tập
đoàn kinh tế tận dụng tối đa đặc trưng thời gian của vốn.

Thứ ba, vốn càng lớn thì sức mạnh càng lớn
Sức mạnh của vốn được tạo ra chỉ khi vốn được tích tụ, tập trung đến một
lượng nhất định. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới sự ra đời của
Tập đoàn kinh tế. Ngược lại, sự hình thành của Tập đoàn kinh tế cũng giúp tận dụng
đặc trưng này bởi chỉ có Tập đoàn kinh tế với khả năng tích tụ, tập trung vốn một

12


cách mạnh mẽ để có đủ sức mạnh về vốn nhằm thực hiện những kế hoạch lớn, chiến
lược kinh doanh dài hạn.
Thứ tư, vốn là một loại hàng hoá
Nói vốn là một loại hàng hoá vì vốn có giá trị và giá trị sử dụng vốn như mọi
hàng hoá khác. Vốn được mua bán trên thị trường dưới hình thức mua, bán quyền
sử dụng vốn. Giá mua quyền sử dụng vốn chính là lãi suất mà người đi vay vốn
phải trả cho người cho vay vốn (chủ sở hữu) để có được quyền sử dụng lượng
vốn đó. Giá cả này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là quan hệ cung cầu vốn
trên thị trường.
Thứ năm, vốn không chỉ là biểu hiện bằng tiền giá trị của các tài sản hữu hình
mà nó còn là biểu hiện bằng tiền giá trị của các tài sản vô hình như vị trí địa lý kinh
doanh, nhãn mác sản phẩm, bản quyền phát minh sáng chế, bí quyết công nghệ, uy
tín của doanh nghiệp trên thị trường… Vốn biểu hiện bằng tài sản vô hình ngày
càng đóng vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp. Một công ty con của Tập
đoàn sẽ có nhiều ưu thế hơn hẳn so với một công ty độc lập có cùng quy mô và
lĩnh vực hoạt động. Tập đoàn có thể tiến hành hoạt động nghiên cứu phát triển dài
hạn, chi phí lớn nhưng mang lại hiệu quả cao nhờ tạo ra những phát minh, sáng chế
có giá trị lớn độc quyền của Tập đoàn mang tính đột phá cho hoạt động kinh doanh
của Tập đoàn.
1.1.3. Phân loại vốn
Phân loại vốn là yêu cầu cơ bản của công tác quản lý, sử dụng vốn. Phân loại

vốn theo các tiêu thức khác nhau giúp nhà quản lý thấy được các loại vốn và đặc
trưng từng loại vốn, căn cứ vào đó đề ra kế hoạch sử dụng từng loại vốn để đạt hiệu
quả sử dụng cao nhất. Có những cách phân loại vốn chủ yếu sau:
- Căn cứ theo cơ cấu vốn, vốn gồm vốn sản xuất và vốn đầu tư.
Vốn sản xuất: Vốn sản xuất là hình thái giá trị của toàn bộ tư liệu sản xuất
được doanh nghiệp sử dụng một cách hợp lý và có kế hoạch vào việc sản xuất
những sản phẩm theo kế hoạch của doanh nghiệp.

13


Vốn đầu tư: Vốn đầu tư được sử dụng để tăng năng lực sản xuất, đầu tư đổi
mới sản phẩm, đầu tư thay đổi thiết bị, đầu tư mở rộng sản xuất sản phẩm, nâng cao
chất lượng, mở rộng thị trường tiêu thụ và đầu tư khác như góp vốn liên doanh, đầu
tư vào tài sản tài chính. Nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp bao gồm: nguồn vốn
chủ sở hữu và nguồn vốn huy động.
- Căn cứ vào phương thức chu chuyển của vốn, vốn được phân chia thành vốn
cố định và vốn lưu động.
+ Vốn cố định: Vốn cố định là một bộ phận của vốn để hình thành tài sản cố
định, vốn cố định là biểu hiện bằng tiền của giá trị tài sản cố định. Quy mô của vốn
cố định quyết định đến quy mô của tài sản cố định.
+ Vốn lưu động: Lượng tiền ứng trước để thoả mãn nhu cầu về tài sản lưu
động gọi là vốn lưu động của doanh nghiệp.
- Căn cứ vào tính chất sở hữu: Vốn của doanh nghiệp bao gồm vốn chủ sở
hữu và nợ phải trả.
+ Vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu là số tiền vốn của các chủ sở hữu, của các
nhà đầu tư đóng góp. Khi sử dụng số vốn này, doanh nghiệp không phải cam kết
thanh toán. Vốn chủ sở hữu bao gồm: Vốn đóng góp của nhà đầu tư, vốn được bổ
sung từ kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp theo quyết định của các chủ
sở hữu vốn, các khoản nhận biếu tặng, tài trợ, các khoản chênh lệch đánh giá lại tài

sản, chênh lệch tỷ giá hối đoái, các quỹ hình thành từ lợi nhuận sau thuế.
+ Nợ phải trả: Nợ phải trả là số tiền doanh nghiệp đi vay của các đơn vị, tổ
chức, cá nhân để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh. Doanh nghiệp có
trách nhiệm phải trả cả gốc và lãi vay (chi phí sử dụng vốn). Nợ phải trả bao gồm:
vay từ các tổ chức tín dụng, nguồn vốn tín dụng thương mại và vay thông qua phát
hành trái phiếu.
- Căn cứ vào phạm vi huy động vốn, nguồn vốn được chia thành nguồn bên
trong và nguồn bên ngoài doanh nghiệp. Cách phân loại này chủ yếu giúp cho Tập
đoàn kinh tế xem xét tính hợp lý của cơ cấu huy động nguồn vốn hoạt động.

