Tải bản đầy đủ (.pdf) (140 trang)

Vấn đề bất bình đẳng giới ở việt nam trên báo điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.28 MB, 140 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHẠM THỊ DIỆU HƢƠNG

VẤN ĐỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM
TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

Hà Nội – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------------------------

PHẠM THỊ DIỆU HƢƠNG

VẤN ĐỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM
TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ

Hà Nội – 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------------


PHẠM THỊ DIỆU HƢƠNG

VẤN ĐỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM
TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
Chuyên ngành: Báo chí học
Mã số: 60.32.01.01

LUẬN VĂN THẠC SĨ BÁO CHÍ
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Cảnh Nhạc

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Luận văn được hoàn thành tại Khoa Báo chí và Truyền thông – Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân Văn – Đại học Quốc gia Hà Nội với sự giúp
đỡ của Tiến sĩ Lê Cảnh Nhạc và các thầy giáo, cô giáo trong Khoa Báo chí
và Truyền thông. Đây là sản phẩm nghiên cứu độc lập của riêng tôi. Các số
liệu trong Luận văn là hoàn toàn trung thực. Kết quả nghiên cứu của Luận
văn chưa từng được công bố trong bất kì một công trình khoa học nào khác.
Nếu sai, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả Luận văn

Phạm Thị Diệu Hương


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành của mình tới các thầy giáo, cô giáo
trong Khoa Báo chí và Truyền thông, Trường Đại học Khoa học Xã hội và

Nhân Văn – Đại học Quốc gia Hà Nội đã tận tình chỉ bảo và giảng dạy cho
tôi trong suốt 2 năm qua để tôi hoàn thành được Luận văn này.
Và đặc biệt tôi xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới Tiến sĩ Lê Cảnh Nhạc,
Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Dân số - Kế hoạch hoá gia đình, Tổng biên
tập Báo Gia đình và xã hội, người đã trực tiếp tận tình hướng dẫn và giúp đỡ
tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài Luận văn này.
Cảm ơn gia đình, bạn bè thân thiết của tôi đã giúp đỡ, động viên khích
lệ tôi trong suốt quá trình học tập.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 6 năm 2017
Tác giả Luận văn

Phạm Thị Diệu Hương


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................

5

1. Lý do chọn đề tài ................................................................................. 5
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ....................................... 7
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................... 12
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ...................................................... 12
5. Phƣơng pháp nghiên cứu .................................................................... 13
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài .............................................. 14
7. Bố cục của luận văn ............................................................................ 15
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ BẤT
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ ................. 16
1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài.................................................. 16

1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về vấn đề bình đẳng giới ……. 18
1.3. Thực trạng vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay …… 24
1.4. Tiêu chí đánh giá, yếu tố tác động đến chất lƣợng thông tin,
biểu hiện của bất bình đẳng giới trên báo chí, đặc biệt là báo điện tử 30
1.5. Vai trò của báo chí, đặc biệt là báo điện tử đối với việc truyền
thông về bình đẳng giới ……………………………………………...... 37
* Tiểu kết chƣơng 1 …………………………………………………… 42
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở
VIỆT NAM TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ ....................................................... 43
2.1. Vài nét về các báo trong diện khảo sát ........................................... 43
2.2. Khảo sát thông tin về bất bình đẳng giới trên báo điện tử .......... 46
2.2.1. Khảo sát tần suất, mức độ thông tin ............................................. 46
2.2.2. Những vấn đề chính về bất bình đẳng giới trên báo điện tử ....

49

2.2.3. Hình thức truyền tải thông tin chủ yếu trên báo điện tử ...........

79

2.3. Đánh giá thành công, hạn chế của các báo điện tử trong diện

1


khảo sát…………………………………………………………………

86

* Tiểu kết chƣơng 2 …………………………………………………… 90

Chƣơng 3: MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ GIẢI PHÁP, KHUYẾN
NGHỊ NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG TUYÊN TRUYỀN BÌNH
ĐẲNG GIỚI TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ ..................................................... 91
3.1. Những vấn đề đặt ra ......................................................................... 91
3.2. Một số giải pháp ............................................................................... 96
3.3. Một số kiến nghị ............................................................................... 106
* Tiểu kết chƣơng 3 ...........................................................................

