Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

BÁO CÁO THU HOẠCH THỰC TẬP THIÊN NHIÊN: TÌM HIỂU ĐA DẠNG SINH HỌC CỦA DƯƠNG XỈ Ở KHU VỰC THỰC TẬP, VAI TRÒ CỦA DƯƠNG XỈ ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG KHU VỰC THỰC TẬP VÀ ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP BẢO TỒN VÀ QUẢN LÝ NHÓM SINH VẬT NÀY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.23 MB, 58 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG HÀ NỘI
KHOA MÔI TRƯỜNG
---------------

BÁO CÁO THU HOẠCH
THỰC TẬP THIÊN NHIÊN

Chuyên đề: TÌM HIỂU ĐA DẠNG SINH HỌC CỦA DƯƠNG XỈ Ở KHU VỰC
THỰC TẬP, VAI TRÒ CỦA DƯƠNG XỈ ĐỐI VỚI MÔI TRƯỜNG KHU VỰC THỰC
TẬP VÀ ĐỀ XUẤT CÁC BIỆN PHÁP BẢO TỒN VÀ QUẢN LÝ NHÓM SINH VẬT
NÀY

Sinh viên:

Lớp
Nhóm

Hoàng Minh Thảo
Nguyễn Vũ Linh
Hoàng Thị Oanh
Hà Thị Lê
Nguyễn Thị Thu Hoài
: ĐH5QM1
: 2

Hà Nội, 6/2017


MỤC LỤC



MỞ ĐẦU
Một chuyên đề thực tập thiên nhiên tuy không dài nhưng cũng phần nào giúp
sinh viên tích luỹ được một phần kinh nghiệm, được tìm hiểu thực tế, được làm việc
trong một môi trường mới, một không gian hoàn toàn khác lớp học.Bên cạnh đó, các
sinh viên được được đồng hành cùng nghiên cứu, giúp đỡ, chia sẻ những điều mới với
nhau. Do vậy, chuyên đề thực tập thiên nhiên đối với sinh viên nói chung và sinh viên
ngành Quản lý Tài nguyên và Môi trường là vô cùng quan trọng.
Tam Đảo không chỉ được nhiều người trong nước và quốc tế biết đến bởi sự hấp
dẫn của khu du lịch Tam Đảo; danh thắng Tây Thiên, mà nó còn được biết đến bởi giá
trị đa dạng sinh học. Tam Đảo được đánh giá là một trong những khu vực có đa dạng
sinh học cao nhất cả nước, với nhiều loài động, thực vật quý hiếm không chỉ riêng của
Tam Đảo mà còn của Việt Nam và thế giới. Cùng với những cánh rừng bạt ngàn ẩn
hiện trong mây, Tam Đảo có thảm thực vật dày đặc, nhiều tầng và đa dạng về quần xã
sinh học và hệ sinh thái với 1.282 loài thực vật, trong đó có 42 loài đăc hữu và 64 loài
quý hiếm như Hoàng thảo Tam Đảo, Hoa tiên; 163 loài động vật, trong đó có 39 loài
đặc hữu và nhiều loài quý như gà tiền, gà lôi trắng, sóc bay...
Cây dương xỉ là một loài thực vật có khả năng sống mạnh mẽ với hai hình thức
sinh sản chính là sinh sản vô tính và hữu tính. Ngành dương xỉ gồm khoảng 12000 loài
thực vật và với nhiều tác dụng có lợi với môi trường tự nhiên. Ngoài công dụng là làm
cảnh cây dương xỉ còn có nhiều công dụng thú vị khác như: làm thuốc, khử độc tố
asen có trong nước, trong đất tại những vùng khai thác khoáng sản,...
Cụ thể tại địa điểm thực tế, khu vực núi Rùng Rình (Tam Đảo, Vĩnh Phúc), Vườn
quốc gia Tam Đảo với 59 loài dương xỉ khác nhau, chúng có một vai trò to lớn trong
việc thanh lọc môi trường không khí và làm sạch môi trường nước nơi đây.
Chính vì vậy, nhóm em chọn chuyên đề thực tập thiên nhiên: “Tìm hiểu đa dạng
sinh học của Dương xỉ ở Khu vực thực tập, vai trò của Dương xỉ đối với môi
trường Khu vực thực tập và đề xuất các biện pháp bảo tồn và quản lý nhóm sinh
vật này”.
Mục tiêu: Tìm hiểu đa dạng sinh học của Dương xỉ ở Khu vực thực tập, vai trò
của Dương xỉ đối với môi trường Khu vực thực tập và đề xuất các biện pháp bảo tồn

và quản lý nhóm sinh vật này
Nội dung:
- Lộ trình khảo sát.
- Phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa.
- Đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, môi trường, kinh tế xã hội
- Kết quả nghiên cứu


I. Lộ trình, điểm khảo sát và các nội dung thực tập.
1. Bản đồ tuyến khảo sát
- Ngày 05/06/2017
+ 14h05 sinh viên xuất phát từ Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội.
+ Vào thị trấn Tam Đảo lúc 16h10 sinh viên và GVHD nghỉ tại khách sạn.

