Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Những vấn đề lý luận về hợp đồng hôn nhân và hướng hoàn thiện luật hôn nhân gia đình năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (638.21 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN QUỐC VIỆT

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG HÔN NHÂN
VÀ HƯỚNG HOÀN THIỆN LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN QUỐC VIỆT

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG HÔN NHÂN VÀ
HƯỚNG HOÀN THIỆN LUẬT HÔN NHÂN GIA ĐÌNH NĂM 2014

Chuyên ngành : Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số

: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN TRỌNG ĐIỆP

Hà Nội - 2017



2


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Quốc Việt

3


MỤC LỤC
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU
Chương 1. Những vấn đề lý luận về hợp đồng hôn nhân
1.1. Bản chất pháp lý của hôn nhân ........................................................ 11
1.1.1. Một số quan niệm về hôn nhân ................................................................. 11
1.1.2. Bản chất của hôn nhân .............................................................................. 18
1.1.3. Hệ quả của việc xác định bản chất pháp lý của hôn nhân ........................ 31

1.2. Một số vấn đề lý luận về Hợp đồng hôn nhân ................................. 32
1.2.1. Khái niệm .................................................................................................. 32
1.2.2. Đặc điểm ................................................................................................... 33
1.2.3. Chủ thể ...................................................................................................... 39
1.2.4. Đối tượng .................................................................................................. 40
1.2.5. Hiệu lực ..................................................................................................... 41
1.2.6. Nội dung .................................................................................................... 48
1.2.7. Phân loại .................................................................................................... 51
Chương 2. Hướng hoàn thiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014
2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng hợp đồng hôn nhân
tại Việt Nam ....................................................................................................... 56
2.1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................. 56
2.1.2. Cơ sở thực tiễn .......................................................................................... 61
2.2. Hướng hoàn thiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 ............. 80
2.2.1. Thừa nhận Hôn nhân là một hợp đồng...................................................... 81
2.2.2. Định nghĩa về hợp đồng hôn nhân ............................................................ 81

4


2.2.3. Cho phép xác lập tư cách vợ chồng bằng hợp đồng hôn nhân ................. 82
2.2.4. Quy định hợp đồng hôn nhân là một lựa chọn không bắt buộc ................ 82
2.2.5. Bổ sung các quy định về nội dung của hợp đồng hôn nhân ..................... 82
2.2.6. Bổ sung các quy định về đăng ký hợp đồng hôn nhân ............................. 83
2.2.7. Quy định các chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận ...................... 84
2.2.8. Cho phép vợ chồng chọn luật áp dụng ...................................................... 87
2.2.9. Thừa nhận ly thân...................................................................................... 87
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hôn nhân là một hiện tượng xã hội xuất hiện cùng với sự xuất hiện của
xã hội loài người. Cũng giống như các hiện tượng xã hội khác, hôn nhân cũng
có quá trình hình thành và phát triển từ thấp đến cao. Sự vận động và phát
triển của hôn nhân gắn liền với sự vận động và phát triển của xã hội. Trong xã
hội Việt Nam hiện đại, sự phát triển của kinh tế kéo theo sự thay đổi và phát
triển mạnh mẽ của các quan hệ xã hội, trong đó có quan hệ hôn nhân. Do đó,
nhận thức về hôn nhân cũng cần phải thay đổi. Nhiệm vụ của khoa học pháp
lý là phải tìm ra cơ sở lý luận cho sự thay đổi đó. Hơn nữa, khoa học pháp lý
phải đi trước thực tiễn của xã hội một bước để dự báo xu hướng vận động và
phát triển của các quan hệ xã hội.
Mục tiêu của tác giả khi tham gia khóa học này là bổ sung cho mình tư
duy, kỹ năng nghiên cứu khoa học pháp lý và kiến thức khoa học pháp lý.
Theo tác giả, con đường chân chính để đạt được mục tiêu này là nghiên cứu
một vấn đề mới, một vấn đề chưa được nghiên cứu tại Việt Nam. Cách đặt
vấn đề nghiên cứu như vậy giúp tác giả định hình cho mình một phong cách
nghiên cứu khoa học pháp lý riêng, tạo nên những quan điểm riêng về vấn đề
được nghiên cứu, tránh đi vào lối mòn trong nghiên cứu khoa học đồng thời
chủ động phát hiện ra những hướng nghiên cứu mới, những cách tiếp cận mới
về một vấn đề pháp lý. Chính vì lẽ đó, tác giả lựa chọn đề tài “Những vấn đề
lý luận về hợp đồng hôn nhân và hướng hoàn thiện Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014” để tiến hành nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý tồn tại nhiều quan niệm khác nhau về hôn nhân.
Tuy nhiên, tựu chung lại, tồn tại luồng quan điểm chính đó là: (1) Quan niệm


6


cho rằng hôn nhân là một thiết chế pháp luật; (2) Quan niệm cho rằng hôn
nhân là một hợp đồng. Quan niệm hôn nhân là một hợp đồng được thừa nhận
rộng rãi và phổ biến tại nhiều nước tiên tiến trên thế giới như Mỹ, Đức, Pháp,
Bỉ, tỉnh bang Québec (Canada). Về mặt học liệu, đã có nhiều cuốn sách, bài
viết của các nhà lập pháp, luật gia, luật sư và các nhà nghiên cứu về hợp đồng
hôn nhân như: Contrats de mariage et régimes matrimoniaux của tác giả
Lucie Guchet do nhà xuất bản Puits Fleuri phát hành năm 2000, Régimes
matrimoniaux et contrats de mariage của tác giả Jean Champion (tái bản lần
thứ 10 do nhà xuất bản Delmas phát hành), Le contrat de mariage réinventé
perspectives socio-juridiques pour une réforme xuất bản năm 2002 của tác giả
Alain Roy (khoa Luật, Đại học Montréal, Québec), Trait Du Contrat de
Mariage: Livre III, Titre V, Du Code Civil, Volume 3 của Louis Guillouard do
Nabu Press phát hành năm 2010, The Islamic Marriage Contract: Case
Studies in Islamic Family Law (Harvard Series in Islamic Law) do chương
trình nghiên cứu pháp lý hồi giáo của Đại học luật Havard phát hành năm
2009, The Marriage Contract: Spouses, Lovers, and the Law ( 1982) của
Linda S. Mullenix (Trường Luật - Đại học Texas). Tuy nhiên, đa số các cuốn
sách, bài viết trên chỉ tập trung phân tích các quy định của pháp luật một số
nước về hợp đồng hôn nhân mà chưa đưa ra một hệ thống lý luận chung về
hợp đồng hôn nhân.
Tại Việt Nam, quan niệm hôn nhân là một thiết chế pháp luật được thừa
nhận bởi đa số. Quan niệm hôn nhân là một hợp đồng được thừa nhận bởi một
số ít các nhà nghiên cứu, luật gia. Bên cạnh đó, pháp luật Việt Nam không
công nhận hôn nhân là một hợp đồng. Thay vào đó, pháp luật Việt Nam cho
rằng hôn nhân là một thiết chế xã hội, là một liên kết đặc biệt. Tuy nhiên, vào
năm 2014, trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu kinh nghiệm của các nước trên thế
giới, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã bổ sung quy