110

KẾT LUẬN .............................................................................................. 111
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 113
PHỤ LỤC ................................................................................................. 116

2


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bình đẳng giới

: BĐG

Bất bình đẳng giới

: BBĐG

Bạo lực gia đình

: BLGĐ


Hội Liên hiệp phụ nữ

: Hội LHPN

Báo Phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh

: Báo Phụ nữ TPHCM

Báo Phụ nữ Việt Nam

: Báo PNVN

3


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1 Thống kê tin, bài đề cập tới vấn đề bất bình đẳng giới .......... 46
Bảng 2.2 Thống kê, phân tích thể loại báo chí được sử dụng ................ 80

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1

Tỷ lệ tin, bài đề cập tới vấn đề bất bình đẳng giới ................. 48

Biểu đồ 2.2

Tỷ lệ tin, bài có nội dung phê phán những vấn đề bất bình
đẳng giới trong các lĩnh vực trên các báo điện tử ................... 48

Biểu đồ 2.1


Tỷ lệ tin, bài có nội dung vô tình thúc đẩy bất bình đẳng giới
trên các báo điện tử ................................................................. 49

4


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Viê ̣t Nam là mô ̣t trong những quố c gia đầ u tiên trên thế giới ký kế t
công ước quố c tế về thực hiê ̣n quyề n phu ̣ nữ . Viê ̣c đưa những tư tưởng tiế n
bô ̣ về bin
̀ h đẳ ng giới ở mô ̣t quố c gia vố n chiụ ảnh hưởng

nặng nề tư tư

tưởng của Nho giáo có thể được coi là một bước tiến lớn , là động lực thúc
đẩy việc thực hiện bình đẳng giới ở Việt Nam.
Tuy nhiên thực tiễn cho thấy, công cuộc thực hiện bình đẳng giới
không hề dễ dàng. Việt Nam còn gặp nhiều thách thức trong việc thực hiện
bình đẳng giới. Khoảng cách giới còn tồn tại khá lớn trong một số lĩnh vực
của cuộc sống như: tỷ lệ phụ nữ tham gia các vị trí lãnh đạo các cấp còn ít;
cơ hội của phụ nữ tiếp cận với việc làm có thu nhập cao và các nguồn lực
kinh tế vẫn còn thấp hơn so với nam giới; Việc tiếp cận dịch vụ chăm
sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ vùng nông thôn, vùng dân tộc thiểu số
còn hạn chế; Tỷ suất tử vong mẹ còn cao so với một số nước trong khu vực;
Tình trạng bạo lực trong gia đình và đối với phụ nữ tồn tại khá nghiêm
trọng…
Nguyên nhân là do một bộ phận xã hội hiểu không đúng về bất bình
đẳng giới, nhận thức mang tính định kiến giới còn tồn tại nặng nề trong gia

đình lẫn xã hội. Đặc biệt quan niệm coi trọng con trai hơn con gái vẫn rất
nặng nề, mặc định công việc gia đình là trách nhiệm của riêng phụ nữ... dẫn
đến tình trạng bất ổn cho xã hội gia tăng.
Do đó, vấn đề bình đẳng giới đã được Đảng và Nhà nước ta quan tâm,
đánh giá là một mục tiêu phát triển quốc gia. Để thực hiện được mục tiêu
này, rất cần đến sự phối hợp của nhiều yếu tố. Trong đó, thông tin, giáo dục
nâng cao nhận thức về bình đẳng giới là yếu tố quan trọng.

5


Trong những năm qua, báo chí với chức năng, nhiệm vụ của mình cũng
đã và đang góp phần to lớn vào việc thực hiện mục tiêu bình đẳng giới. Báo
chí theo dõi, phản ánh, tích cực tham gia vào mục tiêu này và đã chuyển đến
công chúng nhiều thông tin có ý nghĩa quan trọng. Báo chí đã tích cực tuyên
truyền về quan điểm của Đảng, Nhà nước, sự nỗ lực của các ban, ngành
chức năng, các tổ chức chính trị trong việc thực hiện bình đẳng giới... Đồng
thời, báo chí là kênh thông tin, truyền tải đầy đủ những chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về thực hiện bình đẳng giới trong từng giai
đoạn. Báo chí làm tốt vai trò của mình trong việc phát hiện, phản ánh những
gương điển hình trong việc thực hiện bình đẳng giới.
Đặc biệt, báo chí đã phát hiện, phản ánh, thông tin những vấn đề gây
nên tình trạng bất bình đẳng giới, mặt trái của vấn đề bất bình đẳng giới như:
đăng tải những bài viết liên quan đến bất bình đẳng giới trên các lĩnh vực, tư
vấn về bình đẳng giới, đưa ra những giải pháp hạn chế tình trạng bất bình
đẳng giới, phê phán, nêu lên những vụ bạo lực gia đình, bạo lực đối với giới,
lạm dụng tình dục trẻ em gái... để giảm thiểu tình trạng của bất bình đẳng
trong xã hội.
Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp to lớn đó, báo chí còn có những
lúc chưa quan tâm xứng đáng đến vấn đề bình đẳng giới. Một số tờ báo điện

