Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh theo pháp luật việt nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (679.87 KB, 82 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

CAO THỊ MAI HIÊN

ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ CHỒNG TRONG QUAN
HỆ KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM HIỆN HÀNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

CAO THỊ MAI HIÊN

ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ CHỒNG TRONG QUAN
HỆ KINH DOANH THEO PHÁP LUẬT VIỆT
NAM HIỆN HÀNH

Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS HÀ THỊ MAI HIÊN

Hà Nội – 2017

2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.Các kết quả
nghiên cứu trong luận văn là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả
nghiên cứu đó.Luận văn này chƣa đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào
khác.
Tác giả luận văn

Cao Thị Mai Hiên

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ………………………………………………………………………...7
CHƢƠNG 1 ......................................................................................................... 12
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ CHỒNG TRONG
QUAN HỆ KINH DOANH ................................................................................. 12
1.1. Khái niệm,đặc điểm đại diện và đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh
doanh .................................................................................................................... 12
1.1.1. Khái niệm chung về “Đại diện” .............................................................. 12
1.1.2. Cơ sở của quy định về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh
…………………………………………………………………………………..20
1.1.3. Đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh ................................. 21

1.2. Sơ lƣợc lịch sử pháp luật Việt Nam về quan hệ đại diện giữa vợ chồng
trong quan hệ kinh doanh ..................................................................................... 24
1.2.1. Giai đoạn trƣớc cách mạng tháng Tám năm 1945 .................................. 24
1.2.2. Giai đoạn từ 1945 đến nay....................................................................... 26
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .................................................................................... 30
CHƢƠNG 2 ......................................................................................................... 31
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ CHỒNG
TRONG QUAN HỆ KINH DOANH Ở VIỆT NAM .......................................... 31
2.1. Thực trạng đại diện theo pháp luật giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh
.............................................................................................................................. 31
2.1.1. Đại diện theo pháp luật giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh khi một
bên bị mất năng lực hành vi dân sự. .................................................................... 31
2.1.2. Đại diện theo pháp luật giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh khi
một bên bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. ....................................................... 42

4


2.1.3. Đại diện theo pháp luật giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh khi một
bên gặp khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. .......................................... 46
2.2. Thực trạng đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh
doanh .................................................................................................................... 47
2.2.1. Căn cứ pháp lý của việc đại diện theo ủy quyền giữa vợ và chồng trong
quan hệ kinh doanh. ............................................................................................. 47
2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của việc đại diện theo ủy quyền giữa vợ chồng trong
quan hệ kinh doanh. ............................................................................................. 50
2.3. Trách nhiệm liên đới của vợ chồng về vấn đề đại diện trong quan hệ kinh
doanh. ................................................................................................................... 52
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .................................................................................... 57
CHƢƠNG 3 ......................................................................................................... 58

NHU CẦU, ĐỊNH HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ CHỒNG TRONG QUAN HỆ KINH DOANH
.............................................................................................................................. 58
3.1. Nhu cầu và định hƣớng hoàn thiện pháp luật về đại diện giữa vợ chồng trong
quan hệ kinh doanh .............................................................................................. 58
3.1.1. Nhu cầu hoàn thiện quy định của pháp luật về đại diện giữa vợ chồng
trong quan hệ kinh doanh ..................................................................................... 58
3.1.2. Định hƣớng hoàn thiện và bảo đảm việc thực thi các quy định của pháp
luật pháp luật về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh ................... 65
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện cũng nhƣ bảo đảm cho việc thực thi các
quy định của pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh 68
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .................................................................................... 78
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 80

5


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLDS

: Bộ luật Dân sự

HN&GĐ

: Hôn nhân và gia đình

GDDS


: Giao dịch Dân sự

MỞ ĐẦU

6


1.

Tính cấp thiết của đề tài
Đại diện là một chế định quan trọng nhằm hỗ trợ việc thực hiện các quan

hệ pháp luật nói chung của các chủ thể. Cũng nhƣ các quốc gia khác trên thế
giới, tại Việt Nam đại diện là một chế định đƣợc quy định trong Bộ luật Dân sự
2005. Luật Hôn nhân và gia đình 2014 lần đầu tiên quy định mới về vấn đề đại
diện của vợ chồng đó là đại diện của vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh.
Xuất phát từ quyền bình đẳng giữa vợ và chồng, bảo vệ quyền và lợi ích
của gia đình mà vợ chồng có quyền đại diện cho nhau theo pháp luật hoặc theo
ủy quyền. Việc vợ, chồng đại diện cho nhau trong các giao dịch dân sự phục vụ
cho sinh hoạt của gia đình hay liên quan đến hoạt động kinh doanh ngày càng
nhiều.
Hiện nay các quan hệ kinh doanh ngày càng đa dạng và phức tạp. Vợ,
chồng có quyền tự do kinh doanh, trong đó có cả việc sử dụng tài sản riêng và tài
sản chung vào các giao dịch này. Chính vì thế việc đặt ra vấn đề đại diện trong
quan hệ kinh doanh đáp ứng nhu cầu phát triển trong xã hội hiện đại, đảm bảo
đƣợc quyền, lợi ích của các bên trong giao lƣu dân sự.
Nghiên cứu vấn đề đại diện giữa vợ và chồng, đặc biệt là đại diện giữa vợ
và chồng trong quan hệ kinh doanh là cần thiết nhằm đảm bảo việc thực hiện
chức năng của gia đình, đảm bảo lợi ích của vợ chồng trong các giao dịch dân sự
và trách nhiệm liên đới (trách nhiệm bồi thƣờng thiệt hại) trong quan hệ kinh

doanh.
Trong quá trình hội nhập, khi mà nhu cầu về đại diện giữa vợ và chồng
trong quan hệ kinh doanh xuất hiện ngày càng nhiều, tuy nhiên các quy định của
pháp luật về vấn đề này còn chƣa thực sự cụ thể và rõ ràng. Ngoài ra các công
trình nghiên cứu về đại diện giữa vợ và chồng nói chung, đại diện giữa vợ và
chồng trong quan hệ kinh doanh trong giới khoa học pháp lý vẫn còn ít. Do đó,

