Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Hoạt động theo cơ chế một cửa tại UBND xã xuân lẹ, huyện thường xuân, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.14 KB, 32 trang )

BÁO CÁO THỰC TẾ NGHỀ NGHIỆP 1

TÊN ĐỀ TÀI
HOẠT ĐỘNG THEO CƠ CHẾ MỘT CỬA TẠI
ỦY BAN NHÂN DÂN XÃ XUÂN LẸ, HUYỆN THƯỜNG XUÂN,
TỈNH THANH HÓA

Sinh viên
:
Lớp
:
Khoa
:
GV hướng dẫn:

THANH HÓA, THÁNG 6/2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...............................................................................................................3
1. Tính cấp thiết của đề tài.................................................................................3
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.................................................................4
3. Mục tiêu nghiên cứu......................................................................................5
4. Phương pháp nghiên cứu:..............................................................................5
5. Kết cấu của báo cáo.......................................................................................5
CHƯƠNG 1...........................................................................................................6
KHÁI QUÁT VỀ XÃ XUÂN LẸ,.........................................................................6
HUYỆN THƯỜNG XUÂN, TỈNH THANH HÓA..............................................6
1.1. Vị trí địa lý, tình hình kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội.......................6
1.2. Đặc điểm về kinh tế- xã hội:.......................................................................8
CHƯƠNG 2.........................................................................................................11


THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THEO CƠ CHẾ MỘT CỬA TẠI UBND XÃ
XUÂN LẸ, HUYỆN THƯỜNG XUÂN, TỈNH THANH HÓA.........................11
2.1. Khái quát về cơ chế một cửa....................................................................11
2.2. Thực trạng cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tại UBND xã
Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa.............................................13
CHƯƠNG 3 GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CẢI CÁCH THỦ
TỤC HÀNH CHÍNH THEO CƠ CHẾ MỘT CỬA TẠI UBND XÃ XUÂN LẸ
.............................................................................................................................24
3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp Ủy Đảng và lãnh đạo địa phương. .24
3.2. Hoàn thiện thể chế pháp lý gắn liền với đơn giản hóa các thủ tục hành
chính, xóa bỏ những thủ tục rườm rà..............................................................25
3.3. Đầu tư cơ sở vật chất gắn liền với ứng dụng công nghệ thông tin...........26
3.4. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát...................................................27
3.5. Nâng cao chất lượng cán bộ, công chức...................................................27
3.6. Xây dựng văn hóa công sở.......................................................................29
3.7. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến kiến thức về cải cách hành chính cho
CB, CC và tổ chức, công dân..........................................................................30
KẾT LUẬN.........................................................................................................32

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lâu nay, trong con mắt của người dân thì thủ tục hành chính luôn phức
tạp, rườm rà, thiếu công khai, minh bạch thậm chí là nhiêu khê. Điều này đã ảnh
hưởng trực tiếp đến việc giải quyết công việc của người dân, giảm lòng tin của
nhân dân đối với nhà nước và bộ máy hành chính nhà nước.
Bước vào thời kỳ hội nhập phát triển kinh tế, để tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển của các thành phần kinh tế và thu hút nguồn đầu tư nước ngoài

thì cải cách thủ tục hành chính, đơn giản hoá các khâu trong quá trình giải quyết
công việc của cá nhân, tổ chức có một vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Với mục đích đơn giản, công khai và minh bạch thủ tục hành chính nhằm
đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội, Chính phủ đã ban hành Nghị
quyết số 38/CP ngày 4-5-1994 về cải cách một bước thủ tục hành chính trong
việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức, mở đầu cho hoạt động thực
hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính, đã tạo bước đột phá lớn trong hoạt động
nâng cao hiệu quả quản lý của các cơ quan nhà nước đối với mọi lĩnh vực, là sự
chuyển biến rõ rệt trong việc xây dựng và hoàn thiện thể chế Nhà nước. Tiếp đó,
Chính phủ đã ban hành một loạt các nghị quyết về cải cách thủ tục hành chính,
tạo hành lang pháp lý cơ bản cho việc triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành
chính theo hướng đổi mới, đáp ứng được nhu cầu của xã hội như Nghị quyết số
30c/NQ-CP với Chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn
2011-2020; Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg về việc ban hành quy chế thực
hiện cơ chế “một cửa” tại cơ quan nhà nước ở địa phương và gần đây nhất là
Quyết định số 93/2007/QĐ-TTg về Ban hành Quy chế thực hiện cơ chế “một
cửa”, cơ chế “một cửa liên thông” tại cơ quan hành chính nhà nước tại địa
phương.
Xuất phát từ những lý do trên mà hiện nay trong cả nước nói chung và địa
bàn tỉnh Thanh Hóa nói riêng, tại các cơ quan quản lý nhà nước đặc biệt là Ủy
ban nhân dân các cấp hoạt động của mô hình “một cửa” trong cải cách thủ tục
hành chính đã và đang được đẩy mạnh. Hòa chung vào công cuộc cải cách thủ
3


tục hành chính trong cả nước và các địa phương trong toàn tỉnh Thanh Hóa,
UBND xã Xuân Lẹ cũng đã tiến hành triển khai cơ chế “một cửa” vào tháng 5
năm 2006. So với các địa phương khác cùng cấp trong tỉnh, mô hình “một cửa”
tại UBND xã được triển khai khá muộn. Trên cơ sở học hỏi mô hình của các tỉnh
bạn đã triển khai có hiệu quả, chuẩn bị tốt về mặt cơ sở vật chất và tuyển chọn

đội ngũ CB, CC nhiệt tình, có trình độ chuyên môn, Bộ phận “một cửa” của
UBND xã Xuân Lẹ thuộc quản lý của Văn phòng Hội đồng nhân dân - Ủy ban
nhân dân xã Xuân Lẹ hoạt động độc lập, mang lại hiệu quả cao, được đông đảo
nhân dân đồng thuận và ủng hộ. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai thực hiện,
bên cạnh những kết quả đạt được như thủ tục hành chính được công khai, giảm
hẳn tình trạng gây phiền hà, sách nhiễu tổ chức, công dân; tinh thần, trách
nhiệm, năng lực chuyên môn của cán bộ, công chức được nâng lên đáng kể thì
vẫn còn những tồn tại nhiều vấn đề bức xúc. Biểu hiện thủ tục hành chính còn
rườm rà, thủ tục chồng chéo, trùng lặp, chưa ban hành kịp thời gây khó khăn cho
công dân trong quá trình giải quyết công việc. Những hạn chế này, cần phải
được khắc phục kịp thời để phù hợp với những thay đổi của thực tiễn địa
phương cũng như tình hình phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Công cuộc
cải cách hành chính nói chung và cải cách thủ tục hành chính nói riêng phải
được thực hiện thường xuyên, liên tục. Vì vậy việc nghiên cứu về thủ tục hành
chính và cải cách thủ tục hành chính và rút ra tổng kết cho địa phương là rất cần
thiết. Chính vì những lý do đó mà tác giả chọn đề tài: “Hoạt động theo cơ chế
một cửa tại UBND xã Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa” với
mong muốn hoàn thiện kiến thức ở trường, áp dụng có hiệu quả vào công tác
quản lý hành chính, đóng góp ý kiến để nâng cao chất lượng mô hình “một cửa”
đang được thực hiện tại tỉnh nhà. Do thời gian nghiên cứu có hạn và kinh
nghiệm của bản thân chưa nhiều nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả
rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để bài báo cao thêm
hoàn thiện.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: Đề tài nghiên cứu những thủ tục hành chính được giải quyết
tại UBND xã Xuân Lẹ và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng qua mô
4