7


định chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận trong Luật Hôn nhân và gia
đình năm 2014. Điều đó cho thấy, các nhà nghiên cứu, nhà lập pháp cũng
đang từng bước tiếp cận hôn nhân dưới góc độ hợp đồng. Về mặt học liệu, rất
tiếc, hiện tại ở Việt Nam, số lượng các tác phẩm, các công trình nghiên cứu về
hợp đồng hôn nhân còn khá hạn chế. Trong những năm gần đây, sau một số
vụ việc kiện tụng, tranh chấp liên quan đến “hợp đồng tình cảm” được đăng
tải trên báo chí thì vấn đề hôn ước (hợp đồng tiền hôn nhân) được đặt ra và
bàn luận. Lúc này, các nhà lập pháp, nhà nghiên cứu, luật gia, luật sư mới đề
cập nhiều hơn về hợp đồng hôn nhân và cho rằng đã đến lúc pháp luật Việt
Nam cần thừa nhận hợp đồng hôn nhân. Trong giới khoa học pháp lý Việt
Nam, có một số bài viết đề cập đến những vấn đề liên quan đến hợp đồng hôn
nhân như: Một số vấn đề về hôn ước và quan điểm áp dụng ở Việt Nam hiện
nay của TS. Nguyễn Văn Cừ đăng trên Tạp chí Luật học (Trường Đại học
Luật Hà Nội) số 10/2012; Chế định hôn ước trong pháp luật của một số nước
trên thế giới của tác giả Trương Hồng Quang đăng trên Tạp chí Kiểm sát
(Viện Kiểm sát nhân dân tối cao) số 21 năm 2013. Tuy nhiên, các bài viết trên
vẫn né tránh chất hợp đồng của quan hệ hôn nhân. Mặt khác, do ảnh hưởng
của truyền thống văn hóa Việt Nam nên hợp đồng hôn nhân chưa được nghiên
cứu sâu và là một khái niệm còn xa lạ với đại bộ phận người dân.
3. Mục tiêu nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
Mục tiêu tác giả đặt ra cho luận văn này là làm sáng tỏ bản chất pháp lý
của hôn nhân là một hợp đồng, xây dựng khái niệm và chỉ ra các đặc trưng
của hợp đồng hôn nhân. Nhiệm vụ của đề tài là xây dựng được một khái niệm
cơ bản về hợp đồng hôn nhân và phân tích những lý luận chung nhất về hợp
đồng hôn nhân đồng thời đưa ra một số kiến nghị, đề xuất để hoàn thiện Luật
Hôn nhân và gia đình năm 2014.


8


4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu bản chất pháp lý của hôn nhân, khái
niệm, đặc trưng, nội dung và phân loại hợp đồng hôn nhân. Do đây là một vấn
đề pháp lý mới ở Việt Nam nên tác giả nghiên cứu các quy định về hợp đồng
hôn nhân của một số nước trên thế giới để khái quát hóa, trừu tượng hóa
thành hệ thống lý luận về hợp đồng hôn nhân.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã vận dụng các phương pháp của chủ nghĩa duy vật biện chứng
Mác - Lênin và các phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý chuyên ngành
khác để giải quyết những vấn đề lý luận liên quan đến hợp đồng hôn nhân.
Trong đó chú trọng sử dụng phương pháp logic pháp lý, phương pháp lịch sử,
phương pháp phân loại pháp lý và phương pháp tự biện pháp lý.
Tác giả tiếp cận vấn đề nghiên cứu từ góc độ hợp đồng và góc độ hôn
nhân. Bên cạnh việc phân tích làm rõ hôn nhân mang các yếu tố đặc trưng của
một hợp đồng, tác giả cũng phân tích hôn nhân theo các tiêu chí như cách
thức hình thành, các yếu tố tác động, xác lập, duy trì, chấm dứt, các hệ quả...
6. Ý nghĩa khoa học
Luận văn đã xây dựng hệ thống lý luận cơ bản về hợp đồng hôn nhân,
làm sáng tỏ bản chất pháp lý của hôn nhân, đưa ra cơ sở lý luận và thực tiễn
cho việc xây dựng chế định hợp đồng hôn nhân trong pháp luật Việt Nam.
Với ý nghĩa khoa học như vậy, luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo hữu ích cho việc nghiên cứu và giảng dạy chuyên ngành luật hôn
nhân và gia đình trong các cơ sở đào tạo ngành luật.
7. Những điểm mới của luận văn

9



- Một là, làm sáng tỏ bản chất pháp lý của hôn nhân là một hợp đồng;
phân tích làm rõ nội hàm và xây dựng khái niệm “hợp đồng hôn nhân”. Xây
dựng được hệ thống lý luận cơ bản về hợp đồng hôn nhân.
- Hai là, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định hợp đồng
hôn nhân trong pháp luật Việt Nam.
- Ba là, đưa ra được các giải pháp cụ thể để áp dụng hợp đồng hôn nhân
tại Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn gồm 2 chương, cụ thể như sau:
- Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đồng hôn nhân.
- Chương 2: Hướng hoàn thiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Mọi ý kiến góp ý, phản biện và trao đổi về các nội dung có liên quan
đến luận văn xin liên hệ tác giả theo Số điện thoại 0888.11.22.15 hoặc
Email:

10


Chương 1
Những vấn đề lý luận về Hợp đồng hôn nhân

Hôn nhân, thành tố cơ bản tạo thành nền văn minh của một xã hội, là
một cơ chế tự nhiên có trước khi nhà nước ra đời. Các nhà nước công nhận
hôn nhân chứ không tạo ra hôn nhân. Hôn nhân là đối tượng nghiên cứu của
nhiều ngành khoa học xã hội như luật học, nhân chủng học, xã hội học, văn
hóa học, thần học...Do đó, trong Chương này, tác giả sẽ nghiên cứu một cách
khái quát nhất về bản chất của hôn nhân nói chung và bản chất pháp lý của

hôn nhân nói riêng. Từ đó, tác giải tiếp cận và giải quyết các vấn đề lý luận
chung nhất về hợp đồng hôn nhân.
1.1. Bản chất pháp lý của hôn nhân
1.1.1. Một số quan niệm về hôn nhân
1.1.1.1. Một số quan niệm pháp lý về hôn nhân
- Hệ thống Common Law
Ở các nước theo hệ thống Common law, định nghĩa về hôn nhân được
đưa ra trong phán quyết về vụ án Hyde & Hyde. Đây là một trường hợp mang
tính bước ngoặt của Tòa di chúc và ly hôn Anh. Trường hợp này được chấp
nhận vào 20/3/1866 bởi thẩm phán Lord Penzance và thiết lập nên định nghĩa
của Common law về hôn nhân.
John Hyde (một Mormon người Anh) đã yêu cầu ly hôn với vợ của ông
ấy là Lavinia vì tội ngoại tình. Sau đó, ông ấy đã rời khỏi Giáo hội và bắt đầu
viết và xuất bản Anti-Mormon material (một tài liệu chống lại Mormon). Đó
là một động thái khiến ông bị Giáo hội trừng phạt. Vợ ông ấy đã rời bỏ ông ấy
và sau đó tái hôn ở Utah Territory. Đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự
kiện tụng của John Hyde [16].

11


Trích dẫn Warrender v. Warrender, Lord Penzance đã thấy rằng: các
thiết chế ở nước ngoài (bao gồm hôn nhân) không được xem là có hiệu lực
theo English Law trừ phi chúng giống với các thiết chế của Anh. Về hôn
nhân, English Law có thể không thừa nhận chế độ nhiều vợ nhiều chồng hoặc
việc lấy vợ lẽ như là hôn nhân. Bởi vậy, ông ấy thấy rằng: theo truyền thống
văn hóa, Tòa án không có đủ kiến thức để hình thành cơ sở cho các quyết
định của Tòa án. Tòa án đã bác bỏ yêu cầu của Hyde [16].
Thẩm phán Lord Penzance đã tuyên bố: Tôi quan niệm rằng, hôn nhân,
được hiểu theo đạo Cơ đốc, với mục đích này, có thể được định nghĩa như là

sự liên kết tự nguyện suốt đời giữa một người đàn ông và một người đàn bà
[16]. Sau này, định nghĩa trên đã được thừa nhận rộng rãi trong hệ thống
Common Law. Tuy nhiên, theo thời gian, nhận thức về “tính suốt đời” của
hôn nhân có nhiều thay đổi. Ngày nay, vợ chồng có thể ly hôn nếu không
muốn tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân.
Dưới góc độ của người vợ, người chồng, hôn nhân được hiểu là sự liên
kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà để thiết lập một cam kết lâu
dài và riêng biệt cùng nhau được hoàn thành một cách tự nhiên bằng việc sinh
đẻ và nuôi nấng con cái. Nhiều người cho rằng, hôn nhân gồm sự liên kết toàn
diện giữa vợ chồng, mối liên kết đặc biệt với con cái, tiêu chuẩn về tính bền
vững lâu dài, chế độ một vợ một chồng và riêng biệt [15, tr246].
Đối với một số người theo quan điểm xét lại, hôn nhân là sự liên kết giữa
hai người (không phân biệt giới tính) cùng cam kết một tình yêu lãng mạn,
chăm sóc lẫn nhau và chia sẻ gánh nặng cũng như lợi ích trong cuộc sống gia
đình. Bản chất hôn nhân là sự liên kết giữa trái tim và lý chí [15, tr246].
Luật Hôn nhân của New Zealand định nghĩa hôn nhân là sự liên kết giữa
hai người không phân biệt giới tính, thiên hướng tình dục và đặc điểm giới

12


tính của họ [17]. Luật Hôn nhân của Australia quy định: Hôn nhân là sự liên
kết giữa người đàn ông và người đàn bà, tự nguyện ràng buộc suốt đời [25].
Hôn nhân tại Fiji là sự liên kết tự nguyện giữa một người đàn ông và một
người đàn bà [18].
“Notes and Queries on Anthropology” định nghĩa: Hôn nhân là sự liên
kết giữa một người đàn ông và một người đàn bà, khi đó đứa trẻ sinh ra từ
người đàn bà được thừa nhận là con hợp pháp của hai vợ chồng [23].
Tại Mỹ, quan niệm phổ biến cho rằng: Hôn nhân là một hợp đồng dân sự
giữa hai người [22, RCW 26.04.010] [28]. U. S Code định nghĩa về hôn nhân