7


việc nghiên cứu vấn đề này là vô cùng cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện
nay.
Xuất phát từ thực tiễn trên, bằng việc lựa chọn đề tài “Đại diện giữa vợ
chồng trong quan hệ kinh doanh theo pháp luật Việt Nam hiện hành” luận
văn sẽ làm sáng tỏ các quy định của pháp luật về đại diện giữa vợ và chồng trong
quan hệ kinh doanh, chỉ ra những điểm phù hợp hoặc không phù hợp về mặt lý
luận so với thực tiễn áp dụng quy định vào giao lƣu dân sự để từ đó đƣa ra
những kiến nghị phù hợp để đảm bảo quyền lợi của công dân trong quan hệ đại
diện giữa vợ và chồng trong kinh doanh.
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Chế định đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh là một vấn

đề mới đƣợc cụ thể hóa trong quy định của pháp luật, cụ thể là Luật Hôn nhân và
gia đình 2014. Do đó mà chƣa có công trình nghiên cứu nào liên quan đến vấn
đề này từ khi quy định của pháp luật có hiệu lực thi hành.
Vấn đề liên quan đến đại diện đƣợc nhắc đến trong một số đề tài, bài viết,
riêng lẻ đánh giá trƣớc đó nhƣ: “Phƣơng thức giải quyết tranh chấp về tài sản của
vợ chồng trong hoạt động kinh doanh”, Đề tài khoa học cấp trƣờng: Tài sản của

vợ chồng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, do Nguyễn Phƣơng Lan chủ
nhiệm (2008), “Chế định đại diện theo quy định của pháp luật Việt Nam – nhìn
từ góc độ luật so sánh” của PGS.TS Ngô Huy Cƣơng, Tạp chí nhà nƣớc và pháp
luật (04/2009), Luận văn thạc sĩ “Pháp luật Việt Nam về đại diện trong quan hệ
hợp đồng” của Đỗ Hoàng Yến (2012), Luận văn thạc sĩ “Đại diện giữa vợ và
chồng theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành” của Nguyễn Thị Hạnh
(2012).
Với tính chất là một vấn đề mới và trong thực tiễn cuộc sống cũng phát
sinh nhiều tranh chấp liên quan đến này, nên việc nghiên cứu một cách hệ thống

8


quy định về đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh là cần thiết và
phù hợp.
3.

Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

-

Mục đích của luận văn
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ các quy định của pháp luật về đại

diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh. Phân tích và làm rõ những vấn
đề về lý luận và thực tiễn của đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh
doanh để từ đó làm cơ sở cho các cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh
chấp liên quan đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh, góp phần
nâng cao hiệu quả hoạt động áp dụng pháp luật, cũng nhƣ đƣa ra một số định
hƣớng, kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về đại diện giữa vợ và

chồng trong quan hệ kinh doanh nhằm bảo đảm quyền lợi cho các bên trong
quan hệ hôn nhân cũng nhƣ các chủ thể khác trong giao dịch với vợ, chồng.
-

Nhiệm vụ của luận văn
Để thực hiện những mục đích trên, luận văn còn có những nhiệm vụ sau:

+ Nghiên cứu để làm rõ vấn đề lý luận và quy định của pháp luật hiện hành về
đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh.
+ Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về đại diện của vợ và chồng trong
quan hệ kinh doanh, từ đó đƣa ra những nhận xét, đánh giá về ƣu, nhƣợc điểm
khi áp dụng pháp luật.
+ Đề xuất đƣa ra những định hƣớng, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về đại
diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh để tăng cƣờng hiệu quả của quy
định pháp luật trong thực tiễn áp dụng.
4.

Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu

-

Đối tƣợng nghiên cứu:

+ Những vấn đề lý luận chung về đại diện theo quy định của pháp luật dân sự;

9


+ Những quy định của pháp luật cụ thể về đại diện giữa vợ và chồng trong quan
hệ kinh doanh;

+ Thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật vào thực tế.
-

Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu về vấn đề đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh

doanh, vì vậy luận văn đi từ cái chung đến cái riêng, với nguồn cơ bản là Bộ luật
Dân sự. Tuy nhiên trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này chỉ nghiên cứu
các vấn đề về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh ở Việt Nam hiện
nay.
5.

Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp nghiên cứu của đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và

duy vật lịch sử theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tƣ tƣởng Hồ Chí
Minh cũng nhƣ các quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc về pháp luật, hôn nhân và
gia đình.
Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể đƣợc sử dụng là phân tích, tổng hợp,
lịch sử, so sánh, thống kê, logic v.v...
6.

Tính mới và đóng góp của đề tài
Hiện nay, chƣa có công trình nghiên cứu cụ thể nào về vấn đề đại diện

giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh. Là vấn đề mới đƣợc cụ thể hóa
trong luật nên hiện nay chỉ dừng lại ở việc có những bài viết, bài giảng riêng lẻ
đánh giá về nó.
Luận văn cố gắng làm sáng tỏ những vấn đề mà thực tế trong cuộc sống
đang xảy ra, đánh giá cặn cẽ tác động của luật định đối với vấn đề này trong

cuộc sống để từ đó đƣa ra hƣớng đề xuất phù hợp. Chính vì vậy mục tiêu mà
luận văn hƣớng đến là làm tài liệu tham khảo cho hoạt động áp dựng thực tiễn
cũng nhƣ tài liệu nghiên cứu khoa học về sau.

