Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về độc lập dân tộc và ý nghĩa đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------------------------------------

TRƢƠNG VĂN VIÊN

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ Ý NGHĨA
ĐỐI VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP, TỰ
CHỦ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

Hà Nội – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------------------------------------

TRƢƠNG VĂN VIÊN

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC VÀ Ý NGHĨA
ĐỐI VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC LẬP, TỰ
CHỦ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Triết học

Mã số: 60.22.03.01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS Lƣơng Thùy Liên


Hà Nội – 2017


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng, nỗ lực của bản
thân, tôi còn nhận được sự hướng dẫn tận tình, chu đáo của cô giáo
hướng dẫn TS Lương Thùy Liên, cùng sự góp ý chân thành của các
thầy cô giáo trong Triết học trường Đại học khoa học xã hội & nhân
văn – Đại học quốc gia Hà Nội.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo hướng dẫn và
xin gửi đến các thầy cô trong khoa, cùng bạn bè và gia đình lời cảm
ơn chân thành nhất.
Hà Nội, ngày 16 tháng 6 năm 2017


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU........................................................................................................................ 1
NỘI DUNG.................................................................................................................... 9
CHƢƠNG 1. TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC –
NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH VÀ MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN ...... 9
1.1. Những tiền đề cho sự hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc .............................................................................................................. 9
1.1.1. Tiền đề kinh tế - xã hội cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc .................................................................................................. 9
1.1.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ....... 9
1.1.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX .. 11
1.1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc ............................................................................................................. 16
1.1.2.1. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống ...................................................... 16
1.1.2.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại ............................................................... 18

1.1.2. 3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin về vấn đề dân tộc – Nền tảng
cho sự hình thànhtư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.......................... 22
1.1.3. Hoạt động thực tiễn phong phú của Hồ Chí Minh - nhân tố chủ quan
cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc ..................... 24
1.2. Một số nội dung cơ bản của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
......................................................................................................................... 26
1.2.1. Độc lập dân tộc là quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm ................. 26
1.2.2.Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội .................................... 44
1.2.3. Độc lập dân tộc gắn liền với thống nhất đất nước ............................. 60


CHƢƠNG 2. Ý NGHĨA CỦA TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP
DÂN TỘC ĐỐI VỚI VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐỘC
LẬP, TỰ CHỦ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .......65
2.1. Khái niệm về “độc lập, tự chủ”, “hội nhập quốc tế” và quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay............................................................... 65
2.1.1. Khái niệm về “độc lập, tự chủ” và “hội nhập quốc tế”...................... 65
2.1.1.1. Khái niệm về độc lập, tự chủ.............................................................. 65
2.1.1.2. Khái niệm về hội nhập quốc tế ........................................................... 69
2.1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa độc
lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ..................................................................... 71
2.2. Giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế dƣới
ánh sáng tƣ tƣởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh ................................ 75
2.2.1. Độc lập, tự chủ là cơ sở quyết định hội nhập quốc tế ........................ 75
2.2.2. Hội nhập quốc tế là điều kiện quan trọng để giữ vững độc lập, tự chủ ...79
2.2.3. Hội nhập quốc tế phải gắn liền với việc bảo vệ chủ quyền quốc gia. 88
KẾT LUẬN .................................................................................................................95
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................97



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Chủ tịch Hồ Chí Minh là một biểu tưởng kiệt xuất về quyết tâm của cả
một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của
nhân dân Việt Nam và góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì
hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”[85, tr.5]. Sự nghiệp của
Người gắn liền với lịch sử vinh quang của dân tộc Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứIX của Đảng xác định tư tưởng Hồ
Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa
Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư
tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người; về
độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội…Tư tưởng của Người là tài sản
tinh thần vô cùng quý báu của Đảng và dân tộc ta. Trong hệ thống tư tưởng
Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là nội dung cốt lõi, xuyên suốt và là cái “bất
biến” trong toàn bộ sự nghiệp của Người.
Chính tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh đã soi đường cho
nhân dân ta đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi chủ nghĩa thực dân, xóa
bỏ chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm, lập nên nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân tự
do, làm chủ nước nhà, mở ra kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc – kỷ
nguyên độc lập, tự do. Đối với thế giới tư tưởng độc lập dân tộc của Người đã
soi đường cho các dân tộc thuộc địa vùng dậy đấu tranh chống chống chủ
nghĩa thực dân, đế quốc, giải phóng dân tộc mở ra thời đại mới trong lịch sử
nhân loại - thời đại đấu tranh giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng
vô sản.

1



Hiện nay, bối cảnh quốc tế biến đổi nhanh chóng và sâu sắc. Xu thế
quốc tế hóa đời sống các nước ngày càng tăng, nhất là về kinh tế. Các nước có
mối liên hệ với nhau, không một nước nào có thể phát triển lại không hội
nhập quốc tế, đó là một yêu cầu khách quan. Để hội nhập quốc tế thực sự có
hiệu quả, đưa đất nước phát triển, Đảng ta xác định phải xử lý hài hòa “mối
quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế” và đây là một trong tám
mối quan hệ lớn được Đảng ta xác định cần được chú trọng giải quyết.
Giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế cùng hướng tới một mục
tiêu chung là: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hai nhiệm
vụ này gắn bó, tác động qua lại, có mối quan hệ biện chứng với nhau. Có độc
lập, tự chủ mới tạo vị thế và khả năng cho chúng ta chủ động hội nhập quốc
tế; đồng thời, hội nhập quốc tế cũng mang lại nhiều cơ hội cho Việt Nam phát
triển, mang lại công nghệ, kinh nghiệm quản lý, rút ngắn con đường phát triển
nhằm không ngừng tự hoàn thiện mình để giữ vững hơn nền độc lập, tự chủ.
Chúng ta hội nhập quốc tế với rất nhiều nét đặc thù, trong đó khó khăn
nhất là trình độ phát triển của nền kinh tế còn thấp. Bên cạnh đó là những hệ
lụy của cuộc chiến tranh kéo dài, tác động đến đời sống xã hội, rồi đến chiến
lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch và điều nguy hiểm nữa là
những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang có những diễn biến
phức tạp. Với rất nhiều vấn đề mới và khó được đặt ra, đòi hỏi phải làm rõ
hơn cơ sở lý luận của mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.
Do vậy, đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và ý nghĩa
đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế
ở Việt Nam hiện nay” là một đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.