tử vì thiếu nhạy cảm giới nên trong các tác phẩm báo chí vô tình làm gia
tăng bất bình giới. Sự thiếu nhạy cảm giới của báo điện tử thể hiện ở tư
tưởng “Trọng nam khinh nữ”; những quan niệm truyền thống cổ hủ, những
suy nghĩ mang tính áp đặt, mặc định về hình ảnh, nhiệm vụ, vai trò, khả
năng của nam giới và nữ giới như: phụ nữ là phải đẹp, phải dịu dàng, có đức
hy sinh, biết “giữ lửa” trong gia đình; Còn nam giới là những người giỏi
giang, quyết đoán, thành đạt, làm chủ kinh tế trong gia đình… Không chỉ
vậy, ngay trên một số tờ báo điện tử dành riêng cho phụ nữ cũng có một số
tác phẩm báo chí thiếu sự nhạy cảm giới như: phân biệt giới tính, phụ nữ
6


thường xuất hiện với những hình ảnh phản cảm... Chính những hiện tượng
này được lặp đi, lặp lại trên một số báo điện tử đã vô tình tạo thêm những
định kiến về giới, làm hạn chế những nhận thức của công chúng về vấn đề
bình đẳng như: bình đẳng giới giữa các thành viên trong gia đình, bình đẳng
giới giữa nam và nữ, đặc biệt là với trẻ em gái và phụ nữ. Đây cũng là một
trong những nguyên nhân gây nên bất bình đẳng giới, cản trở xã hội Việt
Nam tiến tới bình đẳng giới thực sự.
Với mong muốn đánh giá đúng về thực trạng bất bình đẳng giới trên
báo điện tử nói riêng, báo chí nói chung; tìm ra những giải pháp tích cực góp
phần vào việc nâng cao chất lượng các tác phẩm báo chí; đồng thời giúp các
cơ quan báo chí thực hiện hiệu quả việc truyền thông các vấn đề liên quan
đến giới và bình đẳng giới, tôi quyết định lựa chọn đề tài “Vấn đề bất bình
đẳng giới ở Việt Nam trên báo điện tử” (khảo sát qua các báo điện tử:
phunuonline.com.vn, vnexpress.net, phunuvietnam.vn. Từ tháng 1/2015 đến
tháng 6/2016).
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Một số Nghiên cứu ngoài nước về bất bình đẳng giới:

„„Báo cáo về sự cách biệt giới‟‟, Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2010.
Nghiên cứu này đã so sánh những số liệu về cách biệt giới tại các nước trong
suốt những năm qua. Nghiên cứu cho thấy, những tiến bộ rõ nét tại nhiều
nước, nhưng đồng thời cũng cho thấy sự tụt dốc ở một số nước thể hiện sự
bất bình đẳng giới.
„„Sự chênh lệch về thu nhập giữa nam và nữ trong thị trường lao động
thành thị‟‟, Oaxaca, Reynold L. Nghiên cứu này đưa ra phương pháp tiếp
cận, đánh giá sự chênh lệch thu nhập giữa nam và nữ đồng thời phân tích các
yếu tố ảnh hưởng đến sự chênh lệch này.

7


Một số nghiên cứu ngoài nước trong việc truyền thông về bất bình đẳng
giới:
Nghiên cứu „„Truyền thông về bạo lực gia đình‟‟, Hiệp hội phòng
chống bạo lực gia đình Bang Washington và Dự án rà soát các vụ bạo lực
gia đình. Nghiên cứu này hướng dẫn các nhà báo và các chuyên gia trong
lĩnh vực truyền thông thu thập thông tin chính xác về những vụ án bạo lực
gia đình và những câu chuyện liên quan, đồng thời đề cập đến tổng quan về
Bạo lực gia đình, tin tức báo chí về các vụ án BLGĐ, số liệu thống kê về bạo
lực gia đình, những mẹo nhỏ để thu thập tin chính xác về tội phạm BLGĐ và
những điều nên tránh khi thu thập tin về tội phạm BLGĐ.
Cuốn „„Bộ chỉ số về giới trong truyền thông‟‟. Nghiên cứu của Tổ chức
Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hợp Quốc (UNESCO) xuất bản năm
2012. Nghiên cứu đã bao quát các lĩnh vực, cụ thể hóa bằng các tiêu chí nội
dung bình đẳng giới tại cấp ra quyết định cũng như trong tác nghiệp và nội
dung truyền thông từ việc sản xuất tin tức, thời sự, đến lĩnh vực quảng cáo
tại các tổ chức, hiệp hội, câu lạc bộ báo chí truyền thông.
Qua tìm hiểu các tài liệu trên, tôi nhận thấy những cuốn tài liệu nghiên

cứu của nước ngoài đã góp phần giúp các phóng viên, các cơ quan báo chí
có thêm những kinh nghiệm trong quy trình thu thập, xử lý thông tin, xây
dựng và biên tập tác phẩm báo chí để không vô tình tạo nên tình trạng bất
bình đẳng giới trên báo chí
2.2. Tình hình nghiên cứu trong nước
Một số nghiên cứu trong nước về bất bình đẳng giới:
“Bất bình đẳng giới về thu nhập của người lao động ở Việt Nam và một
số gợi ý giải pháp chính sách” của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương năm 2006. Công trình này tập trung nghiên cứu các vấn đề: Xu hướng
của bất bình đẳng trong thu nhập hiện nay; Các yếu tố ảnh hưởng đến mức
độ bất bình đẳng trong thu nhập; Và đồng thời phân tách các chỉ tiêu theo
8