14


- Căn cứ vào thời gian huy động và sử dụng vốn, nguồn vốn của doanh nghiệp
được chia thành hai loại:
+ Nguồn vốn dài hạn: là nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho hoạt
động sản xuất kinh doanh, bao gồm vốn, chủ sở hữu và các khoản vay nợ trung và
dài hạn.
+ Nguồn vốn ngắn hạn: là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong khoảng
thời gian dưới một năm cho hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm: các khoản nợ
ngắn hạn, nợ quá hạn, nợ nhà cung cấp và nợ phải trả ngắn hạn khác.
1.2. Đầu tư
1.2.1. Khái niệm đầu tư
Đầu tư là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nhằm
thu được các kết quả, thực hiện được những mục tiêu nhất định trong tương lai.
Đầu tư là hoạt động kinh tế gắn với việc sử dụng vốn dài hạn nhằm mục đích sinh
lợi. Adam Smith cho rằng: Đầu tư là quá trình sử dụng vốn và là phương thức sử
dụng vốn.
Như vậy nghĩa rộng của đầu tư có thể hiểu là quá trình bỏ vốn (vốn vô hình,
vốn hữu hình, vốn tài chính...) để đạt được một hay tập hợp nhiều mục đích nhất

định nào đó (kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội).
Trong hoạt động kinh tế, đầu tư mang bản chất kinh tế và cụ thể là lợi nhuận.
Là quá trình bỏ vốn (tiền, vật lực, nhân lực, bí quyết, công nghệ...) vào hoạt động
kinh doanh (sản xuất, dịch vụ) với mục đích là tối đa hóa lợi nhuận, đây được xem
là bản chất của hoạt động đầu tư.
1.2.2. Phân loại đầu tư
Trong thực tế, hoạt động đầu tư có rất nhiều hình thái biểu hiện. Căn cứ các
tiêu thức khác nhau người ta có thể phân chia hoạt động đầu tư thành các loại
khác nhau.
Dựa vào quan hệ quản lý của chủ đầu tư, hoạt động đầu tư được chia thành:
Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp.

15


Đầu tư trực tiếp là hình thức đầu tư mà người bỏ vốn đồng thời là người trực
tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và vận hành kết quả đầu tư.
Trong đầu tư trực tiếp lại bao gồm: đầu tư phát triển và đầu tư chuyển dịch.
Đầu tư chuyển dịch là hình thức đầu tư trực tiếp, chủ đầu tư bỏ vốn mua lại
cổ phiếu với mức khống chế ở công ty khác nhằm dịch chuyển quyền sở hữu giá trị
tài sản để có thể chi phối việc lãnh đạo, điều hành ở công ty đó hoặc thôn tính, sáp
nhập doanh nghiệp.
Đầu tư phát triển là một hình thức của đầu tư trực tiếp. Hình thức đầu tư này
là cơ sở, nền tảng cho sự phát triển của nền kinh tế của mỗi quốc gia và cũng là tiền
đề cho các hoạt động đầu tư khác.
Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư trong đó chủ đầu tư bỏ vốn vào hoạt
động kinh tế nhằm đem lại hiệu quả kinh tế cho bản thân người có vốn cũng như xã
hội. Nhưng người có vốn không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực
hiện và vận hành kết quả đầu tư.
1.3. Lý luận chung về Tập đoàn kinh tế

1.3.1. Khái niệm Tập đoàn kinh tế
Tập đoàn kinh tế không còn là điều mới trong sự phát triển của nền kinh tế thế
giới. Mô hình Tập đoàn kinh tế đang bước vào một giai đoạn phát triển mới với
những biến chuyển cả về chất và lượng. Kinh nghiệm của các nước phát triển và các
nước đang phát triển cho thấy, nhu cầu về sự kết hợp giữa chuyên môn hóa sâu
trong sản xuất với mở rộng ngành nghề, mở rộng quy mô kinh doanh để phân tán
rủi ro, buộc các doanh nghiệp phải vừa cạnh tranh, vừa hợp tác và trong nhiều
trường hợp phải liên kết dưới những hình thức khác nhau. Sự liên kết kinh tế là yếu
tố để các doanh nghiệp khắc phục hạn các chế của chuyên môn hoá sản xuất để
phân tán rủi ro, nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng quy mô và phạm vi kinh
doanh. Đây là một yêu cầu khách quan, mang tính quy luật trong kinh tế. Sự liên kết
giữa các doanh nghiệp phát triển đến một mức độ nhất định thì sẽ hình thành Tập
đoàn kinh tế.