Hình 1: Bản đồ đường đi
- Ngày 06/06/2017
+ 7h30 lớp ĐH5QM1 + ĐH5QM6 + 23 sinh viên bổ sung thêm: đi tìm hiểu về mô
hình sinh kế của người dân tại Thị trấn Tam Đảo.
+ 7h30 lớp ĐH5QM4 + ĐH5QM5 : đi tìm hiểu về đa dạng sinh học theo tuyến
đường vào chân đỉnh Rùng Rình.
- Ngày 07/06/2017
+ 7h00 các lớp tập trung tại sảnh 1, nghe CBHD của Vườn quốc gia Tam Đảo giới
thiệu Tổng quan về hiện trạng đa dạng sinh học của Vườn, các ô hình sinh kế của
người dân tại Thị trấn Tam Đảo
+ 7h30 lớp ĐH5QM1 + ĐH5QM6 + 23 sinh viên bổ sung thêm: đi tìm hiểu về đa
dạng sinh học theo tuyến đường vào chân đỉnh Rùng Rình.
+ 7h30 lớp ĐH5QM4 + ĐH5QM5: đi tìm hiểu về mô hình sinh kế của người dân
tại Thị trấn Tam Đảo.

4



- Sau 2 buổi thực địa và tham quan các địa điểm ở Tam Đảo thì 16h00 ngày
07/06/2017 đoàn lên đường về Hà Nội, kết thúc chuyến đi tốt đẹp.

Bản đồ địa hình có đánh dấu các tuyến đi, điểm khảo sát

2. Mô tả tuyến hành trình và các điểm khảo sát
- 16h10 ngày 05/06/2017 sinh viên và CBHD nhận phòng tại khách sạn, ăn cơm
tối và nghỉ ngơi tại khách sạn.
- 7h30 sáng ngày 06/06/2017 bắt đầu khảo sát thực tế mô hình sinh kế của người
dân tại Thị trấn Tam Đảo. Trên đường đi tuy vất vả, mệt nhọc, đường đi khá dốc, tuy
nhiên khí hậu mát mẻ cùng khung cảnh thiên nhiên lãng mạn đã làm dịu bớt đi sự mệt
nhọc trên đường đi. Dọc đường đi là một vài lài hoa dại không tên, tre, nứa, dương xỉ
5


và rất nhiều loại thực vật lạ mắt… Do đường đi khá dốc nên có thể bao quát được hết
khu vực sinh sống của người dân Tam Đảo, các đỉnh núi nhọn được bao phủ bởi cây
xanh. Càng lên cao, được phóng tầm mắt ra bốn phía mênh mông trời đất, gió, mây,
sương mù, rừng cây.. Đoạn cuối hành trình, chúng em còn được tham quan Thung lũng
hoa vô cùng đẹp và rực rỡ.

Hình 2: Mô hình sinh kế của người dân
(Ảnh: Hà Thị Lê)
- Chiều và tối cùng ngày, sinh viên tự do tham quan các địa điểm khác ở Tam Đảo
như Nhà thờ cổ Tam Đảo, Thác Bạc,..
- Sáng ngày 07/06/2017 tiếp tục chuyến đi khảo sát thực tế với địa điểm tiếp theo
là chân đỉnh Rùng Rình. Đường đến chân đỉnh Rùnh Rình là đường mòm khá dễ đi so
với đường đi khảo sát sinh kế của người dân tại Thị trấn Tam Đảo. Hai bên đường là

thảm thực vật vô cùng phong phú, chút ánh nắng vàng mùa hè cùng với tiếng ve rừng
râm ran, tiếng chim hót, tiếng của đại ngàn rừng xanh, nghe thâm u như tiếng ngàn
xưa…
Có thể bạn chưa biết, cái tên lạ và hay của đỉnh Rùng Rình là bắt nguồn từ những
cảm xúc rất lạ không chỉ là sự thoải mái mà cả sự êm ái nữa, rừng nguyên sinh bao bọc
đỉnh núi, như sương mờ bao phủ vùng đất Vĩnh Phúc.
- Sau khi trở về từ chân đỉnh Rùng Rình, sinh viên nghỉ ngơi, kết thúc chuyến đi
thực tập. 16h00 cùng ngày, tập trung và khởi hành về Hà Nội.

6


Hình 3: Nhóm cùng các thành viên trong đoàn theo tuyến đường vào chân đỉnh
Rùng Rình
(Ảnh: Hoàng Minh Thảo)

7


II. Giới thiệu về các phương pháp nghiên cứu ngoài thực địa
1. Phương pháp kế thừa, thu thập thông tin và tài liệu đã công bố
Thu thập những tài liệu cơ bản về khu vực nghiên cứu liên quan đến đề tài nghiên
cứu của nhóm.
- Tài liệu về điều kiện tự nhiên, dân sinh, sinh kế, kinh tế trong khu vực nghiên
cứu
- Các loại bản đồ về khu vực nghiên cứu
- Các tài liệu tham khảo về lĩnh vực nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài
nước
- Các công trình nghiên cứu của các tác giả khác liên quan đến khu vực và đề tài
nghiên cứu của nhóm


2. Phương pháp quan sát, chụp ảnh
Theo lộ trình đã được định sẵn (Thứ nhất: đi tìm hiểu về các mô hình sinh kế của
người dân tại Thị trấn Tam Đảo, thứ hai: đi tim hiểu về đa dạng sinh học theo tuyến
đường vào chân đỉnh Rùng Rình), trong quá trình nghiên cứu thực địa quan sát tổng
quan về các loài thực vật gặp trên đường đi. Từ sự quan sát và nhận biết, tiến hành
chụp lại các loài thực vật đặc trưng thấy trên đường đi (tre, nứa, rêu.. và đặc biệt là
dương xỉ), các loài thực vật đặc hữu và một vài loài thực vật lạ mắt.
- Quan sát kĩ các loài thực vật đặc hữu để nhận biết thêm về hình thái bên ngoài
của chúng.
- Quan sát, chụp ảnh các loài Dương xỉ có tại chân đỉnh Rùng Rình .

