Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (639.94 KB, 88 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐINH THỊ THU HƢƠNG

THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ THEO TRÌNH TỰ SƠ
THẨM TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2017

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐINH THỊ THU HƢƠNG

THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ THEO TRÌNH TỰ SƠ
THẨM TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số
: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. HOÀNG ANH TUẤN


Hà Nội – 2017

ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Đinh Thị Thu Hƣơng

iii


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS : Bộ luật Dân sự
BLTTDS : Bộ luật Tố tụng dân sự
UBND : Ủy ban nhân dân
TAND : Tòa án nhân dân
TANDTC : Tòa án nhân dân tối cao
VADS: vụ án dân sự


iv


MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT............................................................................ iv
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1........................................................................................................... 7
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ ............ 7
1.1.Quyền khởi kiện - Cơ sở của việc thụ lý vụ án dân sự ................................... 7
1.1.1.Quyền khởi kiện ............................................................................................ 9
1.1.2. Điều kiện khởi kiện ................................................................................... 13
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của thụ lý vụ án Dân sự ................... 17
1.2.1. Khái niệm thụ lý vụ án Dân sự .................................................................. 17
1.2.2. Đặc điểm thụ lý vụ án dân sự .................................................................... 21
1.2.3. Vai trò, ý nghĩa của thụ lý vụ án dân sự ................................................... 23
1.3. Hậu quả pháp lý của việc thụ lý vụ án Dân sự ............................................. 23
1.4. Pháp luật một số nƣớc về thụ lý vụ án dân sự.............................................. 24
1.4.1. Pháp luật tố tụng dân sự của Canada ....................................................... 24
1.4.2.Pháp luật tố tụng dân sự của Đan Mạch và Thụy Điển............................. 24
1.4.3. Pháp luật tố tụng dân sự của Hàn Quốc ................................................... 24
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .................................................................................... 26
CHƢƠNG 2......................................................................................................... 27
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ .... 27
2.1. Các quy định về trình tự thụ lý vụ án dân sự ............................................... 27
2.1.1. Nhận đơn, các tài liệu kèm theo ................................................................ 27
2.1.2. Xem xét, đánh giá đơn và tài liệu kèm theo .............................................. 32
2.1.3. Kiểm tra các tài liệu, chứng cứ kèm theo đơn khởi kiện .......................... 38
2.1.4. Yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện; bổ sung tài liệu, chứng cứ ........... 40
2.2. Các quy định về điều kiện thụ lý vụ án dân sự ............................................ 41
2.2.1. Điều kiện về chủ thể khởi kiện .................................................................. 41

2.2.2. Điều kiện về thẩm quyền của Tòa án ........................................................ 48
v


2.2.3. Điều kiện về thời hiệu khởi kiện ............................................................... 52
2.2.4. Điều kiện về hòa giải tiền tố tụng ............................................................. 53
2.2.5. Điều kiện liên quan đến sự việc chƣa đƣợc Tòa án hoặc cơ quan nhà nƣớc
có thẩm quyền giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật hoặc
đã đƣợc giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
nhƣng ngƣời khởi kiện có quyền khởi kiện lại theo quy định của pháp luật tố
tụng dân sự .......................................................................................................... 54
2.2.6. Điều kiện về nộp tiền tạm ứng án phí ....................................................... 55
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .................................................................................... 57
CHƢƠNG 3......................................................................................................... 58
THỰC TIỄN THỰC HIỆN, ĐỊNH HƢỚNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ ................................................... 58
3.1 Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về thụ lý vụ án dân sự ....................... 58
3.1.1. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện các quy định về thụ lý vụ án
dân sự theo pháp luật Việt Nam .......................................................................... 58
3.1.2. Những vướng mắc trong việc thụ lý vụ án dân sự .................................... 60
3.2. Những khiếm khuyết và nguyên nhân khiếm khuyết .................................. 64
3.3. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thụ lý vụ án
dân sự................................................................................................................... 65
3.3.1. Cơ sở xây dựng các định hƣớng................................................................ 65
3.3.2. Một số định hƣớng cụ thể.......................................................................... 67
3.4. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về thụ lý vụ án Dân sự.............. 70
3.4.2.Về hướng dẫn thi hành pháp luật ............................................................... 73
3.4.3. Kiến nghị về tư pháp ................................................................................. 74
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .................................................................................... 77
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 78

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 80

vi


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Trong những năm qua, với sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa đã đạt đƣợc nhiều thành tựu rực rỡ, tuy nhiên bên cạnh
đó cũng nảy sinh nhiều quan hệ xã hội phức tạp, nhất là trong lĩnh vực dân sự,
hôn nhân gia đình, kinh doanh thƣơng mại, lao động đòi hỏi phải có cơ chế xử
lý bằng con đƣờng Tòa án. Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 ra đời đã thay thế
các Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989, Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế 1994, Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động 1996 là bƣớc ngoặt đối với ngành luật tố tụng dân sự Việt Nam. Bộ luật
đã quy định đầy đủ các nguyên tắc cơ bản trong tố tụng dân sự, quy định quyền
khởi kiện vụ án dân sự, quy định phạm vi khởi kiện các điều kiện để thụ lý vụ
án dân sự. Luật số 65/2011/QH12 ngày 29/3/2011 của Quốc hội sửa đổi, bổ
sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2012
đã sửa đổi, bổ sung hoàn thiện các quy định về khởi kiện và thụ lý vụ án phù
hợp với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu mới. Cùng với sự ra đời Hiến pháp 2013,
Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có
hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2016 là thể chế chiến lƣợc tƣ pháp, đổi mới,
cải cách thủ tục tố tụng dân sự theo hƣớng công khai, minh bạch, bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân. BLTTDS cụ thể hóa các quy
định của Hiến pháp năm 2013 về Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nƣớc
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tƣ pháp; có nhiệm vụ bảo
vệ công lý, bảo vệ quyền con ngƣời, quyền công dân, bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân. Thụ lý vụ án dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thƣơng mại, lao