hình “một cửa”. Tổng hợp tình hình thực tiễn để cung cấp những căn cứ chính

xác cho việc đánh giá hiệu quả hoạt động cải cách thủ tục hành chính theo cơ
chế “một cửa” ở địa phương. Đồng thời, nghiên cứu quy trình xử lý và giải
quyết thủ tục hành chính ở địa phương để có được cái nhìn tổng quát về thủ tục
hành chính và giải quyết thủ tục hành chính đang áp dụng trong thực tế.
Phạm vi: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lĩnh vực giải quyết
công việc thực hiện cơ chế một cửa tại UBND xã Xuân Lẹ.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Thứ nhất, cung cấp những căn cứ khoa học cho việc xác định nguyên
nhân của từng mặt hạn chế còn tồn tại của mô hình “một cửa” đang vận hành
hiện nay ở UBND xã Xuân Lẹ
Thứ hai, tìm hiểu thực trạng triển khai hoạt động cải cách thủ tục hành
chính theo cơ chế “một cửa” tại UBND xã Xuân Lẹ;
Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
công tác cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”, phục vụ cho công
tác quản lý và điều hành hoạt động ở địa phương trong giai đoạn hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp điều tra xã hội học
- Phương pháp học, nghiên cứu tài liệu, sách báo.
- Phương pháp xử lý số liệu
- Đi khảo sát tại cơ sở.
5. Kết cấu của báo cáo
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung báo cáo gồm
có 3 phần chính:
Chương 1: Khái quát về UBND xã Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân, tỉnh
Thanh Hóa
Chương 2: Thực trạng cải cách tủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tại
UBND xã Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cải cách thủ tục hành chính
theo cơ chế một cửa tạiUBND xã Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa
5



CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ XÃ XUÂN LẸ,
HUYỆN THƯỜNG XUÂN, TỈNH THANH HÓA
1.1. Vị trí địa lý, tình hình kinh tế - chính trị - văn hoá - xã hội
Xuân Lẹ là một xã miền núi nằm ở phía Tây huyện Thường Xuân là một
xã đặc biệt khó khăn, vùng 135 của Chính phủ, có tổng diện tích tự nhiên là
4.407,07ha. Phía Tây tiếp giáp với Nghệ An, ba phía Bắc, Đông, Nam đề tiếp
giáp với các xã miền núi cao của Thanh Hóa.
Tổng dân số toàn xã là 5887 người/1.194 hộ và có 3 dân tộc chính sinh
sống trên địa bàn cụ thể như dân tộc Thái: 49,6%; dân tộc Mường: 48,7%; dân
tộc Kinh và các dân tộc khác: 1,7%.
Xuân Lẹ là xã gần trung tâm huyện, nên thường có được sự chỉ đạo trực
tiếp, kịp thời của cấp trên. Phối hợp với cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương
có các chính sách ưu đãi về phát triển kinh tế - xã hội vùng miền núi, giao thông
đi lại thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hoá, chỉ đạo thực hiện thành công để
chăn nuôi theo mô hình trang trại, tập huấn theo mô hình trang trại, tập huấn có
hiệu quả theo các chương trình dự án về kỹ thuật canh tác trên đất dốc và một
lớp học nghề đan lát đã có sản phẩm ban đầu. Nhìn chung đời sống của nhân dân
được nâng lên rõ rệt.
Bên cạnh những thuận lợi trên thì Xuân Lẹ cũng gặp không ít những khó
khăn như: giá cả hàng hoá trên thị trường tăng nhanh, các loại dịch bệnh có
nguy cơ xuất hiện trên địa bàn, tình hình thời tiết không ổn định, thường xuyên
xảy ra lũ lụt gây thiệt hại nhiều công trình thuỷ lợi, tiếp tục gia tăng nhiều diện
tích hạn hán,một bộ phận nhân dân còn chưa mạnh dạn đầu tư chuyển đổi cơ cấu
cây trồng và vật nuôi, các tệ nạn xã hội có xu hướng xuất hiện.
Trước tình hình đó, cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dâna trong xã đã
cố gắng vượt qua tiếp tục chỉ đạo và thực hiện thắng lợi nghị quyết Đại hội Đảng
các cấp. Trong năm qua xã Xuân Lẹ đã đạt được những thành tựu và kết quả như

sau:
6


* Về kinh tế: Xuân Lẹ chủ yếu là sản xuấtnông nghiệp, chăn nuôi và
lâm nghiệp.
Cụ thể về trồng trọt: tổng diện tích gieo trồng cả năm là 593,7ha đạt
118,5%.
Về cây lúa: diện tích gieo cấy cả năm là 291 ha, đạt 92,97% kế hoạch,
diện tích lúa bị hạn hán là 14,2ha được chuyển qua trồng rau đậu và trồng ngô.
Diện tích cây ngô: 45,5ha, năng suất bình quân đạt 50 tạ/ha, diện tích cây
mía: 104ha, diện tích sắn: 120,6ha.
Do có sự chỉ đạo của Đảng uỷ, chính quyền và các ban ngành địa phương,
ngày từ đầu năm cùng với nhân dân đã kịp thời khắc phục những khó khăn

về

thời tiết. Chủ động chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh có hiệu quả đem lại năng
suất cao và hiệu quả kinh tế cho nhân dân.
* Về chăn nuôi:
Tổng đàn trâu hiện nay có là: 1.621 con, tăng 271 con
Tổng đàn bò: 482 con, tăng 204 con, trong đó bò lai sin là 6con.
Tổng đàn trâu bò đạt 110,6% kế hoạch tăng 21% so với cùng kỳ.
Tổng đàn gia cầm là: 12.852 con đạt 64,16% kế hoạch.
Nhìn chung công tác chăn nuôi đã cơ bản đã thực hiện thắng lợi bước đầu
theo tinh thần nghị quyết BTV huyện uỷ, theo đề án phát triển chăn nuôi đại gia
súc.
Sản xuất lâm nghiệp: tổng diện tích cây lâm nghiệp là 2.325 ha, trong đó
trồng mới được 25ha, đạt 62,5% kế hoạch.
* Về văn hoá: Hoạt động văn hoá thông tin truyền thông ngày càng bám

sát vào nhiệm vụ chính trị của xã hội đó là tuyên truyền các chính, chủ trương,
đường lối của Đảng và Nhà nước vào cuộc sống, cuộc vận động toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hoá ở các khu dân cư, nâng cao chất lượng
hoạt động của các làng văn hoá đang được đẩy mạnh.
Tổ chức khai trương một làng văn hoá thông Tân Thủy (2007) đưa tổng
số cơ quan văn hoá lên 8 đơn vị. Với những thuận lợi và khó khăn trên, Đảng bộ