trình độ văn hóa, trình độ chuyên môn, vùng, ngành kinh tế để đưa ra được
gợi ý giải pháp phù hợp.
“Hướng tới Bình đẳng giới ở Việt Nam: Để tăng trưởng bao trùm có lợi
cho phụ nữ” do Cơ quan Liên hợp quốc về Bình đẳng giới và Trao quyền
cho Phụ nữ (UN Women) và Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới thuộc Viện
Hàn lâm Khoa học xã Hội Việt Nam thực hiện, với sự hỗ trợ của Chính phủ
Australia và Phái đoàn Liên minh Châu Âu tại Việt Nam, đã chỉ ra nguy cơ
gia tăng bất bình đẳng giới nếu Việt Nam không tăng cường cung cấp các cơ
hội công việc tốt hơn cho phụ nữ và hỗ trợ giảm thiểu vai trò của phụ nữ
trong các công việc chăm sóc gia đình không được trả lương.
“Thông tin 64 Đặc san về bình đẳng giới” của TS. Nguyễn Thị Hồi đã
nêu lên một số vấn đề về bình đẳng giới trên bình diện quốc tế, thực trạng về
bất bình đẳng giới trong các lĩnh vực trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Một số nghiên cứu trong nước về truyền thông bất bình đẳng giới:
Cuốn „„Truyền thông có nhạy cảm giới‟‟ của Trung tâm Nghiên cứu và
ứng dụng Khoa học về giới – gia đình – phụ nữ và vị thành niên (CSAGA)

được biên soạn dựa trên 21 bản tin nhặt sạn về giới của Trung tâm gồm: 9
chuyên đề đã đề cập đến một số khía cạnh cơ bản nhất về kiến thức và kỹ
năng truyền thông có liên quan nhạy cảm giới, bất bình đẳng giới.
Công trình nghiên cứu “Bình đẳng giới trong các quảng cáo tuyển dụng
trên báo in” của Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường (ISEE), công
trình nghiên cứu này đã đề cập đến những vấn đề phân biệt đối xử dựa trên
giới của các quảng cáo tuyển dụng; các yếu tố ảnh hưởng đến thông điệp
truyền thông trong quảng cáo tuyển dụng cũng như tác động lên bình đẳng
giới của các thông điệp. Kết quả công trình nghiên cứu đã nêu lên được
những khía cạnh về bình đẳng giới rất đáng quan tâm.
Cuốn "Báo điện tử: Hiệu quả truyền thông về bạo lực gia đình" được
hình thành từ bản luận án Tiến sĩ Xã hội học của TS. Phạm Hương Trà - Phó
9


trưởng Khoa Xã hội học, Học viện Báo chí và Tuyên truyền về đề tài “Hiệu
quả của các bài viết về bạo lực gia đình trên báo điện tử ở Việt Nam hiện
nay”. Cuốn sách đề cập đến vấn đề bạo lực gia đình được phản ánh như thế
nào trên báo điện tử; nhận thức, thái độ, hành vi của công chúng về bạo lực
gia đình thông qua các bài viết trên báo điện tử.
Qua khảo sát tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại
học Quốc gia Hà Nội) và Học viện Báo chí và Tuyên truyền cho thấy, cũng
đã có một số công trình nghiên cứu và luận văn đề cập tới vấn đề bất bình
đẳng giới và việc tuyên truyền bình đẳng giới trên báo chí. Cụ thể như:
Luận văn thạc sĩ „„Tuyên truyền về bình đẳng giới trong chuyên mục
Phụ nữ với cuộc sống trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam‟‟ của Thạc sĩ Uý
Thị Thu Huyền. Luận văn đã khảo sát chuyên mục Phụ nữ với cuộc sống
trên sóng Đài Truyền hình Việt Nam từ tháng 1/2004 đến tháng 4/2006.
Luận văn đã nêu lên được nội dung các tác phẩm; những ưu, nhược điểm
của chuyên mục trong việc tuyên truyền về bình đẳng giới trong chuyên mục

