Tải bản đầy đủ (.docx) (66 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn xã Đồng Sơn, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.53 KB, 66 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân em luôn nhận được sự quan tâm
giúp đỡ chỉ bảo tận tình của các thầy, cô giáo trong khoa Quản lý đất đai Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, cùng các phòng, ban của
nhà trường và địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi nhất để em hoàn thành
đ ề t à i n ày.
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Trường Đại
học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội nói chung, các thầy, cô giáo trong
khoa Quản lý đất đai nói riêng đã tận tình dạy dỗ, chỉ bảo ân cần trong suốt
thời gian em học tập tại trường; trong đó đặc biệt Ths. Nguyễn Trọng
Trường Sơn người đã trực tiếp hướng dẫn, chỉ bảo em trong suốt thời gian
em thực hiện đề tài.
Em xin chân thành cảm ơn UBND xã Đồng Sơn đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi giúp đỡ em trong thời gian nghiên cứu làm đề tài tại xã. Cuối cùng từ
đáy lòng mình, em xin kính chúc các thầy, cô giáo và các cô, chú mạnh
khỏe, hạnh phúc, thành đạt trong cuộc sống.
Em xin trân trọng cảm ơn!
Sinh viên thực hiện

Vũ Thị Hương Nhi

1


MỤC LỤC

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của mỗi quốc gia và cũng là


yếu tố mang tính quyết định sự tồn tại và phát triển của con người và các sinh
vật khác trên trái đất. Đất đai được sử dụng hầu hết trong tất cả các ngành sản
xuất và các lĩnh vực. Đất là nền tảng, là yếu tố đầu vào tác động mạnh mẽ đến
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, đồng thời cũng là môi trường duy nhất sản
xuất ra lương thực thực phẩm để nuôi sống con người.
Con người đã tìm đủ mọi cách để khai thác đất đai nhằm thỏa mãn
những nhu cầu ngày càng tăng của xã hội. Do đó đất đai, đặc biệt là đất nông
nghiệp mặc dù hạn về diện tích nhưng lại có nguy cơ suy thoái cao do tác
động của thiên nhiên và chính sự thiếu ý thức của con người trong quá trình
sử dụng. Việc sử dụng đất có hiệu quả và bền vững đang trở thành vấn đề cấp
thiết của mỗi quốc gia, nhằm duy trì và cải tạo đất cho hiện tại và cho tương
lai.
Quá trình đô thị hóa diễn ra mạnh mẽ đã làm cho diện tích đất nông
nghiệp đã nghèo nay còn nghèo hơn. Việc dân số tăng nhanh dẫn đến nhu cầu
về lương thực, thực phẩm cũng tăng theo tạo sức ép cho đất nông nghiệp. Đối
với một nước sản xuất nông nghiệp như Việt Nam thì việc cần có đất nông
nghiệp để làm tư liệu sản xuất là vô cùng quan trọng. Do vậy, việc đánh giá
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp càng cần thiết hơn bao giờ hết.
Tại xã Đồng Sơn, huyện Nam Trực,tỉnh Nam Định bằng nghề sản xuất
nông nghiệp là chủ yếu, tuy nhiên việc sản xuất lại chưa mang lại được lợi ích
cao, bên cạnh đó diện tích đất nông nghiệp đang ngày càng bị thu hẹp. Vì vậy,
vấn đề đặt ra là làm sao để có thể sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả và hợp lý

3


nhất, vừa mang lại lợi ích cao, vừa có khả năng cải tạo chất lượng của đất trên
địa bàn xã là việc rất quan trọng.
Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn và nhu cầu sử dụng đất, được sự đồng ý
của ban chủ nhiệm khoa Quản lý Đất đai – trường Đại học Tài nguyên và Môi

trường Hà Nội, đồng thời dưới sự hướng dẫn trực tiếp của Th.s Nguyễn Trọng
Trường Sơn em tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp trên địa bàn xã Đồng Sơn, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định”
2. Mục tiêu nghiên cứu
-Đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và xác định các
yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn xã Đồng
Sơn.
-So sánh và đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất chính trên địa
bàn xã Đồng Sơn.
-Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa
bàn xã Đồng Sơn.
3. Yêu cầu của đề tài
-Nghiên cứu các điều kiện tự nhiên, KT-XH đầy đủ và chính xác, các chỉ
tiêu phải đảm bảo tính thống nhất và tính hệ thống.
-Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp được áp dụng phương pháp
theo hệ thống tài khoản quốc gia với những chỉ tiêu phù hợp với điều kiện cụ
thể của xã.
-Các giải pháp đề xuất phải hợp lý về mặt khoa học và phải có tính khả
thi.

4


CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1.

Đất đai và vai trò của đất trong sản xuất nông nghiệp

1.1.1. Khái niệm về đất
Đất là một phần của vỏ trái đất, nó là lớp phủ lục địa mà bên dưới nó là

đá và khoáng sinh ra nó, bên trên là thảm thực bì và khí quyển. Đất là lớp phủ
thổ nhưỡng, là thổ quyển, là một vật thể tự nhiên, mà nguồn gốc của thể tự
nhiên đó là do hợp điểm của 4 thể tự nhiên khác của hành tinh là thạch quyển,
khí quyển, thủy quyển và sinh quyển. Sự tác động qua lại của bốn quyển trên
và thổ quyển có tính thường xuyên và cơ bản. Đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu liên quan đến những khái niệm về đất.
Nhà bác học Đocutraiep (1846-1903) người đặt nền móng đầu tiên cho
khoa học đất cho rằng. Đất là một vật thể có lịch sử tự nhiên hoàn toàn độc
lập, nó là sản phẩm tổng hợp của đá mẹ, khí hậu, sinh vật, địa hình và thời
gian. Đất được xem như một thể sống, nó luôn vận động, biến đổi và phát
triển, (Nguyễn Thế Đặng, Nguyễn Thế Hùng, 1999).
Những năm gần đây trên những tạp chí quốc tế đã xuất hiện một cụm từ
mới “land husbandry” và được hiểu là chúng ta phải nuôi dưỡng đất. Đất là
một vật thể sống cũng tuân thủ theo những quy luật sống, phát sinh, phát
triển, thoái hoá và già cỗi. Tùy thuộc vào thái độ ứng xử của con người đối
với đất mà đất có thể trở nên phì nhiêu hơn, cho năng suất cây trồng cao hơn
hay ngược lại.
Trong đánh giá đất theo FAO, đất đai được nhìn nhận là một yếu tố sinh
thái (FAO, 1976) có thể hiểu rộng ra rằng: đất đai bao gồm tất cả các thuộc
tính sinh học và tự nhiên của bề mặt trái đất có ảnh hưởng nhất định đến tiềm
năng và hiện trạng sử dụng đất, các thuộc tính đó bao gồm: khí hậu, dáng đất,
địa hình, địa mạo thổ nhưỡng, thực vật, thảm thực vật tự nhiên, cỏ dại trên
5