như sau: Hôn nhân là sự liên kết pháp lý giữa người đàn ông và người đàn bà
(hiện nay Mỹ đã công nhân hôn nhân đồng tính) với tư cách là vợ, chồng
(Sec. 7, Chapter 1, Title 1). California Family Code (Art 300a) định nghĩa:
Hôn nhân là mối quan hệ cá nhân nảy sinh bằng một hợp đồng dân sự giữa
hai người.
- Hệ thống Civil law
Hệ thống Civil law tồn tại quan niệm phổ biến cho rằng hôn nhân là một
hợp đồng. Louisiana Civil Code định nghĩa: Hôn nhân là một mối quan hệ
pháp lý giữa một người đàn ông và một người đàn bà được tạo bởi một hợp
đồng dân sự [34, Art 86]. Các nước như Pháp, Đức, Bỉ và tỉnh bang Québec,
không đưa ra một định nghĩa về hôn nhân trong Bộ luật Dân sự nhưng dành
hẳn một chương quy định về hợp đồng hôn nhân và hợp đồng hôn nhân phải
tuân theo các quy định như đối với hợp đồng.
Bộ luật Dân sự của Cộng hòa Pháp quy định: Hợp đồng hôn nhân chứa
đựng các thỏa thuận về hôn nhân, điều chỉnh các mối quan hệ vợ chồng, các
thỏa thuận về tài sản mà vợ chồng xác lập khi họ thấy cần thiết (ngoại trừ
những quy định trái với phong tục tốt đẹp và trật tự công). Vợ chồng không

13


thể có bất kỳ thỏa thuận hay từ chối nào làm thay đổi trật tự luật định về thừa
kế. Vợ chồng có thể chỉ rõ luật áp dụng đối với chế độ hôn nhân của họ [32].
Tại Bỉ, hợp đồng hôn nhân được hiểu là một giấy tờ cho phép các cặp vợ
chồng tương lai lựa chọn chế độ hôn nhân đặc biệt. Văn bản này phải được
soạn thảo bởi một công chứng viên. Hợp đồng này cho phép các bên quy định
các mối quan hệ về kinh tế và tài chính giữa vợ chồng, chứng minh sở hữu về
tài sản, xác định cách thức quản lý tài sản của vợ chồng, nghĩa vụ tài chính
của người này với người khác, thiết lập các quy tắc về chia sẻ kinh tế, sự tham
gia của mỗi vợ chồng đối với các khoản nợ do một trong hai bên vợ chồng ký

hợp đồng, thiết lập các quy tắc về số phận tài sản khi chấm dứt hôn nhân hoặc
tặng cho giữa vợ chồng. Vợ chồng không bắt buộc phải ký kết một hợp đồng
hôn nhân [31].
Bộ luật Dân sự tỉnh bang Québec (Canada) quy định: Hợp đồng hôn
nhân cho phép thiết lập tất cả các quy định, ngoại trừ các quy định trái với các
quy định bắt buộc của pháp luật và trật tự công [33].
Bộ luật Dân sự Cộng hòa liên bang Đức quy định: Với việc ký một hợp
đồng hôn nhân, vợ chồng không những có thể quyết định về một chế độ hôn
nhân thỏa thuận mà còn thay đổi những quy định cá nhân về chế độ hôn nhân
riêng biệt [30].
- Hệ thống pháp luật xã hội chủ nghĩa
Luật Hôn nhân Trung Quốc không đưa ra một định nghĩa về hôn nhân
nhưng quy định hôn nhân được hình thành trên cơ sở sự tự do lựa chọn, bình
đẳng, không bị ép buộc giữa một người đàn ông và một người đàn bà [19].
Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng đã có các quy định về thỏa thuận tài sản của
vợ chồng (Điều 19 Luật Hôn nhân năm 1980 sửa đổi bổ sung năm 2001).

14


Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2014 quy định: “Hôn nhân là
quan hệ giữa vợ và chồng sau khi kết hôn. Kết hôn là việc nam và nữ xác lập
quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn
và đăng ký kết hôn”. Pháp luật Việt Nam không thừa nhận hôn nhân là một
hợp đồng dân sự.
Qua việc tìm hiểu một số quan niệm pháp lý về hôn nhân, có thể thấy
rằng, quan niệm pháp lý về hôn nhân rất đa dạng và phong phú. Mỗi hệ thống
pháp luật, trường phái pháp luật có quan niệm khác nhau về hôn nhân. Nhưng
tựu chung lại, các quan niệm về hôn nhân đều thừa nhận hôn nhân có các đặc
trưng sau: (1) Sự liên kết đặc biệt giữa hai người; (2) Sự đồng thuận, thỏa

thuận, ý chí chung của hai bên; (3) Sự tự nguyện, tự do, bình đẳng bày tỏ ý
chí, nguyện vọng; (4) Làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự. Về cơ
bản, các quan niệm đều đề cao sự thiêng liêng, ý nghĩa đặc biệt và vai trò
quan trọng của hôn nhân trong xã hội. Sự khác biệt trong các quan niệm về
hôn nhân nằm ở việc xác định hôn nhân là một hợp đồng hay không phải là
một hợp đồng.
1.1.1.2. Hôn nhân trong Kitô giáo
Trong đời sống hôn nhân, hai người nam và nữ hợp nhất với nhau kiến
tạo mái ấm vững bền, đáp ứng cho nhau nhu cầu sinh lý trong yêu thương, từ
đó sinh ra con cái. Sự liên kết mật thiết vẫn là sự tự hiến của hai người cho
nhau, cũng như lợi ích của con cái buộc vợ chồng phải trung tín và đòi hỏi kết
hợp với nhau bất khả phân ly. Chính mục đích này mà trong đời sống hôn
nhân đã được Thánh Kinh trong Sáng Thế Ký xác định và thuật lại, nó xảy ra
trong vườn địa đàng. Lý do tại sao Thiên Chúa phú ban một người nội trợ và
cũng là bạn đường cho người đàn ông, là để nâng đỡ lẫn nhau và để trở nên
bạn đồng hành. "Người nam ở một mình không tốt. Ta sẽ làm cho nó một