2



2. Tình hình nghiên cứu
* Tình hình nghiên cứu trong nước:
Thứ nhất,nhóm những nghiên cứu về tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ
Chí Minh:
Tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh được hình thành dựa trên
cơ sở nhận thức và giải quyết đúng đắn mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc
và giai cấp, do vậy trong tư tưởng của Người, độc lập dân tộc luôn gắn liền
với chủ nghĩa xã hội. Tiểu biểu cho quan điểm này là các tác giả trong các
tác phẩm:
Đầu tiên là tác phẩm Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng
Việt Nam (do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia,
Hà Nội, 2003),tác phẩm đã trình bày toàn diện những vấn đề lý luận cơ bản
của tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam, làm rõ những
đóng góp về quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh. Khi
viết về tư tưởng độc lập dân tộc của Người, các tác giả đã khẳng định: “Tư
tưởng độc lập dân tộc của chủ tịch Hồ Chí Minh mang nội dung sâu sắc, triệt
để: Độc lập – thống nhất – tự do dân chủ -ấm no hạnh phúc; gắn độc lập dân
tộc với dân chủ nhân dân; gắn độc lập dân tộc, dân chủ với chủ nghĩa xã hội.
Tư tưởng đó đã trở thành mục tiêu, lý tưởng, thành khẩu hiệu động viên, cổ
vũ nhân dân Việt Nam làm nên kỳ tích vĩ đại: Đánh thắng mọi kẻ thù, đưa đến
thắng lợi “độc lập, thống nhất toàn vẹn” của đất nước”[19, tr. 128]
Tiếp theo là tác phẩmHồ Chí Minh – Tinh hoa và khí phách của dân
tộc (của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2009), trong tác phẩm này Phạm Văn Đồng viết: “Thông điệp của Hồ Chí
Minh là lời nói nổi tiếng: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Độc lập, tự
do ở đây là độc lập của dân tộc, tự do của nhân dân, của con người. Độc lập
đi liền với tự do là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Rõ ràng lời

3



nói này là sự kết tinh những khát vọng thiết tha và cao đẹp nhất của mọi con
người và mọi dân tộc, bởi nó khẳng định một chân lý vĩnh cửu, bởi nó là lời
hiệu triệu vang vọng suốt chiều dài lịch sử, phải được ghi trong những lời
nói vĩ đại nhất của lời người”[17, tr. 493]
Trong tác phẩmChủ nghĩa dân tộc truyền thống và tư tưởng độc lập,
tự do – động lực, mục tiêu đại đoàn kết, đại thành công của cách mạng Việt
Namcủa Lê Mậu Hãn [27, tr. 248 – 261], đã khẳng định: “Độc lập, tự do là
hạt nhân sáng chói và trường tồn của tư tưởng Hồ Chí Minh Tư tưởng độc
lập, tự do là sự khái quát cao và bản chất cốt lõi của chủ nghĩa dân tộc truyền
thống và chủ nghĩa dân tộc hiện đại Việt Nam. Tư tưởng đó có bệ đỡ vững
chắc của quá khứ, phản ánh được khát vọng hiện tại và soi sáng cả tương lai
của dân tộc, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là cơ sở của chiến lược đại
đoàn kết, đại thành công của cách mạng và kháng chiến của nhân dân Việt
Nam”[27,tr. 259].
Trong tác phẩmHồ Chí Minh học và minh triết Hồ Chí MinhcủaBùi
Đình Phong (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội,2008), đã khẳng định: “Độc
lập dân tộc là tiền đề, điều kiện đi tới hạnh phúc tự do” [6, tr. 192]
Tiếp đến là tác phẩmTư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội của Hoàng Trang - Phạm Ngọc Anh (đồng chủ biên, Nxb
Lao động, Hà Nội, 2000), khi trình bày về mối quan hệ giữa độc lập dân tộc
với chủ nghĩa xã hội, các tác giả đã khẳng định “độc lập tự do là khát vọng
của con người, là khát vọng của mọi dân tộc trên thế giới. Độc lập dân tộc là
mục tiêu của mọi cuộc đấu tranh để thoát khỏi ách áp bức bóc lột của giặc
ngoại xâm, có độc lập, tự do, hòa bình, đất nước mới có điều kiện để xây
dựng, tổ chức tốt đời sống cho đồng bào” [82, tr. 179]