16


Trên thế giới, Tập đoàn kinh tế nối tiếp nhau ra đời tại nước tư bản từ những
năm 60 của thế kỷ 19 dưới các hình thức như Carter, Syndicate, Trust, Concern,
Conglomerate.
Tập đoàn kinh tế là một tập hợp gồm nhiều doanh nghiệp. Theo Luật Doanh
nghiệp được Quốc hội 11 nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành
năm 2005: Doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh, được thành lập nhằm mục đích chủ
yếu là thực hiện hoạt động kinh doanh, trong đó kinh doanh được hiểu là việc thực
hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu
thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lời.
Có nhiều quan điểm khác nhau về Tập đoàn kinh tế:
Quan điểm thứ nhất: Tập đoàn kinh tế là tổ chức kinh tế do Nhà nước thành
lập gồm nhiều doanh nghiệp thành viên có quan hệ với nhau về sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và tài chính. Quan điểm này cho thấy chức năng liên kết kinh tế của

Tập đoàn kinh tế. Theo quan điểm này, Tập đoàn kinh tế là loại hình doanh nghiệp
có quy mô lớn.
Quan điểm thứ hai: Tập đoàn kinh tế (Group of company) là một tổ hợp các
công ty độc lập về mặt pháp lý nhưng tạo thành một Tập đoàn gồm một công ty mẹ
và một hay nhiều công ty con hoặc chi nhánh góp vốn cổ phần, chịu sự kiểm soát
của công ty mẹ.
Quan điểm thứ ba: Tập đoàn kinhtế là một loại hình tổ chức kinh tế chỉ hình
thành và tồn tại trong nền kinh tế thị trường, được hình thành trong quá trình tự liên
kết, liên hợp hoá của nhiều công ty, xí nghiệp của nhiều chủ sở hữu khác nhau, hoạt động
kinh doanh chuyên ngành hoặc đa ngành, thực hiện tập trung vốn, đẩy mạnh phân công
chuyên môn hoá và đầu tư theo chiều sâu, nhanh chóng đổi mới công nghệ nhằm đa dạng
hoá sản phẩm, mở rộng thị trường, nâng cao năng lực cạnh tranh để giành lợi nhuận siêu
ngạch từ lợi thế hoặc độc quyền.
Mặc dù còn có nhiều ý kiến khác nhau, tuy nhiên có thể tổng hợp thành một
khái niệm chung về Tập đoàn kinh tế: Tập đoàn kinh tế là tổ hợp các công ty hoạt
động trong một ngành hay những ngành khác nhau, ở phạm vi một nước hay nhiều
17


nước, trong đó có một công ty mẹ nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của các
công ty con về mặt tài chính về chiến lược phát triển. Tập đoàn kinh tế là một cơ
cấu tổ chức vừa có chức năng kinh doanh, vừa có chức năng liên kết kinh tế nhằm
tăng cường tích tụ, tập trung, tăng khả năng cạnh tranh và tối đa hoá lợi nhuận.
1.3.2. Các hình thức tổ chức chủ yếu của Tập đoàn kinh tế
Tập đoàn kinh tế được hình thành theo nguyên tắc “kết hợp chặt chẽ trong một
tổ chức kinh tế”, các công ty thành viên kết hợp trong một tổ chức thống nhất mang
tính độc lập về tài chính, sản xuất và thương mại. Tập đoàn kinh tế được cấu tạo
dưới dạng đa sở hữu theo kiểu công ty cổ phần với sự góp vốn của nhiều sở hữu
khác nhau hoặc có một công ty mạnh nhất chi phối cả Tập đoàn. Các công ty thành
viên trong cùng một ngành hoặc có liên quan với nhau về chu kỳ công nghệ sản

xuất, bổ sung cho nhau trong quá trình gia công chế biến liên tục hoạt động thống
nhất trong Tập đoàn.
Trên thế giới hiện nay đã và đang có rất nhiều loại hình Tập đoàn kinh tế. Có
một số hình thức tổ chức Tập đoàn kinh tế tiêu biểu như sau:
Cartel: là loại Tập đoàn, giữa các công ty trong một ngành lĩnh vực sản xuất
kinh doanh cùng ký kết hợp đồng với nhau hoặc thoả thuận kinh tế nhằm mục đích
cạnh tranh. Trong các Cartel, các công ty vẫn giữ nguyên tính độc lập về mặt pháp
lý, tính độc lập về kinh tế được điều hành bằng hợp đồng kinh tế. Đối tượng của
các thoả thuận kinh tế có thể là: thống nhất về giá cả, phân chia thị trường tiêu
thụ sản phẩm, nguyên liệu, thống nhất chuẩn mực, kiểu loại kích cỡ, chuyên môn
hoá sản phẩm.
Syndicate: Là một dạng đặc biệt của Cartel, có một văn phòng thương mại
chung được thành lập do một ban quản trị chung điều hành và tất cả các công ty
phải tiêu thụ hàng hoá thông qua kênh của văn phòng này.
Trust: Là một liên minh độc quyền các tổ chức sản xuất kinh doanh do một
ban quản trị thống nhất điều khiển. Việc thành lập Trust nhằm thu lợi nhuận độc
quyền cao, chiếm nguồn vốn nguyên liệu và khu vực đầu tư.