3. Phương pháp ghi chép, mô tả
- Mỗi lần quan sát nhận thấy mẫu, loài Dương xỉ có thể nhanh tay ghi chép lại một
vài đặc trưng quan trọng, dễ thấy, dễ phân biệt loài đó với các loài khác hay những đặc
điểm về điều kiện môi trường sống, về các loài xung quanh mẫu.
- So sánh, phân loại Dương xỉ trên các cơ sở tranh, ảnh, sự mô tả các loài, phân
loài đã được in ấn công bố từ trước tới nay.

8


III. Khái quát đặc điểm tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên, môi trường, kinh
tế, xã hội ở Tam Đảo
1. Giới thiệu chung về Tam Đảo
1.1. Vị trí địa lý:
Tam Đảo là một dãy núi đá ở vùng Đông Bắc Việt Nam nằm trên địa bàn ba tỉnh
Vĩnh Phúc, Thái Nguyên và Tuyên Quang. Gọi là Tam Đảo, vì ở đây có ba ngọn núi
cao nhô lên trên biển mây, đó là 3 đỉnh núi cao (so mặt nước biển): Thiên Thị
(1.375m). Thạch Bàn (1.388m). Phù Nghĩa (1.375m). Dãy núi Tam Đảo kéo dài trên

80km, với khoảng 20 đỉnh núi cao, cao nhất là đỉnh Tam Đảo Bắc (1.592m). Huyện
Tam Đảo mới thành lập theo nghị định số 153/2003/NĐ-CP, ngày 9 tháng 12 năm
2003 của Chính phủ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trên cơ sở các xã:
Yên Dương, Đạo Trù, Bồ Lý của huyện Lập Thạch, các xã: Đại Đình, Tam Quan, Hồ
Sơn, Hợp Châu của huyện Tam Dương, xã Minh Quang của huyện Bình Xuyên và thị
trấn Tam Đảo của thành phố Vĩnh Yên.

Hình 4: Núi Tam Đảo
(Ảnh: Hoàng Thị Oanh)
Tam Đảo nằm ở phía Đông - Bắc tỉnh Vĩnh Phúc, gần ngã ba ranh giới của
Vĩnh Phúc với hai tỉnh Tuyên Quang và Thái Nguyên. Phía Đông Nam và Nam của
9


huyện Tam Đảo giáp huyện Bình Xuyên, phía Nam và Tây Nam giáp huyện Tam
Dương, phía Tây giáp huyện Lập Thạch, phía Tây Bắc giáp huyện Sơn Dương của tỉnh
Tuyên Quang, phía Bắc và Đông Bắc giáp huyện Đại Từ của tỉnh Thái Nguyên. Tam
Đảo cách Thành phố Vĩnh Yên 10 km và cách Thành phố Hà Nội 70 km, những nơi có
dân số đông, có sự phát triển kinh tế năng động, có sức lan tỏa lớn. Trung tâm VQG
Tam Đảo cách thủ đô Hà Nội 75 km về phía Tây Bắc và cách Thành phố Vĩnh Yên
13km về phía Bắc.

Hình 5: Bản đồ Tam Đảo – Vĩnh Phúc

1.2. Địa hình:
Tam Đảo là huyện miền núi, nằm trên phần chính, phía Tây Bắc của dãy núi Tam
Đảo, nơi bắt nguồn của sông Cà Lồ (sông này nối với sông Hồng và sông Cầu). Địa
hình của Tam Đảo khá phức tạp, đa dạng vì có cả vùng cao và miền núi, vùng gò đồi
và vùng đất bãi ven sông. Vùng miền núi và núi cao với diện tích khoảng 11.000 ha,
chủ yếu do Vườn Quốc gia Tam Đảo và Lâm trường Tam Đảo quản lý. Diện tích còn

lại bao gồm các vùng núi thấp, vùng bãi do các xã quản lý và sử dụng. Địa hình Tam
Đảo có đặc điểm là đỉnh nhọn, sườn rất dốc, độ chia cắt sâu, dày bởi nhiều dông phụ
như vuông góc với dông chính.Phía Đông Bắc các suối chính đều chảy về sông Công
tạo nên vùng bồn địa Đại Từ. Phía Tây Nam, các lưu vực sông đều đổ về sông Phó
Đáy.
10


Núi Tam Đảo chạy dài theo hướng Tây Bắc- Đông Nam, gồm trên 20 đỉnh núi
được nối với nhau bằng đường dông sắc, nhọn. Nó như một bức bình phong chắn gió
mùa Đông Bắc cho vùng đồng bằng.Các đỉnh có độ cao trên dưới 1000m.Đỉnh cao
nhất là Tam Đảo Bắc (ranh giới giữa 3 tỉnh) cao 1592m. Ba đỉnh núi nổi tiếng của Tam
Đảo là Thiên Thị (1375 m), Thạch Bàn (1388 m), và Phù Nghĩa (1300 m). Chiều
ngang của khối núi rộng 10- 15 km, sườn rất dốc và chia cắt mạnh.Độ dốc bình quân
từ 16- 350, nhiều nơi độ dốc trên 350.Độ cao của núi giảm nhanh về phía Đông Bắc
xuống lòng chảo Đại Từ tạo nên những mái dông đứng.Hướng Đông Nam có xu
hướng giảm dần đến giáp địa phận Hà Nội.