4



Thứ hai, nhóm những nghiên cứu về vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh
đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam nói chung và đối với việc giải quyết
mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế nói riêng
Tiểu biểu cho quan điểm này là các tác giả trong các tác phẩm: Bùi
Đình Phong – Vũ Đình Hòe (đồng chủ biên), Hồ Chí Minh với sự nghiệp độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
2010), trong tác phẩm này các tác giả đã khẳng định: “Trong sự nghiệp đổi
mới hiện nay, việc quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc vào
quá trình xây dựng và phát triển đất nước là một hoạt động đầy sáng tạo
không ngừng phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh” [67, tr. 329]; “Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, quan niệm
về độc lập dân tộc của Đảng ta là quan niệm mở và động, luôn kế thừa tư tưởng
Hồ Chí Minh về tinh thần độc lập tự chủ kết hợp chặt chẽ với tiếp thu sức mạnh
của thời đại để xây dựng và phát triển đất nước”[67, tr. 330 – 331].
Tiếp theo là tác phẩmSuy ngẫm về triết Hồ Chí Minh của Nguyễn Hùng
Hậu (Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012), trong tác phẩm này tác giả đã
khẳng định hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do, hạnh phúc và dân chủ là giá
trị bất biến ở Hồ Chí Minh. Ngoài ra còn có nhiều công trình khoa học được
đăng tải trên các tạp chí khoa học.
* Tình hình nghiên cứu ngoài nước:
Có nhiều các học giả nước ngoài đã có những nghiên cứu về tư tưởng Hồ
Chí Minh nói chung và tư tưởng độc lập dân tộc nói riêng và đã chỉ ra những
sáng tạo của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc.
Đầu tiên là tác phẩmHồ Chí Minh, một nhân vật vĩ đại đã cống hiến trọn
đời mình cho sứ mệnh tự do và độc lập” của Tiến sĩ M.AT- MÉT (Modagat
Ah med) – Giám đốc UNESCO khu vực châu Á – Thái Bình Dương [85,
tr.20-22], trong tác phẩm này Tiến sĩ M.AT- MÉT (Modagat Ah med) đã

5



khẳng định: “Chỉ có ít nhân vật trong lịch sử trở thành một bộ phận của huyền
thoại ngay khi còn sống và rõ ràng Hồ Chí Minh là một trong số đó. Người sẽ
được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị
đô hộ, mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy
vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ
bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này” [85, tr. 22]
Tiếp theo là tác phẩm Mối quan hệ biện chứng giữa tính giai cấp và tính
nhân loại trong sự nghiệp sáng tạo của chủ tịch Hồ Chí Minh của L. Ô –
GUN- GIÊ – RAN (ủy ban khoa học xã hội Mông cổ)[85, tr. 105 – 106],
trong tác phẩm này tác giả đã chỉ ra những cống hiến của Hồ Chí Minh về vấn
đề dân tộc thuộc địa: “ Hồ Chí Minh đã có những đóng góp quý báu vào việc
phát triển luận điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc của các nước thuộc địa. Sự sáng tạo trong quan điểm về đấu tranh giải
phóng dân tộc của Người là xác định sự thống nhất chặt chẽ giữa tính dân tộc
và tính quốc tế, giữa tính giai cấp và tính nhân loại”[85, tr. 105]
Trong tác phẩm“Hồ Chí Minh nhà tư tưởng của Singô Sibata”, trích
trong cuốn sách Giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời đại ngày nay do
Phan Ngọc Liên chủ biên, Nxb Viện thông tin Khoa học và Xã hội, Hà Nội,
1993[43, tr. 89 - 98],trong tác phẩm này Singô Sibata đã khẳng định: “Những
cống hiến của Cụ Hồ Chí Minh đã thực sự mở ra một giai đoạn mới trong
những lý luận về vấn đề dân tộc và thuộc địa” [43, tr.89]. Singô Sibata cho
rằng, cùng với lý luận về vấn đề dân tộc và thuộc địa, Hồ Chí Minh “đặc biệt
làm sâu sắc thêm lý luận về vấn đề dân chủ, quyền dân tộc tự quyết và những
vấn đề dân tộc cơ bản” [43, tr. 92 – 93]. Theo tác giả, tuy Hồ Chí Minh tiếp
nhận tư tưởng độc lập, dân chủ và quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập
năm 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng
Pháp năm 1789, nhưng tư tưởng về độc lập dân tộc là tư tưởng riêng của Hồ

6



Chí Minh phản ánh nguyện vọng độc lập, dân chủ của nhân dân Việt Nam, và
Người đấu tranh để thực hiện mục tiêu này. Singô Sibata đã nêu rõ rằng Hồ
Chí Minh đã mở rộng quyền của con người thành quyền của dân tộc, quyền lợi
con người, quyền lợi cá nhân được coi như là cơ sở cho quyền lợi của dân tộc, của
cách mạng: “Cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát
triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc” [43, tr. 93].
Tóm lại, đã có nhiều nghiên cứu về tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí
Minh, tuy nhiên vẫn cần có thêm nữa những nghiên cứu về tư tưởngđộc lập dân
tộc của Hồ Chí Minh từ đóchỉ ra ý nghĩa của tư tưởng đó đối với việc giải quyết
mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứucủa Luận văn: Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc
lập dân tộc và ý nghĩa của tư tưởng đó đối với việc giải quyết mối quan hệ
giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứucủa Luận văn:
- Nghiên cứu quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc qua các tác
phẩm trong bộ Hồ Chí Minh toàn tập, bộ 15 tập, được NXB Chính trị quốc
gia ấn hành, năm 2011.
- Chỉ ra ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc đối với
việc giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt
Nam hiện nay (từ năm 1986 đến nay)
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiêncứu
Mục đích nghiên cứu của Luận văn:
Phân tíchmột số nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc
từ đó chỉ ra ý nghĩa của tư tưởng đó đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa
độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn:


7


Thứ nhất, làm rõ tiền đề hình thành và một số nội dung cơ bản tư tưởng
Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.
Thứ hai, chỉ ra ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc đối
với việc giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ở
Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận:
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện
chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; tư tưởng Hồ Chí Minh về các vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam; quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về
mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử; các phương pháp: thống nhất lôgích và lịch sử, phân tích và tổng hợp…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn làm rõ nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và
chỉ ra ý nghĩa đối với việc giải quyết mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội
nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho
những ai quan tâm nghiên cứu cuộc đời, sự nghiệp cách mạng của Người.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo. Nội dung
của Luận văn gồm 2 chương 4 tiết.