15


người trợ tá tương xứng với nó". Vì vậy, Thiên Chúa đã dựng nên một người
nữ. Nhìn thấy người phụ nữ, Adam đã nói: "Phen này, đây là xương bởi
xương tôi, thịt bởi thịt tôi!" Và Thánh Kinh đã kết luận: "Bởi thế, người đàn
ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt".
Điều đó ngụ ý rằng hôn nhân không chỉ là một sự ràng buộc, nhưng nó là một
thực thể mới, hay là một đời sống mới, một cuộc sống chung với nhau, đã
được cấu tạo và trong thực tế chúng ta không bao giờ có thể tháo gỡ. Sự giúp
đỡ lẫn nhau giữa vợ chồng trong đời sống hôn nhân, không chỉ trong những
khi vui tươi phấn khởi hay là hạnh phúc ngập tràn, mà ngay cả những khi gặp
khốn khó, hoạn nạn hay ưu sầu [12]. Nhìn chung, trong Kitô giáo, hôn nhân

do Chúa sắp đặt, là sự cam kết giữa hai người trước Chúa.
1.1.1.3. Hôn nhân trong Phật giáo
Hôn nhân và gia đình cũng là một vấn đề lớn được Phật Thích Ca giảng
dạy trong kinh điển. Phật giáo không xem hôn nhân như là một bổn phận tôn
giáo mà cũng không phải một lễ ban phước được an bài nơi cõi Trời. Hôn
nhân là một bổn phận cá nhân và xã hội, nó không phải là bắt buộc. Người
đàn ông hoặc người phụ nữ có quyền tự do kết hôn hoặc ở độc thân. Ðiều này
không có nghĩa là Phật giáo chống lại hôn nhân.
Một xã hội phát triển qua một mạng lưới của những mối quan hệ có mối
liên kết và hỗ tương lẫn nhau. Mỗi mối quan hệ là một sự cam kết chân thành
để hỗ trợ và bảo vệ những người khác trong một nhóm hoặc một cộng đồng.
Hôn nhân đóng một vai trò quan trọng trong mạng lưới của những mối quan
hệ đem lại sự hỗ trợ và bảo vệ. Một cuộc hôn nhân tốt đẹp cần phải nuôi
dưỡng và phát huy dần dần từ sự hiểu biết chứ không phải bốc đồng, từ lòng
chân thành thật sự chứ không phải là sự thỏa mãn nhất thời. Tập quán hôn
nhân mang lại một nền tảng tốt đẹp cho sự phát triển văn hóa, một sự kết hợp

16


đầy thú vị giữa hai cá nhân được chăm sóc và thoát khỏi cô đơn, mất mát và
sợ hãi. Trong hôn nhân, người này phát huy một vai trò kết hợp hài hòa, đem
lại sức mạnh và dũng khí cho người kia, mỗi người thể hiện sự nhận thức đầy
thông cảm và giúp đỡ người khác trong việc chăm sóc và cung cấp cho gia
đình. Ðừng có ý tưởng cho là đàn ông hoặc đàn bà là kẻ cả - người này kết
hợp hài hòa với người kia, hôn nhân là một sự kết hợp bình đẳng, dịu dàng,
bao dung, và an vui [24].
1.1.1.4. Hôn nhân trong Hồi giáo
Hôn nhân trong Hồi giáo được gọi là Fâtiha hay Nikâh tùy thuộc vào
mỗi cộng đồng Hồi giáo trên thế giới. Hôn nhân, theo pháp luật Hồi giáo, là

một hợp đồng song phương, theo đó, hai người thỏa thuận quyền và nghĩa vụ
của họ đối với nhau. Sự tương hợp và giống nhau về ý nghĩ và nhu cầu của
người chồng và người vợ là một trong những yếu tố tạo nên sự thành công
của hôn nhân [26]. Trong thế giới Ả Rập, quan niệm về hôn nhân đã có bước
ngoặt quan trọng, theo đó, đề cao uy tín, sự thừa nhận và chấp thuận giữa hai
người, đặc biệt là cô dâu. Hôn nhân được xem như là hợp đồng xã hội và kinh
tế giữa hai gia đình [21].
Ngày nay, quan niệm về hôn nhân và bản chất của hôn nhân có sự thay
đổi mạnh mẽ. Hôn nhân ngày nay không còn chỉ được hiểu theo nghĩa truyền
thống như trước đây. Ví dụ như: Nếu như trước kia hôn nhân chỉ được công
nhận giữa những người khác nhau về giới tính thì nay hôn nhân giữa những
người cùng giới tính cũng được công nhận. Đồng thời, hôn nhân không chỉ
được hiểu như là một thiết chế pháp luật mà còn được xem xét dưới góc độ
một hợp đồng. Việc thay đổi quan niệm về hôn nhân đã đem lại cho hôn nhân
sự sáng tạo, đa dạng và khả năng thích nghi. Theo quan điểm cá nhân của tác
giả, hôn nhân là một hợp đồng được giao kết trên cơ sở sự tự do, tự nguyện,

17


đồng thuận, bình đẳng giữa hai người, làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ
dân sự.
Cũng xin lưu ý thêm rằng, hôn nhân là một hiện tượng xã hội chịu ảnh
hưởng mạnh mẽ của chính trị, kinh tế - xã hội, lịch sử. Quan niệm về hôn
nhân vận động và phát triển qua từng thời kỳ của lịch sử loài người và phải
phù hợp với xu thế tiến bộ của xã hội. Những quan điểm, quan niệm lỗi thời
về hôn nhân sẽ được xem xét loại bỏ (như quan niệm “cha mẹ đặt đâu con
ngồi đấy” trong xã hội phong kiến, chế độ hôn nhân đa phu đa thê của một số
nước Hồi giáo…). Trong phạm vi của đề tài này, tác giả không đi sâu nghiên
cứu lịch sử hình thành và phát triển của hôn nhân (đây là đối tượng nghiên

cứu của các đề tài khác về hôn nhân) cũng như không đề cập đến các quan
điểm hôn nhân đã lỗi thời mà nghiên cứu, phân tích các quan niệm hôn nhân
phù hợp với xu thế tiến bộ của xã hội. Có nghĩa là, tập quán “cha mẹ đặt đâu
con ngồi đấy” hay chế độ hôn nhân “đa phu đa thê” không được xem là những
đặc trưng của hôn nhân.
1.1.2. Bản chất của hôn nhân
Hôn nhân là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học thuộc lĩnh
vực xã hội - nhân văn. Chính vì lẽ đó, bản chất của hôn nhân được tiếp cận
dưới nhiều góc độ khác nhau. Với mỗi cách tiếp cận ta sẽ có cái nhìn khác
nhau về hôn nhân. Sau đây, tác giả sẽ tìm hiểu về bản chất hôn nhân dưới góc
độ nhân học, triết học và pháp lý.
1.1.2.1. Bản chất hôn nhân dưới góc nhìn nhân học
TS. Đặng Thị Kim Oanh, trong bài viết “Đặc tính của hôn nhân từ
những dữ liệu nhân học” đăng trên Tạp chí phát triển Khoa học & Công
nghệ, tập 9, số 3-2006, cho rằng: Hôn nhân là việc kết hợp tính giao giữa nam
và nữ, nhưng không ở đâu, bất kỳ quốc gia nào, dù là khác nhau về chế độ