7


xã và nhân dân Xuân Lẹ quyết tâm đoàn kết cùng nhau khắc phục những khó
khăn, làm cho Xuân Lẹ ngày càng khởi sắc.
1.2. Đặc điểm về kinh tế- xã hội:
- Đặc điểm về kinh tế:
Năm 2015 Đảng uỷ, HĐND, UBND xã tập trung lãnh đạo vận động nhân
dân làm thuỷ lợi, xây dựng, gia cố, tôn cao các tuyến đê bao để đảm bảo về diện
tích sản xuất lúa 2 vụ và từng bước nâng lên 3 vụ ở những khu vực đủ điều kiện.
Năm 2004 diện tích sản xuất lúa 2 vụ là 6.800 ha, năng suất bình quân là 5
tấn/ha, sản lượng lúa đạt 32.000 tấn. Đến năm 2010 diện tích sản xuất lúa 2 vụ là
7.538 ha (trong đó có 800 ha sản xuất lúa 3 vụ) năng suất bình quân là 6,37
tấn/ha, sản lượng lúa đạt 47.730,4 tấn tăng đáng kể so với năm 2004.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế cây trồng vật nuôi cũng được quan tâm đầu
tư, trong năm diện tích trồng các loại hoa màu là 28 ha; trong đó, sen là 16,8 ha,
dưa hấu 10 ha, ớt 1,2 ha, lợi nhuận trên 50.000đ/ ha. Xã hiện đang duy trì và tiếp
tục phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm theo hướng an toàn sinh học có sự kiểm
soát chặt chẽ của cơ quan thú y; chăn nuôi cá từng bước phát triển tận dụng khai
thác lợi thế mùa lũ, chủ yếu là nuôi trong ao hầm, lồng bè.
Thực hiện Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ lần thứ II, UBND xã xác định
phải hoàn thành hệ thống tưới tiêu bằng điện để phục vụ sản xuất là nhiệm vụ
trọng tâm. Trong năm xã đã xây dựng được 04 trạm bơm điện phục vụ tưới tiêu

cho 1.450,3 ha chiếm 38,7% diện tích sản xuất toàn xã. Đồng thời, triển khai
chương trình cơ giới hóa vào sản xuất, thu hoạch, sau thu hoạch và quản lý
chống thất thoát được nhân dân đồng tình cao. Trong năm, đã có 45% diện tích
sản xuất thu hoạch bằng máygặt đập liên hợp, góp phần tích cực vào giảm giá
thành sản xuất, hạ tỷ lệ hao hụt, từng bước nâng cao chất lượng hạt lúa.
Về giao thông xây dựng cơ bản, năm 2010 xã xây dựng được 01 cây cầu ở
Ngã 5 Hồng kỳ, sữa chửa 04 cây cầu ở dọc theo tuyến lộ kênh Lô ba, kinh phí
do nhân dân đóng góp 30% và huyện hỗ trợ 70%. Ngoài ra địa phương còn phối
hợp với Trường Đại học Bách khoa Thành phố Hồ Chí Minh xây dựng hoàn
thành và đưa vào sử dụng 1000 mét lộ đal và 01 căn nhà tình thương cho hộ
8


nghèo ở ấp 2, tổng kinh phí trên 500 triệu đồng do trường Đại học bách khoa
vận động tài trợ…
- Đặc điểm về xã hội:
UBND xã quan tâm chỉ đạo Ban chỉ đạo toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa thường xuyên theo dõi diễn biến về môi trường kịp thời khống chế
các loại dịch bệnh có thể xảy ra, từ đó trong những năm qua không xảy ra dịch
bệnh gây tác hại nghiêm trọng trên địa bàn xã. Công tác chăm sóc sức khoẻ cho
nhân dân có nhiều tiến bộ, mạng lưới y tế cơ sở được tập trung củng cố và kiện
toàn, 4/5 ấp điều có tổ y tế. Trạm y tế có bác sĩ, nữ hộ sinh phục vụ. Công tác
khám chữa bệnh cho nhân dân được nâng cao, các chương trình y tế quốc gia
được quan tâm thực hiện tốt, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng cuối năm 2010 đạt
14,48%. Công tác an toàn vệ sinh thực phẩm và vệ sinh môi trường được kiểm
tra thường xuyên nên hạn chế được các loại dịch bệnh xảy ra.
Tiếp tục thực hiện tốt cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống
văn hóa ở khu dân cư, trong năm 2015 có 991 hộ đạt chuẩn gia đình văn hoá
chiếm tỷ lệ 86,93%. Ấp đạt chuẩn văn hóa là 03/05 ấp, chiếm tỷ lệ 60%. Toàn xã
có 52 hộ gia đình chính sách, 204 hộ nghèo, 59 hộ cận nghèo; trong năm cũng

đã cất 22 căn nhà cho hộ nghèo theo Quyết định 167 của Chính phủ.
Hiện nay xã có 01 bưu điện văn hóa, gồm 10 máy vi tính được kết nối
Internet; 01 trạm truyền thanh, công suất 1200W với 20 loa phóng, chủ yếu tiếp
âm các đài cấp trên nhằm tuyên truyền Chủ trương đường lối của Đảng, Chính
sách pháp luật của Nhà nước và những việc làm thiết thực của địa phương; toàn
xã có một sân bóng đá mini tại trung tâm xã và 05 sân bóng chuyền của 05 ấp
đảm bảo có sân rèn luyện thể dục, thể thao cho nhân dân trong xã.
- Về Quốc phòng- An ninh:
Trong năm, tình hình an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội xảy
ra 6 vụ. trong đó, huỹ hoại tài sản 02 vụ, trộm cắp tài sản 03 vụ và xâm hại sức
khẻ, tính mạng người khác 01 vụ ngành công an đã phát hiện và xử lý kịp thời
theo pháp luật. Ngoài ra, ngành Công an đã phối hợp với ngành Quân sự xã tuần
tra giao thông đường bộ, nhằm hạn chế tình trạng vi phạm an toàn giao thông.
9


Năm 2015, ngành quân sự xã đã tổ chức xét duyệt chính trị cho thanh niên
trong độ tuổi từ 18 – 25 cho 344 thanh niên, trong đó có 30 thanh niên đủ điều
kiện bình nghị và đã tuyển 5 thanh niên được bình nghị lên đường nhập ngũ đạt
100% chỉ tiêu trên giao. Ngành cũng đã trực sẳn sàn chiến đấu tại chỗ, tổ chức
tốt công tác huấn luyện cho lực lượng Dân quân tự vệ và Dự bị động viên được
trên đánh giá cao.

10


CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THEO CƠ CHẾ MỘT CỬA TẠI UBND XÃ
XUÂN LẸ, HUYỆN THƯỜNG XUÂN, TỈNH THANH HÓA
2.1. Khái quát về cơ chế một cửa

2.1.1 Khái niệm cơ chế một cửa
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ sự cần
thiết phải cải cách thủ tục hành chính, coi đây là một giải pháp quan trọng góp
phần đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Yêu cầu chung của cải cách
thủ tục hành chính là giảm bớt thủ tục hành chính rườm rà và phức tạp, chồng
chéo dễ bị lợi dụng để tham nhũng, gây khó khăn và cản trở việc giải quyết công
việc chung, làm ảnh hưởng đến quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức, công
dân. Cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” là một giải pháp đổi mới về
phương thức làm việc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương các cấp,
nhằm tạo chuyển biến cơ bản trong quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước
với các tổ chức, công dân.
Nhận rõ mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác cải cách thủ
tục hành chính, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 38/CP ngày 4-5-1994 về
cải cách một bước thủ tục hành chính mà mục tiêu quan trọng là hướng đến việc
giải quyết tốt hơn các công việc của công dân, tổ chức, đặc biệt là cộng đồng
doanh nghiệp. Cùng với yêu cầu phát triển và hội nhập, cải cách thủ tục hành
chính ở nước ta từng bước được định hình về nội dung, phương hướng triển khai
với những bước đi, cách làm nhằm bảo đảm bộ máy hành chính phục vụ tốt hơn
nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Trên lộ trình thực hiện Nghị quyết 38/CP của
Chính phủ, cơ chế “một cửa” đã ra đời và được thí điểm rộng rãi trên cả nước.
“Cơ chế “một cửa” là cơ chế giải quyết công việc của tổ chức, cá nhân bao gồm
cả tổ chức, cá nhân nước ngoài thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của một cơ quan
hành chính nhà nước, từ hướng dẫn, tiếp nhận giấy tờ, hồ sơ, giải quyết đến trả
kết quả được thực hiện tại một đầu mối duy nhất là Bộ phận tiếp nhận và trả kết
quả của cơ quan hành chính nhà nước đó”. Việc cải cách theo hướng đơn giản
11