8


NỘI DUNG

CHƢƠNG 1. TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP DÂN TỘC
– NHỮNG TIỀN ĐỀ HÌNH THÀNH VÀ MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN
1.1. Những tiền đề cho sự hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về độc lập
dân tộc
1.1.1. Tiền đề kinh tế - xã hội cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh về độc lập dân tộc
1.1.1.1. Điều kiện lịch sử - xã hội thế giới cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, thế giới có nhiều chuyển biến chuẩn bị
cho một bước ngoặt trong tiến trình phát triển của nhân loại, đó là: chủ nghĩa
tư bản từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn độc quyền – chủ
nghĩa đế quốc, công cuộc duy tân của Nhật Bản, cuộc vận động cải cách ở
Trung Quốc dẫn đến cách mạng Tân Hợi năm (1911)…
Từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản từ giai đoạn tự do
cạnh tranh chuyển sang giai đoạn độc quyền – chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư
bản đế quốc, bên trong thì tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài thì
bành trướng xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Phần lớn các
nước châu Á, châu Phi và Mỹ latinh đều trở thành thuộc địa hoặc phụ thuộc.
Nhân dân các nước thuộc địa bị tước hết mọi giá trị văn hóa tinh thần, quyền
lợi kinh tế và địa vị xã hội. Sự thống trị tàn bạo của chủ nghĩa đế quốc làm cho
đời sống nhân dân lao động ở các nước thuộc địa trở nên cùng cực. Cùng với
mâu thuẫn bên trong xã hội tư bản (mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp
tư sản), chủ nghĩa đế quốc còn làm phát sinh thêm mâu thuẫn mới – Mâu thuẫn
giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa đế quốc thực dân. Mâu thuẫn này đã
trở thành một trong những mâu thuẫn cơ bản của thời đại đế quốc chủ nghĩa.
Mâu thuẫn đó là điều kiện khách quan để phong trào cách mạng ở các nước
thộc địa gắn bó chặt chẽ với phong trào cách mạng quốc tế, đặc biệt là phong

9



trào cách mạng ở chính quốc. Bị áp bức và bóc lột nặng nề, nhân dân các dân
tộc thuộc địa vùng lên đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc để giải phóng dân
tộc, giành độc lập tự do. Tuy nhiên, cho đến chiến tranh thế giới thứ nhất, các
phong trào giải phóng dân tộc đều thất bại.
Trong lúc các dân tộc bị áp bức đang sống cuộc đời tăm tối thì “tiếng
sấm Cách mạng Tháng Mười Nga đã vang dội làm chấn động toàn thể địa
cầu” [59, tr.30].Được cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 cổ vũ, phong
trào giải phóng dân tộc phát triển mạnh mẽ trên khắp thế giới, đặc biệt là châu
Á mà điển hình là Trung Quốc, Ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ, Inđônêxia…Bão táp
cách mạng với phương Đông thức tỉnh đã làm rung chuyển hệ thống thuộc địa
của chủ nghĩa đế quốc.
Trong bối cảnh ấy, Lênin (1870 - 1924) đã phân tích cụ thể tình hình, phát
triển chủ nghĩa Mác trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Lênin đã nghiên cứu
những đặc điểm của chủ nghĩa đế quốc, và đi đến kết luận: cách mạng có thể
thắng lợi trong một số nước, thậm chí trong một nước, ở đó tập trung mâu
thuẫn và là chỗ yếu nhất trong sợi dây chuyền của các nước đế quốc chủ nghĩa;
đồng thời nêu lên nguyên lý về cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc
địa trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Thực tiễn
chứng minh lý luận của Lênin là đúng đắn với thắng lợi của cách mạng Tháng
Mười Nga. Thắng lợi đó là nguồn cổ vũ lớn lao đối với phong trào cách mạng
thế giới, nhất là phong trào giải phóng dân tộc các nước thuộc địa.
Nhật Bản trước năm 1868 là một nước phong kiến phương Đông, giống
như Việt Nam trước 1858. Cũng như Việt Nam, vào giữa thế kỷ XIX, Nhật bị
các cường quốc phương Tây tiến công xâm lược. Nhưng Nhật Bản, một mặt
nhờ có quan hệ tư bản chủ nghĩa trong kinh tế và xã hội đã nở mầm rồi, mặt
khác nhờ có tầng lớp lãnh đạo sớm có ý chí kiên quyết Duy tân, sớm tỉnh ngộ

10



trước họa ngoại xâm Âu – Mỹ, cho nên Nhật Bản đã kịp thời Duy tân phát
triển theo hướng tư bản chủ nghĩa.
Trung Quốc ở gần Việt Nam nhất, các biến cố chính trị, tư tưởng lớn ở
Trung Quốc đều có tiếng dội vào Việt Nam. Vào đầu thế kỷ XX, Trung Quốc từ
một nước phong kiến độc lập trở thành một nước phong kiến nửa thuộc địa.
Triều đình mãn thanh vừa tăng cường đàn áp cuộc đấu tranh của nhân dân
Trung Quốc, vừa nhượng bộ với các nước phương Tây. Đầu thế kỷ XX, tư
tưởng Duy tân, dân chủ của phương Tây vào Việt Nam qua sách vở Trung
Quốc, qua con đường sĩ phu nho học yêu nước.Những “tân thư”, “tân văn”
Trung Quốc đã bắt đầu xâm nhập vào nước ta từ những năm 90 của thế kỷ XIX.
Tóm lại, cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, hoàn cảnh lịch sử thế giới có
nhiều yếu tố tác động mạnh mẽ đến tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc: chủ nghĩa
tư bản phát triển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, thuộc địa đã trở thành hệ
thống trên toàn thế giới.. Những biến động lịch sử to lớn này có ảnh hưởng tích
cực đến quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc.
1.1.1.2. Điều kiện lịch sử - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX
*Xã hội Việt Nam dưới tác động của chính sách khai thác thuộc địa
của thực dân Pháp
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược nước ta, triều đình nhà Nguyễn lùi
dần từng bước rồi đi đến đầu hàng. Nước ta từ một nước phong kiến độc lập
trở thành một nước thuộc địa nửa phong kiến. Tính chất của xã hội thuộc
địa, nửa phong kiến được biểu hiện trên các mặt: kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội, vv…
Về kinh tế: thực dân Pháp thi hành chính sách độc quyền về kinh tế, kìm
hãm nền kinh tế Việt Nam trong tình trạng lạc hậu. Đặc điểm nổi bật của nền
kinh tế nước ta lúc bấy giờ là sự đan xen, tồn tại các yếu tố của nền kinh tế
truyền thống mang tính chất phong kiến với các yếu tố của nền kinh tế phụ