10


7.

Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 3 chƣơng, phần kết luận và danh mục tài liệu

tham khảo
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung về đại diện giữa vợ chồng
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật hiện hành ở Việt Nam về đại diện giữa vợ
chồng trong quan hệ kinh doanh.
Chƣơng 3: Nhu cầu, định hƣớng và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về đại
diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh.

11


CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẠI DIỆN GIỮA VỢ CHỒNG
TRONG QUAN HỆ KINH DOANH
1.1.

Khái niệm,đặc điểm đại diện và đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ
kinh doanh


1.1.1. Khái niệm chung về “Đại diện”
Đại diện là một chế định pháp lý theo đó ngƣời đại diện độc lập thực hiện
sự thể hiện ý chí làm phát sinh hậu quả pháp lý trực tiếp đối với ngƣời đƣợc đại
diện. Xét từ góc độ lý luận thì ngƣời thực hiện các hành vi pháp lý đồng thời là
ngƣời tiếp nhận kết quả của các hành vi đó. Có thể thấy đại diện là một chế định
pháp luật thể hiện sự linh hoạt, mềm dẻo trong cách thức tham gia vào giao dịch
dân sự (GDDS) của các chủ thể.
Theo cách diễn giải tại cuốn Từ điển tiếng Việt thì đại diện là sự “thay mặt
(cho cá nhân, tập thể)” [35, tr.279].
Từ điển Luật học giải thích đại diện là “việc một ngƣời, một cơ quan, tổ
chức nhân danh ngƣời, cơ quan, tổ chức khác xác lập, thực hiện hành vi pháp lý
trong phạm vi thẩm quyền đại diện” [36, tr225].
Với các cách hiểu này có thể thấy chủ thể tham gia giao dịch gồm có
ngƣời đại diện, ngƣời đƣợc đại diện và một bên thứ ba khi ngƣời đại diện thay
mặt ngƣời đƣợc đại diện giao dịch vớibên thứ ba. Cả ba bên đều có thể là cá
nhân, tổ chức. Nhƣ vậy mối quan hệ giữa ngƣời đại diện và ngƣời đƣợc đại diện
là sự thỏa thuận tự nguyện và đúng theo quy định của pháp luật. Các giao dịch
mà ngƣời đại diện thay mặt ngƣời đƣợc đại diện thực hiện với Bên thứ ba sẽ tạo
ra quyền và nghĩa vụ đối với ngƣời đƣợc đại diện.
Trong xã hội La Mã, ngƣời chủ trong gia đình đƣợc quyền sở hữu mọi thứ
do những ngƣời trong gia đình có đƣợc từ các nguồn khác nhau hoặc do nô lệ tạo

12


nên. Vì vậy mà luật La Mã không có quy định nào cụ thể về đại diện nhƣ các
nƣớc theo truyền thống Common Law [7, tr.26-31].
Càng về sau, do yêu cầu của sự phát triển kinh tế - xã hội, giao lƣu trong
thƣơng mại và vấn đề đại diện đƣợc đề cập đến nhiều hơn. Cho đến ngày nay,
chế định này đã phổ biến rộng rãi trong đời sống giao lƣu dân sự. Nó thừa nhận

sự tự do ý chí của các bên, theo đó phải tuân thủ những cam kết mà mình đã đƣa
ra.
Hầu nhƣ các quốc gia trên thế giới, dù theo truyền thống Common Law hay
Civil Law đều thừa nhận và quy định về chế định đại diện. Bộ luật Dân sự Đức
quy định: “Biểu lộ ý chí mà một người đưa ra bằng tên của người được đại diện
trong phạm vi quyền đại diện của mình có hiệu lực trực tiếp đối với cả lợi ích và
việc chống lại người được đại diện. Không có sự khác biệt giữa biểu lộ ý chí được
đưa ra một cách rõ ràng bằng tên của người được đại diện, hoặc nếu hoàn cảnh
chỉ ra rằng biểu lộ ý chí phải đưa ra bằng tên của người đại diện” [3].
Bộ luật Dân sự Pháp năm 1804 cũng đã quy định về đại diện nhƣ sau: “Ủy
quyền hay ủy nhiệm là hành vi mà theo đó một người trao cho người khác quyền
làm một việc gì đó cho người ủy quyền bằng tên của người ủy quyền.
Hợp đồng không được tạo lập khi không có sự chấp thuận của người được ủy
quyền.” [4, Điều 1984].
Ở Việt Nam, chế định đại diện đƣợc quy định trong nhiều văn bản quy
phạm pháp luật và cụ thể nhất là trong Bộ luật Dân sự 2005.
Từ những quy định trong Bộ luật Dân sự 2005 và các văn bản khác có thể
rút ra đƣợc khái niệm về đại diện là: Đại diện là việc một người (sau đây gọi là
người đại diện) thay mặt người khác (sau đây được gọi là người được đại diện)
thực hiện một số giao dịch dân sự nhất định vì lợi ích hợp pháp trong phạm vi
được người đại diện cho phép.