18


Concern: là hình thức tổ chức Tập đoàn phổ biến hiện nay, concern không có
tư cách pháp nhân, các công ty thành viên giữ nguyên tính độc lập về mặt pháp lý.
Mối quan hệ giữa các công ty thành viên trên cơ sở những thoả thuận về lợi ích
chung như phát minh sáng chế, nghiên cứu khoa học công nghệ, hợp tác sản xuất và
hệ thống tài chính chung. Trong Concern thường có một “Holding Company” giữ
vai trò như “công ty mẹ” điều hành hoạt động chung.
Các công ty thành viên hoạt động ở nhiều lĩnh vực, nhiều ngành nghề khác
nhau có mối quan hệ với nhau về công nghệ sản xuất trong đó có một ngành chủ
chốt. Hoạt động của các công ty thành viên nhằm phục vụ lợi ích của mình và của

công ty mẹ trên cơ sở liên kết theo chiều dọc hay chiều ngang thông qua những hợp
đồng kinh tế, hiệp định hay những khoản tín dụng cho vay.
Conglomerate: là một Tập đoàn đa ngành, đa lĩnh vực. Các công ty thành viên
ít có mối quan hệ công nghệ sản xuất với nhau mà chủ yếu quan hệ về hành chính
và tài chính. Conglomerate được hình thành bằng cách thu hút cổ phần của những
công ty có lợi nhuận cao nhất thông qua thị trường chứng khoán. Đặc điểm cơ bản
của Conglomerate là hoạt động chủ yếu nhằm mở rộng phạm vi kiểm soát tài chính.
Các Tập đoàn xuyên quốc gia là những công ty vượt ra ngoài biên giới quốc
gia của một nước. Cơ cấu tổ chức gồm hai bộ phận cơ bản là công ty mẹ thuộc sở
hữu nước chủ nhà và một hệ thống các công ty chi nhánh ở nước ngoài. Các chi
nhánh có thể mang hình thức công ty 100% vốn nước ngoài, công ty liên doanh,
công ty hỗn hợp với hình thức góp vốn cổ phần.
Các Tập đoàn kinh tế có các hình thức tổ chức rất đa dạng và linh hoạt. Tập
đoàn kinh tế có ba dạng khác nhau về mặt cấu trúc liên kết:
Liên kết theo chiều dọc: Đây là hình thức liên kết mà các công ty thành viên
sử dụng sản phẩm (đầu ra) của nhau.
Liên kết theo chiều ngang: Các công ty có quan hệ với nhau về sản phẩm
hay dịch vụ bổ trợ cho nhau hoặc các sản phẩm cho cùng một nhóm khách hàng
hoặc cùng nhóm mục tiêu sử dụng. Các công ty này liên kết với nhau để tạo lợi
thế chung.
19


Kiểu liên kết hạt nhân: Giữa các công ty thành viên có sự liên kết về công
nghệ, hoặc thị trường nhưng xoay quanh một nhóm sản phẩm mũi nhọn.
Tập đoàn kinh tế được hình thành theo nguyên tắc “liên kết kinh tế”. Thông
thường, cơ sở tồn tại của Tập đoàn là các thoả thuận hoặc hợp đồng tạo ra sự liên
kết “mềm” giữa các thành viên để tăng thêm lợi thế cho nhóm các thành viên đó.
Hình thức của các liên kết kinh tế này rất đa dạng. Các công ty thành viên có tính
độc lập cao, họ ký kết hợp đồng thoả thuận với nhau về nguyên tắc chung trong

hoạt động sản xuất kinh doanh như xác định quy mô sản xuất, hợp tác nghiên cứu
và trao đổi bằng phát minh sáng chế kỹ thuật, quy định giá cả, thị trường tiêu thụ,
khối lượng sản phẩm cung cấp….v.v. Về tổ chức, thường có ban quản trị chung
điều hành các hoạt động phối hợp của Tập đoàn theo một đường lối chung thống
nhất nhưng các công ty thành viên vẫn giữ nguyên tính độc lập về tổ chức sản xuất
và thương mại của mình. Tuy nhiên nhược điểm của hình thức này là quan hệ liên
kết giữa các thành viên tương đối lỏng lẻo.