11



thuộc mang tính chất tư bản chủ nghĩa. Những yếu tố vật chất đó đã tạo điều
kiện cho các trào lưu tư tưởng mới ở bên ngoài xâm nhập vào nước ta làm
biến đổi ý thức tư tưởng của dân tộc ta trong tiến trình phát triển của dân tộc.
Về chính trị: thực dân Pháp thi hành chính sách “chia để trị” nhằm làm
suy yếu lực lượng dân tộc Việt Nam. Chúng chia nước ta ra làm ba kỳ, với ba
chế độ chính trị khác nhau. Bắc kỳ và Trung kỳ là xứ “bảo hộ” vẫn giữ lại
chính quyền phong kiến về “hình thức”; Nam kỳ là chế độ thuộc địa, với thủ
đoạn này thực dân Pháp nhằm xóa tên tên Việt Nam trên bản đồ thế giới.
Về văn hóa: thực dân Pháp thực hiện chính sách văn hóa “nô dịch” với
thủ đoạn phát triển tôn giáo, mê tín dị đoan để mê hoặc nhân dân, ngoài ra
chúng còn ra sức ngăn chặn ảnh hưởng của nền văn hóa dân chủ tiến bộ Pháp
vào Việt Nam.
Tình hình đó đã dẫn tới xuất hiện hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt
Nam: mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc; mâu
thuẫn giữa nhân dân Việt Nam, chủ yếu là giai cấp nông dân với giai cấp địa
chủ phong kiến, trong đó mâu thuẫn gay gắt nhất là mâu thuẫn giữa toàn thể
dân tộc Việt Nam với chủ nghĩa đế quốc. Giải phóng dân tộc, độc lập dân tộc
lúc này là yêu cầu bức thiết của dân tộc.
Hậu quả của chính sách thống trị của thực dân Pháp không chỉ làm phân
hóa các giai cấp vốn có trong xã hội Việt Nam như giai cấp địa chủ, giai cấp
nông dân, mà còn làm xuất hiện thêm những giai cấp mới như: giai cấp tư
sản, giai cấp tiểu tư sản và giai cấp công nhân.
Giai cấp địa chủ phong kiến, là giai cấp giữ vai trò thống trị trong xã hội
phong kiến, nhưng dưới chế độ thuộc địa nửa phong kiến thì mất dần vai trò
thống trị và do sự tác động của điều kiện kinh tế - xã hội làm cho giai cấp này
phân hóa khá sâu sắc. Thứ nhất, đại bộ phận địa chủ phong kiến ý thức rằng
giai cấp mình mất vai trò lịch sử, bộ phận này câu kết chặt chẽ với thực dân

12



Pháp, ra sức bóc lột nhân dân lao động, là đối tượng cần phải đánh đổ. Thứ
hai, bộ phận địa chủ, quan lại có tinh thần yêu nước, bất hợp tác với thực dân
Pháp, phản đối triều đình đầu hàng. Thứ ba, khi thực dân Pháp xâm lược,
dưới sự tác động của xã hội, tầng lớp sĩ phu yêu nước xuất thân từ nền nho
học cũng bị phân hóa: Một là, một bộ phận chủ trương “ẩn dật”; hai là, bộ
phận phản động, sẵn sàng vì lợi ích bản thân nên theo thực dân Pháp, đi
ngược lại lợi ích dân tộc; ba là, các nhà nho vì lợi ích dân tộc sẵn sàng từ bỏ
lợi ích giai cấp, đứng về phía lợi ích dân tộc đứng lên chống thực dân, phong
kiến, đi tìm con đường cách mạng mới cho dân tộc. Lực lượng sĩ phu này là
lực lượng căn bản trong quá trình “tư sản hóa” trong cuộc vận động giải
phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản. Do đó cuộc vận động giải
phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ tư sản không phải do giai cấp tư
sản lãnh đạo mà do các sĩ phu yêu nước lãnh đạo, cho nên nó quyết định đến
nội dung, tính chất cuộc cách mạng dân chủ tư sản ở Việt Nam.
Giai cấp nông dân Việt Nam chiếm trên 90 % dân số, họ bị đế quốc
phong kiến áp bức, bóc lột nặng nề. Chính sách của thực dân Pháp và phong
kiến làm cho nông dân Việt Nam bị phá sản và nghèo đói. Dưới chế độ thuộc
địa nửa phong kiến, nông dân Việt Nam ngày càng đi vào con đường “vô sản
hóa” không có lối ra. Chính sách cai trị thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt
Nam đã đẩy người nông dân sớm đến với giai cấp công nhân làm cách mạng
dân tộc dân chủ. Trong cuộc đấu tranh cho độc lập tự do, nông dân Việt Nam
là lực lượng to lớn nhất khi được một lý luận tiên phong soi đường.
Giai cấp tư sản Việt Nam ra đời vào những năm 1920, trong quá trình
phát triển, giai cấp tư sản Việt Nam phân hóa thành hai bộ phận có quyền lợi
khác nhau: tư sản mại bản, có quyền lợi gắn liền với đế quốc phong kiến, là
tầng lớp phản động, là đối tượng của cách mạng. Tư sản dân tộc sinh sau đẻ
muộn, cơ sở kinh tế yếu ớt, họ có mâu thuẫn về quyền lợi kinh tế, chính trị