hóa thủ tục hành chính gắn với việc thực hiện cơ chế “một cửa”, được triển khai
mạnh trong quá trình thực hiện Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà

nước giai đoạn 2001–2010, tiếp sau đó là giai đoạn 2011-20120. Theo chủ
trương đó, Quyết định số 181/2003/QĐ-TTg ngày 4-9-2003 của Thủ tướng
Chính phủ về việc ban hành Quy chế thực hiện cơ chế “một cửa” tại cơ quan
hành chính nhà nước ở địa phương ra đời, đã tạo ra một cách thức giải quyết
công việc hiệu quả cho công dân, tổ chức, đã thể chế hóa mối quan hệ giữa
chính quyền và công dân thông qua việc thực hiện cơ chế “một cửa”. Khi cơ chế
“một cửa” ra đời, thay vì việc công dân tổ chức khi muốn giải quyết hồ sơ hành
chính thì phải tự mình đi liên hệ với nhiều bộ phận chuyên môn khác nhau của
cơ quan hành chính nhà nước thì nay công dân, tổ chức chỉ cần tới Bộ phận tiếp
nhận và trả kết quả của cơ quan hành chính nhà nước thuộc lĩnh vực chuyên
môn đó nộp hồ sơ và nhận phiếu hẹn chờ ngày nhận kết quả hồ sơ, còn các công
việc liên hệ làm việc với các phòng ban chuyên môn thì thuộc trách nhiệm của
cơ quan hành chính tiếp nhận hồ sơ đó. Mô hình “một cửa” ra đời nhanh chóng
được triển khai và nhân rộng khắp các địa phương trong cả nước, được người
dân hoan nghênh, hưởng ứng do hiệu quả tích cực của mô hình này mang lại. Có
thể nhận thấy, cơ chế “một cửa” là giải pháp đổi mới hữu hiệu về phương thức
làm việc của cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương các cấp, nhằm tạo
chuyển biến cơ bản trong quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với các tổ
chức và công dân, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, giảm phiền hà, chi phí,
thời gian, công sức; đồng thời, điều chỉnh một bước về tổ chức bộ máy và đổi
mới, cải tiến chế độ làm việc và quan hệ công tác trong cơ quan hành chính nhà
nước.
2.1.2. Nguyên tắc thực hiện cơ chế một cửa.
Việc tuân thủ các nguyên tắc này khi thực hiện cải cách thủ tục hành
chính theo cơ chế “một cửa” là rất cần thiết và không thể thiếu nhằm đảm bảo
thực hiện thống nhất, chính xác, có hiệu quả cơ chế “một cửa” tại tất cả các cơ
quan hành chính nhà nước.Các nguyên tắc đó là:
Thứ nhất, thủ tục hành chính đơn giản, rõ ràng, đúng pháp luật.
12



Thứ hai, công khai các thủ tục hành chính, mức thu phí, lệ phí, giấy tờ, hồ
sơ và thời gian giải quyết công việc của tổ chức, cá nhân.
Thứ ba, nhận yêu cầu và trả kết quả tại bộ phận tiếp nhận và trả kết quả.
Thứ tư, bảo đảm giải quyết công việc nhanh chóng, thuận tiện cho tổ
chức, cá nhân.
Thứ năm, đảm bảo sự phối hợp giải quyết công việc giữa các bộ phận, cơ
quan hành chính nhà nước để giải quyết công việc của tổ chức, cá nhân.
2.1.3 Phạm vi và quy trình thực hiện cơ chế một cửa
Cơ chế “một cửa” được áp dụng đối với các cơ quan quy định tại khoản 1
Điều 3 Quy chế ban hành kèm theo Quyết định số 93 /2007/QĐ-TTg, ngày 22-6
-2007 của Thủ tướng Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ các
quy định của pháp luật và tình hình thực tế của địa phương quyết định những
loại công việc thực hiện theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” để giải
quyết một số lĩnh vực công việc liên quan trực tiếp tới tổ chức, cá nhân theo quy
định của pháp luật cùng thuộc trách nhiệm, thẩm quyền của nhiều cơ quan hành
chính nhà nước. Bao gồm các cơ quan sau:
- Văn phòng UBND, các sở và cơ quan tương đương (sau đây gọi là cơ
quan chuyên môn cấp tỉnh) thuộc UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương (sau đây gọi là UBND cấp tỉnh);
- UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi là UBND
cấp huyện);
- Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là UBND cấp xã);
- Các cơ quan được tổ chức và quản lý theo hệ thống dọc đặt tại địa
phương của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ.
2.2. Thực trạng cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tại
UBND xã Xuân Lẹ, huyện Thường Xuân, tỉnh Thanh Hóa
2.2.1. Căn cứ pháp lý để tổ chức Bộ phận “một cửa” tại UBND xã Xuân Lẹ
Thực hiện Quyết định số 136/2001/QĐ-TTg, ngày 17-9-2001 về phê duyệt
chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn 2001- 2010; Quyết định

181/2003/QĐ-TTg, ngày 04-9-2003 về việc ban hành Quy chế thực hiện cơ chế “một

13


cửa” tại cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương; Quyết định 93/2007/QĐ-TTg,
ngày 22-6-2007 về việc ban hành Quy chế thực hiện cơ chế “một cửa” liên thông tại
cơ quan hành chính Nhà nước ở địa phương. Tỉnh uỷ, UBND tỉnh Thanh Hóa đã xây
dựng và ban hành hàng loạt các đề án, quyết định để triển khai áp dụng mô hình giải
quyểt công việc theo cơ chế “một cửa” và “một cửa liên thông” trên địa bàn toàn tỉnh
đó là:
- Quyết định 1367/ QĐ- UB ngày 08-6-2007 về việc phê duyệt kế hoạch triển
khai thực hiện nhiệm vụ đơn giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực Quản lý
Nhà nước tỉnh Thanh Hóa 2007- 2010.
- Quyết định số 1248/2008/QĐ-UB ngày 25-6-2008 của UBND tỉnh Thanh
Hóa về việc ban hành quy định phân công, phân cấp quản lý tổ chức bộ máy và CB,
CC, viên chức nhà nước.
- Quyết định số 2197/2007/QĐ-UB ngày 19-9-2007 của UBND tỉnh Thanh Hóa
về việc thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa” liên thông tại cơ quan hành chính nhà
nước trên địa bàn tỉnh.
- Quyết định số 1130/2006/QĐ-UB ngày 26-5-2006 của UBND tỉnh Thanh Hóa
về việc ban hành Quy trình, thủ tục giải quyết công việc theo cơ chế “một cửa” tại
UBND cấp xã.
- Quyết định số 328/QĐ-UB ngày 21-7-2003 của UBND tỉnh Thanh Hóa thành
lập Bộ phận tiếp nhận và hoàn trả hồ sơ hành chính.
- Quyết định 1367/QĐ-UB ngày 08-6-2007 về việc phê duyệt kế hoạch triển
khai thực hiện nhiệm vụ đơn giản hoá thủ tục hành chính trên các lĩnh vực Quản lý
Nhà nước tỉnh Thanh Hóa 2007- 2010.
Trên cơ sở những căn cứ pháp lý nêu trên, UBND xã Xuân Lẹ đã triển khai xây
dựng và thực hiện Đề án cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” gắn liền

với công tác cải cách hành chính của địa phương. Đồng thời, xây dựng quy chế hoạt
động và làm việc của Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ hành chính cũng như sự
phối kết hợp giữa các phòng ban chuyên môn trong việc giải quyết hồ sơ hành chính
cho công dân, tổ chức, đảm bảo đúng, đủ, kịp thời, công khai, minh bạch trong việc
giải quyết hồ sơ hành chính của công dân, bước đầu đã mang lại những thay đổi tích
cực trong việc giải quyết thủ tục hành chính cho công dân, được nhân dân tin tưởng và
ủng hộ.