Do sự phát triển cao của thị trường tài chính, Tập đoàn kinh tế
được hình thành trên cơ sở xác lập sự thống nhất về tài chính và kiểm soát tài
chính. Các công ty thành viên ký kết các hiệp định về tài chính hình thành một công
ty tài chính chung gọi là Holding company - là công ty mẹ của Tập đoàn. Đây là
hình thức phát triển cao của Tập đoàn kinh tế. Trong Tập đoàn không chỉ còn hạn
chế các hoạt động mà lúc này đã mở rộng ra nhiều lĩnh vực từ tài chính đến các hoạt
động sản xuất thương mại dịch vụ. Hiện nay, đây là hình thức Tập đoàn phổ biến
nhất trên thế giới.
1.3.3. Đặc trưng của Tập đoàn kinh tế
Mỗi hình thức tổ chức khác nhau của Tập đoàn tạo nên những đặc trưng khác
nhau của Tập đoàn. Tuy nhiên, có thể thấy những đặc trưng chung nhất của Tập
đoàn kinh tế như sau:
- Đặc trưng liên kết: Việc liên kết giữa các doanh nghiệp theo các hình thức
khác nhau được thực hiện không phải bằng các biện pháp hành chính, phi kinh tế,
cơ chế cấp vốn giữa công ty mẹ và các công ty thành viên mà từ yêu cầu kinh tế,
xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp trong quá trình phát triển.

20


- Đặc trưng cấu trúc tổ chức: Tập đoàn kinh tế là tổ hợp của nhiều công ty,
với hình thức tổ chức phổ biến nhất là theo mô hình công ty mẹ – công ty con: Các

công ty thành viên chịu sự chi phối của một công ty lớn nhất, đó là công ty mẹ.
Công ty mẹ nắm cổ phần (vốn góp) chi phối của các công ty thành viên và tạo
thành cấu trúc giống như các vệ tinh xoay quanh hạt nhân. Hiện nay, thị trường tài
chính phát triển đến một trình độ cao nên quan hệ sở hữu giữa các công ty thành
viên trong Tập đoàn rất phức tạp, đan xen chằng chịt tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau
rất chặt chẽ.
- Đặc trưng về tính chất pháp lý: Xét theo nghĩa rộng, Tập đoàn với tư cách là
tập hợp các doanh nghiệp có các mối liên kết kinh tế, tập hợp này không có tư
cách pháp nhân; nhưng mỗi thành viên của tập hợp lại có tư cách pháp nhân
được liên kết với nhau bằng vốn, mối quan hệ về công nghệ, thị trường, lợi ích,
trong đó mối liên kết về vốn là chủ yếu. Các doanh nghiệp hợp thành Tập đoàn tự
chịu trách nhiệm về các hoạt động kinh doanh, về các khoản nợ, vốn đầu tư của các
doanh nghiệp trong Tập đoàn và của các cổ đông, của những người góp vốn vào
doanh nghiệp.
- Đặc trưng về sở hữu: Tập đoàn là một tổ hợp nhiều công ty, bao gồm công ty
mẹ và các công ty con. Công ty mẹ sở hữu lượng vốn cổ phần lớn trong các công ty
con, có quyền chi phối những mặt cơ bản về tài chính và chiến lược phát triển. Như
vậy, sở hữu vốn trong Tập đoàn là sở hữu hỗn hợp, trong đó công ty mẹ đóng vai
trò khống chế. Với đặc trưng này, sức mạnh kinh tế và khả năng cạnh tranh của Tập
đoàn cũng như của từng công ty thành viên trong Tập đoàn sẽ tăng lên. Đặc biệt,
đối với Việt Nam thì việc hình thành các Tập đoàn kinh tế còn là giải pháp chiến
lược để bảo vệ sản xuất trong nước, chống lại sự thâm nhập của các công ty và Tập
đoàn nước ngoài.
- Đặc trưng về phạm vi quản lý: Thông thường, công ty mẹ tiến hành quản lý
tập trung một số mặt như điều hoà vốn, nghiên cứu ứng dụng, đào tạo, xây dựng
những chiến lược phát triển tổng thể (chiến lược thị trường, sản phẩm, đầu tư..). Với
đặc trưng này, Tập đoàn sẽ có tác động tích cực trong việc tạo điều kiện triển khai