13


với đế quốc phong kiến. Tuy nhiên tư sản dân tộc Việt Nam về bản chất cũng
là tầng lớp vừa trực tiếp bóc lột công nông, vừa muốn dựa vào công nông để
đấu tranh đòi chính quyền thực dân mở rộng quyền kinh doanh. Tình hình
trên phản ánh tính hai mặt của giai cấp tư sản dân tộc: mặt cách mạng, chống
đế quốc và chống phong kiến, tán thành cách mạng dân tộc dân chủ; mặt cải
lương, dễ thỏa hiệp với thực dân, cho nên vai trò của tư sản Việt Nam rất mờ
nhạt, không đủ lực lượng và sức mạnh để nắm ngọn cờ lý luận lãnh đạo cách
mạng giải phóng dân tộc.
Giai cấp tiểu tư sản Việt Nam gồm nhiều tầng lớp khác nhau, từ những
người thợ thủ công, tiểu chủ, tiểu thương đến những viên chức, trí thức, học
sinh và những người làm nghề tự do khác…
So với giai cấp tư sản, họ chiếm đa số, nhưng vì cũng bị tư bản Pháp ra
sức chèn ép ngay từ đầu nên so với giai cấp tư sản, họ còn bị khốn đốn hơn
nhiều, đời sống của họ rất bấp bênh. Là công thương, họ bị giới hạn ngặt
nghèo trong phạm vi tiểu thương, tiểu chủ; là trí thức, công chức họ bị thực
dân khinh rẻ, bạc đãi, kìm hãm phát triển tài năng, tước đoạt mọi quyền tự do
dân chủ.Trong điều kiện đó, chỉ trừ một bộ phận rất nhỏ ở trên gần với giai
cấp tư sản có khả năng leo lên giai cấp tư sản nên có thái độ chính trị lưng
chừng còn chiều hướng chung của họ là dễ bị phá sản để sung vào hàng ngũ
những người thất nghiệp và giai cấp vô sản nên nói chung họ rất hăng hái
tham gia cách mạng.
Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời sau cuộc khai thác thuộc địa của
thực dân Pháp. Khác với phương Tây, giai cấp công nhân Việt Nam chủ yếu
xuất thân từ nông dân. Họ trở thành công nhân bằng nhiều con đường khác
nhau. Một số bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất, phải tự đến hầm mỏ, xí nghiệp
kiếm công ăn việc làm; một số khác là “công nhân theo mùa”. Họ tranh thủ
tháng ba, ngày tám ra hầm mỏ làm thuê.Sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc


14


địa, ngoài bản chất chung giống giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công
nhân Việt Nam còn có những đặc điểm riêng như: thứ nhất phải chịu ba tầng
áp bức, bóc lột của đế quốc thực dân, tư sản dân tộc và phong kiến địa chủ;
thứ hai có điều kiện thuận lợi để xây dựng khối liên minh vững chắc với giai
cấp nông dân; thứ ba không có công nhân quý tộc và do đó không có điều
kiện cho chủ nghĩa công đoàn phát triển. Tuy vậy, vì chưa có lý luận tiên tiến
soi đường, chưa nhận thức rõ vị trí và vai trò của mình trong lịch sử xã hội,
giai cấp công nhân tuy đã ra đời nhưng còn ở trình độ “tự phát” và mới chỉ là
giai cấp “tự nó”. Sự ra đời và phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam
trước giai cấp tư sản dân tộc là một đặc điểm lịch sử quy định những nét đặc
thù của sự phát triển sau này của cách mạng Việt Nam.
* Các phong trào yêu nước và cách mạng tiêu biểu ở Việt Nam cuối thế
kỷ XIX, đầu thế XX
Các phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu
thế kỷ XX, phát triển mạnh mẽ, thể hiện tinh thần yêu nước quật cường của
nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và chế độ phong
kiến. Đó là phong trào Cần Vương (1885 - 1896), với các cuộc khởi nghĩa
tiêu biểu: khởi nghĩa Ba Đình (1886 - 1887) do Phạm Bành và Đinh Công
Tráng lãnh đạo; khởi nghĩa Bãi sậy (1883- 1892) do Nguyễn Thiện Thuật lãnh
đạo; khởi nghĩa Hương Khê (1885 - 1895) do Phan Đình Phùng lãnh đạo;
phong trào nông dân Yên Thế (1883 - 1913) do Hoàng Hoa Thám lãnh đạo.
Các cuộc khởi nghĩa đã khơi dậy tinh thần yêu nước của cả dân tộc, tạo nên
một khí thế hào hùng chống ngoại xâm và chế độ phong kiến.
Sau đó là các phong trào cách mạng như phong trào cách mạng theo
khuynh hướng dân chủ tư sản của Phan Bội Châu với xu hướng vũ trang bạo
động, của Phan Châu Trinh với xu hướng bất bạo động. Bên cạnh đó, có các

cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản, tiểu tư sản trên các lĩnh vực kinh tế, chính