14


2.2.2 Tổ chức và hoạt động của Bộ phận “một cửa” tại UBND xã Xuân Lẹ
Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên. Tỉnh uỷ, UBND tỉnh
Thanh Hóa và UBND huyện Thường Xuân đã xây dựng và ban hành hàng loạt các đề
án, quyết định để triển khai áp dụng mô hình giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế
“một cửa” trên địa bàn toàn tỉnh và UBND huyện Thường Xuân. UBND huyện đã chỉ
đạo các phòng chuyên môn tiến hành rà soát lại các quy trình thủ tục theo quy định về
thời gian, các khoản thu phí, lệ phí… qua đó điều chỉnh cho phù hợp. Đồng thời, hệ
thống lại chức năng, nhiệm vụ của các phòng để xác định mức độ trách nhiệm của các
trưởng phòng, ban chuyên môn. Trên cơ sở đó UBND huyện ban hành quy định tạm
thời thực hiện các thủ tục hành chính và trình tự giải quyết hành chính tại bộ phận tiếp
nhận và hoàn trả hồ sơ; Tiến hành mẫu hoá các quy trình, thủ tục để công khai tại bộ
phận “một cửa” các lĩnh vực đã được UBND tỉnh phê duyệt. UBND huyện đã chỉ đạo
tập trung cho công tác nhân sự, lựa chọn cán bộ có trình độ, am hiểu về các thủ tục
hành chính của các phòng ban, cán bộ có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, có khả năng tiếp
dân, để thành lập bộ phận tiếp nhận và hoàn trả hồ sơ hành chính,
Tháng 5 năm 2006, UBND xã Xuân Lẹ đã thành lập bộ phận tiếp nhận hồ sơ và
trả kết quả theo cơ chế một cửa. Đây là một thay đổi căn bản bước đầu trong giao dịch
của người dân với các phòng ban của UBND xã. Người dân không phải đi qua nhiều
phòng, ban mà chỉ cần nộp hồ sơ tại bộ phận một cửa và chờ giải quyết , điều này

tránh được phiền hà, nhũng nhiễu và những tiêu cực có thể phát sinh, vì vậy đã được
dư luận đồng tình ủng hộ.
2.2.3. Quy trình thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”
Tại Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả hồ sơ hành chính của UBND xã, mô hình
“một cửa” được thực hiện theo quy trình khép kín. Công dân đến giải quyết thủ tục
hành chính nộp hồ sơ tại bộ phận tiếp nhận hồ sơ của bộ phận một cửa, cán bộ chuyên
môn tiếp nhận hồ sơ và gửi đến cán bộ chuyên môn để hẹn lịch trả kết quả, cán bộ
chuyên môn giải quyết hồ sơ theo quy định và trả về nơi tiếp nhận hồ sơ để trả kết quả
cho công dân đúng lịch hẹn.
Quy trình giải quyết các công việc được diễn giải như sau:
Tiếp nhận hồ sơ:
Khi tiếp nhận hồ sơ của tổ chức cũng như của công dân; CB, CC của Bộ phận
tiếp nhận và trả kết quả có trách nhiệm:

15


- Xem xét, kiểm tra kỹ các loại giấy tờ cần thiết của từng loại hồ sơ;
- Hướng dẫn việc kê khai, bổ sung (nếu thiếu);
- Tiếp nhận các hồ sơ đã được kiểm tra đúng yêu cầu, viết phiếu hẹn trả kết quả
theo quy định.
- Những hồ sơ thuộc các lĩnh vực được quy định giải quyết tại Bộ phận tiếp
nhận và trả kết quả theo cơ chế “một cửa” cho công dân và tổ chức thì các phòng, ban
chuyên môn không trực tiếp nhận. Hồ sơ không có kiểm tra xác nhận của Bộ
phận”một cửa” được coi là không đủ điều kiện để xem xét.
Xem xét giải quyết hồ sơ của các, ban chuyên môn liên quan:
- Trưởng các ban chuyên môn chịu trách nhiệm giải quyết các hồ sơ thuộc
quyền hạn của mình, ban do Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả chuyển đến.
- Hồ sơ liên quan đến nhiều ban chuyên môn thì cần xem xét nội dung chủ yếu
liên quan đến ban chuyên môn nào để báo cáo UBND xã quy định trách nhiệm phối

hợp giải quyết.
Thẩm quyền ký giải quyết công việc
- Thẩm quyền ký thuộc Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch UBND xã thì các ban
chuyên môn trình Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch ký thông qua Văn phòng HĐND và
UBND.
Trả kết quả
Sau khi nhận hồ sơ đã giải quyết của các ban chuyên môn, các cán bộ thụ lý
trực tiếp mang hồ sơ đến Bộ phận Văn thư để đóng dấu; ghi sổ theo dõi; cập nhật
thông tin vào máy tính; hướng dẫn cách nộp phí, lệ phí theo quy định và trả kết quả hồ
sơ theo đúng ngày ghi trên giấy biên nhận hồ sơ.
Những hồ sơ không đủ điều kiện giải quyết hoặc cần có thêm thời gian để
nghiên cứu thêm thì các ban chuyên môn cần thông báo bằng văn bản về lý do cụ thể
và chuyển đến Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả để thông báo cho tổ chức hoặc công
dân được biết và viết phiếu hẹn lại.
2.2.4. Hệ thống thủ tục hành chính giải quyết theo cơ chế “một cửa” tại UBND xã
Xuân Lẹ
UBND xã Xuân Lẹ thực hiện cơ chế “một cửa” vào tháng 5/2006 để thực hiện
cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”. Bao gồm 03 lĩnh vực sau:
- Lĩnh vực địa chính – xây dựng, giao thông – thủy lợi- môi trường.

16


- Lao động thương binh và xã hội.
- Tư pháp, hộ tịch.
2.2.4.1. Lĩnh vực địa chính – xây dựng, giao thông – thủy lợi- môi trường.
Công tác địa chính:
Nhiệm vụ của công chức Địa chính - xây dựng, giao thông - thủy lợi - môi
trường (đối với phường, thị trấn) hoặc công chức Địa chính - nông nghiệp - xây dựng
và môi trường (đối với xã) được quy định tại điều 6, Luật tổ chức chính quyền địa

phương năm 2016.
Cụ thể năm 2015, lĩnh vực ĐC - XD,GT-TL-MT đã giải quyết những công việc
như sau:
Thực hiện tốt công tác quản lý, theo dõi, chỉnh lý biến động đất đai kịp thời.
Phối hợp với Hội đồng đền bù giải phóng mặt bằng huyện kiểm đếm diện tích đất, cây
cối, hoa màu, vật kiến trúc hai bên đường quốc lộ 12B để Hội đồng đền bù giải phóng
mặt bằng lên phương án giải phóng mặt bằng thực hiện dự án mở rộng, nâng cấp quốc
lộ 12B.
Phối hợp với phòng Tài nguyên và môi trường, Sở TN&MT kiểm tra, lập hồ sơ
tồn đọng cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho 166 hộ còn lại của nông trường
Quỳnh Sơn chuyển về Xuân Lẹ.
Phối hợp với phòng TN&MT, đơn vị tư vấn kiểm kê đất đai 5 năm (2010 –
2015)
Phối hợp với ban quản lý rừng phòng hộ kiểm kê các loại rừng trên địa bàn xã.
Lập hồ sơ đề nghị UBND huyện giao đất xây dựng Đình làng Quỳnh Phong
diện tích 1680 m2 tại khu vực ao bà Kế thuộc thôn Quỳnh Phong 2, đến nay đã có
Quyết định giao đất của UBND huyện và nhân dân trong thôn đang tiến hành xây
dựng Đình làng.
Xây dựng quy hoạch bổ sung đất ở bám đường 12B = 1,2 ha; đất sản xuất kinh
doanh thôn Trung Thanh = 2 ha; đất tín ngưỡng thôn Đồng Tâm 3 = 0,04 ha (khu vực
Đền Thượng hồ Sòng Xanh).
Công tác xây dựng cơ bản: Đã tiến hành sửa chữa một số hạng mục của khu
công sở và nhà bia tưởng niệm ghi tên các anh hùng liệt sỹ xã với số tiền =
258.218.400 đồng.