21



hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ mới vào sản xuất. Tập đoàn
kinh tế sẽ có thêm khả năng tập trung, điều hoà vốn, khắc phục sự hạn chế về vốn
của từng đơn vị riêng biệt.
Nguồn vốn của Tập đoàn được huy động từ các công ty thành viên theo các
hình thức được pháp luật cho phép sẽ tập trung đầu tư vào những lĩnh vực, những
dự án có hiệu quả cao, tránh được tình trạng vốn bị phân tán trong những đơn vị
nhỏ hoặc đầu tư không hiệu quả. Với cách thức này, vốn của các công ty thành viên
nhỏ cũng được sử dụng vào những lĩnh vực, dự án hiệu quả nhất, tạo ra sức mạnh
quyết định cho sự phát triển của Tập đoàn. Đặc trưng này sẽ phát huy được vai trò
điều tiết của nhà nước thông qua các công ty mẹ đối với từng thành viên cũng như
chuyển cơ bản quan hệ giữa công ty mẹ và các công ty thành viên trong Tập đoàn từ
cơ chế giao vốn và mối liên hệ hành chính sang cơ chế đầu tư vốn và các mối quan
hệ kinh tế, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tập đoàn kinh tế nhà nước
hiện nay.
- Đặc trưng về quy mô: Các Tập đoàn vừa có sự tích tụ của bản thân công ty
mẹ, vừa có sự tập trung của các công ty thành viên nên tiềm lực tài chính và quy mô
về vốn của Tập đoàn là rất mạnh. Với ưu thế vốn lớn, Tập đoàn có khả năng chi
phối và cạnh tranh mạnh trên thị trường, mở rộng nhanh chóng quy mô sản xuất
kinh doanh, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng yêu cầu thị
trường tạo ra doanh thu lớn. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các Tập đoàn kinh tế
Việt Nam nhanh chóng tiếp cận với thị trường thế giới và hội nhập kinh tế.
- Đặc trưng về ngành và lĩnh vực kinh doanh: Mặc dù đặc điểm nổi bật của
Tập đoàn là hoạt động kinh doanh đa ngành, nhưng vẫn có một số Tập đoàn kinh
doanh trong một lĩnh vực tương đối hẹp. Điều đó minh hoạ cho cả hai xu hướng
phát triển Tập đoàn kinh tế. Xu hướng thứ nhất là phát triển đa dạng hoá, đa ngành
nhằm phân tán rủi ro và tăng khả năng chi phối thị trường. Xu hướng thứ hai là phát
triển chuyên môn hoá sâu để khai thác thế mạnh về chuyên môn, bí quyết công
nghệ, uy tín đặc biệt trong ngành. Các xu hướng này thể hiện khác nhau tuỳ theo
ngành kinh doanh, lĩnh vực hoạt động. Tuy nhiên, hiện nay xu hướng đa dạng hoá,


22


đa ngành, đa nghề, đa lĩnh vực để phân tán rủi ro, đảm bảo cho hoạt động Tập đoàn
được an toàn, hiệu quả và tận dụng được cơ sở vật chất cũng như khả năng lao động
của Tập đoàn thể hiện rõ nét hơn.
1.3.4. Vị trí, vai trò của Tập đoàn kinh tế
Ở nước ta, Tập đoàn kinh tế nhà nước là lực lượng kinh tế chủ đạo trong nền
kinh tế quốc dân xã hội chủ nghĩa định hướng thị trường, có vị trí là nền tảng và có
vai trò trọng yếu trong tất cả các lĩnh vực kinh tế chính trị xã hội của đất nước. Tập
đoàn kinh tế nhà nước là công cụ quan trọng của Nhà nước trong việc điều tiết thị
trường, ổn định giá cả, nhất là trong điều kiện nền kinh tế không ổn định, phải đối
phó với những biến động về cung - cầu hàng hóa, về giá cả. Các Tập đoàn, tổng
công ty nhà nước là lực lượng chủ yếu và luôn đi đầu trong thực hiện các chủ
trương lớn của Đảng và Nhà nước về giải quyết việc làm, xoá đói, giảm nghèo, đảm
bảo an sinh xã hội. Phạm vi hoạt động của các Tập đoàn kinh tế được chỉ đạo theo
chủ trương, nghị quyết của Đảng, Chính phủ, chú trọng mở rộng đến các địa bàn
nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo nơi có hạ tầng cơ sở còn
yếu kém để thực hiện nhiệm vụ chính trị, xã hội. Các Tập đoàn tập trung nguồn lực
để đầu tư giữ những vị trí then chốt trong nền kinh tế, thực hiện các nhiệm vụ quan
trọng liên quan đến quy hoạch và phát triển ngành. Các Tập đoàn đã chủ động huy
động vốn, đa dạng hóa hình thức sở hữu ở các công ty thành viên để tranh thủ
nguồn lực phát triển, tạo động lực cho các thành phần kinh tế khác cùng tham gia
đầu tư và thực hiện các dự án đầu tư quan trọng. Hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt
ra vấn đề cấp bách về tái cấu trúc cơ cấu kinh tế. Tham gia hội nhập vào nền kinh tế
thế giới là điều kiện thuận lợi giúp cho Việt nam lựa chọn chiến lược phát triển, tái
cơ cấu sản xuất, cùng với lựa chọn những ngành kinh tế có lợi thế so sánh để tăng
xuất khẩu, tăng tích luỹ thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xu thế này cũng
tạo điều kiện cho Việt Nam lựa chọn đối tác làm ăn, lựa chọn thị trường xuất khẩu

hàng hoá, dịch vụ thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp nhận những công nghệ tiên