13




Đặc điểm của quan hệ đại diện
Đại diện là một quan hệ pháp luật dân sự, vì thế ngoài các đặc điểm của


quan hệ pháp luật dân sự thì đại diện còn có những đặc điểm riêng:
-

Đại diện làm phát sinh hai mối quan hệ cùng tồn tại: Đó là quan hệ bên

trong và quan hệ bên ngoài [18, tr.142].
Quan hệ bên trong là quan hệ đƣợc hình thành giữa ngƣời đƣợc đại diện và
ngƣời đại diện theo quy định của pháp luật (đại diện theo pháp luật) hoặc theo
hợp đồng (đại diện theo ủy quyền). Ngƣời đại diện là cá nhân có đầy đủ năng lực
hành vi dân sự, nhân danh chủ thể trong việc thực hiện các giao dịch pháp luật
cho phép hoặc theo nội dung đƣợc ủy quyền. Ngƣời đƣợc đại diện có thể là cá
nhân hoặc tổ chức có nhu cầu ủy quyền cho một cá nhân khác thay mình thực
hiện một công việc, một giao dịch dân sự nào đó.
Ví dụ: Theo quy định của pháp luật hiện hành thì mọi giao dịch dân sự của
ngƣời chƣa đủ 6 tuổi đều phải do ngƣời đại diện xác lập, thực hiện. Nhƣ vậy
quan hệ đại diện ở đây đƣợc xác lập theo quy định của pháp luật chứ không phải
dựa trên sự thỏa thuận của các bên.
Quan hệ bên ngoài là quan hệ đƣợc xác lập giữa ngƣời đƣợc đại diện và
ngƣời thứ ba. Quan hệ bên trong là tiền đề, là cơ sở cho sự xuất hiện và tồn tại
của quan hệ bên ngoài.
-

Ngƣời đại diện nhân danh ngƣời đƣợc đại diện thực hiện các giao dịch dân

sự với bên thứ ba.
Ở đây ngƣời đại diện xác lập quan hệ với ngƣời thứ ba nhân danh ngƣời
đƣợc đại diện chứ không nhân danh bản thân mình, vì vậy các quyền và nghĩa vụ
do ngƣời đại diện thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại diện với ngƣời thứ ba
đều thuộc về ngƣời đƣợc đại diện. Ngƣời đại diện có thể đƣợc hƣởng những lợi


14


ích nhất định từ ngƣời đƣợc đại diện khi thực hiện hành vi đại diện với ngƣời thứ
ba, chứ không đƣợc hƣởng bất kỳ lợi ích nào từ ngƣời thứ ba.
Trong giao dịch do ngƣời đại diện nhân danh ngƣời đƣợc đại diện xác lập
thực hiện phát sinh với ngƣời thứ ba chứ không phải ngƣời đƣợc đại diện là
ngƣời trực tiếp xác lập và thực hiện giao dịch dân sự với ngƣời thứ ba. Trƣờng
hợp ngƣời đại diện thực hiện việc đại diện vƣợt quá thẩm quyền hoặc không có
thẩm quyền thì tùy vào từng trƣờng hợp cụ thể, chủ thể của giao dịch dân sự đó
sẽ thay đổi. Ngƣời đại diện sẽ trở thành một bên đại diện và chịu trách nhiệm đối
với hậu quả pháp lý của giao dịch đó.
-

Ngƣời đại diện đƣợc chủ động trong việc xác lập giao dịch dân sự với bên

thứ ba trong phạm vi đại diện nhằm đảm bảo quyền lợi cao nhất cho ngƣời đƣợc
đại diện.
Phạm vi đại diện mà ngƣời đại diện thực hiện trong quá trình giao dịch với
bên thứ ba áp dụng theo quy định của pháp luật hoặc theo thỏa thuận của các
bên.
-

Trong quan hệ đại diện, ngƣời đƣợc đại diện trực tiếp thu nhận các kết quả

pháp lý do hoạt động của ngƣời đại diện thực hiện trong phạm vi thẩm quyền đại
diện mang lại.
Phạm vi đại diện đƣợc hiểu là hành động thực hiện với tƣ cách một ngƣời
khác mà đƣợc sự đồng ý của họ.
Các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch dân sự do ngƣời đại diện xác

lập thực hiện với ngƣời thứ ba đều thuộc về ngƣời đƣợc đại diện, điều này có
nghĩa là quan hệ pháp luật dân sự phát sinh giữa ngƣời đƣợc đại diện và ngƣời
thứ ba, chứ không phải giữa ngƣời trực tiếp tiến hành xác lập giao dịch dân sự ngƣời đại diện với ngƣời thứ ba.

15


Trong trƣờng hợp ngƣời đại diện thực hiện giao dịchvƣợt quá phạm vi đại
diện thì ngƣời đƣợc đại diện sẽ không phải chịu trách nhiệm đối với phạm vi
vƣợt quá đó trừ trƣờng hợp ngƣời đƣợc đại diện đồng ý.


Nguyên tắc của quan hệ đại diện

-

Dựa trên nguyên tắc bảo đảm quyền tự do của công dân theo Hiến pháp.

Công dân có quyền và lợi ích dù không thực hiện các giao dịch dân sự có liên
quan tới mình và đƣợc thực hiện thông qua ngƣời đại diện. Đại diện bảo đảm
cho quyền của công dân không bị gián đoạn khi mà họ có nhu cầu giao dịch
nhƣng vì những lý do khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng mà không thể tự
mình thực hiện giao dịch đƣợc.
-

Dựa trên nguyên tắc tự do giao kết của các chủ thể trong xã hội. Công dân

có quyền làm những việc mà pháp luật không cấm. Vì vậy mà trong khuôn khổ
quy định của pháp luật, các cá nhân có quyền thay mặt nhau thực hiện những
công việc theo thỏa thuận. Ngƣời đại diệnnhân danh ngƣời đƣợc đại diện trong

giao dịch, nhƣng cũng có quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong phạm vi đại
diện đó .