Hình 6: các dãy núi cao ở Tam Đảo

1.3. Khí hậu, thời tiết:
Do địa hình tương đối phức tạp nên khí hậu thời tiết ở Tam Đảo được chia thành 2
tiểu vùng: Tiểu vùng khí hậu Tam Đảo núi quanh năm mát mẻ, rất thuận tiện cho việc
phát triển kinh tế du lịch và hình thành khu nghỉ mát; Tiểu vùng khí hậu vùng thấp
mang các đặc điểm khí hậu gió mùa nội chí tuyến vùng Đông Bắc Bắc bộ.
- Nhiệt độ trung bình 22-230C, vùng núi cao nhiệt độ thấp hơn 3-4 0C so với vùng
thấp (18-18,40C).
- Độ ẩm tương đối trung bình 85-86 %.Vùng núi cao quanh năm có sương mù tạo
nên cảnh quan rất đẹp.
11



- Lượng mưa trung bình 2570 mm/năm. Mưa thường tập trung vào các tháng từ
tháng 6 đến tháng 9.
- Hướng gió chủ đạo: Mùa hè là hướng Đông Nam, mùa Đông là hướng Đông
Bắc.
Nhìn chung, khí hậu ở Tam Đảo tương đối thuận lợi cho phát triển nông nghiệp,
đặc biệt vùng Tam Đảo núi có chế độ khí hậu lý tưởng cho việc phát triển các khu nghỉ
mát và phát triển du lịch sinh thái.

Hình 7: Khí hậu Tam Đảo quanh năm mát mẻ với sương mù dày đặc
(Ảnh: Hoàng Thị Oanh)

12


13


1.4. Thủy văn và nguồn nước:
Tam Đảo có sông Phó Đáy và nhiều suối nhỏ ở ven các chân núi.Những năm gần
đây, rừng được bảo vệ tốt hơn nên nguồn sinh thuỷ được cải thiện, nguồn nước tương
đối dồi dào.Đây là điều kiện thuận lợi về tưới nước, phục vụ phát triển sản xuất nông
nghiệp hàng hoá.

Hình 8: ảnh thác Bạc Tam Đảo (Ảnh: Hoàng Thị Oanh)

14



Hình 9: ảnh sông Phó Đáy
Nguồn nước mặt chủ yếu là các sông suối, ao, hồ. Hiện nay, trên bàn huyện đã
được xây dựng một số hồ nước tương đối lớn phục vụ cho phát triển sản xuất như: Hồ
Xạ Hương với dung tích chứa 23 triệu m3, Hồ Làng Hà 2,3 triệu m3, hồ Vĩnh Thành
dung tích 2 triệu m3, Theo đánh giá của Công ty khai thác các công trình thuỷ lợi cho
thấy chất lượng nguồn nước mặt ở tất cả các hồ chứa đều khá tốt, có thể khai thác, xử
lý để cung cấp nước cho sinh hoạt.

2. Đỉnh núi Rùng Rình:
Đỉnh Rùng Rinh - một trong những điểm du lịch ấn tượng của Vĩnh Phúc, mang
lại cảm giác mới lạ ngay từ cái tên độc cho du khách và nhiều khám phá, trải nghiệm
thú vị khác với những khu rừng xanh mướt cùng vô số ngọn núi nối tiếp nhau. Vùng
này đặc trưng cho sự đa dạng sinh học của VQG Tam Đảo. Với nhiều loài động thực
vật phong phú và đa dạng cả về loài và cả những nguồn gen quý. Với những đặc điểm
địa hình, địa chất, khí hậu đặc trưng, thiên nhiên đã ban tặng cho nơi đây những nguồn
tài nguyên quý giá.
- Về vị trí
Đỉnh Rùng Rinh cách trung tâm thị trấn Tam Đảo 20km, thuộc tỉnh Vĩnh Phúc.
Đỉnh Rùng Rinh là nơi thu hút rất nhiều người ưa thích phượt mạo hiểm. Ở độ cao
1200m, đỉnh núi là khu rừng nguyên sinh với hệ thực vật đa dạng, phong phú, gồm
nhiều loài lan và các cây thân gỗ lớn. Đến đây bạn sẽ ngỡ ngàng trước một khu rừng
15


xanh mướt, đẹp như tranh vẽ giống như một kho báu khổng lồ nơi mang trong mình
nhiều vẻ đẹp tiềm ẩn.
Rùng Rinh càng trở nên đẹp hơn, lộng lẫy hơn khi nắng bắt đầu "vươn vai", trườn
qua những con dốc cao và ngọn núi để chiếu xiên qua các kẽ lá, lấp lánh in bóng
xuống còn đường mềm mại dưới chân.
Về đêm, Đỉnh Rùng Rinh còn là nơi lý tưởng để ngắm trăng, cảm nhận được rõ sự

giao hòa của đất trời. Hãy thử tưởng tượng, thật tuyệt vời biết bao khi chính bạn được
cảm nhận luồng gió thổi mát rượi từ trên đỉnh núi ùa về và cùng người thân nhâm nhi
1 ly café nóng tận hưởng những giây phút tuyệt vời từ thiên nhiên hoang sơ, hùng vĩ.