17


Công tác giao thông thủy lợi, môi trường: Thường xuyên kiểm tra để có kế
hoạch tu sửa các tuyến đường giao thông phục vụ đi lại sản xuất. Phát động nhân dân

làm vệ sinh môi trường, tổ chức triển khai tháng vệ sinh, tiêu trùng khử độc, tuyên
truyền ý thức tự giác bảo vệ môi trường, công tác thu gom và xử lý rác thải trong toàn
dân. Tham gia cùng đoàn kiểm tra của Sở TN&MT, phòng TN&MT kiểm tra việc xả
thải và sử dụng nước ngầm của công ty Thiên nhiên xanh và công tác đảm bảo vệ môi
trường tại Công ty NipponZuki, Xưởng tái chế bao bì Thịnh – Lợi.
2.2.4.2. Lĩnh vực LĐTB&XH
Nhiệm vụ của công chức văn hóa- xã hội được quy định cụ thể tại điều 9 Luật
tổ chức chính quyền địa phương năm 2016. Trong đó năm 2015, lĩnh vực LĐTB&XH
đã giải quyết tốt thủ tục liên quan đến các chế độ chính sách xã hội cho các công dân
trong địa bàn xã như:
Công tác quản lý và thực hiện chính sách người có công: Số người có công
đang được hưởng trợ cấp hàng tháng = 122 đối tượng, 71 người đề nghị đi điều dưỡng.
Cấp thẻ BHYT cho 225 đối tượng người có công. Thực hiện chi trả đầy đủ, kịp thời
chế độ chính sách người có công theo đúng quy định.
Quản lý và chăm sóc đối tượng BHXH: Quản lý và chi trả thường xuyên cho
225 người; triển khai và thực hiện tốt Luật người khuyết tật, có 01 đối tượng được
hưởng chế độ khuyết tật; Cấp thẻ BHYT cho 197 đối tượng BTXH và 82 đối tượng là
người dân tộc thiểu số. Thực hiện đầy đủ các chế độ khác với các đối tượng BTXH.
Chăm sóc và bảo vệ trẻ em: Xây dựng kế hoạch triển khai tổ chức thực hiện
các hoạt động hè năm 2014 cho các cháu thiếu niên, nhi đồng. Phối hợp với các cấp,
các ngành tổ chức tốt tết thiếu nhí 01/6 và Hội trại Trung thu năm 2014. Tổng kinh phí
chi cho hoạt động tết thiếu nhi 01/6 = 3.400.000 đồng (ngân sách xã), Trung thu là
114.764.000 đồng, trong đó: Ngân sách xã là 22.043.000 đồng, tiền nhân dân và các tổ
chức, cá nhân, doanh nghiệp ủng hộ 92.721.000 đồng. Tổng số trẻ được cấp thẻ BHYT
trong năm = 125 trẻ.
Công tác giảm nghèo: Tổng số người nghèo và cận nghèo được cấp thẻ BHYT
là 123 người. Tổ chức việc rà soát hộ nghèo năm 2015; kết quả: Hộ nghèo = 53 hộ =
4% giảm 0,98% so với năm 2014; hộ cận nghèo = 54 hộ = 4,04% giảm 0,68% so với
năm 2014.


18


Công tác lao động, việc làm, đào tạo nghề: Thực hiện cập nhật thông tin cung
cầu lao động và khảo sát nhu cầu học nghề rộng rãi trên toàn xã; xây dựng kế hoạch,
phối hợp với các trường dạy nghề để mở các lớp đào tạo dạy nghề cho lao động.
2.2.4.3. Lĩnh vực tư pháp hộ tịch
Nhiệm vụ của công chức tư pháp hộ tịch được quy định cụ thể tại điều 8 Luật tổ
chức chính quyền địa phương năm 2016. Cụ thể trong năm 2015, Lĩnh vực tư pháp hộ
tịch đã thực hiện những nhiệm vụ sau:
Công tác tiếp dân giải quyết đơn khiếu nại tố cáo.
Công tác tiếp dân được duy trì và thực hiện nghiêm túc. Ban tư pháp đã phối
hợp với các ban, ngành tham mưu, giúp UBND xã làm tốt công tác tiếp dân, giải quyết
đơn thư kiến nghị của nhân dân một cách kịp thời, đầy đủ, đúng chính sách pháp luật.
Việc tiếp nhận và giải quyết hồ sơ theo cơ chế một cửa được thực hiện đúng
quy trình, đảm bảo về mặt thời gian, không để tồn đọng.
Công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật.
Để đảm bảo được các thông tín, chính sách của Đảng và Nhà nước đến với
nhân dân một cách kịp thời, sâu rộng. Ban tư pháp luôn xác định công tác tuyên truyền
phổ biến giáo dục pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt quá
trình hoạt động. Bằng hình thức lồng ghép Ban tư pháp đã phối kết hợp với các ban
ngành đoàn thể thông qua các hội nghị để tuyên truyền.
Các công tác soạn thảo văn bản.
Ban tư pháp phối hợp với Văn phòng tham mưu giúp UBND xã soạn thảo các
văn bản hành chính, văn bản quản lý đảm bảo đúng thể thức, đúng chính sách pháp
luật, kịp thời và phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của địa phương. Bên cạnh đó việc lưu
trữ văn bản luôn được chú trọng và đảm bảo nề nếp.
Công tác đăng ký và quản lý hộ tịch.
Quán triệt tinh thần Nghi định 158/2005/NĐ- CP của chính phủ về đăng ký và
quản lý hộ tịch. Ban tư pháp than mưu giúp UBND thực hiện tốt công tác hộ tịch đảm

bảo có nề nếp, đủ thủ tục và đúng chính sách pháp luật.
Năm 2015 đã tổ chức đăng ký khai sinh cho = 122 trường hợp: Trong đó đúng
hạn = 108 trường hợp , quá hạn = 02 trường hợp và 12 trường hợp đăng ký lại; Khai tử
= 25 trường hợp; trong đó đúng hạn = 23 trường hợp, quá hạn 02 trường hợp, đăng ký
lại không có trường hợp nào. Đăng ký kết hôn cho 48 đôi, cấp giấy xác nhận tình trạng
hôn nhân cho 67 trường hợp, trong đó: Mục đích để làm thủ tục đăng ký kết hôn ở địa