Ý nghĩa của quan hệ đại diện
Trong đời sống hiện nay, cùng với sự phát triển của kinh tế xã hội và các

mối giao lƣu dân sự, quan hệ đại diện đƣợc xác lập ngày càng nhiều. Bởi vậy chế
định đại diện có ý nghĩa rất lớn trong thực tiễn quan hệ pháp luật dân sự.
-

Hiện nay có rất nhiều cá nhân rơi vào tình trạng mất năng lực hành vi dân

sự, hạn chế năng lực hành vi dân sự, khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi
nhƣng vẫn có nhu cầu về các giao dịch tối thiểu để phục vụ sinh hoạt của mình
cũng nhƣ thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản đối với bên thứ ba. Những
hạn chế đó cản trở và họ không thể tự mình thực hiện các giao dịch. Chế định đặt
ra vấn đề giám hộ, đại diện giúp đỡ rất lớn cho những ngƣời không đủ khả năng

16


nhận thức và điều khiển hành vi xác lập các giao dịch phù hợp với nhu cầu cá
nhân của họ.
-

Là công cụ đắc lực thúc đẩy các giao dịch dân sự phát triển an toàn và

hiệu quả trong dòng chảy của các giao lƣu dân sự ngày càng phong phú và đa
dạng nhƣ hiện nay.

-

Kinh tế, xã hội ngày càng phát triển thì đại diện ngày càng đƣợc biết đến

nhƣ là một dịch vụ trong nền kinh tế tri thức. Những ngƣời có đủ năng lực, trình
độ chuyên môn sẽ thực hiện cáccông việc mà ngƣời có nhu cầu mong muốn
thông qua hợp đồng ủy quyền. Ví dụ nhƣ ông A có tranh chấp đối với ông B và
ông A kiện ông B ra tòa. Vì lý do sức khỏe mà ông A không muốn trực tiếp tham
gia vào vụ kiện này mà muốn ủy quyền cho một ngƣời khác thay mặt mình giải
quyết các công việc liên quan đến nội dung của vụ kiện. Ông A đã thuê ông C –
Luật sƣ của Văn phòng luật sƣ Z để thay mặt và nhân danh mình thực hiện tất cả
các thủ tục với cơ quan có thẩm quyền cũng nhƣ giải quyết tất cả các vấn đề về
vụ kiện.
Đây là một nhu cầu thực tế và thiết yếu hiện nay khi mà có nhiều giao
dịch dân sự ngƣời có nhu cầu không thể tự mình thực hiện đƣợc và phù hợp
trong nền kinh tế thị trƣờng ngày nay.
Chế định đại diện là một chế định quan trọng và có ý nghĩa lớn không chỉ
trong khoa học pháp lý mà còn có ý nghĩa quan trọng trong các giao dịch dân sự
hàng ngày, liên quan đến nhiều lĩnh vực của cuộc sống. Tuy nhiên trong phạm vi
nghiên cứu của luận văn này chỉ đề cập tới vấn đề đại diện giữa vợ và chồng
trong quan hệ kinh doanh mà không đề cập đến các vấn đề đại diện khác nhƣ đại
diện hành chính, ngoại giao.....


Bộ luật Dân sự 2015 và những điểm mới về đại diện

17


BLDS 2005 sau 10 năm thi hành, đã có tác động tích cực đến sự phát triển

kinh tế - xã hội của đất nƣớc cũng nhƣ đối với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật
điều chỉnh các quan hệ dân sự. Tuy nhiên, bƣớc sang giai đoạn phát triển mới
của đất nƣớc, trƣớc yêu cầu thể chế hóa các Nghị quyết của Đảng và yêu cầu về
công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm quyền con ngƣời, quyền công dân, về
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa đƣợc ghi nhận
trong Hiến pháp năm 2013 thì BLDS 2005 hiện hành đã bộc lộ những hạn chế,
bất cập, nổi bật là:
Một là những yêu cầu của Nhà nƣớc pháp quyền, đặc biệt Hiến pháp 2013
quy định Nhà nƣớc phải có cơ chế pháp lý để công nhận, tôn trọng, bảo vệ và
bảo đảm tốt hơn quyền con ngƣời, quyền công dân về dân sự. Tuy nhiên, một số
quy định của BLDS hiện hành chƣa đáp ứng đƣợc yêu cầu này nhƣ quy định về
chủ thể, giao dịch, đại diện, nghĩa vụ, hợp đồng,…còn bất hợp lý, thiếu tính khả
thi.
Hai là nhiều quy định của BLDS còn chƣa thực sự tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa.
Những hạn chế, bất cập nêu trên đã ảnh hƣởng không nhỏ đến hiệu lực và
hiệu quả của BLDS nói riêng, pháp luật dân sự nói chung; chƣa thực sự tạo môi
trƣờng pháp lý thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc cũng nhƣ
cho việc công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm các quyền dân sự của ngƣời
dân.
Thực hiện thể chế hóa Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc thời kỳ quá độ lên
chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Chiến lƣợc phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 2011 – 2020 và yêu cầu bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công
dân, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, hội nhập
quốc tế đã đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp 2013, ngày 24/11/2015, tại kỳ họp thứ

18


10 Quốc hội Khóa XIII đã thông qua Bộ luật dân sự 2015 (Luật số
91/2015/QH13, có hiệu lực từ ngày 01/01/2017 - sau đây gọi tắt là BLDS