động (sau đây gọi chung là vụ án dân sự) là hành vi tố tụng đầu tiên của Tòa án
trong quá trình giải quyết vụ án dân sự. Tòa án tiếp nhận, kiểm tra đơn khởi
kiện theo quy định của pháp luật. Sau khi kiểm tra các điều kiện khởi kiện,
trƣờng hợp đủ điều kiện thì Tòa án thụ lý vụ án bằng việc vào sổ thụ lý vụ án
dân sự. Thụ lý vụ án dân sự là căn cứ để xác định thời hạn tố tụng dân sự. Thụ
1


lý vụ án dân sự đúng có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm đƣợc quyền tiếp cận công
lý của chủ thể khi có tranh chấp dân sự, đồng thời tránh đƣợc việc phải giải
quyết hậu quả của việc thụ lý vụ án không đúng dẫn đến tốn kém về công sức,
tiền của của đƣơng sự. Mặt khác, có còn có ý nghĩa trong việc khẳng định Tòa
án đã đầu tƣ nhiều về thời gian, công sức và trí tuệ cho hoạt động này. Thụ lý
vụ án dân sự đƣợc tiến hành theo những trình tự, thủ tục nhất định do pháp luật
tố tụng dân sự quy định. Trình tự, thủ tục này có ý nghĩa cho việc chuẩn bị tiến
hành giải quyết vụ án dân sự trong quá trình tố tụng đảm bảo đúng quy định
của pháp luật. Do đó, việc nghiên cứu để làm rõ những vấn đề lý luận và quy
định của pháp luật hiện hành về thụ lý vụ án dân sự có ý nghĩa lý luận và thực
tiễn sâu sắc. Mặt khác, việc nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thực hiện các quy
định của pháp luật về thụ lý vụ án dân sự theo trình tự sơ thẩm tại một số Tòa án
địa phƣơng, qua đó đƣa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng nhƣ nâng
cao hiệu quả thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này là một hoạt động cần thiết.
Với nhận thức nhƣ vậy, tôi đã lựa chọn vấn đề “Thụ lý vụ án dân sự theo trình
tự sơ thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học
của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Việc nghiên cứu các quy định về việc thụ lý vụ án dân sự nhằm phân tích,
đánh giá các quy định của pháp luật, tạo điều kiện cho việc nhận thức và áp
dụng trên thực tế một cách thống nhất, đồng bộ và đạt hiệu quả. Qua đó, tìm ra

những tồn tại, bất cập của các quy định của pháp luật, đƣa ra những giải pháp
hữu ích đóng góp vào quá trình xây dựng hoàn thiện quy định của pháp luật.
Đồng thời, nêu lên thực tiễn thực hiện quy định về quá trình thụ lý vụ án dân sự
tại một số Tòa án nhân dân, qua đó đƣa ra những giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật.
2.2. Mục tiêu cụ thể
Việc nghiên cứu đề tài là làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của các quy định
của pháp luật về thủ tục thụ lý vụ án dân sự. Từ đó mục tiêu cụ thể của đề tài là
2


giải quyết về mặt lý luận các khái niệm thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài cũng
nhƣ các vấn đề có liên quan. Trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy định của pháp
luật hiện hành, để việc xét xử giải quyết các vụ án đƣợc khách quan, toàn diện và
đúng quy định của pháp luật thì Tòa án phải có kỹ năng, phƣơng pháp và kinh
nghiệm thực tiễn trong việc thụ lý, xây dựng hồ sơ và xét xử vụ án dân sự. Trên
cơ sở đó đƣa ra những giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự về quá trình thụ lý vụ án.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đã có nhiều công trình nghiên cứu về thụ lý vụ án dân sự. Tuy nhiên, so
với những công trình đã nghiên cứu trƣớc đây, đề tài có hƣớng nghiên cứu khác
và có những nội dung mới, cụ thể:
Thứ nhất, Tiếp cận thụ lý vụ án dân sự theo nguyên tắc Tòa án không
đƣợc từ chối giải quyết vụ án dân sự vì lý do chƣa có điều luật để áp dụng,
nguyên tắc này đã đƣợc đƣa riêng tại Mục 3 của BLTTDS năm 2015. Trong bối
cảnh thực tế hiện nay việc quy định nhƣ vậy là hoàn toàn phù hợp, bởi lẽ chủ
trƣơng của Đảng về chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đã đƣợc ghi nhận trong Nghị
quyết số 49-NQ/TW với mục tiêu xây dựng nền tƣ pháp trong sạch, vững mạnh,
dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bƣớc hiện đại phục vụ nhân dân,
phụng sự tổ quốc. Việc quy định Tòa án không đƣợc từ chối giải quyết vụ án