15


trị, văn hóa, tư tưởng, đặc biệt là cuộc vận động giải phóng dân tộc theo con
đường dân chủ tư sản của tổ chức Việt Nam Quốc Dân Đảng do Nguyễn Thái
Học, Phạm Tuấn Tài, vv…lãnh đạo. Tuy vậy, các cuộc vận động giải phóng
dân tộc theo ý thức hệ phong kiến và các cuộc vận động giải phóng dân tộc
theo khuynh hướng dân chủ tư sản của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh,
Hoàng Hoa Thám và của tổ chức Việt Nam Quốc Dân Đảng đều thất bại, bị
dìm trong biển máu.
Tóm lại, có thể nói những chuyển biến về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX và thất bại của phong trào Cần
Vương, phong trào đấu tranh theo khuynh hướng dân chủ tư sảnđiều kiện
quan trọng hình thành tư tưởng độc lập dân tộc của Hồ Chí Minh.
1.1.2. Tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
độc lập dân tộc
1.1.2.1. Chủ nghĩa yêu nước truyền thống
Việt Nam là một quốc gia được hình thành từ rất sớm, trải qua mấy
nghìn năm dựng nước và giữ nước, đất nước Việt Nam đã trở thành tổ quốc
thiêng liêng của mỗi người dân Việt Nam. Tinh thần yêu nước đã trở thành
đạo lý sống, niềm tự hào và là nhân tố đứng đầu trong bảng giá trị tinh thần
của con người Việt Nam.
Trong thời kỳ dựng nước, chủ nghĩa yêu nước được thể hiện qua các
thần thoại, truyền thuyết. Qua đó, chủ nghĩa yêu nước đã thể hiện mơ ước của
dân tộc, quyết tâm bảo vệ non sông gấm vóc, cứu nước thương nòi. Thời kỳ
Bắc thuộc, chủ nghĩa yêu nước được thể hiện qua các cuộc khởi nghĩa của Hai
Bà Trưng, Bà Triệu, Lý Bí, Triệu Quang Phục, Phùng Hưng, Mai Hắc Đế,
Khúc Hạo, vv… Dù thành công hay thất bại thì các cuộc khởi nghĩa đó đã nói

lên rằng: đây là đất nước có chủ quyền, và nhân dân ta quyết không chịu
khuất phục trước sự đô hộ và đồng hóa của giặc phương Bắc.

16


Trong thời kỳ phong kiến, chủ nghĩa yêu nước biểu hiện đường lối
chính trị được thể hiện rõ qua các tác phẩm văn học trong thời kỳ đầu của các
triều đại như “Chiếu dời đô” của Lý Công Uẩn, “Nam quốc sơn hà” của Lý
Thường Kiệt, “Hịch tướng sĩ” của Trần Quốc Tuấn, “Bình ngô đại cáo” của
Nguyễn Trãi, vv… Đặc biệt ở Nguyễn Trãi, lý luận về chủ nghĩa yêu nước đã
có bước phát triển mới. Ông cho rằng dân tộc Việt Nam trưởng thành, có lãnh
thổ riêng, phong tục tập quán riêng, lịch sử riêng thì phải được độc lập, quốc
gia phải có chủ quyền và phải ngang hàng với phương Bắc.
Chủ nghĩa yêu nước còn được thể hiện thông qua công cuộc xây dựng
đất nước của nhân dân trong mọi thời đại mà điển hình là dưới các triều đại
phong kiến Lý, Trần, Lê. Chủ nghĩa yêu nước chân chính đó luôn được các
thế hệ tiếp theo củng cố, kế thừa và nâng cao lên mãi. Đánh giá về chủ nghĩa
yêu nước Việt Nam, giáo sư Trần Văn Giàu nhận xét rằng: “Các bạn cho phép
tôi không đi vào những vấn đề lịch sử cụ thể mà nhìn chung toàn bộ quá trình
dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nhằm phát hiện sợi chỉ đỏ xuyên qua
tất cả các giai đoạn từ cổ đại đến hiện đại. Tôi nghĩ rằng sợi chỉ đỏ ấy là chủ
nghĩa yêu nước” [80, tr.19 - 20]. Chúng ta có quyền tự hào về di sản tư tưởng
của dân tộc qua mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước.
Khi nói về chủ nghĩa yêu nước, chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Dân ta có
một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa
đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết
thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm,
khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước. Lịch sử ta đã có
nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta. Chúng

ta có quyền tự hào vì những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà
Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, vv… Chúng ta phải ghi nhớ

17


công lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc
anh hùng” [54, tr. 38]
Chính sức mạnh của truyền thống yêu nước ấy đã thúc đẩy Nguyễn
Sinh Cung sau này là Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu
nước. Đó cũng là động lực tư tưởng, tình cảm chi phối mọi suy nghĩ, hành
động của Người trong suốt cả cuộc đời. Đó cũng là cở sở tư tưởng đã dẫn
Người đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, tiếp thu lý luận cách mạng khoa học
của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Vì vậy, có thể nói chủ nghĩa yêu nước truyền thống là một trong những
tiền đề tư tưởng hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc. Đúng
như Người đã viết: “Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ
nghĩa cộng sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” [59, tr. 563]
1.1.2.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
* Những giá trị tư tưởng văn hóa phương Đông
Ngoài truyền thống văn hóa dân tộc, Nguyễn Ái Quốc còn chịu ảnh
hưởng của tưởng văn hóa phương Đông (Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo). Các
học thuyết chính trị và tôn giáo này đều là những hệ thống lớn, trên con
đường học hỏi, Nguyễn Ái Quốc đã biết làm giàu vốn trí tuệ của mình bằng
những di sản quý báu của văn hóa nhân loại.
Ảnh hưởng của Nho giáo được thể hiện ở những nội dung sau:
Thứ nhất, là tư tưởng “lấy dân làm gốc” (dĩ dân vi bản). Tư tưởng của
Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng sâu sắc quan điểm này, Người từng nhắc lại lời
Mạnh Tử: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”. Người viết: “Trong
bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực

lượng đoàn kết của nhân dân” [57, tr. 453]
Thứ hai, là đề cao văn hóa, coi trọng giáo dục đào tạo:Nho giáo vốn là
một học thuyết về đạo đức, chủ trương từ thiên tử cho đến thứ dân, ai cũng