2015), với 06 phần, 27 Chƣơng, 689 điều (giảm 88 điều so với BLDS 2005).
Phạm vi sửa đổi Bộ luật dân sự là sửa đổi căn bản, toàn diện, trong đó quy
định về đại diện cũng đƣợc sửa đổi phù hợp hơn với tình hình phát triển kinh tế xã hội của đất nƣớc trong thời kỳ hội nhập. Những điểm mới về đại diện trong
BLDS 2015 so với BLDS 2005 gồm:
Một là: Quy định rõ ràng bên đại diện có thể là cá nhân hoặc pháp nhân.
Nếu nhƣ BLDS 2005 quy định bên đại diện chỉ là cá nhân thì trong BLDS 2015
đã mở rộng đối tƣợng đƣợc là ngƣời đại diện có thể tham gia vào quan hệ pháp
luật dân sự.
Hai là: Pháp nhân có thể có nhiều ngƣời đại diện theo pháp luật. Đây là
quy định mới lần đầu tiên đƣợcđƣa vào BLDS. Quy định này phù hợp với Luật
Doanh nghiệp 2014, đảm bảo sự hài hòa giữa quy định của luật chung cũng nhƣ
luật chuyên ngành.
Ba là: Theo BLDS 2005, ngƣời đại diện theo pháp luật của hộ gia đình là
Chủ hộ, của tổ hợp tác là Tổ trƣởng. Tuy nhiên đến nay, BLDS2015 đã không
còn ghi nhận tƣ cách ngƣời đại diện theo pháp luật của hộ gia đình, tổ hợp tác,
thay vào đó các thành viên trong hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có
tƣ cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy
quyền để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của các
thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tƣ cách pháp nhân đó.
Thứ tƣ: Bổ sung quy định về thời hạn đại diện
BLDS 2015 bổ sung thêm quy định về việc xác định thời hạn đại diện
trong trƣờng hợp không xác định đƣợc thời hạn đại diện theo văn bản ủy quyền;
quyết định của cơ quan có thẩm quyền; điều lệ của pháp nhân hoặc theo quy

19


định của pháp luật. Cụ thể: Nếu quyền đại diện đƣợc xác định theo giao dịch dân
sự cụ thể thì thời hạn đại diện đƣợc tính đến thời điểm chấm dứt giao dịch dân sự
đó; Nếu quyền đại diện không đƣợc xác định với giao dịch dân sự cụ thể thì thời

hạn đại diện là 01 năm, kể từ thời điểm phát sinh quyền đại diện.
1.1.2. Cơ sở của quy định về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh
Có thể thấy quy định của pháp luật về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh
doanh bị ảnh hƣởng bởi yếu tố: Sự bình đẳng của các bên đối với tài sản khi đƣa
vào giao dịch dân sự và nhu cầu phát triển chung của nền kinh tế thị trƣờng.
Pháp luật Việt Nam qua các thời kỳ phong kiến, vấn đề vợ chồng đại diện cho
nhau trong quan hệ kinh doanh đối với tài sản không đƣợc ghi nhận. Hệ tƣ tƣởng
Nho giáo còn ảnh hƣởng sâu sắc đến đời sống chính trị, tƣ tƣởng, tình cảm của
mọi tầng lớp xã hội với quan điểm “trọng nam khinh nữ”. Trong gia đình ngƣời
đàn ông có quyền lực tuyệt đối còn ngƣời phụ nữ không có quyền tự quyết định
những công việc liên quan đến tài sản của gia đình. Do vậy mà vấn đề đại diện
không đƣợc ghi nhận, mà đƣợc xem là một điều đƣơng nhiên. Sở dĩ nhƣ vậy bởi
theo quan niệm ngƣời đàn ông là trụ cột trong gia đình, có quyền quyết định mọi
vấn đề và ngƣời phụ nữ có nghĩa vụ phải tuân theo mà không cóquyền góp ý.
Bên cạnh đó, ngƣời chồng cũng nắm kinh tế gia đình. Khi thực hiện bất kỳ một
giao dịch nào, ngƣời chồng không cần hỏi ý kiến ngƣời vợ nhƣng vẫn có quyền
dùng tài sản chung để thanh toán cho giao dịch đó. Thực tế không xuất hiện quan
hệ đại diện nhƣng lại xuất hiện trách nhiệm liên đới dù đôi khi giao dịch mà
ngƣời chồng xác lập ngƣời vợ không đƣợc biết. Nhƣ vậy, có thể thấy sự bất bình
đẳng trong quan hệ vợ chồng bởi giao dịch đƣợc thực hiện từ một phía.
Trong khi đó, theo quy định của pháp luật hiện hành về đại diện giữa vợ chồng
trong quan hệ kinh doanh cho thấy sự bình đẳng của vợ chồng trong quan hệ gia
đình cũng nhƣ trong quan hệ đối với tài sản chung và tài sản riêng. Vợ chồng có

20


quyền đại diện cho nhau trong quan hệ kinh doanh từ tài sản chung hoặc tài sản
riêng của mỗi bên.
Khi xác lập quan hệ hôn nhân, tài sản của vợ chồng sử dụng để kinh doanh

chung sẽ đƣợc coi là trách nhiệm của cả hai vợ chồng. Trong nền kinh tế thị
trƣờng, quyền tự do, bình đẳng luôn đƣợc đề cao. Vợ chồng có nghĩa vụ duy trì
và bảo đảm tài sản mình sử dụng để kinh doanh đạt hiệu quả, mang lại nguồn lợi
kinh tế cho gia đình.
1.1.3. Đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh


Khái niệm đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh
Quyền đại diện giữa vợ chồng đƣợc quy định trong phần nghĩa vụ của vợ

và chồng về việc quản lý tài sản chung và riêng trong BLDS. Ngoài ra Luật HN
& GĐ cũng quy định về việc vợ chồng đƣợc đại diện cho nhau trong các giao
dịch dân sự thông qua đại diện.
Cơ sở của hôn nhân là tình yêu giữa nam và nữ. Mục đích của hôn nhân là
xây dựng gia đình no ấm bình đẳng tiến bộ hạnh phúc bền vững. Để hôn nhân
đạt đƣợc mục đích đó thì điều cơ bản là hai ngƣời trong quan hệ hôn nhân phải
yêu thƣơng, chung thủy, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Sự quý trọng chăm sóc giúp
đỡ nhau giữa vợ và chồng thể hiện ở hành vi cách xử sự và thái độ của họ với
nhau. Cơ sở lâu dài của hôn nhân là sự bình đẳng của vợ chồng. Quyền bình
đẳng đó đƣợc thể hiện ở việc vợ chồng cùng bàn bạc và quyết định các vấn đề
liên quan đến nhân thân và tài sản của bản thân vợ chồng và của mỗi thành viên
trong gia đình, liên quan đến đời sống chung của gia đình. Vợ chồng cùng nhau
thực hiện các chứng năng của gia đình để đảm bảo cho việc thỏa mãn đầy đủ các
nhu cầu về vật chất và tinh thần. Vợ chồng ràng buộc lẫn nhau bởi nhiều bổn
phận, trong đó có những bổn phẩn ảnh hƣởng đến quyền hạn của vợ, chồng trong
việc xác lập các giao dịch liên quan đến tài sản. Suy cho cùng, tất cả tài sản của

21



vợ, chồng, dù là tài sản riêng của mỗi ngƣời hay tài sản chung thì đều đƣợc khai
thác, sử dụng trƣớc hết nhằm bảo đảm sự phát triển chung của gia đình, sau đó
mới phục vụ mục đích cá nhân của chủ sở hữu.
Mỗi cá nhân đều có những mối quan hệ riêng, mang tính chất cá nhân tồn
tại bên cạnh những mối quan hệ chung của vợ chồng với nhiều mục đích khác
nhau. Tuy nhiên vợ chồng vẫn luôn có mối quan tâm hàng đầu liên quan đó là
phát triển kinh tế gia đình. Nó là thƣớc đo cho sự ổn định và giữ gìn gia đình của
vợ chồng. Theo truyền thống của ngƣời phƣơng Đông thì ngƣời đàn ông sẽ gánh
vác việc lo kinh tế của gia đình, còn ngƣời vợ thì chăm sóc, quản lý chi tiêu
trong gia đình. Hai công việc đƣợc đánh giá là ngang bằng nhau. Đối với các
giao dịch liên quan đến việc duy trì sinh hoạt hàng ngày trong gia đình thì
thƣờng là một ngƣời sẽ đại diện cho ngƣời còn lại để thực hiện.
Tuy nhiên đối với những giao dịch liên quan đến những tài sản lớn hoặc
những giao dịch trong quan hệ kinh doanh thì phải đƣợc xác lập dựa trên sự
đồng ý của cả vợ và chồng, khi ấy thì vợ hoặc chồng sẽ đại diện cho ngƣời còn
lại tham gia vào giao dịch với bên thứ ba đó. Việc đại diện đƣợc thực hiện thông
dựa theo quy định của pháp luật hoặc theo ủy quyền.
Đối với quan hệ kinh doanh là những giao dịch quan trọng, nó không chỉ
ảnh hƣởng đến tài sản của vợ chồng mà còn ảnh hƣởng đến quyền lợi của bên
thứ ba. Nó còn là uy tín, danh dự của các bên khi thực hiện việc kinh doanh. Đại
diện nhƣng phù hợp với quy định của pháp luật cũng nhƣ cân bằng đƣợc lợi ích
giữa kinh tế và gia đình mới là mục tiêu cao nhất của vợ chồng kinh doanh
chung dù bằng tài sản riêng hay tài sản chung.
Lần đầu tiên Luật HN & GĐ 2014 đã quy định về đại diện giữa vợ và
chồng trong quan hệ kinh doanh. Xuất phát từ nhu cầu thực tế của xã hội cũng
nhƣ hội nhập nền kinh tế thị trƣờng, một số quy định trong Luật HN & GĐ 2000

22



đã không còn phù hợp với tình hình phát triển chung, cần đƣợc sửa đổi cho phù
hợp.
Từ những quy định của pháp luật về đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ
kinh doanh và những phân tích ở trên, ta có thể định nghĩa đại diện giữa vợ
chồng trong quan hệ kinh doanh nhƣ sau:
Đại diện giữa vợ chồng trong quan hệ kinh doanh là việc một bên vợ hoặc
chồng nhân danh người còn lại thực hiện các giao dịch liên quan đến quan hệ
kinh doanh bằng tài sản chung hoặc tài sản riêng dựa theo quy định của pháp
luật hoặc sự thỏa thuận của vợ chồng vì lợi ích chung.


Đặc điểm của đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh

-

Chủ thể trong quan hệ đại diện:
So với quan hệ đại diện chung, chủ thể của đại diện giữa vợ chồng không

có nhiều điểm khác biệt. Vợ chồng đại diện cho nhau trong các giao dịch liên
quan đến tài sản chung thì tƣ cách chủ thể đôi khi lại dễ dàng đƣợc xác định. Vì
ngoài mối quan hệ liên quan đến tài sản, vợ chồng có mối quan hệ đặc biệt là
quan hệ nhân thân đã đƣợc xác lập nhờ sự kiện kết hôn. Xác định chủ thể đại
diện quan trọng khi xác lập giao dịch với bên thứ ba vì nó sẽ phát sinh quyền và
nghĩa vụ của các bên. Vợ hoặc chồng đại diện cho ngƣời còn lại thực hiện các
giao dịch liên quan đến kinh doanh sẽ định đoạt toàn bộ những nội dung có liên
quan và ngƣời còn lại sẽ phải có trách nhiệm liên đới đối với quyết định của
ngƣời đại diện giao kết.
-

Ý chí của chủ thể trong quan hệ đại diện:

Nếu nhƣ quan hệ đại diện chung thì ngƣời đƣợc đại diện đƣợc thực hiện

theo quy định của pháp luật thì việc lựa chọn ngƣời đại diện theo ủy quyền phụ
thuộc vào nhiều yếu tố.