19


phương khác = 63 trường hợp, đăng ký quyền sở hữu nhà đất = 03 trường hợp, 1
trường hợp làm thủ tục vay vốn ngân hàng. Cải chính hộ tịch = 02 trường hợp, không
có tường hợp nào đăng ký nhận con, đăng ký con nuôi, đăng ký giám hộ.
Công tác chứng thực:
Trên cơ sở Nghị định 75/2000 và nghị định 79/2000 về công tác chứng thực
năm 2015 Ban tư pháp đã tham mưu cho UBND về công tác chứng thực; Về chứng
thực bản sao từ sổ gốc = 321 bản, chứng thực bản sao từ bản chính = 1567 bản, chứng
thực hợp đồng thế chấp tài sản vay vốn tại ngân hàng = 12 trường hợp, hợp đồng có
liên quan đến đất đai = 22 trường hợp.
Công tác hoà giải ở cơ sở.
Trong toàn xã có 10 tổ hoà giải đã hoạt động có hiệu quả. Nhiều tranh chấp, mâu
thuẫn nhỏ trong nội bộ nhân dân được hoà giải, giải quyết kịp thời dứt điểm. Cụ thể trong
năm 2015 đã tổ chức hoà giải thành công 09 vụ việc. Nội dung các vụ việc chủ yếu là
mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng, tranh chấp đất đai.
2.2.5. Đánh giá việc thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa tại
UBND xã Xuân Lẹ.
2.2.5.1. Đánh giá chung
Nhìn chung, mô hình “một cửa” trong việc giải quyết hồ sơ hành chính của tổ
chức, công dân trong thời gian qua được UBND xã triển khai tương đối tốt, mang lại
nhiều kết quả tích cực như giảm phiền hà cho tổ chức, công dân, thời gian giải quyết

hồ sơ được rút ngắn, quy chế làm việc và các thủ tục, lệ phí được công khai, minh
bạch; tổ chức, công dân có điều kiện tham gia giám sát công việc của cán bộ công
chức và cơ quan nhà nước khi họ thực hiện giải quyết hồ sơ hành chính theo quy trình
đã được UBND phê duyệt. So với một số địa phương khác cùng huyện khi thực hiện
cơ chế một cửa như UBND phường Nam Bình (thành phố Thanh Hóa), UBND xã Gia
Phong (huyện Gia Viễn) thì UBND xã Xuân Lẹ có điều kiện học hỏi kinh nghiệm cải
cách và xây dựng quy trình, quy chế làm việc hoàn chỉnh hơn. Bên cạnh đó, công tác
rút kinh nghiệm vẫn còn bó hẹp trong khuôn khổ địa phương thực hiện, mà chưa được
nhân rộng, phổ biến sâu rộng nên UBND Xuân Lẹ vẫn phải từng bước vừa triển khai,
vừa rút kinh nghiệm từ thực tiễn. Để khắc phục và hạn chế những thiếu sót trên đây,
đồng thời phát huy được những mặt tích cực, UBND xã Xuân Lẹ cần xác rõ những hạn
chế và nguyên nhân của những hạn chế này để có thể đưa ra phương hướng và các giải
pháp giải pháp khắc phục.

20


2.5.2.2 Những kết quả đạt được
Từ khi Bộ phận tiếp nhận và trả kết quả đi vào hoạt động cho đến nay đã mang
lại nhiều kết quả đáng mừng. Có thể tóm lược lại những ưu điểm và kết quả đạt được
trong quá trình triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”
tại UBND thị xã Xuân Lẹ như sau :
Một là, việc triển khai thực hiện cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một
cửa” tại UBND xã Xuân Lẹ đã giảm phiền hà rất lớn cho công dân tổ chức
Hai là, hồ sơ, thủ tục hành chính đã được cải tiến theo hướng công khai với
quy trình đơn giản hơn so với “nhiều cửa”
Ba là, thời gian giải quyết công việc được rút ngắn, cơ bản đã giải quyết được
số lượng lớn hồ sơ của tổ chức công dân
Bốn là, trách nhiệm, quyền hạn, quyền lợi của tổ chức, công dân và CB, CC
cũng như các phòng ban chuyên môn rõ ràng hơn.

2.5.2.3. Hạn chế
Thực chất của cải cách hành chính, áp dụng cơ chế “một cửa” trên địa bàn xã
Xuân Lẹ cũng như các địa bàn khác trong cả nước là để cải thiện mối quan hệ giữa
Nhà nước với nhân dân, là thay đổi quan điểm và phương thức phục vụ của cơ quan
hành chính nhà nước từ thói quen cửa quyền xin - cho, dành thuận lợi cho người quản
lý trước đây sang thói quen phục vụ của người công chức - công bộc, nhận khó khăn
về mình, dành thuận lợi cho nhân dân ; vì lợi ích của nhân dân và nhân dân là người
được hưởng lợi ích trực tiếp của cuộc cải cách hành chính, của việc áp dụng cơ chế
“một cửa”. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai hoạt động thì công tác cải cách thủ tục
hành chính theo cơ chế “một cửa” vẫn chưa thực hiện triệt để được yêu cầu nêu trên và
vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. Cụ thể như sau :
Thể chế hành chính chưa hoàn chỉnh đồng bộ.
Thể chế quy định về cơ chế “một cửa” mới chỉ được đề cập một cách chung nhất
về mặt nguyên tắc. Xã chưa xây dựng được quy chế chịu trách nhiệm khi hồ sơ hành
chính không được giải quyết kịp thời. Các lĩnh vực được thực hiện theo cơ chế “một cửa”
còn ít, hiện nay tại Bộ phận “một cửa” của UBND xã mới thực hiện cải cách thủ tục hành
chính ở bốn lĩnh vực, trong đó hầu hết đều là những công việc đơn giản .
Thời gian xử lý công việc từ khi tiếp nhận đến khi có kết quả vẫn còn tùy tiện,
kéo dài.

21


Tổ chức, công dân khi đến Bộ phận “một cửa” nộp đầy đủ hồ sơ hợp lệ và
nhận phiếu hẹn trả cụ thể nhưng trên thực tế còn không ít trường hợp kết quả được
giao không đúng hẹn. Thậm chí do ít hồ sơ hoặc do cán bộ chuyên môn giải quyết
công việc ngại nên nhiều khi không viết giấy hẹn trả kết quả rõ ràng mà chỉ hẹn bằng
mồm với công dân, tổ chức đến giải quyết công việc. Cán bộ chuyên môn giải quyết
công việc nhiều khi không thu lệ phí đối với người quen biết hoặc ngại không ghi biên
lai. Điều này tạo ra sự không công bằng giữa các tổ chức, công dân với nhau. Quy định

về thời gian làm việc của Bộ phận “một cửa” hiện nay còn chưa khớp với thực tế, vẫn còn
niêm yết máy móc theo quy định. Trên thực tế tại UBND xã Xuân Lẹ thì thời gian nhận
và trả kết quả hồ sơ hành chính của các lĩnh vực được giải quyết vào tất cả các ngày trong
tuần. Nhưng bảng niêm yết quy định thời gian tiếp nhận trả kết quả hồ sơ tại trụ sở thì lại
phân chia vào ngày chẵn, lẻ. Thứ Hai, thứ Tư, thứ Sáu thì Bộ phận “một cửa” nhận và trả
kết quả hồ sơ thuộc tư pháp, còn thứ Ba, thứ Năm thì nhận hồ sơ của lĩnh vực đất đai, LĐTB&XH. Đây cũng là một trong những bất cập, chồng chéo giữa quy định và thực tiễn.
Kinh phí, cơ sở vật chất còn hạn hẹp, nghèo nàn, lạc hậu
UBND xã mặc dù có nhiều cố gắng nhưng vẫn không có khoản kinh phí riêng
để đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất. Chính vì vây, các trang thiết bị đầu tư cho các
đơn vị, các phòng, ban của xã còn hạn chế nên việc ứng dụng công nghệ thông tin đôi
lúc còn gặp khó khăn do máy móc bị hỏng, phải tiến hành cài lại phần mềm nên quá
trình chuyển tại công việc bị gián đoạn, máy móc và trang thiết bị cũ kĩ. Việc bố trí
trang thiết bị phục vụ cho nhu cầu của nhân dân còn chưa hợp lý, gây nên tình trạng
lãng phí. Phòng làm việc của Bộ phận “một cửa” tuy đã được chuyển lên tầng 1 của
dãy nhà 2 tầng, xong do thiếu cơ sở vật chất nên phòng tiếp công dân phải chung với
phòng bộ phận một cửa trong diện tích 19m vuông. Không gian đó là tương đối trật
hẹp, chưa đáp ứng tốt cho việc hoạt động giao dịch của tổ chức và công dân đến giải
quyết tại bộ phận một cửa. Ở UBND xã, vẫn còn tồn tại việc xử lý hồ sơ hành chính
theo phương pháp thủ công, việc xây dựng và ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại
vào trong việc quản lý và giải quyết hồ sơ hành chính triển khai chậm.
Tác phong, thái độ, trình độ chuyên môn của cán bộ công chức làm việc tại
UBND xã Xuân Lẹ
Nhìn chung cán bộ, công chức làm việc tại UBND xã Xuân Lẹ nói chung và bộ
phận một cửa nói riêng có tác phong tương đối tốt, chấp hành giờ giấc kỷ cương tương
đối tốt, trình độ chuyên môn của các cán bộ công chức đã đáp ứng yêu cầu của tổ chức và