đồng ruộng, động vật tự nhiên và những biến đổi của đất do hoạt động của
con người (Đào Châu Thu,1998).
Như vậy đã có rất nhiều khái niệm và định nghĩa khác nhau về đất nhưng
khái niệm chung nhất có thể hiểu: Đất đai là một khoảng không gian có giới
hạn, theo chiều thẳng đứng gồm: lớp đất bề mặt, thảm thực vật, động vật, diện

tích mặt nước, mặt nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất theo chiều nằm
ngang - trên bề mặt đất, giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa hết sức to lớn đối
với hoạt động sản xuất và cuộc sống của xã hội loài người (Hội khoa học đất
Việt Nam, 2000).
* Khái niệm đất nông nghiệp: theo quan điểm truyền thống của người Việt
Nam thì đất nông nghiệp thường được hiểu là đất trồng lúa, trồng cây hoa
màu như: ngô, khoai, sắn... và những loại cây được coi là cây lương thực. Tuy
nhiên, trên thực tế việc sử dụng đất nông nghiệp tương đối phong phú, không
chỉ đơn thuần là để trồng lúa, hoa màu mà còn dùng vào mục đích chăn nuôi
gia súc, nuôi trồng thủy sản hay để trồng cây lâu năm.
Như vậy có thể nói: đất nông nghiệp (ký hiệu NNP) là đất sử dụng vào
mục đích sản xuất, nghiên cứu, thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi
trồng thủy sản, làm muối và mục đích bảo vệ, phát triển rừng. Đất nông
nghiệp bao gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khác (Bộ Tài nguyên và Môi Trường,
2007).
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của đất đai trong sản xuất nông nghiệp
Đất là khoảng không gian lãnh thổ cần thiết đối với mọi quá trình sản
xuất trong các ngành kinh tế quốc dân và hoạt động của con người. Nói về
tầm quan trọng của đất C.Mac viết: “Đất là một phòng thí nghiệm vĩ đại, kho
tàng cung cấp các tư liệu lao động, vật chất, là vị trí để định cư, là nền tảng
của tập thể” (C.Mac 1949).
6


Đối với nông nghiệp: đất đai là yếu tố tích cực của quá trình sản xuất là
điều kiện vật chất đồng thời là đối tượng lao động (luôn chịu tác động trong
quá trình sản xuất như: cầy, bừa, xới, xáo...) và là tư liệu sản xuất hay công cụ
lao động (sử dụng để trồng trọt, chăn nuôi...). Quá trình sản xuất luôn có mối
quan hệ chặt chẽ với độ phì nhiêu và quá trình sinh học tự nhiên của đất.

Thực tế cho thấy trong quá trình phát triển xã hội loài người, sự hình
thành và phát triển của mọi nền văn minh, các thành tựu khoa học công nghệ
đều được xây dụng trên nền tảng cơ bản - sử dụng đất. Trong nông nghiệp
ngoài vai trò là cơ sở không gian đất còn có hai chức năng đặc biệt quan
trọng:
+ Là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của con người trong quá trình
sản xuất.
+ Tham gia tích cực vào quá trình sản xuất, cung cấp cho cây trồng nước
muối khoáng, không khí và các chất dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng sinh
trưởng và phát triển của cây trồng. Như vậy, đất trở thành công cụ sản xuất.
Năng suất và chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào độ phì nhiêu của đất. Trong
tất cả các loại tư liệu sản xuất dùng trong nông nghiệp chỉ có đất mới có chức
năng này. Vì vậy có thể nói rằng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt
trong nông nghiệp.
1.2. Sử dụng đất và những nhân tố ảnh hưởng tới việc sử dụng đất
1.2.1. Sử dụng đất là gì?
Sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp nhằm điều hòa mối quan hệ
người - đất trong tổ hợp với nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi trường.
Căn cứ vào quy luật phát triển kinh tế xã hội cùng với yêu cầu không ngừng
ổn định và bền vững về mặt sinh thái, quyết định phương hướng chung và
mục tiêu sử dụng đất hợp lý nhất là tài nguyên đất đai, phát huy tối đa công
dụng của đất nhằm đạt tới hiệu ích sinh thái, kinh tế, xã hội cao nhất. Vì vậy,
7


sử dụng đất thuộc phạm trù hoạt động kinh tế của nhân loại. Trong mỗi
phương thức sản xuất nhất định, việc sử dụng đất theo yêu cầu của sản xuất
và đời sống cần căn cứ vào thuộc tính tự nhiên của đất đai. Với vai trò là nhân
tố sản xuất, các nhiệm vụ và nội dung sử dụng đất đai được thể hiện ở các
khía cạnh sau:

Sử dụng đất hợp lý về không gian, hình thành hiệu quả kinh tế không
gian sử dụng đất.
Phân phối hợp lý cơ cấu đất đai trên diện tích đất đai được sử dụng, hình
thành cơ cấu kinh tế sử dụng đất.
Quy mô sử dụng đất cần có sự tập trung thích hợp, hình thành quy mô
kinh tế sử dụng đất.
Giữ mật độ sử dụng đất đai thích hợp, hình thành việc sử dụng đất đai
một cách kinh tế, tập trung, thâm canh.
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng nông nghiệp
a. Nhóm yếu tố về điều kiện tự nhiên.
Điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu, thời tiết...) có ảnh hưởng trực tiếp
đến sản xuất nông nghiệp. Bởi các yếu tố của điều kiện tự nhiên là tài nguyên
để sinh vật tạo nên sinh khối. Do vậy, cần đánh giá đúng điều kiện tự nhiên
trên cơ sở đó xác định cây trồng vật nuôi chủ lực phù hợp và định hướng đầu
tư thâm canh đung.
Theo Mác, điều kiện tự nhiên là cơ sở hình thành địa tô chênh lệch I.
Theo N.Borlang - người được giải Noben về giải quyết lương thực cho các
nước phát triển cho rằng: yếu tố duy nhất quan trọng hạn chế năng suất cây
trồng ở tầm cỡ thế giới của các nước đang phát triển, đặc biệt đối với nông
dân thiếu vốn là độ phì của đất.
Điều kiện về đất đai, khí hậu thời tiết có ý nghĩa quan trọng đối với sản
xuất nông nghiệp. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, các hộ nông dân có thể
8


lợi dụng những yếu tố đầu vào trong kinh tế, thuận lợi để tạo ra nông sản hàng
hoá với giá rẻ.
Sản xuất nông nghiệp là ngành kinh doanh năng lượng ánh sáng mặt trời
dựa trên các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác.
- Yếu tố khí hậu

Thực vật nói chung và cây trồng nói riêng muốn sống, sinh trưởng và
phát triển đòi hỏi phải có đầy đủ các yếu tố sinh trưởng là ánh sáng, nhiệt độ,
không khí nước và dinh dưỡng. Trong đó, ánh sáng, nhiệt độ, lượng mưa và
độ ẩm không khí chính là các yếu tố khí hậu. Chính vì thế, khí hậu là một
trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng, năng suất và sản
lượng cây trồng, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Tuy nhiên, vì sự khác biệt về vĩ
độ địa lý và địa hình nên khí hậu có khuynh hướng khác biệt nhau khá rõ nét
theo từng vùng. Miền bắc có nhiệt độ trung bình 22,2 - 23,50C, lượng mưa
trung bình từ 1.500 - 2.400 mm, tổng số giờ nắng từ 1.650 - 1.750 giờ/năm.
Trong khi đó, ở miền nam khí hậu mang tính chất xích đạo, nhiệt độ trung
bình 22,6 - 27,50C, lượng mưa trung bình 1.400 - 2.400 mm, nắng trên 2.000
giờ/năm.
Khí hậu là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến việc phân bố các
loại cây trồng, cũng như thời vụ cây trồng trong sản xuất nông nghiệp. Nếu
như ở trung du và miền núi phía Bắc có thể trồng mận, hồng, đào, chuối, đậu
côve, súp lơ xanh... ở đồng bằng sông Hồng có thể trồng các loại rau vụ đông
có nguồn gốc ôn đới... thì ở đồng bằng sông Cửu Long có thể trồng cây đặc
sản như sầu riêng, măng cụt... hay miền Đông Nam bộ có thể trồng chôm
chôm, trái bơ, và Tây Nguyên trồng cây công nghiệp lâu năm cao su, cà phê,
điều là những cây nhiệt đới điển hình.

9


Yếu tố khí hậu nhiều khi ảnh hưởng rõ nét đến hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp với các mức độ khác nhau. Ở đồng bằng sông Hồng và Bắc
Trung bộ, nhiệt độ thấp vào vụ đông và thời kỳ đầu vụ xuân kèm theo ẩm ướt,
mưa phùn, thiếu ánh sáng làm hạn chế sinh trưởng và phát triển của cây trồng
ưa nắng, ưa nhiệt nhưng lại phù hợp cho cây trồng ưa lạnh có nguồn gốc ôn

đới. Trời âm u thiếu ánh sáng cũng là điều kiện cho sâu bệnh phát triển phá
hại mùa màng.
- Yếu tố đất đai.
Cùng với khí hậu, đất tạo nên môi trường sống của cây trồng. Đất trồng
với các đặc tính như loại đất, thành phần cơ giới, chế độ nước, độ phì, có vai
trò quan trọng đối với sự sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây trồng,
ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Đất giữ cây đứng vững trong không gian, cung cấp cho cây các yếu tố
sinh trưởng như nước, dinh dưỡng và không khí. Độ phì là một trong những
yếu tố quan trọng nhất của đất. Vị trí từng mảnh đất có ảnh hưởng đến quá
trình hình thành độ phì của đất. Độ phì nhiêu của đất liên quan trực tiếp đến
năng suất cây trồng. Do vậy, tuỳ theo vị trí địa hình, chất đất mà lựa chọn, bố
trí cây trồng thích hợp trên từng loại đất mới cho năng suất, hiệu quả sử dụng
đất cao.
- Yếu tố cây trồng.
Trong sử dụng đất nông nghiệp, cây trồng là yếu tố trung tâm. Con người
hưởng lợi trực tiếp từ những sản phẩm của cây trồng. Những sản phẩm này
cung cấp lương thực cho các nhu cầu thiết yếu cho con người và cho xuất
khẩu.
Việc bố trí cây trồng và kiểu sử dụng đất hợp lý trên đất đem lại những
giá trị cao về mặt hiệu quả cho cả người sản xuất và môi trường đất.