23


Trong quan hệ kinh doanh, vợ chồng thƣờng thể hiện ý chí chung trong
việc giải quyết các vấn đề có liên quan. Vợ hoặc chồng đại diện thực hiện giao
dịch liên quan đến quan hệ kinh doanh sẽ phải có trách nhiệm hết mình thực hiện
giao dịch nhằm mang lại lợi ích cao nhất. Vì trong khối tài sản sử dụng để kinh
doanh thì có một phần tài sản của họ. Không ai muốn quyền lợi của mình bị ảnh
hƣởng. Do vậy mà ý chí trong quan hệ đại diện của vợ chồng vừaquyền lợi , vừa
là trách nhiệm của ngƣời đại diện.
-

Phạm vi đại diện:
Theo quy định của pháp luật thì ngƣời đại diện đƣợc thực hiện các giao

dịch trong phạm vi đại diện, nhân danh ngƣời đƣợc đại diện thực hiện trách
nhiệm của mình. Đại diện đƣợc thông qua sự xác lập của cơ quan có thẩm quyền
hoặc hợp đồng ủy quyền mà hai bên ký kết. Nó đảm bảo phạm vi đai diện không
bị vƣợt quá nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của ngƣời đƣợc đại diện. Tuy
nhiên đại diện giữa vợ và chồng trong quan hệ kinh doanh chỉ có giá trị trong
những quan hệ kinh doanh đòi hỏi phải phù hợp quy định của pháp luật về hình
thức. Đại diện của vợ hoặc chồng là đại diện cho trách nhiệm của ngƣời còn lại
cũng nhƣ thực hiện tốt nghĩa vụ của mình có trong quan hệ kinh doanh đó.
Khi vợ hoặc chồng đại diện cho ngƣời còn lại thông qua văn bản thỏa
thuận theo yêu cầu của bên thứ ba hoặc quy định của luật chuyên ngành thì tính

pháp lý sẽ cao hơn, bảo đảm sự tin tƣởng với bên thứ ba.
1.2.

Sơ lƣợc lịch sử pháp luật Việt Nam về quan hệ đại diện giữa vợ chồng

trong quan hệ kinh doanh
1.2.1. Giai đoạn trước cách mạng tháng Tám năm 1945
Trong xã hội phong kiến Việt Nam, các quy định về hôn nhân và gia đình
chiếm một vị trí quan trọng. Tuy nhiên trong cổ luật Việt Nam những quy định
liên quan đến tài sản của vợ chồng cũng nhƣ việc sử dụng tài sản đó nhƣ thế nào

24


trong quan hệ hàng ngày lại hầu nhƣ không đƣợc quy định. Ví dụ nhƣ Quốc triều
hình luật ban hành dƣới triều Lê trong khoảng niên hiệu Hồng Đức (1470 1497) và Hoàng Việt luật lệ ban hành dƣới triều Nguyễn (1892) [8, tr.50].
Vấn đề đƣợc đặt lên hàng đầu trong quan hệ hôn nhân đó là vấn đề tình
cảm, tình nghĩa vợ chồng, cha mẹ và các con theo thuyết Khổng giáo, đề cao
truyền thống gia đình, lợi ích chung lên trên hết. Do đó tài sản vợ chồng có đƣợc
tạo thành một khối thống nhất, ngƣời chồng có quyền ký kết bất kỳ hợp đồng
nào liên quan đến tài sản của gia đình và đều đƣơng nhiên đƣợc coi là có hiệu
lực. Quan hệ đại diện hầu nhƣ không đƣợc đặt ra trong thời kỳ này. Quyền sở
hữu tập trung vào tay ngƣời chồng và không có sự bình đẳng giữa vợ và chồng
đối với tài sản.
Trƣớc năm 1945, Việt Nam là nƣớc thuộc địa nửa phong kiến, quan hệ
hôn nhân thời kỳ này đƣợc điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật trong một số bộ
luật dân sự đƣợc áp dụng cho từng khu vực của Việt Nam đó là Bộ dân luật Bắc
Kỳ năm 1931, Bộ dân luật Trung Kỳ 1936 và Bộ dân luật giản yếu năm 1883.
Pháp luật thời kỳ này chịu ảnh hƣởng của Bộ luật Dân sự Pháp. Nhào nặn
tƣ duy pháp lý cổ xƣa với các tƣ tƣởng của luật học phƣơng Tây, xây dựng

những quan niệm về tài sản trong các quy tắc đƣợc diễn đạt bằng các thuật ngữ
vay mƣợn từ luật của Pháp nhƣ tài sản chung, tài sản riêng, quản lý tài
sản….Quan niệm về làm luật thời kỳ đó cũng thừa nhận cho vợ chồng có quyền
xây dựng các quan hệ tài sản theo thỏa thuận, miễn là các thỏa thuận của vợ
chồng liên quan đến tài sản không có tác dụng tƣớc đi quyền đứng đầu gia đình
của ngƣời chồng và không trái với thuần phong mỹ tục. Tuy nhiên việc thỏa
thuận hầu nhƣ không đƣợc các cặp vợ chồng ở nƣớc ta thời kỳ đó quan tâm, mọi
quyền quyết định liên quan đến tài sản vẫn thuộc về ngƣời chồng.

25


×