Hình 10: đường vào chân đỉnh Rùng Rình
(Ảnh: Hoàng Minh Thảo)
- Về khí hậu
Về khí hậu, vùng này thuộc vùng khí hậu miền núi, có khí hậu mát mẻ, nhiệt độ
trung bình 180C-190C, độ ẩm cao, quanh năm có sương mù tạo cảnh quan đẹp. Khí
hậu tiểu vùng miền núi mang sắc thái của khí hậu ôn đới, tạo lợi thế trong phát triển
nông nghiệp với các sản vật ôn đới và hình thành các khu nghỉ mát, phát triển du lịch
sinh thái, du lịch nghỉ dưỡng vào mùa hè. Càng lên cao nhiệt độ càng giảm, sương
xuống nhanh.
- Về tài nguyên sinh vật: rất đa dạng
và phong phú, với nhiều thành phần loài,
chủng loại, nguồn gen. Dọc hai bên đường
sự xuất hiện của dương xỉ dày đặc, càng lên
cao, sự phong phú và đa dạng của các loài
dương xỉ càng gia tăng. Càng lên cao, ta thấy
có sự xuất hiện của nhiều loài dương xỉ hơn, có những loài dương xỉ rất quý và hiếm,
ít gặp, ví dụ như những cây dương xỉ cổ đại; những cây dương xỉ thuộc Bộ dương xỉ
16


mộc (Cyatheales) với đủ hình hài, màu sắc; hay có những cây dương xỉ thuộc nhóm
Marattiopsida ( Dương xỉ tòa sen)… Ngoài dương xỉ, các loài thực vật khác cũng xuất
hiện nhiều, góp phần làm gia tăng tính đa dạng sinh học VQG Tam Đảo, như: địa y,
rêu tản, rêu than, rêu rêu…; các loài cây thuốc quý cũng xuất hiện nhiều trên đường
lên đỉnh Rùng Rình, ví dụ như cây dứa rừng (quả dứa rừng điều trị bệnh sỏi thận rất
tốt), cây la hán quả (quả la hán có tác dụng

Hình 11: Bộ Dương xỉ Mộc
thanh nhiệt, giải độc), cây hoa sơn trà…
Ngoài ra, các cây cổ thụ với tán lá rộng và
rậm rạp cũng phân bố rộng khắp cánh rừng, tạo điều kiện cư trú phù hợp cho các loài
động vật, côn trùng sinh sống.
- Hệ động vật cũng rất phong phú và đa dạng, với nhiều loài quý hiếm, đa dạng cả
về số lượng loài lần thành phần loài. May
mắn cho nhóm trong chuyến đi thực tập
thiên nhiên lần này, đã mục tận sở thị một
loài sinh vật thuộc lớp lưỡng cư, cùng họ
với ếch do TS. Hoàng Ngọc Khắc phát hiện,
đây là một khám phá rất bổ ích, giúp cho
nhóm hiểu được sự đa dạng của thiên nhiên,
của hệ sinh thái VQG Tam Đảo, đồng thời,
cũng hiểu biết được các đặc tính tự nhiên
của sinh vật, sự ngụy trang bậc thầy của loài sinh vật này. Ngoài ra, sự có mặt của
nhiều loài côn trùng khác như chuồn chuồn, bướm, xén tóc, bọ hung, vòi voi, bỏ củi,
kẹp kìm, ốc cạn… cũng tạo nên sự đa dạng sinh học cho vùng này.
Hình 12: Loài sinh vật lưỡng cư ngụy trang
bên dòng nước

Hình 13: Côn trùng ăn lá
(Ảnh: Hà Thị Lê)

( Ảnh : Ts Hoàng Ngọc Khắc )
- Về chất lượng nguồn nước
Chất lượng nguồn nước ở đây tương đối sạch, nước có nguồn gốc từ các sông suối
qua các khe đá chảy ra. Ta có thể sử dụng luôn nguồn nước ở đây mà không cần phải
thông qua bất cứ thiết bị lọc nước nào khác. Ngoài ra, trên đường lên điểm dừng chân
số 2, khu rừng tự nhiên, ta nhận thấy trải dài theo con đường là các đường ống cáp,

trong đó có những đường ống dẫn nước ngầm (những đường ống thoát mồ hôi ra phía
ngoài đó chính là những đường ống dẫn nước ngầm), chất lượng nước ngầm ở đây tuy
chưa có số liệu cụ thể nhưng thông qua việc khảo sát, nhóm thực tập nhận thấy chất
lượng nguồn nước khá sạch, ít bị ô nhiễm do không tiếp xúc nhiều với các nguồn gây
ô nhiễm trực tiếp. Tóm lại, tài nguyên nước ở đây khá dồi dào với chất lượng nước khá
17


cao và ổn định, đây là điều kiện quan trọng để phục vụ cho mục đích sinh hoạt, sản
xuất và tưới tiêu của nhân dân sinh sống quanh vùng. Các cơ quan quản lý cần bảo tồn
hơn nữa nguồn nước ngọt nơi đây, tránh việc sử dụng lãng phí nguồn tài nguyên nước,
đồng thời ngăn ngừa những hành vi gây ô nhiễm môi trường nói chung, những hành vi
gây ô nhiễm nguồn nước nói riêng.