18


chính trị xã hội, lại đồng nhất hôn nhân với quan hệ tính giao. Hôn nhân đáp
ứng một trong những yêu cầu cơ bản của nhân lọai là tái sản xuất con người.
Khi cơ thể trưởng thành, bản năng tình dục của con người sẽ thúc dục hai
giống tính khác nhau xích lại gần nhau để sinh sản, bảo tồn nòi giống và, do
đó, hình thành mối giây tử hệ (filiation) mà trong đó con cháu được thừa
hưởng (di truyền) di sản sinh lý của cả cha và mẹ. Không ai thay đổi được
điều tự nhiên ấy. Đứng trước tử hệ những yếu tố nhân văn-xã hội của con
người phải nhường ưu thế định đọat cho sinh lý tự nhiên. Nhưng quan hệ giới
tính (mating) để sinh sản ra con người theo nghĩa sinh vật thì không cần có
hôn nhân cũng vẫn thực hiện được. Hôn nhân không đồng nghĩa với quan hệ

giới tính ở chỗ hôn nhân đem lại ý nghĩa xã hội - văn hóa cho quan hệ giới
tính. Trong hôn nhân, không phải với bất kỳ ai cũng có thể xích lại gần. Hôn
nhân giới hạn và xác định những người đàn ông, đàn bà nào được phép hay
không được phép lấy nhau làm vợ hay chồng. Sự giới hạn ấy hoàn toàn do
yếu tố văn hóa chi phối, không phụ thuộc vào yếu tố sinh lý tự nhiên.
Trong “Nhân học, một quan điểm về tình trạng nhân sinh”của Emily A.
Schultz và Robert H. Lavenda, do nhà xuất bản Mayfield (USA) phát hành
năm 2001, thì viết: “Một hôn nhân mẫu đòi hỏi phải có một người nam và
một người nữ và quy định mức độ quan hệ tính giao các thành viên trong hôn
nhân có thể có với nhau, xếp từ quan hệ độc quyền đến quan hệ ưu tiên. Hôn
nhân cũng tạo nên tính hợp pháp của con cái do người vợ sinh ra và thiết lập
các mối quan hệ giữa họ hàng bên vợ và họ hàng bên chồng”.
E. Adamson Hoebel, trong công trình Nhân chủng học khoa học về con
người, do nhà xuất bản Mc Graw.Hill (USA) phát hành năm 2007 cho rằng:
“Hôn nhân là một phức hợp của các tiêu chuẩn xã hội, nó định nghĩa và kiểm
soát những quan hệ của một cặp vợ chồng đối với nhau, đối với thân quyến,
con cái, và với xã hội nói chung”.

19


Như vậy, dưới góc độ nhân học, bản chất của hôn nhân là quan hệ tính
giao mang ý nghĩa văn hóa - xã hội. Hôn nhân được hình thành trên cơ sở bản
năng giới tính của con người và chịu sự chi phối của các yếu tố văn hóa - xã
hội. Hôn nhân tạo ra sự ràng buộc giữa hai cá thể và hình thành nên một hệ
thống các mối quan hệ xã hội mới. Mục đích của hôn nhân là sinh sản và duy
trì nòi giống. Việc lựa chọn người kết hôn do thiên hướng tình dục và giá trị
văn hóa và xã hội của mỗi người quyết định.
1.1.2.2. Bản chất hôn nhân dưới góc nhìn triết học
Trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà

nước”, Ăngghen cho rằng: Khi chế độ tư hữu xuất hiện, mẫu quyền bị sụp đổ
và cùng với đó là bước chuyển sang chế độ thừa kế theo hệ cha. Thông qua
hình thức trung gian của hình thái gia đình gia trưởng, chế độ hôn nhân cá thể
và gia đình một vợ một chồng đã xuất hiện và duy trì cho đến tận ngày nay.
Tuy nhiên, khi chế độ hôn nhân cá thể mới xuất hiện, theo Ph.Ăngghen, nó
tuyệt nhiên không phải là “kết quả của tình yêu cá nhân giữa trai và gái” và
cũng tuyệt nhiên “không dính dáng gì đến thứ tình yêu này cả”, không phải là
“sự liên kết hoà hợp giữa đàn ông và đàn bà, và càng không phải là hình thức
liên kết cao nhất” mà trái lại, “nó thể hiện ra là một sự nô dịch của giới này
đối với giới kia, là việc tuyên bố sự xung đột giữa hai giới, sự xung đột mà
người ta chưa từng thấy trong suốt thời kỳ tiền sử”. Trong xã hội tư sản, trong
các giai cấp bị áp bức, trước hết là giai cấp vô sản, đang hình thành những
cuộc hôn nhân mà trong đó, tình cảm yêu thương và kính trọng lẫn nhau giữ
vai trò quyết định. Đó là sự liên kết tự nguyện của những con người bình
đẳng. Ph.Ăngghen khẳng định: Trong lý thuyết đạo đức cũng như trong thơ
ca, không một quan niệm nào được xác lập bất di bất dịch và vững chắc bằng
quan niệm cho rằng bất cứ cuộc hôn nhân nào không dựa trên tình thương