22


công dân. Tuy nhiên vẫn còn một vài nhược điểm cần khắc phục để đạt được hiệu quả

trong hoạt động của cơ quan như: vẫn còn hiện tượng đi muộn về sớm của một số cán bộ,
công chức. Tác phong của cán bộ công chức vẫn chưa chuyên nghiệp, tất cả các cán bộ
đều có thẻ thi hành công vụ nhưng số lượng các cán bộ đeo thẻ thường xuyên là rất ít,
thậm chí là không đeo thẻ. Thái độ của một số cán bộ, công chức vẫn chưa ân cần hòa nhã
với công dân. Cơ chế “xin – cho” vẫn chưa được khắc phục triệt để.

23


CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ CẢI CÁCH THỦ TỤC
HÀNH CHÍNH THEO CƠ CHẾ MỘT CỬA TẠI UBND XÃ XUÂN LẸ

3.1. Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp Ủy Đảng và lãnh đạo địa
phương
Hoạt động của Nhà nước luôn gắn liền với sự lãnh đạo của Đảng, trong hoạt
động quản lý nhà nước cũng vậy. Lãnh đạo, chỉ đạo là hoạt động không thể thiếu trong
bất kỳ cơ quan, tổ chức, đơn vị hành chính nào. Công cuộc cải cách thủ tục hành chính
sẽ chỉ đạt kết quả như mong đợi nếu sự chỉ đạo của Đảng và chính quyền thống nhất
và kiên quyết. Trong công tác cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa” tại
UBND xã Xuân Lẹ nói riêng và công cuộc cải cách hành chính Nhà nước nói chung,
cần phải tăng cường sự lãnh đạo của các cấp Ủy Đảng và chính quyền địa phương trên
các phương diện sau đây:
Trước hết, cấp Ủy Đảng thường xuyên quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo việc triển
khai thực hiện cơ chế "một cửa". Lãnh đạo Đảng và HĐND-UBND, cùng lãnh đạo các
phòng ban chuyên môn cần duy trì công tác kiểm tra, thanh tra và báo cáo thường
xuyên, định kỳ theo sự việc, theo tháng, quý, năm và kiểm tra đột xuất các công việc
giải quyết hồ sơ hành chính của CB, CC nhằm chấn chỉnh tác phong, lề lối làm việc
của họ, để kịp thời phát hiện những khó khăn, vướng mắc, đưa ra thảo luận trước tập
thể và quyết định theo đa số. Việc thanh tra, kiểm tra thường xuyên của các cấp lãnh

đạo sẽ tránh được tình trạng hoạt động, làm việc theo hình thức, cầm chừng, đối phó
của các phòng, ban cũng như của đội ngũ CB, CC trong cơ quan khi thực hiện công
vụ. Có cơ chế kiểm tra cán bộ công chức tiếp nhận và giải quyết công việc của công
dân, xử lý nghiêm những người có hành vi sách nhiễu, hách dịch, vô trách nhiệm.
Đồng thời khen thưởng những người hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Tổng
kết, rút kinh nghiệm, tránh những sai sót.
Bên cạnh đó, lãnh đạo Đảng ủy, HĐND-UBND, cần lắng nghe ý kiến đóng góp
của người dân và của CB, CC về công tác cải cách thủ tục hành chính thông qua các
kênh thông tin như hòm thư góp ý, đơn thư khiếu nại, báo cáo tổng kết, tiếp xúc với
người dân để đi sâu, bám sát thực tiễn, đảm bảo hiệu quả của công tác quản lý..

24


Lãnh đạo UBND xã cần nắm bắt nhanh những thông tin cải cách hành chính
đang được triển khai trên toàn quốc, tham gia học tập kinh nghiệm cải cách hành chính
của các địa phương đã thực hiện tốt trong thời gian vừa qua.

3.2. Hoàn thiện thể chế pháp lý gắn liền với đơn giản hóa các thủ tục
hành chính, xóa bỏ những thủ tục rườm rà.
Thể chế pháp lý có vai trò rất quan trọng trong công cuộc cải cách hành chính,
nó là cầu nối giữa cơ quan Nhà nước với nhau và giữa các cơ quan Nhà nước với tổ
chức công dân. Tuy nhiên, hiện nay thể chế pháp lý từ cơ quan trung ương tới các cơ
quan nhà nước ở địa phương đều còn tồn tại nhiều bất cập, chưa đồng bộ, thống nhất.
Vì vậy, việc hoàn thiện thể chế pháp lý hoàn chỉnh đồng bộ là một yêu cầu cấp bách
hiện nay.
Thứ nhất, xây dựng một hệ thống pháp luật đồng bộ từ trung ương tới địa
phương là một trong những giải pháp được ưu tiên hàng đầu để đảm bảo tính pháp lý
và thông suốt trong quá trình triển khai thực hiện. Cơ quan xây dựng luật và các văn
bản dưới luật cần xây dựng các văn bản đảm bảo yêu cầu phù hợp với thực tiễn và

tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn với nhau; khi xây dựng và thực hiện luật và các văn
bản dưới luật liên quan đến lĩnh vực cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa
thì các cơ quan, cấp chính quyền có thẩm quyền ban hành quy định thủ tục hành chính
cần có sự tham vấn từ phía các cán bộ, công chức thực thi công vụ, các cán bộ, công
chức làm việc ở bộ phận "một cửa” và từ phía khách hàng (tổ chức và người dân). Sự
tham vấn đó là hết sức cần thiết để phát huy tính chủ động, ý thức trách nhiệm của cán
bộ, công chức trong hoạt động công vụ cũng như để thực hiện quy chế dân chủ, phát
huy vai trò giám sát, đánh giá của người dân đối với công tác quản lý của Nhà nước.
Mặt khác, điều đó còn có tác dụng làm hạn chế việc ban hành quy định thủ tục và cách
thức thực hiện thủ tục theo lối tuỳ tiện mà một số cơ quan, cấp chính quyền đã mắc
phải.
Thứ hai, trên cơ sở hệ thống pháp luật thống nhất từ trung ương đến địa
phương, UBND cần xây dựng quy trình phối hợp thực hiện giải quyết hồ sơ hành
chính giữa các cơ quan chuyên môn cũng như các quy chế làm việc của cơ quan cần
phải được các cấp lãnh đạo quan tâm hơn nữa, việc này cần gắn liền với ủy quyền và
tăng cường trách nhiệm của cán bộ, công chức đối với công việc. Bên cạnh đó, cần
xây dựng chế độ trách nhiệm cá nhân của cán bộ, công chức, nhất là đối với người

25


×