Hình 14: Nguồn nước
(Ảnh: Hà Thị Lê)

3. Những địa điểm khác trên Tam Đảo:
Đến Tam Đảo vào mùa hè, ta sẽ tận hưởng được thời tiết 4 mùa của năm trong 1
ngày. Buổi sáng là mùa xuân với tiết trời lành lạnh, sương mù bao phủ khắp thị trấn;
buổi trưa là mùa hè, trời chợt mưa chợt nắng; se lạnh vào buổi chiều, không nắng là
mùa thu và buổi tối là mùa đông với sương mù đậm đặc và nhiệt độ xuống thấp. Từ
khu nhà thờ cổ trung tâm nhìn xuống, Tam Đảo có một quần thể biệt thự theo kiến trúc
của Pháp, không nhà nào che khuất nhà nào, mái nhà này nằm dưới chân nhà kia. Có
thể tưởng tượng thị trấn Tam Đảo giống như 1 cái chảo bị vát một bên. Bắt đầu từ
cổng trời (nơi cái chảo bị vát) đi 1 vòng qua nhà thờ, xuống công viên, qua bưu điện,
qua bể bơi, đến suối Mơ và xuống thác Bạc là đã đi hết thị trấn Tam Đảo. Tam Đảo
giống như một mái nhà, nước từ đây đổ xuống thành 2 nhánh, 1 xuống hồ Núi Cốc
(Thái Nguyên) và 1 xuống thác Bạc, đổ về hồ Suối làng Hạ.
Thác Bạc là 1 trong những điểm tham quan khá lý thú. Rẽ theo con đường mòn,

hút xuống thung lũng sâu, thác Bạc do suối Mơ, suối Bạc và suối Tiên đổ vào. Thác
giấu mình trong núi, bí ẩn đổ xuống dòng nước trắng bạc lóng lánh ánh mặt trời phản
chiếu sắc cầu vồng. Một dòng suối nhỏ từ trên cao 30m ào ào tuôn nước. Tiếng suối,
tiếng rừng, tiếng lá dội vào vách đá nghe thâm u như tiếng ngàn xưa... Nếu thích mạo
18


hiểm, đi xa chút nữa tới đỉnh Rùng Rình, ở đây cây cối, núi non đẹp như cổ tích. Xa
hơn nữa là Tam Đảo 2, nay bị bỏ hoang mang vẻ đẹp hoang dã, cô liêu.

Hình 15: Thác Bạc
Nhà thờ Tam Đảo được xây dựng từ năm 1906, nhà sàn lợp lá. Đến năm 1937 xây
lại to đẹp, kiên cố với vật liệu đá, gạch, gồm: Nhà thờ không có trụ, rộng 12mx22m,
gian cuối 2 tầng, tầng trên dành cho ca đoàn. Mái nhà thờ hình vòm gắn kiếng màu
vàng, tím, trắng; lợp ngói Hưng Ký cỡ lớn. Tường nhà thờ bằng đá xanh, chỉ tô hồ bên
trong. Hai bên vách trong thánh đường bố trí từng khoang nhỏ (2m) treo các chặng
đường thánh giá. Ngôi thánh đường xây dựng theo kiến trúc kiểu Gothic, nổi trên nền
rừng thông do người Pháp trồng, xanh ngắt trên sườn núi Nhà Thờ. Thánh đường im
lìm soi bóng xuống thung lũng đầy những biệt thự, nhà nghỉ, hàng quán. Lúc bấy giờ
thánh đường có một tu viện nơi khoảng 100 vị ẩn tu. Ngày nay, đứng ở thung lũng
Tam Đảo, bất cứ nơi nào cũng nhìn thấy nhà thờ đá, nhất là cái tháp chuông, như một
người trầm mặc in hình giữa rừng thông vi vút lá gió trên sườn núi. Nhà thờ có một
khoảng sân khá rộng. Khoảng sân nầy một mặt dài theo hông nhà thờ, mặt kia nằm
“chon von” phía đường lộ. Để đảm bảo an toàn cho tín hữu, phía đường lộ được xây
dựng một vòm cửa bằng đá xanh. Vòm cửa nào cũng có hình bán nguyệt, có mặt bằng
để khách ngồi nhìn ngắm thị trấn bên dưới. Thị trấn xinh đẹp mà vòm cửa cũng đẹp
xinh - có thể xem là một tác phẩm mỹ thuật làm tôn vẻ đẹp vốn có của nhà thờ.
19



Hình 16: Nhà thờ đá (nguồn: Internet)

(Ảnh: Hà Thị Lê)

20


IV. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
1. Cấu tạo chung về ngành Dương xỉ


1.

2.

3.

4.

5.


Ngành Dương xỉ (danh pháp khoa học: Pteridophyta) là một nhóm gồm khoảng
12.000 loài thực vật có mạch, không có hạt, sinh sản thông qua các bào tử.
Vòng đời của dương xỉ điển hình như sau:
Pha thể bào tử (lưỡng bội) sinh ra các
bào tử đơn bội nhờ phân bào giảm
nhiễm.
Bào tử phát triển nhờ phân bào có tơ
thành thể giao tử, thông thường bao