10


Ngược lại, nếu cây trồng được bố trí bất hợp lý, sử dụng đất bừa bãi không
những gây thất thu cho người nông dân mà còn ảnh hưởng xấu đến đất.
Ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của những tiến bộ khoa học, kỹ
thuật, các giống cây trồng mới với chất lượng và năng suất cao, thời gian sinh
trưởng ngắn xuất hiện ngày càng nhiều. Sản xuất nông nghiệp hàng hoá phát

triển gắn với việc tăng hệ số sử dụng đất. Vì vậy, những tiến bộ trong công tác
giống cây trồng đã tạo cơ hội cho việc phát triển nông nghiệp hàng hoá.
b. Nhóm yếu tố về điều kiện kinh tế, xã hội
- Yếu tố con người.
Con người là nhân tố tác động trực tiếp tới đất và hưởng lợi từ đất. Khi
dân số còn thấp, trình độ và nhu cầu thấp, việc khai thác quỹ đất nông nghiệp
còn ở mức hạn chế, hiệu quả không cao nhưng sự bền vững trong sử dụng đất
nông nghiệp được đảm bảo. Ngược lại, ngày nay khi dân số tăng nhanh kéo
theo sự gia tăng các nhu cầu thì tài nguyên đất nông nghiệp bị khai thác
nhiều, triệt để hơn nhằm đạt năng suất và hiệu quả cao hơn. Vì vậy, quy luật
sinh thái và tự nhiên bị xâm phạm, tính bền vững tài nguyên đất kém hơn .
Việc đảm bảo cân bằng giữa sử dụng và bảo vệ đất trở thành vấn đề cấp thiết.
Đối với các hoạt động kinh tế nói chung, sản xuất nông nghiệp nói
riêng, dân số vừa là thị trường của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, vừa là
nguồn cung về lao động cho sản xuất. Các hoạt động kinh tế sẽ không thể
phát triển nếu không có thị trường tiêu thụ các sản phẩm do chúng tạo ra. Đặc
biệt, đối với một nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá thì điều này lại càng trở
nên quan trọng.
Chất lượng nguồn lao động cũng đóng vai trò quan trọng trong các hoạt
động sản xuất nông nghiệp. Nếu người nông dân có kinh nghiệm, kỹ thuật, có
ý thức trong sản xuất thì việc sử dụng đất nông nghiệp sẽ đạt hiệu quả cao.

11


- Yếu tố kinh tế.
Đối với mỗi quốc gia, mức độ phát triển của nền kinh tế quốc dân có
ảnh hưởng lớn đến các hoạt động sản xuất nói chung và sử dụng đất nông
nghiệp nói riêng và ngược lại. Nếu sử dụng đất có hiệu quả sẽ góp phần thúc
đẩy nền kinh tế phát triển. Khi kinh tế phát triển là tiền đề cho quá trình sử

dụng đất đạt được hiệu quả cao hơn, thông qua việc đầu tư, áp dụng tiến bộ kỹ
thuật, công nghệ cao, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm cây trồng.
Cơ chế chính sách.
Do có tầm quan trọng đặc biệt nên nông nghiệp, nông thôn luôn giành
được những ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Trong mỗi
nền kinh tế, người nông dân tiến hành sản xuất, kinh doanh ở những điều kiện
khác nhau, đặc biệt là các điều kiện về tự nhiên và kinh tế, gây ra bất bình
đẳng về thu nhập. Mặt khác, thị trường luôn hàm chứa các hoạt động cạnh
tranh không lành mạnh dẫn đến một số người giàu lên do có những việc làm
bất chính. Vì vậy, nhà nước cần can thiệp vào thị trường thông qua những
chính sách có tính chất trợ giúp và phân phối lại thu nhập nhằm đảm bảo sự
công bằng xã hội. Các chính sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn, chính
sách tín dụng nông thôn, chính sách về giải quyết việc làm và xoá đói giảm
nghèo, khuyến nông...thực sự đã giúp ích rất nhiều trong quá trình sử dụng
đất nông nghiệp của những người nông dân.
Trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp hàng hoá,
người nông dân thường chịu thiệt thòi do hạn chế về kiến thức thị trường,
thông tin thị trường, sức mua... hơn nữa các hiệu ứng tràn ra ngoài trong sản
xuất nông nghiệp cũng làm cho sản xuất không hiệu quả: việc sử dụng bừa bãi
phân hoá học thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ... có tác động tiêu cực đến môi
trường, nguồn nước không khí và đất. Do vậy, việc Nhà nước can thiệp bằng
các chính sách và pháp luật thích hợp đã tạo điều kiện, khuyến khích, hướng
12


dẫn sản xuất nông nghiệp và đảm bảo tính bền vững của các yếu tố nguồn lực
trong sản xuất nông nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp.
Cũng bằng các chính sách thích hợp, sử dụng đất nông nghiệp được đảm
bảo ổn định và lâu dài. Trong những năm qua, Chính phủ đã không ngừng ban

hành sửa đổi và bổ sung những chủ trương, chính sách về đất đai nhằm mục
đích thúc đẩy sự phát triển sản xuất nông nghiệp nông thôn. Luật đất đai sửa
đổi (chính thức có hiệu lực vào ngày 1/7/2003) đã thể chế hoá và nới rộng
quyền của người sử dụng đất. Đây là một chính sách khuyến khích người
nông dân đầu tư vào sản xuất dài hạn, thay đổi cơ cấu cây trồng nhằm phát
triển sản xuất hàng hoá một cách có hiệu quả. Mặc dù đất đai thuộc sở hữu
toàn dân nhưng pháp luật công nhận quyền sử dụng lâu dài đối với đất. Người
sử dụng đất không chỉ được quyền sử dụng lâu dài mà còn được quyền thừa
kế những đầu tư trên đất. Điều đó đã trở thành động lực quan trọng trong phát
triển nông nghiệp. Nó làm cho người nông dân yên tâm đầu tư trên đất, sử
dụng đất nông nghiệp một cách chủ động và hiệu quả, phát huy được lợi thế
so sánh của từng vùng, từng miền. Thực tế cho thấy, chính sách về đất đai
thông thoáng sẽ là cơ sở để hình thành các phương thức sản xuất mới như
thâm canh, tăng vụ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác, đặc biệt là sử
dụng để sản xuất cây trồng có giá trị hàng hoá cao. Các quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất nông nghiệp cũng là cơ sở để phát triển hệ thống cây trồng, vật
nuôi và khai thác đất một cách đầy đủ và hợp lý, đồng thời tạo điều kiện thuận
lợi để đầu tư thâm canh và tiến hành tập trung hoá, chuyên môn hoá, hiện đại
hoá nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
c. Nhóm yếu tố các biện pháp kỹ thuật canh tác.
Biện pháp kỹ thuật canh tác là tác động của con người vào đất đai, cây
trồng vật nuôi, nhằm tạo nên sự hài hoà giữa các yếu tố của quá trình sản xuất
13