20


yêu lẫn nhau và trên sự thỏa thuận thật sự tự do giữa hai vợ chồng đều là vô
đạo đức cả.
Ăngghen cho rằng, khi các tư liệu sản xuất được chuyển thành tài sản xã
hội thì “gia đình cá thể sẽ không còn là đơn vị kinh tế của xã hội nữa” và
“nền kinh tế gia đình tư nhân biến thành một ngành lao động xã hội”, “việc
nuôi dạy con cái trở thành công việc của xã hội”. Khi đó, “một thế hệ mới sẽ
lớn lên: một thế hệ đàn ông không bao giờ phải dùng tiền hoặc dùng những
phương tiện quyền lực xã hội khác để mua sự hiến thân của người đàn bà, và
một thế hệ đàn bà không bao giờ phải hiến mình cho đàn ông vì một lý do nào

khác ngoài tình yêu chân chính, hoặc phải từ chối không dám hiến mình cho
người yêu vì sợ những hậu quả kinh tế của sự hiến thân đó” [3]. Như vậy,
Ăng ghen khẳng định hôn nhân là những giá trị cao quý của con người, nền
tảng của hôn nhân là tình yêu, tình thương thực sự giữa hai người.
Hôn nhân là sự tạo lập cuộc sống chung giữa hai người, cuộc sống chung
này bao gồm những thành phần vật chất: ở chung trong một ngôi nhà, cùng
hưởng thụ những giá trị vật chất, cùng đóng góp những vật chất để duy trì
cuộc sống chung, cùng nhau tạo ra những vật chất. Hôn nhân hình thành trên
cơ sở tình yêu do một sự ngẫu hợp của hoàn cảnh, họ ngẫu nhiên gặp nhau và
khi cảm thấy hợp nhau, yêu nhau và lấy nhau. Từ hai người xa lạ, họ hợp lại
thành một gia đình. Từ một tình yêu mạnh mẽ, họ đối xử với nhau như đối xử
với chính bản thân mình, chia vui sẻ buồn cùng nhau, chăm sóc nhau những
lúc ốm đau, che trở và bảo vệ nhau. Từ sự kết hợp của hai tâm hồn dẫn đến sự
kết hợp của hai thể xác. Hôn nhân không phải là một hình thức thoả mãn sự
khoái cảm của xác thịt mà là tình yêu thương nồng nhiệt, sự kết hợp hoàn hảo
và đầy đủ của lí trí lẫn trái tim.

21


Đối với loài người, hôn nhân là một tất yếu khách quan được hình thành
từ bản chất tự nhiên của con người. Đó là sự kết hợp ngẫu nhiên giữa hai cá
thể người. Hôn nhân cũng có quá trình vận động và phát triển từ thấp đến cao,
từ chế độ quần hôn đến chế độ hôn nhân “một vợ một chồng”. Hôn nhân là
một quá trình biến đổi về chất và lượng giữa hai cá thể. Đời sống hôn nhân
đem lại cho các cá thể những nhận thức mới và sự thay đổi. Hôn nhân không
chỉ có mối quan hệ giữa vợ và chồng mà nó còn là một phức hợp các quan hệ
xã hội. Sự hình thành, duy trì và chấm dứt hôn nhân luôn được đặt trong mối
liên hệ phổ biến với các hiện tượng xã hội khác.
1.1.2.3. Hôn nhân dưới góc nhìn pháp lý

Nhìn từ góc độ pháp lý, cuộc sống của con người trong xã hội được tạo
lập nên bởi các hợp đồng. Hợp đồng đóng vai trò quan trọng trong quá trình
vận hành của nền kinh tế, vì nó là hình thức pháp lý cơ bản của sự trao đổi
hàng hóa trong xã hội. Xã hội càng phát triển, hợp đồng ngày càng được sử
dụng như là một chuẩn mực ứng xử phổ biến. Một trong những quan niệm về
hợp đồng phổ biến được nhiều người thừa nhận đó là: Hợp đồng là thỏa thuận
tạo ra nghĩa vụ trên cơ sở trao đổi và thống nhất ý chí giữa ít nhất hai bên [6].
Hôn nhân, dưới góc độ pháp lý, cũng là một loại hợp đồng.
- Hôn nhân là một thỏa thuận
Trong khoa học pháp lý, thỏa thuận là sự hòa hợp ý chí giữa hai bên (cá
nhân hoặc tổ chức) và dẫn đến các hậu quả pháp lý [35]. Có bốn điều kiện để
một thỏa thuận có hiệu lực: sự ưng thuận của các bên, năng lực giao kết, có
một đối tượng cụ thể và có nguyên nhân hợp pháp hình thành nghĩa vụ. Có
thể thấy, hôn nhân mang trong nó đầy đủ các yếu tố của một thỏa thuận.
Ngay từ thuở sơ khai của loài người, hôn nhân được hình thành trên cơ
sở bản năng giới tính và nhu cầu sinh sản, duy trì nòi giống. Lúc này, sự ưng

22


thuận bị che giấu bởi bản năng giới tính của con người. Khi đó, một hoặc
nhiều cá thể người chung sống với một hoặc nhiều cá thể người khác giới tính
để săn bắt chung, hái lượm chung và bảo vệ nhau trước tự nhiên. Hôn nhân là
một hình thức tập hợp, đoàn kết giữa các cá thể người để cùng giải quyết
những vấn đề của cuộc sống.
Cùng với sự phát triển của xã hội, giữa người với người hình thành nên
một thứ gọi là “tình cảm”, “tình yêu”. Theo thời gian, hai cá thể người không
chỉ chung sống với nhau vì quan hệ tính giao hay đối phó với tự nhiên mà còn
vì tình yêu. Bản chất của tình yêu là hấp dẫn về giới tính và sự tương hợp về
các nhận thức và nhu cầu xã hội. Tình yêu mang tính tự nguyện. Một tình yêu