18


phải lấy tu thân làm đầu. Khổng Tử nhấn mạnh Trí, Nhân, Dũng; Mạnh Tử đề
cao Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí.Nhận thức được vai trò quan trọng của nhân tố đạo
đức trong xã hội phương Đông, Người rất quan tâm giáo dục đạo đức, coi đạo
đức là cái gốc của người cách mạng. Người nhấn mạnh cần, kiệm, liêm, chính,
chí công vô tư.
Đạo giáo cũng được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, với tinh thần cơ
bản là mọi người phải sống hợp với lẽ tự nhiên thuần phác, không tham lam,
ích kỷ...vv. Trong khi Nho giáo chủ trương “nhập thế”, “hành đạo” thì Đạo
giáo chủ trương “xuất thế”, “vô vi”. Nho giáo vào Đạo giáo là hai hệ tư tưởng
đối lập nhau. Nhưng Người đã tìm thấy sự thống nhất của hai cái “đối lập”đó;
rằng khi dân khổ, mất nước thì xả thân vì nước, vì dân; khi nước nhà đã giành
được độc lập, nhân dân được ấm no, hạnh phúc thì trở về với cảnh sống điền
viên, gần gũi với thiên nhiên.
Phật giáo vào Việt Nam từ rất sớm và có ảnh hưởng rất lớn trong văn
hóa Việt Nam, đặc biệt là ở thời kỳ đầu xây dựng nhà nước độc lập thời Lý –
Trần, Phật giáo được coi là quốc giáo và có nhiều đóng góp vào công cuộc
xây dựng, bảo vệ tổ quốc và hình thành nên những nét đặc sắc của văn hóa
Việt Nam ở thời kỳ này. Khi du nhập vào Việt Nam, Phật giáo cũng bị “Việt
hóa” và hình thành nên các phái hệ như Thiền phái Trúc Lâm đời Trần với
chủ trương gắn bó với dân tộc và đất nước. Nói Nguyễn Ái Quốc chịu ảnh
hưởng của văn hóa truyền thống là đã bao hàm trong đó có ảnh hưởng của
Phật giáo. Tất nhiên, Phật giáo là tôn giáo nên có nhiều mặt tiêu cực không
tránh khỏi. Nhưng những mặt tích cực cũng đã để lại những dấu ấn rất sâu sắc

trong tư duy, hành động, cách ứng xử của con người Việt Nam.
Thứ nhất, là tư tưởng vị tha, từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn, thương
người như thể thương thân. Thứ hai, là nếp sống có đạo đức, trongsạch, giản
dị, chăm lo làm điều thiện.Thứ ba, là tinh thần bình đẳng, tinh thần dân chủ

19


chất phác chống lại mọi phân biệt đẳng cấp. Cuối cùng, Phật giáo vào Việt
Nam gặp chủ nghĩa yêu nước và tinh thần đấu tranh bất khuất chống ngoại
xâm của dân tộc ta luôn thực hiện chủ trương không xa đời mà sống gắn bó
với nhân dân, đất nước, tham gia vào cuộc đấu tranh chống kẻ thù dân tộc.
Ngoài ảnh hưởng của Nho giáo, Đạo giáo, Phật giáo, Hồ Chí Minh còn
chịu ảnh hưởng tư tưởng của chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Trung Sơn. Hồ Chí
Minh đã thấy ở chủ nghĩa Tam Dân và chính sách “liên Nga, thân cộng, phù
trợ công nông” của Tôn Trung Sơn có những tư tưởng tiến bộ, tích cực và có
thể vận dụng vào cách mạng Việt Nam. Tuy nhiên, Người cũng thấy rõ những
hạn chế của chủ nghĩa Tam Dân là vẫn nằm trong phạm trù tư tưởng dân chủ
tư sản nên Người không theo.
* Những giá trị tư tưởng văn hóa phương Tây
Ngay từ lúc còn đang học ở trường tiểu học Pháp – Việt và trường Quốc
Học Huế, Người đã từng biết đến khẩu hiệu “Tự do – Bình đẳng – Bác ái”
của đại cách mạng tư sản Pháp, được tiếp xúc với những tờ báo tiếng Pháp có
xu hướng tự do qua những người lính lê dương tiến bộ. Văn minh phương
Tây với những thành tựu của Khoa học – kỹ thuật đã khơi gợi tư duy của
người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành khiến Người muốn đi sang các
nước phương Tây để tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau khẩu hiệu ấy.
Trong gần mười năm bôn ba, khảo sát ở các nước tư bản lớn như Mỹ,
Anh, Pháp và các nước thuộc địa của họ, Người đã tìm hiểu qua sách báo, tài
liệu, qua tiếp xúc với các nhà chính trị - xã hội và qua xem xét thực tế cuộc

sống của dân chúng, trực tiếp hoạt động trong các tổ chức chính trị - xã hội ở
các nước đó, Người rút ra những nhận xét, đánh giá, để tìm ra những gì là
“tinh hoa” tốt đẹp cần tiếp thu và những gì còn hạn chế cần khắc phục.
Thời gian dừng chân ở Mỹ khoảng cuối năm 1912 đến cuối năm 1913,
Người đã đến thăm khu da đen Háclem, đã chiêm ngưỡng tượng Nữ thần Tự

20


×