dân sự vì lý do chƣa có điều luật áp dụng là phù hợp với tinh thần cải cách tƣ
pháp của Đảng về phát triển hệ thống án lệ, trên tinh thầm hội đồng xét xử độc
lập, sáng tạo, công tâm trong xét xử “thẩm phán làm luật” để lấp những khoảng
trống của pháp luật và bảo vệ triệt để quyền lợi của ngƣời dân, bảo đảm trật tự
xã hội.
Thứ hai Thụ lý vụ án dân sự giúp tiếp cận đa ngành trong việc nghiên cứu
giải quyết vụ án dân sự, trong khi các luận văn trƣớc chỉ tiếp cận trong khuôn
khổ Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Luật số 65/2011/QH12 ngày 29/3/2011
của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự, có hiệu
lực kể từ ngày 01/01/2012, mà việc giải quyết dân sự cốt ở hai bên. Chính vì lẽ
đó, ngoài tiếp cận trong khuôn khổ bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, luận văn
3


còn xem xét đến những yếu tố nhƣ phong tục tập quán, tâm lý của đƣơng sự, kỹ
năng của ngƣời thẩm phán xử lý, tiếp dân trong công tác nhận đơn, thụ lý vụ án
dân sự. Khi có sự chuẩn bị kỹ lƣỡng về các vấn đề trên thì việc giải quyết vụ án
dân sự ở giai đoạn sau tốt hơn.
Thứ ba, góp phần bảo vệ quyền con ngƣời, bảo vệ quyền tiếp cận công lý
ngƣời dân thông qua hoạt động nhận đơn, thụ lý vụ án dân sự.
Thứ tƣ, là nghiên cứu thực tiễn thực hiện quy định về thụ lý vụ án dân sự
tại Tòa án nhân dân một số đơn vị, từ đó, đề tài sẽ đƣa ra những giải pháp, kiến
nghị có cơ sở lý luận và thực tiễn góp phần vào quá trình hoàn thiện các quy
định của pháp luật về thụ lý vụ án dân sự.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, đề tài tập trung đi sâu nghiên
cứu các quy định về thủ tục thụ lý vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố
tụng dân sự trong giai đoạn BLTTDS 2004 đã hết hiệu lực thi hành trong khi
BLTTDS năm 2015 đã đƣợc Quốc hội thông qua và đã có hiệu lực thi hành. Do
vậy luận văn sẽ phân tích, đánh giá, so sánh giữa quy định của luật mới và luật

cũ. Về thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật về thủ tục thụ lý vụ án dân sự,
đề tài nghiên cứu và đánh giá trong phạm vi tại Tòa án nhân dân một số đơn vị,
trong thời gian 03 năm gần đây.
5. Tổng quan các công trình nghiên cứu
Trong những năm gần đây, đã có các công trình nghiên cứu về thủ tục thụ
lý vụ án dân sự, điển hình nhƣ: (1) Liễu Thị Hạnh, Thụ lý vụ án dân sự một số
vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận án thạc sỹ luật học, Đại học Luật Hà Nội,
2009; (2) Nguyễn Thu Hiền, Hoàn thiện chế định khởi kiện và thụ lý án Dân sự
trong pháp luật tố tụng Việt Nam, Luận án thạc sỹ luật học, Khoa Luật Đại học
quốc gia Hà Nội, 2012.
Công trình nghiên cứu trên đã làm rõ đƣợc những vấn đề lý luận cơ bản
và quy định của Bộ luật dân sự năm 2004, đã đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2011.
Mặt khác, công trình này đều phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định
về thủ tục thụ lý vụ án dân sự trong phạm vi cả nƣớc, thì sẽ không nghiên cứu
4


sâu đƣợc những vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng. Do đó, đề tài sẽ tập trung
vào việc nghiên cứu tiếp những nội dung mà công trình trƣớc đây chƣa đề cập
đến. Bên cạnh đó Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 có hiệu lực thi hành từ ngày
01/7/2016, do đó luận văn sẽ nghiên cứu trên cơ sở BLTTDS 2015 theo hƣớng
so sánh những điểm mới của bộ luật.
Đây là công trình nghiên cứu đầu tiên của tác giả về thụ lý vụ án dân sự,
hi vọng rằng với việc tiếp thu, kế thừa các công trình nghiên cứu trƣớc và trên
cơ sở tham khảo những tài liệu có liên quan đƣợc viết trong thời gian gần đây,
đề tài sẽ có những đóng góp nhất định trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp
luật tố tụng dân sự, đáp ứng yêu cầu của hoạt động cải cách tƣ pháp, góp phần
xây dựng bảo vệ quyền con ngƣời, quyền tiếp cận công lý của ngƣời dân khi đến
làm việc tại Tòa án.
6. Nội dung, địa điểm và phƣơng pháp nghiên cứu

6.1. Nội dung nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu các nội dung về: Những vấn đề lý luận cơ bản
về thụ lý vụ án dân sự; quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về thủ tục thụ lý
vụ án.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về Nhà nƣớc và pháp luật. Quá trình nghiên cứu,
đề tài sử dụng nhiều phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: Phƣơng pháp phân tích tổng
hợp, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp thống kê. Trong
quá trình nghiên cứu có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn thông qua điều
tra, khảo sát,… từ đó đánh giá bản chất của các nội dung trong phạm vi đề tài
nghiên cứu.
6.3. Địa điểm nghiên cứu
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu đối với việc áp dụng các quy định
của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về thủ tục thụ lý vụ án dân sự trên lãnh
thổ Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn
5


Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn đƣợc kết cấu gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1 Một số vấn đề lý luận cơ bản về thụ lý vụ án dân sự
Chƣơng 2 Thực trạng pháp luật Việt Nam về thụ lý vụ án dân sự
Chƣơng 3 Thực tiễn thực hiện, định hƣớng và kiến nghị hoàn thiện pháp
luật về thụ lý vụ án dân sự

6


CHƢƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỤ LÝ VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1.Quyền khởi kiện - Cơ sở của việc thụ lý vụ án dân sự
Lịch sử nền văn minh nhân loại là một quá trình đấu tranh khẳng định các
quyền cơ bản của con ngƣời. Các quyền ấy luôn đƣợc coi là vấn đề thiêng liêng,
cơ bản, và cũng luôn là khát vọng của toàn thể nhân loại. Quyền con ngƣời đƣợc
sinh ra và đồng thời cũng đƣợc bảo đảm nhƣ một lẽ tự nhiên. Nó là vấn đề quan
trọng trong luật pháp của mỗi quốc gia, và pháp luật có vai trò rất lớn trong việc
bảo đảm, bảo vệ quyền đó. Quyền con ngƣời là những giá trị xã hội cao quý
đƣợc thừa nhận và bảo vệ chung của cả nhân loại tiến bộ. Quan niệm về quyền
con ngƣời đã đƣợc các nhà tƣ tƣởng bàn đến từ thời cổ đại và không ngừng đƣợc
phát triển, bổ sung cùng với quá trình phát triển của lịch sử nhân loạn. Khi bàn
đến quyền con ngƣời Jaeque Mourgeon trong cuốn “Các quyền con ngƣời“ đã
cho rằng: Quyền con ngƣời trƣớc hết đƣợc hiểu là những đặc quyền tự nhiên mà
con ngƣời có. Đó là khả năng hành động có ý thức, trách nhiệm nhất là tự bảo
vệ. Nhƣng bản thân đặc quyền (quyền tự nhiên) chƣa phải là quyền con ngƣời.
Mà để đạt đến cái gọi là “quyền“ thì phải có yếu tố thứ hai là pháp luật. Chỉ khi
đƣợc pháp luật ghi nhận thì các đặc quyền của cá nhân mới trở thành đối tƣợng
điều chỉnh của pháp luật mới trở thành quyền con ngƣời [37, tr131]. Trên cơ sở
quan niệm đúng đắn và khoa học về con ngƣời, chủ nghĩa mác đã xác định con
ngƣời là con ngƣời xã hội bản chất con ngƣời trong tính hiện thực của nó là sự
tổng hòa các quan hệ xã hội, cho nên quyền con ngƣời thể hiện sâu sắc giá trị
các quan hệ xã hội và hiển nhiên mang bản chất đó [38, tr.11]. Trên cơ sở các
quan niệm về quyền con ngƣời năm 1776, lần đầu tiên quyền con ngƣời đƣợc
ghi nhận trong Tuyên ngôn độc lập của Mỹ: “Tất cả mọi ngƣời sinh ra đều có
quyền đƣợc bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
đƣợc, trong đó có quyền sống, quyền tự do mƣu cầu hạnh phúc“.
Năm 1791, trong tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền Pháp, quyền con
ngƣời từng bƣớc đƣợc các quốc gia thừa nhận và quy định trong pháp luật của
nƣớc mình. Ở nƣớc ta, vấn đề quyền con ngƣời đã đƣợc nghiên cứu và phản ánh
7



một cách phong phú và đa dạng thể hiện trong các văn kiện của Đảng, nhà nƣớc
và các văn bản pháp luật.
Theo từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng: “Quyền con ngƣời
là các quyền tất yếu mà con ngƣời phải đƣợc hƣởng và các quốc gia phải tôn
trọng“ [40, tr338]. Vì vậy, theo quan niệm chung hiện nay, “Quyền con ngƣời là
những giá trị, năng lực, nhu cầu vốn có và chỉ có ở con ngƣời với tƣ cách là
thành viên của cộng đồng nhân loại đƣợc thể chế hóa bằng pháp luật quốc gia và
các thỏa thuận pháp lý quốc tế“ [40, tr 26].
Quyền con ngƣời là giá trị thắng lợi chung của nhân loại, nhƣng ở điều
kiện kinh tế, chính trị- xã hội ở các châu lục, các khu vực, các quốc gia phát
triển không giống nhau nên ở các quốc gia khác nhau thì năng lực và nhu cầu
của mỗi thành viên xã hội sẽ không giống nhau mà phụ thuộc vào điều kiện kinh
tế-chính trị-xã hội nhất định mà thành viên đó sinh sống. Cho nên, các quốc gia,
quyền con ngƣời đƣợc thể hiện thành quyền công dân và đƣợc đảm bảo thực
hiện bởi hệ thống luật pháp quốc gia đó.
Theo quan niệm chung, đảm bảo là làm cho chắc chắn, thực hiện đƣợc,
giữ gìn đƣợc hoặc có đầy đủ những gì cần thiết. Vì vậy đảm bảo quyền con
ngƣời nói chung là sự ổn định về chế độ chính trị, xã hội, một nền dân chủ rộng
rãi, một nền kinh tế phát triển và ổn định, các quyền con ngƣời đƣợc quy định
đầy đủ về số lƣợng, chất lƣợng, đƣợc nhà nƣớc bảo đảm thực hiện bằng các hoạt
động khác nhau. Đảm bảo quyền con ngƣời trong tố tụng dân sự là một lĩnh vực
đảm bảo quyền con ngƣời trong hoạt động tƣ pháp, để thực hiện đúng nguyên
tắc của tố tụng dân sự và phải đặt nó trong mối quan hệ mật thiết với đảm bảo
quyền con ngƣời trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Các đảm bảo
quyền con ngƣời trong tố tụng dân sự bao gồm: phải có quy định đầy đủ, cụ thể,
trong đó quyền quan trọng nhất là quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi bị xâm phạm. Cho nên, đòi hỏi phải có
sự giám sát chặt chẽ, để các hoạt động trong lĩnh vực này luôn đƣợc thông suốt,