chỉ có thể được xây dựng khi hai cá thể tự nguyện, tự do tìm hiểu. Khi đó,
hôn nhân không chỉ hướng tới mục đích quan hệ tính giao mà còn là nhu cầu
chăm sóc, bảo vệ và che chở cho nhau cũng như hưởng thụ các giá trị của
cuộc sống. Trong xã hội hiện đại, hôn nhân không chỉ được hình thành trên cơ
sở bản năng giới tính, tình yêu mà còn được hình thành trên cơ sở các yếu tố
kinh tế. Với những cuộc hôn nhân không được hình thành trên cơ sở tình yêu,
hai bên đều nhận thức được rằng họ không có tình cảm với nhau và họ nhất trí
rằng cuộc hôn nhân chỉ mang tính tạm thời và là “bình phong” che giấu cho
mục đích thực sự của các bên.
Như vậy, dù hình thành trên cơ sở nào thì hôn nhân, trước hết, phải là sự
thống nhất, hòa hợp ý chí giữa hai bên. Giữa hai cá thể người chỉ hình thành
hôn nhân nếu có những nhu cầu chung, những điểm tương đồng và khi họ
muốn kết hôn với nhau.
Ngày nay, trước khi kết hôn các bên đã trải qua một quá trình tìm hiểu
và đi đến thống nhất về các vấn đề như: thời điểm kết hôn, cách thức tổ chức
hôn lễ, nơi ở chung của hai người sau khi kết hôn; việc sinh sản, chăm sóc và

23


giáo dục con cái; tài sản chung và tài sản riêng của mỗi người, chuẩn bị các
điều kiện kinh tế để lo cho cuộc sống chung sau này…Những điều này chắc
chắn không thể do ý chí đơn phương của một bên quyết định. Việc họ đồng ý
lấy nhau, đó cũng là kết quả của một quá trình thỏa thuận. Họ tìm hiểu lẫn
nhau và trao đổi với nhau về những vấn đề mình quan tâm để tìm kiếm sự phù
hợp và tương thích về nhu cầu. Quá trình đó cứ lặp đi lặp lại cho đến khi cả
hai bên tìm thấy được đối tượng mà mình mong muốn và họ cảm thấy hòa
hợp với nhau trong các vấn đề quan trọng. Theo phong tục tại nhiều nước,
trước khi kết hôn thường sẽ có một bên cầu hôn bên kia (đây được xem như là
một đề nghị giao kết hợp đồng). Nếu bên còn lại đồng ý thì tức là họ đã thiết

lập nên một thỏa thuận chấp nhận các ưu nhược điểm của nhau, đáp ứng các
nhu cầu về tinh thần và vật chất cho nhau, chấp nhận là vợ là chồng của nhau.
Hôn nhân là tất yếu khách quan đối với loài người nhưng không phải là
bắt buộc đối với mỗi cá thể người và không phải cá thể người nào cũng có thể
kết hôn. Chỉ những cá thể người phát triển “con người sinh học” đến một giai
đoạn nhất định mới hình thành những xúc cảm về giới tính và “con người xã
hội” phát triển đến một giai đoạn nhất định mới hình thành nên tình yêu. Đó
gọi là khả năng kết hôn. Do vậy, để xảy ra hôn nhân, các bên phải có năng lực
kết hôn.
Cơ sở hình thành hôn nhân cũng chính là các điều kiện duy trì hoặc
chấm dứt hôn nhân. Bên cạnh đó, việc duy trì và chấm dứt hôn nhân còn chịu
ảnh hưởng của các yếu tố văn hóa - xã hội. Đó là: nhu cầu tình dục, nhu cầu
tình cảm, nhu cầu về kinh tế và các nhu cầu xã hội. Muốn duy trì hôn nhân
các bên phải giữ gìn sự tương hợp trong các nhu cầu trên. Đó là quá trình học
hỏi, trao đổi lẫn nhau. Khi hai người không thể tìm được tiếng nói chung
trong một hoặc tất cả các nhu cầu trên thì hôn nhân có thể chấm dứt.

24


Trong quá trình chung sống, giữa vợ và chồng có rất nhiều các thỏa
thuận về quản lý, chăm sóc và giáo dục con cái; về tham gia vào các giao dịch
dân sự phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày; về kinh tế gia đình. Mọi
việc trong gia đình phải có sự bàn bạc, thỏa thuận giữa vợ và chồng (kể cả
việc giao cho một trong hai người tự ý quyết định thì đó cũng là một thỏa
thuận). Khi không đạt được sự thống nhất giữa vợ và chồng thì vợ chồng sẽ
gặp khó khăn trong duy trì và vận hành gia đình chung. Nói đơn giản như việc
sinh con, nếu không có sự nhất trí của hai vợ chồng thì không thể có những
đứa con chung. Đến một thời điểm nào đó, khi sự bất đồng lớn lên và trở
thành mâu thuẫn đến mức không thể giải quyết được thì hôn nhân sẽ chấm

dứt bằng việc ly hôn. Như vậy, nếu không có sự hòa hợp ý chí, sự thỏa thuận
thống nhất thì hôn nhân không thể tồn tại. Hôn nhân là một chuỗi các thỏa
thuận từ trước khi kết hôn cho đến khi kết thúc.
Quan niệm hôn nhân là một thỏa thuận được pháp luật của nhiều quốc
gia thừa nhận: Bộ luật Dân sự Pháp, Đức, Bỉ và Québec (Canada) dùng từ
giao kết (Contracter) chỉ việc kết hôn [32, Art. 148] [31, Art. 143] [33, Art.
365] và việc thiết lập một thỏa thuận [32, Art. 1108], một hợp đồng [32, Art.
1123]. Bộ luật Dân sự Pháp dùng khái niệm “les conventions matrimoniales”
để chỉ về các thỏa thuận hôn nhân [32, Art. 1394]. Đồng thời quy định Hợp
đồng hôn nhân điều chỉnh các mối quan hệ vợ chồng, các thỏa thuận về tài
sản mà vợ chồng xác lập khi họ thấy cần thiết, ngoại trừ những quy định trái
với phong tục tốt đẹp và trật tự công [32, Art. 1387].
Đặc điểm này của hôn nhân cũng được Ph.Ăngghen khẳng định: “Trong
lý thuyết đạo đức cũng như trong thơ ca, không một quan niệm nào được xác
lập bất di bất dịch và vững chắc bằng quan niệm cho rằng bất cứ cuộc hôn
nhân nào không dựa trên sự thoả thuận thật sự tự do giữa hai vợ chồng, đều
là vô đạo đức cả” [2, tr. 126]. Ông cũng viết: “Hệ thống pháp luật của các

25


×