để hình thành, phân bố và tích luỹ năng suất kinh tế. Đây là những vấn đề thể
hiện sự hiểu biết về đối tượng sản xuất, về thời tiết, về điều kiện môi trường
và thể hiện những dự báo thông minh của người sản xuất. Lựa chọn các tác
động kỹ thuật, lựa chọn chủng loại và cách sử dụng các đầu vào phù hợp với
các quy luật tự nhiên của sinh vật nhằm đạt được các mục tiêu đề ra là cơ sở

để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá. Theo Frank Elli và Douglass
C.North, ở các nước phát triển, khi có tác động tích cực của kỹ thuật, giống
mới, thuỷ lợi, phân bón tới hiệu quả thì cũng đặt ra yêu cầu mới đối với tổ
chức sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công nghệ sản xuất tiến bộ là một
đảm bảo vật chất cho kinh tế nông nghiệp tăng trưởng nhanh dựa trên việc
chuyển đổi sử dụng đất. Cho đến giữa thế kỷ 20, trong nông nghiệp nước ta
các quy trình kỹ thuật đã đóng góp đến 30%

năng suất kinh tế. Như vậy

nhóm các biện pháp kỹ thuật đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong quá trình
khai thác đất theo chiều sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Khoa học kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Cải tiến kỹ thuật trước hết làm tăng
cung về hàng hoá nông sản, cũng tức là làm phát triển kinh tế. Áp dụng khoa
học (kiến thức), kỹ thuật (công cụ), công nghệ (kỹ năng) để tăng năng suất,
hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn
một cách bền vững. Thông qua việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất nông nghiệp như giống cây trồng vật nuôi mới, các quy trình kỹ
thuật trong canh tác, trong chế biến bảo quản…làm tăng năng suất, chất lượng
cây trồng vật nuôi, tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực như đất đai, lao động,
vốn.
Lựa chọn các tác động khoa học kỹ thuật, lựa chọn chủng loại và cách
sử dụng các đầu vào phù hợp với các quy luật tự nhiên của sinh vật sẽ đạt
được mục tiêu đề ra.
14


1.3. Loại hình sử dụng đất, phương pháp đánh giá hiệu quả loại hình sử
dụng đất.

1.3.1. Khái niệm về loại hình sử dụng đất.
Loại hình sử dụng đất là bức tranh mô tả thực trạng sử dụng đất của một
vùng đất với những phương thức quản lý sản xuất trong các điều kiện kinh tế
xã hội và kỹ thuật được xác định.
Những loại hình sử dụng đất này có thể hiểu theo nghĩa rộng là các loại
hình sử dụng đất chính (Major type of land use), hoặc có thể được mô tả chi
tiết hơn với khái niệm là các loại hình sử dụng đất (Land use type, LUT).
* Loại hình sử dụng đất chính: là sự phân nhỏ của sử dụng đất trong khu
vực hoặc vùng nông lâm nghiệp, chủ yếu dựa trên cơ sở của sản xuất các cây
trồng hàng năm, lâu năm, lúa, đồng cỏ, rừng.
Tuy nhiên trong trong đánh giá đất (LE), nếu chỉ xem xét việc sử dụng
đất qua các loại hình sử dụng đất chính thì chưa đủ, vì chúng chưa phản ánh
được:
Những loại cây trồng hay những giống loài cây gì được trồng? Điều này
rất quan trọng vì mỗi loài, giống cây khác nhau sẽ đòi hỏi điều kiện đất đai
khác nhau.
Các loại phân bón được dùng đã đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của các
loại cây trồng chưa? Đôi khi việc sử dụng phân bón không hợp lý còn làm
giảm độ phì đất hoặc chưa ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của việc sử dụng
đất đó.
Để trả lời được những vấn đề trên, cần phải có những mô tả chi tiết hơn
trong việc sử dụng đất, vì vậy một khái niệm “Loại hình sử dụng đất” (LUT)
được đề cập đến trong LE.

15


* Loại hình sử dụng sử dụng đất (Land Use Type - LUT): là loại hình đặc
biệt của sử dụng đất được mô tả theo các thuộc tính nhất định. Theo
H.Hulzing (1993) các thuộc tính đó bao gồm:

Thuộc tính sinh học: các sản phẩm và lợi ích khác.
Thuộc tính kinh tế - xã hội: định hướng thị trường, khả năng vốn, khả
năng lao động; kĩ thuật, kiến thức và quan điểm.
Thuộc tính kỹ thuật và quản lý: sở hữu đất đai và quy mô quản lý đất;
sức kéo/cơ giới hóa; các đặc điểm trồng trọt, đầu tư vật tư, công nghệ được sử
dụng năng suất và sản lượng; thông tin kinh tế có liên quan đến đầu vào và
đầu ra.
Thuộc tính về cơ sở hạ tầng: các yêu cầu về hạ tầng cơ sở.
Không phải tất cả các thuộc tính trên đều được đề cập đến như nhau
trong trong các dự án LE mà việc lựa chọn các thuộc tính và mức độ mô tả
chi tiết phụ thuộc vào tình hình sử dụng đất của địa phương cũng như cấp độ,
yêu cầu chi tiết và mục tiêu của mỗi dự án LE khác.
1.3.2. Sự cần thiết phải đánh giá hiệu quả sử dụng đất.
Đất nông nghiệp là một tài nguyên quan trọng đối với sự tồn tại và phát
triển của mỗi quốc gia. Muốn quy hoạch và sử dụng nguồn tài nguyên đất này
một cách hiệu quả, cần đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng đất để tìm ra lời
giải cho các vấn đề như: diện tích các loại đất nông nghiệp bằng bao nhiêu?
Cơ cấu mỗi loại đất như thế nào? Đất nông nghiệp đang được sử dụng ra sao?
Hiệu quả sử dụng cao hay thấp? Những nhân tố nào ảnh hưởng đến hiệu quả
sử dụng đất nông nghiệp? Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp.
Việt Nam là một nước nông nghiệp, diện tích đất nông nghiệp có vai trò
đặc biệt quan trọng. Trong những năm qua dù đã có nhiều đổi mới phù hợp
với điều kiện thực tế hơn, diện tích đất nông nghiệp có sự tăng đáng kể theo
16