đúng pháp luật đảm bảo tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

8


Việc giám sát đối với hoạt động tƣ pháp cần phải phát huy đƣợc đông đảo các
cơ quan nhà nƣớc, tổ chức xã hội và công dân tham gia.
Chăm lo cho con ngƣời, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn
diện của con ngƣời, tôn trọng và bảo vệ quyền con ngƣời là những quan điểm
chỉ đạo cơ bản và nhất quán, là nguyên tắc, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong đƣờng
lối, chính sách chỉ đạo của Đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đƣợc thể
chế hóa trong Hiến pháp và pháp luật của Nhà nƣớc ta. Nhận thức rõ vai trò
quan trọng hàng đầu của việc bảo vệ quyền con ngƣời trong công cuộc cải cách
tƣ pháp, Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến
lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020“ khẳng định: “Đòi hỏi của công dân và xã
hội đối với cơ quan tƣ pháp ngày càng cao, các cơ quan tƣ pháp phải thật sự là
chỗ dựa của nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con ngƣời, đồng thời
phải là công cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu
tranh có hiệu quả đối với các loại tội phạm và vi phạm [2].
Trong giao dịch dân sự, quyền và nghĩa vụ của chủ thể phát sinh chủ yếu
từ các hợp đồng, hành vi pháp lý đơn phƣơng, các quyền lợi và nghĩa vụ ngoài
hợp đồng và các căn cứ khác. Các quyền và nghĩa vụ dân sự này thƣờng đƣợc
pháp luật quy định và bảo hộ, tuy nhiên việc quy định và bảo hộ bằng pháp luật
nội dung là chƣa đủ, bởi lẽ các quyền lợi của chủ thể hoàn toàn có thể bị phủ
nhận hoặc xâm phạm bởi chủ thể khác. Theo đó, pháp luật còn phải quy định
trao cho họ các công cụ pháp lý để thực hiện khi muốn bảo vệ các quyền bị xâm
hại. Đây là một trong những vấn đề căn bản của pháp luật tố tụng dân sự mà ở
đó đặc điểm về trọng thủ tục luôn đƣợc đề cao để tránh sự lạm quyền của Tòa
án, hạn chế hành vi tùy tiện của đƣơng sự, hơn nữa đảm bảo quyền lợi của
đƣơng sự khi họ thực hiện đúng thủ tục tố tụng. Bởi vậy, để thụ lý vụ án dân sự,

Tòa án không thể không xem xét đến thủ tục mà ngƣời khởi kiện thực hiện.
1.1.1.Quyền khởi kiện
Khởi kiện là hành vi đầu tiên của cá nhân, cơ quan, tổ chức tham gia vào
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp
luật tố tụng dân sự”. Khởi kiện trƣớc hết là quyền dân sự của các chủ thể, là
9


phƣơng thức mà các chủ thể yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền dân sự cho mình, cho
nhà nƣớc hoặc ngƣời khác và là cơ sở để Tòa án xem xét thụ lý giải quyết.
Việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đƣợc ghi nhận bằng
pháp luật của nhà nƣớc khi nhà nƣớc và pháp luật ra đời. Do đó, quyền khởi
kiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân đƣợc pháp luật ghi nhận và chủ thể cho rằng
quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm có quyền khởi kiện yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền do nhà nƣớc quy định bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
mình.
Trong sự phát triển của xã hội, khi Nhà nƣớc và pháp luật ra đời thì việc
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân đƣợc ghi nhận bằng pháp luật
của nhà nƣớc và đƣợc bảo đảm thực hiện thông qua các thiết chế do Nhà nƣớc
thiết lập. Quyền khởi kiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân đã đƣợc pháp luật ghi
nhận và chủ thể cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm có
quyền khởi kiện yêu cầu cơ quan có thẩm quyền do Nhà nƣớc quy định bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 quy
định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người,
quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận,
tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”[12, Điều 14]. Trong
đó, quyền dân sự có ý nghĩa rất quan trọng, cơ quan, tổ chức, cá nhân đƣợc thực
hiện các hành vi theo quy định của pháp luật nhằm thỏa mãn lợi ích của mình
nhƣ lao động, sản xuất kinh doanh để tạo ra của cải vật chất phục vụ cho nhu
cầu của bản thân và xã hội tham gia vào các giao dịch dân sự…Điều 9 Bộ luật

dân sự năm 2015 quy định tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân đƣợc
tôn trọng và đƣợc pháp luật bảo vệ. Khi quyền dân sự của một chủ thể bị xâm
phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền: Công nhận quyền dân sự; buộc chấm dứt hành vi vi phạm; buộc xin lỗi,
cải chính công khai; buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi thƣờng thiệt hại.
Quyền khởi kiện là một quyền dân sự. Khi quyền và lợi ích dân sự của cơ
quan, tổ chức, cá nhân bị xâm phạm hay tranh chấp thì họ có quyền thực hiện
những biện pháp chính là khởi kiện vụ án. Pháp luật tố tụng dân sự quy định các
10