23


tiến thuận lợi hơn. Các doanh nghiệp trong nước trình độ quản lý và kinh nghiệm
kinh doanh quốc tế còn non kém, qui mô của các doanh nghiệp chủ yếu là vừa và
nhỏ, lại phải chịu sức ép cạnh tranh khốc liệt trong khi chưa kịp chuẩn bị
về tiềm lực tài chính, tổ chức quản lý và kỹ năng cạnh tranh. Do đó còn gặp nhiều
khó khăn trong hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài. Trước bối cảnh
đó, việc liên kết các tổng công ty, doanh nghiệp trong nước để hình thành mô hình
tổ chức mới là Tập đoàn kinh tế là yêu cầu cấp thiết để nâng cao khả năng cạnh
tranh với các Tập đoàn nước ngoài.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 3 khóa IX
tháng 9-2001, chỉ rõ: "Hình thành một số Tập đoàn kinh tế mạnh trên cơ sở các tổng
công ty nhà nước, có sự tham gia của các thành phần kinh tế, kinh doanh đa ngành,
trong đó có ngành kinh doanh chính, chuyên môn hóa cao và giữ vai trò chi phối
lớn trong nền kinh tế quốc dân…”. Nghị quyết số 01/2004/NQ-CP của Chính phủ
về đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả các doanh nghiệp nhà nước,
Chính phủ đã nêu một trong những giải pháp được thực hiện là " Thí điểm chuyển
tổng công ty nhà nước sang hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con và
hình thành một số Tập đoàn kinh tế".
Các Tập đoàn kinh tế Việt Nam được hình thành trên cơ sở của các tổng công
ty, nhằm khắc phục những hạn chế của các tổng công ty nhà nước đó là: Tình trạng
thiếu chủ động trong điều hành hoạt động, tiềm lực tài chính bị phân tán, khả năng
cạnh tranh thấp... v.v. Từ đó tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có tiềm lực kinh tế
mạnh, nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường, chủ động trong hội nhập kinh tế
quốc tế. Chính phủ chỉ đạo xây dựng đề án thí điểm thành lập các Tập đoàn Công
nghiệp Cao su Việt Nam, Bưu chính Viễn thông, Dầu khí, Điện lực, Xi măng… Các
Tập đoàn kinh tế được hình thành với mục tiêu tập trung nguồn lực, nâng cao tính

cạnh tranh, là mũi nhọn trong các lĩnh vực của nền kinh tế, góp phần quan trọng
nâng cao môi trường cạnh tranh quốc gia, trở thành những trụ cột về kinh tế, thúc
đẩy các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế và toàn bộ nền kinh tế phát triển
bền vững.

24


1.4. Cơ chế quản lý vốn, cơ cấu nguồn vốn trong Tập đoàn kinh tế.
1.4.1. Cơ chế quản lý vốn.
Trước hết, để hiểu được cơ chế quản lý vốn trong một doanh nghiệp, cần phải
hiểu cơ chế quản lý tài chính của doanh nghiệp đó. Cơ chế quản lý tài chính doanh
nghiệp là một tổng thể các phương pháp, hình thức và công cụ vận dụng để quản lý
các hoạt động tài chính của doanh nghiệp trong những điều kiện cụ thể nhằm đạt
được những mục tiêu nhất định.
Các hoạt động tài chính của doanh nghiệp bao hàm nhiều nội dung khác nhau,
đó là các hoạt động về huy động vốn, đầu tư vốn, quản lý tài sản, sử dụng vốn, phân
phối lợi nhuận, kiểm soát tài chính.
Tập đoàn kinh tế bao gồm công ty mẹ, các công ty con, các công ty liên kết.
Xét từ khía cạnh mối quan hệ với công ty con và các công ty liên kết, Tập đoàn với
tư cách quản lý và thực hiện chức năng sản xuất kinh doanh. Xét trên trên bình diện
công ty mẹ, Tập đoàn thực hiện hợp lực tài chính (chức năng điều hành tài chính)
giữa công ty mẹ và các công ty con, các công ty liên kết và đồng thời công ty mẹ
đảm nhận ngành nghề kinh doanh chính của Tập đoàn.
Nội dung cơ chế quản lý tài chính của Tập đoàn cùng lúc phải cụ thể hoá và
thể hiện được các đặc điểm kinh tế ngành, vừa bao hàm đầy đủ những nội dung của
cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp và phải có cơ chế tài chính cho những chức
năng mà công ty mẹ đảm nhận. Đó là cơ chế đầu tư vốn; cơ chế tài chính khi sáp
nhập, hợp nhất doanh nghiệp; cơ chế kiểm soát của công ty mẹ đối với các công ty
con và các công ty liên kết.

Cơ chế quản lý vốn của Tập đoàn kinh tế bao gồm:
- Cơ chế huy động vốn: Cơ chế huy động vốn đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển của Tập đoàn. Các hoạt động huy động vốn của Tập đoàn, của các thành
viên phản ánh mối quan hệ tài chính giữa Tập đoàn với thị trường tài chính. Cơ chế
huy động vốn bao gồm cơ chế vay nợ và cơ chế phát hành trái phiếu, cổ phiếu.