thời gian, song diện tích đất lúa lại giảm đi, kèm theo đó công tác quy hoạch
sử dụng đất, đặc biệt là đất nông nghiệp vẫn còn nhiều bất cập, dẫn đến hiệu
quả sử dụng đất thấp, gây lãng phí lớn. Nhiều diện tích đất nông nghiệp đã

chuyển mục đích sử dụng nhưng vẫn bỏ hoang trong khi có biết bao nhiêu
người dân phải rơi vào cảnh thiếu đất sản xuất.
Cũng do việc quản lý và sử dụng còn nhiều bất cập nên nguồn thu từ đất
đai cũng rất hạn chế. Theo báo cáo Bộ tài chính, thuế đất không tạo ra nguồn
thu đáng kể, tổng các nguồn thu từ đất của nước ta chỉ chiếm khoảng từ 5 8% tổng thu ngân sách nhà nước, trong đó chủ yếu là tiền sử dụng đất. Đây là
mức thấp so với các nước trên thế giới. Giải quyết tận gốc vấn đề này để
nguồn tài nguyên đất thực sự phát huy hiệu quả, trở thành động lực cho việc
phát triển kinh tế - xã hội đang là nhiệm vụ cấp bách hiện nay, năng lực quản
lý đất đai đã được đề cập chi tiết. Năm 2012, Tổng Bí Thư Nguyễn Phú Trọng
đã ký ban hành Nghị quyết 19-NQ/TƯ - Nghị quyết hội nghị lần thứ sáu Ban
Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về "Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp
luật về đất đai". Nghị quyết nêu rõ: “Đẩy mạnh công tác điều tra, đánh giá
chất lượng tiềm năng đất đai đáp ứng yêu cầu quản lý, sử dụng đất, ứng phó
với biến đổi khí hậu và phát triển bền vững. Phổ biến, giáo dục chính sách,
pháp luật đất đai cho cộng đồng. "Ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu, hạ
tầng thông tin về đất đai, công khai, minh bạch, phục vụ đa mục tiêu…".
Nội dung, Nghị quyết cho thấy, hơn lúc nào hết, nâng cao hiệu quả công
tác quản lý đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng cần được coi là
nhiệm vụ cấp bách. Việc tìm kiếm các giải pháp đồng bộ, tăng cường áp dụng
khoa học kỹ thuật để nâng cao chuỗi giá trị sản phẩm, cải thiện thu nhập từ
đất nông nghiệp cho người dân… để người nông dân yên tâm sản xuất trên
đất nông nghiệp, sống được bằng nghề nông là hết sức cần thiết.

17


Để lựa chọn được những giải pháp và thứ tự ưu tiên cho mỗi giải pháp,
đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là một việc có ý nghĩa quan trọng,
có chất quyết định. Phải dựa trên bức tranh thực trạng về hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp mỗi địa phương, mỗi quốc gia mới có thể hoạch định được chính

sách phù hợp, hiệu quả.
Đánh giá hiệu quả mỗi loại hình sử dụng đất là một việc làm cụ thể và có
ý nghĩa, giúp cho các địa phương lựa chọn được những phương án sản xuất
kinh doanh, vừa mang lại thu nhập cao, ổn định, tăng khả năng ứng phó biến
đổi khí hậu, vừa giảm bớt các nguy cơ làm giảm suy thoái môi trường.
1.3.2.1. Khái niệm về hiệu quả sử dụng đất
Có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả. Trước đây, người ta thường
quan niệm kết quả chính là hiệu quả. Sau này, người ta nhận thấy rõ sự khác
nhau giữa hiệu quả và kết quả. Nói một cách tổng quát và chung nhất thì hiệu
quả chính là kết quả như yêu cầu của công việc mang lại.
Hiệu quả là kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ
đợi hướng tới nó có những nội dung khác nhau. Trong sản xuất, hiệu quả có
nghĩa là hiệu suất, là năng suất. Trong kinh doanh, hiệu quả là lãi suất, lợi
nhuận. Trong lao động nói chung, hiệu quả là năng suất lao động được đánh
giá bằng số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, hoặc
bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian.
Kết quả, mà là kết quả hữu ích là một đại lượng vật chất tạo ra do mục
đích của con người, được biểu hiện bằng những chỉ tiêu cụ thể, xác định. Do
tính chất mâu thuẫn giữa nguồn tài nguyên hữu hạn với nhu cầu tăng lên của
con người mà ta phải xem xét kết quả đó được tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ
ra bao nhiêu? Có đưa lại kết quả hữu ích hay không? Chính vì vậy khi đánh
giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ dừng lại ở việc đánh giá