gồm một nguyên tản có khả năng
quang hợp.
Thể giao tử sinh ra các giao tử (thường
bao gồm cả tinh trùng và trứng trên
cùng một nguyên tản) nhờ phân bào có
tơ.
Tinh trùng linh động, có tiên mao (lông
roi) thụ tinh cho trứng vẫn còn gắn chặt
với nguyên tản.
Trứng đã thụ tinh hiện giờ là hợp tử lưỡng bội và phát triển nhờ phân bào có tơ thành
thể bào tử (cây "dương xỉ" điển hình mà chúng ta vẫn thấy).
Cấu tạo của dương xỉ : Giống như các thể bào tử của thực vật có hạt, thể bào tử của

dương xỉ bao gồm:
1. Thân: Phần lớn thường là thân rễ mọc bò ngầm
dưới lòng đất, nhưng đôi khi và thân bò lan mọc
bò trên mặt đất (như Polypodiaceae), hoặc thân
cột bán hóa gỗ mọc thẳng trên mặt đất (như
Cyatheaceae) cao tới 20 m ở một số loài
2. Lá: Phần màu xanh, có khả năng quang hợp của
cây. Ở các loài dương xỉ nó thường được nói tới
như là lá lược,nhưng điều này là do sự phân
chia lịch sử giữa những người nghiên cứu
dương xỉ và những người nghiên cứu thực vật
có hạt, chứ không phải là do các khác biệt trong
cấu trúc. Các lá mới thông thường nở ra bằng
cách trải ra đầu lá non cuộn chặt. Sự bung ra
của lá như vậy gọi là kiểu xếp lá hình thoa. Lá
được chia ra thành ba kiểu:
21





Lá dinh dưỡng (Trophophyll): Là lá không sinh ra bào tử, thay vì thế nó chỉ sản xuất
các chất đường nhờ quang hợp. Nó là tương tự như các lá xanh điển hình của thực vật
có hạt.
Lá bào tử (Sporophyll): Lá sinh ra bào tử. Lá này là tương tự như các vảy của nón
thông ở thực vật hạt trần hay như nhị và nhụy ở thực vật hạt kín. Tuy nhiên, không
gióng như thực vật có hạt, các lá bào tử của dương xỉ thông thường không chuyên biệt
hóa, trông tương tự như các lá dinh dưỡng và cũng sản xuất các chất đường nhờ quang
hợp, giống như các lá dinh dưỡng.
Brophophyll: Lá sinh ra một lượng lớn bất thường các bào tử. Các lá thuộc kiểu này
cũng lớn hơn các kiểu lá khác nhưng giống với các lá dinh dưỡng.
Rễ: Các cấu trúc không quang hợp mọc ngầm dưới đất, có chức năng hút nước và các
chất dinh dưỡng từ trong đất. Chúng luôn luôn là rễ chùm và về cấu trúc thì tương tự
như rễ của thực vật có hạt.
Nguyên tản: Cấu trúc màu xanh lục, có khả năng quang hợp, dày một lớp tế bào,
thường có dạng hình tim hay hình thận, dài 3–10 mm và rộng 2–8 mm. Nguyên tản
sinh ra các thể giao tử nhờ:
Các túi đực: Các cấu trúc nhỏ hình cầu sinh ra tinh trùng có tiên mao.
Các túi noãn: Cấu trúc hình bình thót cổ sinh ra một trứng ở đáy, và tinh trùng tiến tới
được chỗ đó bằng cách chui qua cổ.
Các rễ giả: Các cấu trúc tương tự như rễ (không phải rễ thật sự) bao gồm các tế bào
đơn lẻ thuôn cực dài, với nước và các khoáng chất được hấp thụ trên toàn bộ bề mặt
cấu trúc này. Các rễ giả cũng có tác dụng neo nguyên tản vào trong đất.
Sinh sản : Dương xỉ sinh sản bằng cả hai hình thức: sinh sản vô tính và hữu tính. Cây












sinh dưỡng có thân, rễ, lá, hình thành các túi bào tử. Thể bào tử được sinh ra từ hợp tử
và mang các túi bào tử. Lúc chín, các túi bào tử của thực vật có lá, phát tán các bào tử
giảm nhiễm và chúng nẩy mầm tạo ra nguyên tản lưỡng tính hoặc đơn tính. Nó cũng
giống như túi bào tử của thể sinh túi của ngành Rêu. Chu trình phát triển cá thể của
chúng là lưỡng di truyền nhưng thể bào tử chiếm ưu thế (Lưỡng – Đơn bội)
(Diplohaplophase)
Phân loại: Chia làm các lớp :
Protopteridiopsida ( Lớp tiền dương xỉ)
Archaeopteridopsida (Lớp Dương xỉ cổ)
Ophioglossopsida (Lớp Lưỡi rắn)
Marattiopsida (Lớp Tòa sen)
Polypodiopsida (Lớp Dương xỉ); được chia thành 3 phân lớp:
Polipodiidae (Phân lớp Dương xỉ)
Marsileidae (Phân lớp Rau bợ nước)
Salviniidae (Phân lớp Bèo ong)

-

-

3.


4.

5.
6.
7.