Phụ nữ với cuộc sống. Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra một số giải pháp để
tuyên truyền về bình đẳng giới. Tuy nhiên, luận văn này mới chỉ đề cập đến
vấn đề tuyên truyền bình đẳng giới của báo truyền hình nói chung và Đài
truyền hình Việt Nam nói riêng.
Luận văn thạc sĩ „„Báo chí tuyên truyền về Bình đẳng giới ở nước ta
hiện nay‟‟ của thạc sĩ Nguyễn Thị Khánh Hà. Luận văn khảo sát các báo Phụ
nữ Việt Nam, Gia đình xã hội, Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn
khảo sát các báo từ tháng 1/2008 đến tháng 3/2009. Luận văn nêu lên được
các khía cạnh, thực trạng nội dung của Bình đẳng giới mà báo chí tuyên
truyền, những ưu điểm, nhược điểm của các báo khi tuyên truyền về Bình
đẳng giới ở nước ta hiện nay. Đồng thời luận văn cũng đưa ra được giải pháp
để các cơ quan báo chí, phóng viên tuyên truyền hiệu quả hơn vấn đề này.
Tuy nhiên, luận văn này cũng mới chỉ đề cập đến vấn đề báo chí nói chung
10


tuyên truyền về bình đẳng giới ở nước ta hiện nay, chứ chưa đề cập đến mặt
trái của bình đẳng giới là vấn đề bất bình đẳng giới.
Luận văn thạc sĩ „„Bạo hành đối với phụ nữ trên báo chí hiện nay‟‟ của
thạc sĩ Nguyễn Thị Hoa khảo sát báo Phụ nữ Việt Nam, Gia đình xã hội, báo
công an nhân dân, báo công an nhân dân điện tử, Vietnamnet trong thời gian
từ tháng 1/2006 đến tháng 6/2007. Luận văn thạc sĩ „„Vấn đề bạo lực gia đình
trên báo chí‟‟ của thạc sĩ Đặng Thị Mai Việt khảo sát chuyên mục „„Thức đêm
cùng bạn‟‟ trên VOV và mục „„Gia đình‟‟ của báo Giadinh.net.vn năm 2011.
Cả hai Luận văn này đã nêu lên những vấn đề báo chí viết về bạo hành đối
với phụ nữ, bạo lực gia đình như: nội dung trong các tác phẩm báo chí; ưu,
nhược điểm, nguyên nhân của vấn đề này. Luận văn cũng đã đưa ra những
giải pháp, khuyến nghị về vấn đề bạo hành đối với phụ nữ, bạo lực gia đình
trên báo chí. Tuy nhiên, bạo hành đối với phụ nữ và bạo lực gia đình cũng
chỉ là một trong những vấn đề của bất bình đẳng giới trong xã hội. Vì vậy,

trong luận văn này cũng chỉ đề cập đến một khía cạnh của vấn đề bất bình
đẳng giới trên báo chí nói chung.
Qua quá trình đọc và nghiên cứu các tài liệu, tôi nhận thấy vấn đề bình
đẳng giới và bất bình đẳng giới đã được nghiên cứu một cách khá sâu rộng.
Tuy nhiên thực tế này chỉ ra rằng, cho đến nay các công trình nghiên cứu
vẫn chưa đánh giá được thực trạng, nhìn nhận hết các yếu tố ảnh hưởng, tác
động và vai trò của báo chí, nhất là báo điện tử đến vấn đề bất bình đẳng giới
ở Việt Nam hiện nay.
Vì vậy, đề tài “Vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam trên báo điện
tử” không trùng với các đề tài nghiên cứu trước đó. Đề tài này rất cần thiết
trong việc nghiên cứu về mặt lý luận và tổng kết thực tiễn, phục vụ cho công
tác truyền thông nhằm giảm bớt tình trạng định kiến giới, bất bình đẳng giới
trong xã hội.

11


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở hệ thống hoá các vấn đề lý
luận liên quan đến đề tài, Luận văn khảo sát các tin bài trên báo điện tử trong
diện khảo sát. Qua đó, đánh giá về thành công, hạn chế của các báo điện tử
trong việc tuyên truyền về bình đẳng giới thông qua việc đề cập đến các nội
dung liên quan đến bất bình đẳng giới. Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp
nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng thông tin, hiệu quả truyền thông về bình
đẳng giới trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, tác giả thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu lý luận báo chí truyền thông, các văn bản, tài liệu liên
quan đến vấn đề bất bình đẳng giới, từ đó hệ thống hóa những vấn đề lý luận

cần thiết, làm cơ sở cho công tác khảo sát, đánh giá thực tiễn.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng báo điện tử thông tin về vấn đề bất bình
đẳng giới; Chỉ ra những ưu, nhược điểm trong các tác phẩm liên quan đến
vấn đề bất bình đẳng giới trên báo điện tử: phunuonline.com.vn;
vnexpress.net; phunuvietnam.vn.
- Đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm thay đổi và nâng cao hơn
nữa chất lượng thông tin truyền thông về vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt
Nam trên báo điện tử.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề bất
bình đẳng giới ở Việt Nam trên báo điện tử.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài được triển khai nghiên cứu trên cơ sở
khảo sát ba báo điện tử: phunuonline.com.vn; vnexpress.net; phunuvietnam.vn
trong khoảng thời gian từ 1/2015 – 6/2016.