18


kết quả mà phải đánh giá chất lượng hoạt động tạo ra sản phẩm đó. Đánh giá
chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh là nội dung của đánh giá hiệu quả.
Từ những khái niệm chung về hiệu quả, ta xem xét trong lĩnh vực sử
dụng đất thì hiệu quả là chỉ tiêu chất lượng đánh giá kết quả sử dụng đất trong

hoạt động kinh tế, thể hiện qua lượng sản phẩm, lượng giá trị thu được bằng
tiền. Đồng thời về mặt hiệu quả xã hội là thể hiện mức thu hút lao động trong
quá trình hoạt động kinh tế để khai thác sử dụng đất. Riêng đối với ngành
nông nghiệp, cùng với hiệu quả kinh tế về giá trị và hiệu quả về mặt sử dụng
lao động trong nhiều trường hợp phải coi trọng hiệu quả về mặt hiện vật là
sản lượng nông sản thu hoạch được, nhất là các loại nông sản cơ bản có ý
nghĩa chiến lược (lương thực, sản phẩm xuất khẩu…) để đảm bảo sự ổn định
về kinh tế - xã hội đất nước.
Như vậy, hiệu quả sử dụng đất là kết quả của cả một hệ thống các biện
pháp tổ chức sản xuất, khoa học, kỹ thuật, quản lý kinh tế và phát huy các lợi
thế, khắc phục các khó khăn khách quan của điều kiện tự nhiên, trong những
hoàn cảnh cụ thể còn gắn sản xuất nông nghiệp với các ngành khác của nền
kinh tế quốc dân, gắn sản xuất trong nước với thị trường quốc tế.
Hiện nay, các nhà khoa học đều cho rằng vấn đề đánh giá hiệu quả sử
dụng đất không chỉ xem xét đơn thuần ở một mặt hay một khía cạnh nào đó
mà phải xem xét trên tổng thể các mặt bao gồm: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã
hội và hiệu quả môi trường.
* Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là phạm trù chung nhất, nó liên quan trực tiếp tới nền
sản xuất hàng hoá với tất cả các phạm trù và các quy luật kinh tế khác nhau.
Vì thế, hiệu quả kinh tế phải đáp ứng được 3 vấn đề:
Một là mọi hoạt động của con người đều phải quan tâm và tuân theo quy
luật “tiết kiệm thời gian”.
19


Hai là hiệu quả kinh tế phải được xem xét trên quan điểm của lý thuyết
hệ thống.
Ba là hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của các
hoạt động kinh tế bằng quá trình tăng cường các nguồn lực sẵn có phục vụ các

lợi ích của con người.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết
quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết
quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra
là phần giá trị của nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xem xét cả về
phần so sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ
giữa hai đại lượng đó.
Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng: Bản chất của phạm trù kinh tế
sử dụng đất là “với một diện tích đất đai nhất định sản xuất ra một khối lượng
của cải vật chất nhiều nhất với một lượng chi phí về vật chất và lao động thấp
nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội”.
Hệ thống các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế:
Bản chất của hiệu quả là mối quan hệ giữa kết quả và chi phí. Mối quan
hệ này là mối quan hệ hiệu số hoặc là quan hệ thương số, nên dạng tổng quát
của hệ thống chỉ tiêu hiệu quả sẽ là:
H = K - C H = K/C
H = (K - C)/C
H = (K1 - K0)/(C1 - C0)
Trong đó:
+ H: Hiệu quả
+ K: Kết quả
+ C: Chi phí
+ 1, 0 là chỉ số thời gian (năm)
20


+ Hiệu quả kinh tế tính trên 1 ha đất nông nghiệp
Giá trị sản xuất (GTSX): Là toàn bộ giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ
được tạo ra trong 1 kỳ nhất định (thường là một năm).
Chi phí trung gian (CPTG): Là toàn bộ các khoản chi phí vật chất thường

xuyên bằng tiền mà chủ thể bỏ ra để thuê và mua các yếu tố đầu vào và dịch
vụ sử dụng trong quá trình sản xuất.
Giá trị gia tăng ( GTGT)
Giá trị gia tăng được tính theo công thức: GTGT = GTSX - CPTG
Hiệu quả đồng vốn (H): H = GTGT/CPSX
+ Hiệu quả kinh tế tính trên 1 đồng chi phí trung gian (GTSX/CPTG
GTGT/CPTG): Đây là chỉ tiêu tương đối của hiệu quả, nó chỉ ra hiệu quả sử
dụng các chi phí biến đổi và thu dịch vụ.
+ Hiệu quả kinh tế trên ngày công lao động quy đổi, gồm có (GTSX/LĐ
GTGT/LĐ). Thực chất là đánh giá kết quả đầu tư lao động sống cho từng kiểu
sử dụng đất và từng cây trồng cơ sở để so sánh với chi phí cơ hội của người
lao động.
* Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã
hội và tổng chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ
mật thiết với nhau và là một phạm trù thống nhất. Theo Nguyễn Duy Tính
(1995), hiệu quả về mặt xã hội của sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác
định bằng khả năng tạo việc làm trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp.
Hiệu quả xã hội được thể hiện thông qua mức thu hút lao động, thu nhập
của nhân dân... Hiệu quả xã hội cao góp phần thúc đẩy xã hội phát triển, phát
huy được nguồn lực của địa phương, nâng cao mức sống của nhân dân. Sử
dụng đất phải phù hợp với tập quán, nền văn hoá của địa phương thì việc sử
dụng đất bền vững hơn. Hiệu quả xã hội được phân tích bởi các chỉ tiêu sau:
21


+ Đảm bảo an toàn lương thực, gia tăng lợi ích của người nông dân.
+ Đáp ứng mục tiêu chiến lược phát triển của vùng.
+ Thu hút nhiều lao động, giải quyết công ăn việc làm cho nông dân.
+ Góp phần định canh định cư, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật.

* Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường được thể hiện ở chỗ: Loại hình sử dụng đất phải
bảo vệ được độ màu mỡ của đất đai, ngăn chặn được sự thoái hoá đất bảo vệ
môi trường sinh thái. Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái
(>35%) đa dạng sinh học biểu hiện qua thành phần loài.
Trong thực tế, tác động của môi trường sinh thái diễn ra rất phức tạp và
theo chiều hướng khác nhau. Cây trồng phát triển tốt khi phù hợp với đặc
tính, tính chất của đất. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất dưới tác động của
các hoạt động sản xuất, phương thức quản lý của con người, hệ thống cây
trồng sẽ tạo nên những ảnh hưởng rất khác nhau đến môi trường.
Hiệu quả môi trường được phân ra theo nguyên nhân gây nên gồm: hiệu
quả hoá học, hiệu quả vật lý và hiệu quả sinh học môi trường.
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả hoá học môi trường được đánh giá
thông qua mức độ sử dụng các chất hoá học trong nông nghiệp. Đó là việc sử
dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình sản xuất đảm bảo cho
cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất cao và không gây ô
nhiễm môi trường.
Hiệu quả sinh học môi trường được thể hiện qua mối tác động qua lại
giữa cây trồng với đất, giữa cây trồng với các loại dịch hại nhằm giảm thiểu
việc sử dụng hoá chất trong nông nghiệp mà vẫn đạt được mục tiêu đề ra.
Hiệu quả vật lý môi trường được thể hiện thông qua việc lợi dụng tốt
nhất tài nguyên khí hậu như ánh sáng, nhiệt độ, nước mưa của các kiểu sử
dụng đất để đạt được sản lượng cao và tiết kiệm chi phí đầu vào.
22


Theo Đỗ Nguyên Hải, (1999) chỉ tiêu đánh giá chất lượng môi trường
trong quản lý sử dụng đất bền vững ở vùng nông nghiệp được tưới là: Quản lý
đối với đất đai rừng đầu nguồn; Đánh giá các tài nguyên nước bền vững;
Đánh giá quản lý đất đai; Đánh giá hệ thống cây trồng; Đánh giá về tính bền

vững đối với việc duy trì độ phì nhiêu của đất và bảo vệ cây trồng; Đánh giá
về quản lý và bảo vệ tự nhiên; Sự thích hợp của môi trường đất khi thay đổi
kiểu sử dụng đất.
Việc xác định hiệu quả về mặt môi trường của quá trình sử dụng đất
nông nghiệp là rất phức tạp, rất khó định lượng, nó đòi hỏi phải được nghiên
cứu, phân tích trong thời gian dài. Vì vậy, đề tài nghiên cứu của chúng tôi chỉ
dừng lại ở việc đánh giá hiệu quả môi trường thông qua kết quả điều tra về
việc đầu tư phân bón thuốc bảo vệ thực vật và nhận xét của nông dân đối với
các loại hình sử dụng đất hiện tại.
Khi đánh giá một kiểu sử dụng đất hay một loại hình sử dụng đất về mặt
xã hội phải xét đến những yêu cầu sau: Đảm bảo an ninh lương thực; Phải
được sự chấp nhận và ủng hộ của người dân; Giải quyết công ăn việc làm cho
người lao động địa phương; Phải đảm bảo đời sống, tăng thu nhập cho người
lao động (xét trên cơ sở: số công lao động, giá trị ngày công lao động); Trình
độ dân trí, trình độ hiểu biết khoa học kỹ thuật: khả năng ứng dụng tiến bộ
khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
1.3.3. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất
Tuỳ theo nội dung của hiệu quả mà có những tiêu chuẩn đánh giá hiệu
quả khác nhau ở mỗi thời kỳ phát triển kinh tế - xã hội khác nhau. Theo đa số
các nhà kinh tế cho rằng, tiêu chuẩn cơ bản và tổng quát khi đánh giá hiệu quả
là mức độ đáp ứng nhu cầu xã hội và sự tiết kiệm lớn nhất về chi phí các
nguồn tài nguyên, sự ổn định lâu dài của hiệu quả.

23


Trên cơ sở đó, tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp có
thể xem xét ở các mặt sau:
+ Đối với nông nghiệp, tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả là mức đạt được
các mục tiêu kinh tế - xã hội, môi trường do xã hội đặt ra như: tăng năng suất

cây trồng vật nuôi, tăng chất lượng và tổng sản phẩm hướng tới thoả mãn tốt
nhun cầu nông sản cho thị trường trong nước và tăng xuất khẩu, đồng thời đáp
ứng yêu cầu về bảo vệ hệ sinh thái nông nghiệp bền vững.
+ Sử dụng đất phải đảm bảo cực tiểu hoá chi phí các yếu tố đầu vào, theo
nguyên tắc tiết kiệm khi cần sản xuất ra một lượng nông sản nhất định, hoặc
thực hiện cực đại hoá lượng nông sản khi có mọt lượng nhất định đất nông
nghiệp và các yếu tố đầu vào khác.
+ Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp có đặc thù riêng, trên 1 đơn
vị đất nông nghiệp nhất định có thể sản xuất sẽ đạt được kết quả cao nhất với
chi phí bỏ ra ít nhất và hạn chế ảnh hưởng môi trường. Đó là phản ánh kết quả
quá trình đầu tư sử dụng các nguồn lực thông qua đất, cây trồng, thực hiện
quá trình sinh học để tạo ra những sản phẩm đáp ứng nhu cầu của thị trường
xã hội với hiệu quả cao.
+ Tiêu chuẩn đảm bảo hợp tác trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, trong
cung cấp tư liệu sản xuất, xử lý chất thải có hiệu quả.
+ Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp có ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất
ngành nông nghiệp, đến hệ thống môi trường sinh thái nông nghiệp, đến
những người sống bằng nông nghiệp. Vì vậy, đánh giá hiệu quả sử dụng đất
phải theo quan điểm sử dụng bền vững hướng vào 3 tiêu chuẩn chung như
sau:
Bền vững về mặt kinh tế: Hệ thống cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao
phát triển ổn định, được thị trường chấp nhận. Do đó, phát triển sản xuất nông
nghiệp là thực hiện tập trung, chuyên canh kết hợp với đa dạng hoá sản phẩm.
24


Bền vững về mặt xã hội: Thu hút nguồn lao động trong nông nghiệp,
tăng thu nhập, tăng năng suất lao động, đảm bảo đời sống xã hội.
Bảo vệ về môi trường: Loại hình sử dụng đất có hiệu quả cao phải bảo vệ
độ phì đất, ngăn ngừa sự thoái hoá về độ phì đất, ngăn ngừa sự thoái hoá đất,

bảo vệ môi trường tự nhiên.

25


×