25


+ Cơ chế vay nợ: Nguồn vốn vay là nguồn vốn rất quan trọng đối với hoạt
động sản xuất kinh doanh của các Tập đoàn kinh tế. Nó bao gồm cơ chế kiểm soát
nội bộ đối với quá trình huy động tín dụng của công ty mẹ và của các công ty thành
viên; Các quy trình, thủ tục đối với việc tiến hành vay vốn; Hệ thống các định chế
của Nhà nước đối với quan hệ tín dụng. Thực tế, hoạt động tín dụng của các Tập
đoàn được phân cấp và tự do hoá để mở rộng vai trò của các công ty thành viên,
nâng cao tính chủ động, tự chịu trách nhiệm về hoạt động tín dụng và hiệu quả hoạt
động kinh doanh.
+ Cơ chế phát hành trái phiếu, cổ phiếu
Trái phiếu là loại chứng thư xác nhận quyền làm chủ một món nợ của người
sở hữu đối với người phát hành. Doanh nghiệp phát hành trái phiếu nhằm huy động
vốn trung và dài hạn được xác định mệnh giá, lãi suất và thời hạn huy động. Người
nắm giữ trái phiếu có thu nhập ổn định trong thời hạn xác định và được hoàn trả vốn
khi đến hạn, được tự do chuyển nhượng trái phiếu.
Việc phát hành trái phiếu của Tập đoàn kinh tế phải tuân thủ những nội dung
theo quy định tại Điều 88 của Luật doanh nghiệp 2005 và Nghị định 52/2006/NĐCP ngày 19/5/2006 của Chính phủ.
Cổ phiếu, là chứng thư xác nhận quyền sở hữu của một cổ đông đối với một
doanh nghiệp cổ phần, tức là xác nhận có quyền sở hữu một phần đối với công ty
theo tỷ lệ cổ phiếu của cổ đông đó. Người nắm giữ cổ phiếu là người hưởng lợi cuối
cùng trong việc phân chia lợi nhuận hay tài sản. Người sở hữu cổ phiếu có thể bán,
chuyển nhượng cổ phiếu trên thị trường. Việc phát hành cổ phiếu có ý nghĩa quan

trọng trong việc huy động nguồn vốn của xã hội thông qua thị trường chứng khoán.
- Cơ chế quản lý sử dụng và điều hoà vốn
+ Cơ chế quản lý vốn chủ sở hữu: Vốn chủ sở hữu của Tập đoàn kinh tế nhà
nước bao gồm nguồn vốn ban đầu do nhà nước giao, vốn đóng góp của các nhà đầu
tư, vốn được bổ sung từ kết quả sản xuất kinh doanh và các quỹ hình thành từ lợi
nhuận sau thuế. Việc quản lý các nguồn vốn này được phân cấp cho công ty mẹ và
các công ty thành viên.
26


+ Cơ chế quản lý sử dụng nguồn vốn vay.
Nguồn vốn vay của Tập đoàn và các công ty thành viên chịu sự ràng buộc của
cơ chế quản lý của đơn vị cho vay (các ngân hàng và các định chế tài chính khác).
Ngoài ra, các công ty con còn phải chịu một số quy định chung của Tập đoàn về
quy định trách nhiệm, quy định hạn mức tín dụng đi vay, mục đích sử dụng vốn vay
theo chiến lược, kế hoạch hoạt động kinh doanh cụ thể.
Cơ chế quản lý nguồn vốn vay chịu sự chi phối của hệ thống cơ chế kiểm soát
mang tính khách quan và chủ quan, thông qua một số công vụ và cách thức quản lý
của chủ sở hữu vốn vay, của Tập đoàn và của chính đơn vị đi vay.
+ Cơ chế điều hòa vốn: Cơ chế điều hoà vốn trong Tập đoàn kinh tế liên quan
rất nhiều tới việc xem xét mối quan hệ sở hữu trong Tập đoàn. Xét trên toàn bộ Tập
đoàn, việc khai thác và sử dụng nguồn vốn nội bộ có thể được diễn ra giữa các công
ty thành viên của Tập đoàn hoặc giữa công ty mẹ với công ty con dưới nhiều hình
thức khác nhau như tín dụng nội bộ, trao đổi các tài sản…vv. Sự lưu chuyển vốn
này đã tạo ra khả năng điều hoà và tối ưu hoá nguồn vốn trong toàn bộ Tập đoàn
với chi phí thấp. Đây là một đặc điểm đã tạo nên sự khác biệt về tài chính giữa Tập
đoàn kinh tế với một doanh nghiệp độc lập.
+ Cơ chế đầu tư vốn: Tập đoàn kinh tế có hình thức tổ chức phổ biến nhất là
theo mô hình công ty mẹ - công ty con. Trong mô hình này, các công ty thành viên
chịu sự chi phối của công ty mẹ.

Công ty mẹ đầu tư vốn vào các công ty con, quản lý vốn đầu tư ở các công ty
con thông qua người đại diện.
Các công ty con thuộc Tập đoàn được quyền sử dụng tài sản thuộc quyền
quản lý của công ty để đầu tư ra ngoài công ty theo quy định. Công ty con đầu tư
vốn vào các công ty cháu và quản lý vốn đầu tư ở các công ty này thông qua
người đại diện.

27


×