12


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Để thực hiện đề tài này, tác giả vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác-Lê nin,
tư tưởng Hồ Chí Minh , các quan điể m , đường lố i lañ h đa ̣o của Đảng , Nhà
nước về báo chí cách mạng , vấn đề bình đẳng giới để xây dựng các luận cứ
lý thuyết. Bằng phương pháp quan sát thực tiễn, tác giả tìm các luận cứ thực
tiễn để chứng minh, luận giải và qua đó đề xuất giải pháp đổi mới “Vấn đề
bất bình đẳng giới ở Việt Nam trên báo điện tử”.
- Từ những tài liệu thứ cấp, bài báo đăng trên báo điện tử ở Việt Nam từ
tháng 01/2015 đến tháng 6/2016, cũng như kết hợp với các phương pháp
nghiên cứu như: điều tra, so sánh, đối chiếu, phân tích, tổng hợp... để luận
giải, chứng minh vấn đề nghiên cứu.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Nghiên cứu phân tích tài liệu: nghiên cứu các sách, giáo trình lý luận
báo chí, các văn bản, Chỉ thị, Nghị quyết, các tài liệu khác của Đảng, Nhà
nước và của ngành có liên quan đến công tác bình đẳng giới để hệ thống hóa
những vấn đề lý luận nhằm xây dựng khung lý thuyết của đề tài.
- Phương pháp thống kê: thống kê tần suất xuất hiện các tin, bài có nội
dung về BBĐG ở Việt Nam trên các báo điện tử phunuonline.com.vn;
vnexpress.net; phunuvietnam.vn trong thời gian 1,5 năm, để từ đó chỉ ra
những thành công, hạn chế trong việc báo điện tử thông tin về BBĐG.
- Phương pháp phân tích nội dung: tác giả dùng phương pháp này để
nghiên cứu và phân tích nội dung các tin, bài đăng trên một số báo điện tử để
nhận diện thực trạng về vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam trên báo điện
tử. Từ đó, đánh giá được những thành công, hạn chế của các báo điện tử
trong công việc này.

13


- Phương pháp phỏng vấn sâu: Thực hiện phỏng vấn sâu Trưởng ban
Hôn nhân Gia đình, Báo phụ nữ Thành phố Hồ Chí Minh; phóng viên phụ
trách viết tin, bài về các vấn đề liên quan đến bình đẳng giới trên báo điện tử
Vnexpress.net, chuyên gia nghiên cứu về truyền thông Bình đẳng giới Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và ứng dụng Khoa học về giới – gia đình –
phụ nữ và vị thành niên (CSAGA). Qua đó, nhằm lấy ý kiến đánh giá của họ
trong việc báo điện tử thông tin về bình đẳng giới giới như thế nào; Có
vướng mắc, khó khăn gì trong quá trình xử lý thông tin.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Ý nghĩa lý luận: Luận văn là tài liệu tham khảo về mặt lý luận báo chí
truyền thông và là tài liệu nghiên cứu về những vấn đề có liên quan đến bất
bình đẳng giới; đồng thời là cơ sở để chỉ đạo, điều hành trong truyên truyền

về bình đẳng giới.
Ý nghĩa thực tiễn: Những kết quả của luận văn này sẽ là tài liệu tham
khảo bổ ích giúp cho các phóng viên, các cơ quan báo chí hiểu rõ hơn về vấn
đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam trên báo chí. Từ đó, các cơ quan báo chí sẽ
có định hướng mới trong việc nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin,
truyền thông các vấn đề liên quan đến bình đẳng giới, các phóng viên sẽ có
cách tiếp cận vấn đề liên quan đến bình đẳng giới ngày càng tốt hơn.
Quá trình thực hiện đề tài cũng là dịp để tác giả bổ sung các kiến thức
và hiểu biết sâu hơn. Kết quả đề tài này giúp tác giả trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ tuyên truyền và viết tin, bài tuyên truyền cho cán bộ, hội viên
phụ nữ và nhân dân trong huyện khi công tác tại Trung tâm Văn hoá - Thông
tin và Thể thao huyện Thường Tín đúng, trúng, sâu sát và hiệu quả hơn.
Đồng thời, cũng giúp cho Hội phụ nữ, Trung tâm Văn hoá - Thông tin và
Thể thao nơi tôi công tác có cách nhìn nhận chính xác hơn nữa về vấn đề
bình đẳng giới để đổi mới trong công tác tuyên truyền.

14


7. Bố cục luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và phụ lục, các
nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề bất bình đẳng giới ở
Việt Nam trên báo điện tử.
Chương 2: Thực trạng vấn đề bất bình đẳng giới ở Việt Nam trên báo
điện tử.
Chương 3: Mội số vấn đề đặt ra và giải pháp, khuyến nghị nâng cao
chất lượng tuyên truyền bình đẳng giới trên báo điện tử.