2. Dương xỉ ở Tam Đảo:
22


Có hai loài dương xỉ chính là dương xỉ thật sự và dương xỉ tòa sen, mật độ xuất
hiện của chúng cũng tương đối dày đặc. Ngoài ra, với mỗi loài dương xỉ lại có những
dạng khác nhau, điều này tạo nên sự phong phú và đa dạng của dương xỉ tại VQG Tam
Đảo. Với khí hậu cùng dạng địa hình phù hợp, Tam Đảo là nơi lý tưởng để những loài
dương xỉ sinh sôi và phát triển.
- Dương xỉ thật sự (hay dương xỉ thường): được tìm thấy rộng rãi ở các vùng
nhiệt đới Châu Á, chúng phát triển trên
những tảng đá hoặc khe suối, đôi khi chúng
cũng được tìm thấy trên cạn ở khu vực ẩm
ướt. Dương xỉ thật sự ta có thể dễ dàng tìm
thấy ở khắp Tam Đảo.
+ Cấu tạo: Cây có chiều cao không quá
3m, gần giống cây cọ, thân mảnh, xù xì có
những vệt lá trên thân. Lá mọc tập
trung ở ngọn cây, giống lá cọ, hình
Hình 17 : Dương xỉ thường ở đường lên đỉnh
Rùng Rình, Tam Đảo (Ảnh:Hoàng Minh Thảo)
răng lược. Đầu lá dương xỉ giống
như lá cọ vị chúng tập trung phát triển
ở đầu thân cây.

+ Đặc trưng: Cây dương xỉ sống ở rừng đất thấp, ẩm ướt, thích hợp nơi thiếu ánh
sáng. Ở vùng nhiệt đới hoặc đất cao, chúng phát triển tốt hơn, hình dáng đặc trưng cho
vùng đất này.
+ Công dụng: thường dùng lá giã đắp cầm máu, hàn vết thương, chữa sưng tấy.
Ở Tam Đảo, loài dương xỉ này chiếm ưu thế, chúng có mặt ở hầu hết khắp các
VQG Tam Đảo. Sở dĩ loài này có số lượng đông đảo và đa dạng đến vậy là do Dương
xỉ thật sự (Dương xỉ thường) là nhóm loài lớn nhất trong số các nhóm dương xỉ còn
tồn tại. Ngoài ra, với điều kiện khí hậu mát mẻ, cộng thêm đất nước ta nằm ở đới khí
hậu nhiệt đới, là những nguyên nhân cơ bản để dương xỉ phát triển, đặc biệt là dương
xỉ thật sự.Đối với nhóm dương xỉ loại này, chúng không chỉ đa dạng, phong phú về số
loài, mà còn phong phú trong nhiều quần xã thực vật. Một số dương xỉ có kích thước
rất bé, không phân chia ra lá.
a) Loài Ligodium: là một loại dương xỉ leo có lá với cuống kéo dài, xoắn, cây có
thể dài tới 30m hoặc hơn.

23


Hình 18: Dương xỉ Ligodium với lá xoắn ở VQG Tam Đảo (Ảnh: Hoàng Minh Thảo)

b) Loài Cyathea:
+ Đặc điểm:cao tới 24m và lá dài tới 5m.Thân của loại này có thể dày tới 30cm
nhưng thực chất vẫn chỉ là cấu tạo sơ cấp. Thân tuy dày nhưng phần chính là bao rễ
chum còn than thực của nó cũng chỉ dày khoảng từ 4-6cm.
+ Đặc trưng: Cyathea không mọc ở những ở những vùng thấp, mà chúng tập
trung chủ yếu ở những vùng núi cao, hoặc những vùng núi còn nguyên sơ, càng lên
cao, than của loài dương xỉ này càng vươn cao.
→Loài này được xem là Loài Dương xỉ cổ đại vì sự tồn tại của chúng trong
những cánh rừng là rất lâu, chúng cũng là các loài thực vật rất cổ, xuất hiện trong các
hóa thạch vào Jura muộn.Cyatheaceae là một họ lớn gồm các loài dương xỉ thân gỗ với

khoảng 500 loài. Cyatheaceae và Dicksoniaceae cùng với
Metaxyaceae và Cibotiaceae là nhóm đơn ngành và hợp thành nhóm dương xỉ
thân gỗ có lõi.

24


Hình 19: Một cây dương xỉ cổ đại (Cyathea) xuất hiện trên đường lên
đỉnh Rùng Rình, Tam Đảo (Ảnh: Hoàng Minh Thảo)
c) Loài Filiciales:là dương xỉ có túi bào tử mỏng và bào tử đồng loại. Loài này ở
Việt Nam có khoảng 29 họ, 112 chi, và 621 loài sống phổ biến ở các sinh cảnh khác
nhau.
+ Cấu tạo:Loài này có thân rễ hình trụ ống tạo nên bộ lá hằng năm, phôi có rễ thật
nhưng chóng tàn và phần còn lại của rễ sinh ra từ thân rễ gần gốc lá. Lá dương xỉ
Filiciales thường là lá kép gồm các lá chét đính với nhau trên một cuống chung. Hầu
hết các dương xỉ thật Filiciales có lá non cuộn hình đầu đàn Violin. Túi bào tử của
Dương xỉ Filiciales thường được sinh ra ở mép hoặc mặt dưới lá, hoặc được sinh ra ở
cuống riêng. Các lá dương xỉ loại này thường mọc so le nhau, khác với những loại
dương xỉ khác có lá mọc đối xứng nhau qua cuống; các lá có dạng như lá thông, mỏng
hơn.

Hình 20 : Một loại dương xỉ Filiciales ở VQG Tam Đảo
(Ảnh: Hoàng Minh Thảo)
Các họ dương xỉ:
Họ Ráng Nhiều Chân – Polypodiaceae: họ dương xỉ này cũng khá phổ biến ở
Tam Đảo, kể cả ở hai điểm khảo sát đều thấy xuất hiện (cả ở đường lên núi Rùng Rình
25



×