15



NỘI DUNG
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VẤN ĐỀ
BẤT BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM TRÊN BÁO ĐIỆN TỬ
1.1. Các khái niệm liên quan đến đề tài
1.1.1. Giới và bình đẳng giới
- Giới và giới tính
+ Giới
Trong phần Giải thích từ ngữ tại Điều 5, Chương I, Luật Bình đẳng giới
được Quốc hội Nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, khoá XI, thông
qua ngày 29 tháng 11 năm 2006 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng
7 năm 2007. Khái niệm “giới là chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ
trong tất cả các mối quan hệ xã hội” [24, Tr.4].
+ Giới tính
Luật Bình đẳng giới đã khái niệm “Giới tính chỉ các đặc điểm sinh học
của nam, nữ” [24, Tr.4].
- Bình đẳng giới và bất bình đẳng giới
+ Bình đẳng giới
Trong Luật Bình đẳng giới, phần Giải thích từ ngữ tại Điều 5, Chương I
đã đưa ra khái niệm“ Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang
nhau, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát
triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của
sự phát triển đó” [24, Tr.4].
+ Bất bình đẳng giới
Theo tài liệu về giới và quyền của phụ nữ trong pháp luật Việt Nam của
Trung ương Hội LHPN Việt Nam thì “Bất bình đẳng giới là sự phân biệt
đối xử với nam, nữ về vị thế, điều kiện và cơ hội bất lợi cho nam, nữ trong
việc thực hiện quyền con người, đóng góp và hưởng lợi từ sự phát triển của
gia đình, của đất nước” [21, Tr.23]

16


Hay nói cách khác, bất bình đẳng giới là sự đối xử khác biệt với nam
giới và phụ nữ, tạo nên các cơ hội khác nhau, sự tiếp cận các nguồn lực khác
nhau, sự thụ hưởng khác nhau giữa nam và nữ trên các lĩnh vực của đời sống
xã hội.
- Định kiến giới
Trong phần Giải thích từ ngữ tại Điều 5, Chương I, Luật Bình đẳng giới
khái niệm:“ Định kiến giới là nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu
cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ” [24, Tr.4].
Đây là khái niệm chung nhất được sử dụng trong luận văn này.
- Phân biệt đối xử về giới
Khái niệm chung nhất được sử dụng trong luận văn này là theo tài liệu
sổ tay tuyên truyền về bình đẳng giới và phòng, chống bạo lực gia đình của
Trung ương Hội LHPN Việt Nam: “Phân biệt đối xử về giới là việc hạn chế,
loại trừ, không công nhận hoặc không coi trọng vai trò, vị trí của nam và
nữ, gây bất bình đẳng giữa nam và nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội và gia đình” [27, Tr.21].
1.1.2. Báo điện tử
Từ khi ra đời đến nay, loại hình báo chí này có rất nhiều cách gọi khác
nhau như: Báo điện tử, báo mạng điện tử, báo trực tuyến, báo chí internet.
Luận văn này dùng tên gọi Báo điện tử để chỉ chung cho loại hình báo chí
này.
“ Báo điện tử là một loại hình thông tin đại chúng dựa trên việc khai
thác thế mạnh của internet nhằm đem đến cho công chúng những thông tin
mới nhất về mọi mặt của đời sống một cách nhanh nhất và toàn diện nhất”
[15, Tr 234]
So với báo in, phát thanh và truyền hình, báo điện tử là một kênh truyền
thông vô cùng hiệu quả. Bản thân nó mang trong mình sức mạnh của các

phương tiện truyền thông đại chúng truyền thống, nhưng do kết hợp với
17


mạng internet mà nó có nhiều đặc điểm ưu việt riêng. Nhờ những thế mạnh
của mình mà Báo điện tử đã nhanh chóng làm thay đổi cách truyền tin và
tiếp nhận thông tin để trở thành một loại hình truyền thông được nhiều người
lựa chọn.
1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về vấn đề bình đẳng giới
Trong suốt những năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn rất quan tâm tới
vấn đề bình đẳng giới. Để xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ,
thúc đẩy được bình đẳng nam nữ, thực thi quyền phụ nữ trên phạm vi rộng
lớn thì Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới ký tham
gia Công ước về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ
(CEDAW) vào tháng 7/1980 và được Nhà nước phê chuẩn Công ước vào
tháng 11/1981. Đảng, nhà nước ta đã ra rất nhiều các văn bản chỉ đạo và đã
chỉ đạo tổ chức nhiều hoạt động để thực hiện trách nhiệm của một quốc gia
là thành viên CEDAW, đặc biệt là việc thiết lập sự bảo vệ bằng pháp luật
các quyền của phụ nữ trên cơ sở không phân biệt đối xử và bình đẳng nam
nữ.
Trước hết, Quan điểm của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về
bình đẳng giới được thể hiện ngay trong Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Ngày 02/9/1945, Bác Hồ đọc Bản Tuyên ngôn độc lập,
khai sinh ra Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ đó đến nay, Nhà nước ta
đã ban hành 05 bản Hiến pháp: năm 1945, 1959, 1980, 1992 - sửa đổi bổ
sung năm 2001 và gần đây nhất là bản Hiến pháp sửa đổi năm 2013. Các bản
Hiến pháp trong đó điều quy định chế độ chính trị, quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân… Ngoài ra, còn quán triệt và cụ thể hóa
quan điểm “Nam, nữ bình quyền” bằng những quy định cụ thể.
Sau các Hiến pháp năm 1945, 1959, trong Hiến pháp năm 1980 từ Điều

53 đến Điều 81 quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó

18


có một số điều tạo ra những điểm nhấn quan trọng, khẳng định quyền bình
đẳng giới của nam và nữ.
Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, từ Điều 49 đến Điều
82 quy định rõ quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, trong đó có một số
khẳng định các quyền bình đẳng nam, nữ trên các lĩnh vực của đời sống xã
hội và gia đình.
Qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, đến nay Hiến pháp năm 2013 đã khẳng
định sâu sắc hơn quyền bình đẳng của nam và nữ trên cơ sở kế thừa và phát
triển các quy định của Hiến pháp năm 1992. Từ Điều 14 đến Điều 49,
Chương II, Hiến pháp năm 2013 đã quy định các quyền con người nói chung
và quyền công dân nói riêng, trong đó có quyền của phụ nữ được quy định
tại Điều 26.
Có thể khẳng định rằng, qua các bản Hiến pháp, Đảng và Nhà nước ta
đã thể hiện rõ quan điểm về bình đẳng giới. Có những quyền được pháp luật
xây dựng bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ trước pháp luật nhằm
xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong công việc, trong đời sống chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội và trong đời sống gia.
Năm 2000, tại Hội nghị Thượng đỉnh của Liên hiệp quốc, Việt Nam là
một trong số gần 200 quốc gia cam kết thực hiện 8 mục tiêu phát triển thiên
niên kỷ, trong đó mục tiêu thứ 3 có nội dung “Thúc đẩy bình đẳng giới và
nâng cao quyền năng của phụ nữ” [23, Tr.3]
Để khẳng định Việt Nam sẽ quyết tâm thực hiện tốt bình đẳng giới,
Đảng và nhà nước ta tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về bình đẳng
nam nữ; xoá bỏ sự phân biệt đối xử với phụ nữ; thực hiện các cam kết, điều
ước quốc tế về quyền con người và bình đẳng giới, nhằm phát huy mọi tiềm

năng nguồn nhân lực nam, nữ. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành Luật Bình
đẳng giới. Luật bình đẳng giới được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, khóa XI, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 29 tháng 11 năm
19


2006. Ngày 12 tháng 12 năm 2006, Chủ tịch nước ký Lệnh công bố số
18/2006/L-CTN. Luật này có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm
2007. Luật này gồm 6 chương, 44 điều. [24,Tr.4]
Luật Bình đẳng giới ra đời là một trong những biện pháp khắc phục tình
trạng phân biệt đối xử về giới và những khoảng cách giới trong thực tế. Luật
bình đẳng giới đã thể chế hóa quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước
về bình đẳng giới nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nam và nữ. Luật
này quy định nguyên tắc bình đẳng giới trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội và gia đình, biện pháp bảo đảm bình đẳng giới, trách nhiệm của cơ quan,
tổ chức, gia đình, cá nhân trong việc thực hiện bình đẳng giới.
Để nâng cao nhận thức của nhân dân về Luật bình đẳng giới và để triển
khai thi hành Luật, Thủ tướng Chính phủ đã ra Chỉ thị số 10/2007/CT-TTg
ngày 03/05/2007 về việc triển khai thi hành Luật Bình đẳng giới. Trong Chỉ
thị, Thủ tướng Chính phủ đã yêu cầu các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính Phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương tập trung làm tốt công tác tổ chức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
Luật Bình đẳng giới và rà soát các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành
xây dựng và hoàn thiện các quy định pháp luật phù hợp với mục tiêu bình
đẳng giới.
Đồng thời, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 70/2008/NĐ-CP ngày
04/06/2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Bình đẳng giới,
Nghị định số 48/2009/NĐ-CP ngày 19/05/2009 quy định về các biện pháp
bảo đảm Bình đẳng giới, Nghị định số 55/2009/NĐ-CP ngày 10/06/2009 quy
định xử phạt vi phạm hành chính về bình đẳng giới.

Bên cạnh đó, Luật phòng, chống bạo lực gia đình được Quốc hội khóa
XII, Kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 21/11/2007, có hiệu lực thi hành từ
01/7/2008 đã thật sự là đạo luật quan trọng cho việc thúc đẩy công tác bình
đẳng giới ở nước ta. Hiện nay, Việt Nam là quốc gia nằm trong số ít quốc
20


×