điều kiện, phƣơng thức khởi kiện của cơ quan, tổ chức, cá nhân và trƣờng hợp
này quyền khởi kiện vụ án dân sự đƣợc xem xét nhƣ một quyền tố tụng. Dƣới
góc độ tố tụng quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của cơ quan, tổ
chức, cá nhân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của ngƣời khác khi có tranh chấp về
quan hệ dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động.
Cụ thể các quy định của Hiến pháp năm 2013, Điều 4 và Điều 5 BLTTDS
năm 2015 quy định cơ quan, tổ chức, cá nhân có quyền khởi kiện vụ án dân sự
tại Tòa án có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con
ngƣời, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nƣớc, quyền và lợi ích hợp pháp
của mình hoặc của ngƣời khác. Việc thực hiện quyền khởi kiện của đƣơng sự
phải tuân theo quy định của pháp luật về năng lực của chủ thể, thẩm quyền của
Tòa án, thời hiệu khởi kiện, án phí… Khi quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm chủ thể có quyền tự định đoạt khởi kiện hoặc không khởi kiện đến Tòa án
yêu cầu bảo vệ. Việc khởi kiện đƣợc thực hiện bằng hình thức nộp đơn khởi
kiện tại Tòa án có thẩm quyền. Về nguyên tắc chỉ có cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có lợi ích bị xâm phạm mới có
quyền khởi kiện để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của mình. Bên cạnh đó, để
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong một số trƣờng hợp đặc biệt

Điều 187 BLTTDS năm 2015 quy định:
“Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ
em, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
có quyền khởi kiện vụ án về hôn nhân và gia đình theo quy định của Luật Hôn
nhân và gia đình.
Tổ chức đại diện tập thể lao động có quyền khởi kiện vụ án lao động
trong trường hợp cần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể người lao
động hoặc khi được người lao động ủy quyền theo quy định của pháp luật.
Tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng có quyền đại
diện cho người tiêu dùng khởi kiện bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng hoặc tự

11


mình khởi kiện vì lợi ích công cộng theo quy định của Luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng” [3].
Theo quy định của pháp luật Việt Nam các đƣơng sự hoàn toàn tự do lựa
chọn các biện pháp để bảo vệ quyền lợi của mình. Nhà nƣớc xác nhận quyền
khởi kiện vụ án dân sự của cơ quan, tổ chức, cá nhân yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Pháp luật cũng ghi nhận các chủ thể khác nhƣ
tổ chức công đoàn, hội liên hiệp phụ nữ, hội bảo vệ quyền lợi ngƣời tiêu dùng…
có quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích của ngƣời khác. Thực
hiện quyền này của chủ thể đƣợc gọi là khởi kiện vụ án dân sự. Theo nghĩa hẹp,
khởi kiện đƣợc hiểu là việc nguyên đơn hoặc ngƣời đại diện của nguyên đơn, cơ
quan, tổ chức yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án dân sự để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của ngƣời khác hay bảo vệ lợi ích công cộng,
lợi ích của Nhà nƣớc. Theo nghĩa rộng, khởi kiện còn bao gồm cả việc bị đơn
đƣa ra yêu cầu phản tố, ngƣời có quyền và nghĩa vụ liên quan đƣa ra yêu cầu
độc lập, bởi yêu cầu phản tố chính là việc bị đơn kiện ngƣợc lại nguyên đơn về
một quan hệ pháp luật khác với quan hệ pháp luật mà nguyên đơn đã kiện bị đơn

và yêu cầu độc lập chính là việc ngƣời có quyền lợi nghĩa vụ liên quan kiện
nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ lợi ích của mình.
Nhƣ vậy, theo pháp luật Việt Nam: “Khởi kiện vụ án dân sự là việc cá
nhân, cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố
tụng dân sự nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình hay của người khác” [9,tr244].
Khởi kiện là phƣơng thức đầu tiên để bảo vệ kịp thời khi quyền, lợi ích
của chủ thể bị xâm phạm bằng việc đòi bồi thƣờng thiệt hại về tài sản, thực hiện
đúng hợp đồng, bảo vệ sức khỏe, yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật
đối với việc thực hiện quyền dân sự. Ngoài ra, để ngăn chặn kịp thời hậu quả
của hành vi vi phạm, ngƣời khởi kiện còn có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng
ngay biện pháp khẩn cấp tạm thời cùng lúc với việc nộp đơn khởi kiện. Khởi
kiện vụ án dân sự là hành vi đầu tiên của cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác
tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là cơ sở pháp lý làm phát sinh
12


quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Nếu không có hoạt động khởi kiện thì không
có quá trình tố tụng tiếp theo. Tòa án chỉ thụ lý khi có đơn khởi kiện của các chủ
thể. Đƣơng sự có quyền tự do hành động cùng với quyền tự định đoạt của các
chủ thể khởi kiện làm cơ sở tố tụng. Theo đó, khởi kiện là phƣơng thức để các
chủ thể có thể hành động ngay tức khắc để tự bảo vệ các quyền dân sự của mình
tránh nguy cơ xâm phạm xảy ra, nhƣ khởi kiện để đòi lại tài sản, khởi kiện để
yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền dân
sự hoặc kiện để yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại. Với hành vi khởi kiện kịp thời, các
cơ quan tố tụng sẽ có hành động can thiệp kịp thời các quyền và lợi ích hợp
pháp sẽ đƣợc bảo vệ, thiệt hại đƣợc khắc phục sớm, chấm dứt hành vi trái pháp
luật. Bằng hoạt động xét xử, Tòa án góp phần bảo vệ và củng cố pháp chế xã hội
chủ nghĩa đồng thời nâng cao hiệu quả xét xử, tạo môi trƣờng pháp lý an toàn,
trong đó quyền công dân đƣợc bảo vệ và củng cố lòng tin của nhân dân đối với

chế độ. Khi nhân dân đã tin tƣởng vào pháp luật thì pháp luật là chỗ dựa cho họ
đầu tranh phòng chống vi phạm pháp luật và chính pháp luật trở thành sức mạnh
đảm bảo pháp luật ngày càng đƣợc tôn trọng, pháp chế xã hội chủ nghĩa ngày
càng đƣợc củng cố và tăng cƣờng. Việc ghi nhận quyền khởi kiện yêu cầu Tòa
án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các chủ thể và sự bảo đảm của Nhà nƣớc
trong việc thực hiện quyền khởi kiện góp phần nâng cao ý thức pháp luật của
ngƣời dân, góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể tham gia
quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thƣơng mại, lao động đồng thời
có ý nghĩa răn đe, ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền lợi của các chủ thể,
đảm bảo sự ổn định của các quan hệ xã hội.
1.1.2. Điều kiện khởi kiện
1.1.2.1.Về chủ thể khởi kiện
Quyền và lợi ích của các chủ thể là một vấn đề quan trọng, là động lực để
các chủ thể tham gia vào các quan hệ xã hội. Đối với lĩnh vực dân sự, lợi ích của
các bên đƣợc xem là tiền đề dẫn đến tranh chấp dân sự “Tranh chấp pháp lý sẽ
không thể xuất hiện, nếu không có yêu cầu khởi kiện của các bên” [13,tr70].
Khởi kiện vụ án dân sự chính là công cụ pháp lý hữu hiệu để bảo vệ các quyền
13


dân sự của công dân, các quyền và lợi ích này có thể là quyền về tài sản hoặc
nhân thân. Có thể nói khởi kiện là “phương thức luật định mở rộng cho hết thảy
những ai muốn cầu cứu đến công lý, để xin che chở quyền lợi bị lâm
nguy”[14,tr.43]. Ngƣời khởi kiện không những có quyền, lợi ích bị xâm phạm
hay tranh chấp mà họ còn phải có tƣ cách pháp lý. Tƣ cách pháp lý cho phép
ngƣời khởi kiện đứng đơn khởi kiện. Ngƣời khởi kiện chính là nguyên đơn, tức
ngƣời có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh chấp, nếu họ là ngƣời
có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Năng lực hành vi tố tụng dân sự của
đƣơng sự là khả năng bằng hành vi của mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố
tụng. Năng lực hành vi tố tụng dân sự của đƣơng sự là cá nhân đƣợc xác định

bởi khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của họ và bởi tính chất, yêu cầu
của việc tham gia quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Thông thƣờng cá nhân chỉ
đƣợc coi là có năng lực hành vi tố tụng dân sự khi đã từ đủ mƣời tám tuổi trở
lên, không bị mất năng lực hành vi dân sự. Đối với những ngƣời chƣa đủ mƣời
tám tuổi, bị mất năng lực hành vi dân sự thì không có năng lực hành vi tố tụng
dân sự, việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đƣơng sự này trƣớc Tòa án
phải do ngƣời đại diện hợp pháp của họ thực hiện. Pháp luật cũng đòi hỏi cá
nhân khi khởi kiện vụ án dân sự phải là ngƣời có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm
phạm hoặc tranh chấp. Đây là quy định phù hợp với nguyên tắc tự định đoạt
trong tố tụng dân sự, nó không cho phép ngƣời không phải là chủ thể của quan
hệ pháp luật lợi dụng quyền khởi kiện để rồi lại xâm phạm đến quyền, lợi ích
hợp pháp của ngƣời khác. Cá nhân khi có năng lực chủ thể thì có thể tự mình
khởi kiện hoặc làm giấy ủy quyền cho một ngƣời khác có năng lực hành vi thay
mình khởi kiện, trừ việc ly hôn.
Các cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình trong trƣờng hợp bị xâm phạm hoặc tranh chấp. Ngoài ra, cơ
quan, tổ chức còn khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
ngƣời khác theo quy định của pháp luật. Ngoài những trƣờng hợp cá nhân, cơ
quan, tổ chức khác đƣợc khởi kiện những vụ án về hôn nhân và gia đình theo
quy định, pháp luật còn quy định các cơ quan, tổ chức khác trong phạm vi,
14


nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa
án bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nƣớc thuộc lĩnh vực mình phụ
trách. Để có nhận thức thống nhất về các loại cơ quan, tổ chức đƣợc khởi kiện
vụ án dân sự cần có sự phân biệt nhƣ sau:
Các cơ quan là các cơ quan nhà nƣớc là ủy ban nhân dân các cấp, các bộ,
ngành ở trung ƣơng, các sở, ngành ở địa phƣơng, các cơ quan chuyên môn khác
ở từng lĩnh vực nhƣ cơ quan thuế, thị trƣờng, dân số, môi trƣờng, các cơ quan

tiến hành tố tụng các cấp có tƣ cách pháp nhân. Các bộ phận, đơn vị, văn phòng
đại diện của các cơ quan nhà nƣớc thực hiện nhiệm vụ của cơ quan nhà nuốc,
phụ thuộc vào cơ quan nhà nƣớc không phải là pháp nhân, không có quyền khởi
kiện vụ án dân sự.
Các tổ chức là các tổ chức kinh tế, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã
hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp bao gồm các tổ chức có tƣ cách pháp nhân và
các tổ chức không có tƣ cách pháp nhân. Các tổ chức không có tƣ cách pháp
nhân đƣợc khởi kiện vụ án dân sự phải là những tổ chức đƣợc pháp luật quy
định có quyền tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập. Các tổ chức
không có tƣ cách pháp nhân là một bộ phận của doanh nghiệp, hợp tác xã nhƣ
tổ, đội, chi nhánh, văn phòng đại diện không đƣợc pháp luật quy định có quyền
tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập thì không đƣợc tự mình khởi
kiện vụ án dân sự.
1.1.2.2. Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án
Mỗi cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền hoạt động trong mỗi lĩnh vực nhất
định. Phạm vi hoạt động và quyền năng pháp lý của các cơ quan nhà nƣớc do
pháp luật quy định đƣợc hiểu là thẩm quyền của các cơ quan nhà nƣớc đó. trong
hệ thống của các cơ quan tƣ pháp thì Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tƣ pháp
chủ yếu, Tòa án thực hiện thẩm quyền của mình trong việc xét xử các vụ án dân
sự, hình sự, hành chính và các việc khác theo quy định của pháp luật để bảo vệ
pháp luật, bảo đảm sự công bằng xã hội. Việc nghiên cứu và đƣa ra khái niệm
khoa học về thẩm quyền của Tòa án và thẩm quyền dân sự của Tòa án có ý
nghĩa thiết thực trong việc xây dựng và thực hiện các quy định về thẩm quyền
15


của Tòa án. Trong tiếng Việt, thẩm quyền là quyền xem xét để kết luận và định
đoạt một vấn đề theo pháp luật [44, tr922]. Trong khoa học pháp lý, thẩm quyền
đƣợc hiểu là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ hành động, quyết định của các cơ
quan, tổ chức thuộc hệ thống bộ máy nhà nƣớc do pháp luật quy định. Trong từ

điển luật học của Mỹ, thẩm quyền đƣợc hiểu là khả năng cơ bản và tối thiểu để
cơ quan công quyền xem xét và giải quyết một việc gì theo pháp luật [45, tr298].
Điểm chung về thẩm quyền của Tòa án đều đƣợc các nƣớc thừa nhận là quyền
xem xét giải quyết các vụ việc trong phạm vi pháp luật cho phép và quyền hạn
trong việc ra các quyết định khi giải quyết vụ việc đó. Trên thế giới, các nhà lý
thuyết về tố tụng của các nƣớc theo hệ thống châu âu lục địa và các nƣớc theo hệ
thống Anh-Mỹ đều đề cập vấn đề thẩm quyền của Tòa án trong tố tụng dân sự
dƣới hai góc độ là thẩm quyền theo loại việc và thẩm quyền theo phạm vi lãnh
thổ. Ở Việt Nam xuất phát từ những đặc thù về tổ chức hệ thống Tòa án cho nên
quan niệm về thẩm quyền của Tòa án trong tố tụng dân sự cũng có những điểm
khác biệt. Khái niệm thẩm quyền của Tòa án đƣợc tiếp cận dƣới ba góc độ là
thẩm quyền theo loại việc, thẩm quyền của Tòa án các cấp, và thẩm quyền của
Tòa án theo lãnh thổ. Trên cơ sở đó, Trong giáo trình Luật tố tụng dân sự của
trƣờng Đại học luật Hà Nội năm 2015 thẩm quyền dân sự của Tòa án đƣợc định
nghĩa nhƣ sau: “Thẩm quyền dân sự của Tòa án là quyền xem xét giải quyết các
vụ việc và quyền hạn ra các quyết định khi xem xét giải quyết các vụ việc đó
theo thủ tục tố tụng dân sự của Tòa án”[9, tr61].
Việc xác định thẩm quyền giữa các Tòa án một cách hợp lý, khoa học
tránh đƣợc sự chồng chéo trong việc thực hiện nhiệm vụ giữa Tòa án với các cơ
quan nhà nƣớc, giữa các Tòa án với nhau, góp phần tạo điều kiện cần thiết cho
Tòa án giải quyết nhanh chóng và đúng đắn các vụ án dân sự, nâng cao hiệu quả
giải quyết các vụ án dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đƣơng sự
trƣớc Tòa án.
Bên cạnh những yêu cầu về điều kiện khởi kiện ngoài yêu cầu về chủ thể
khởi kiện, thẩm quyền của Tòa án thì vụ việc đƣợc khởi kiện chƣa đƣợc giải
quyết bằng một bản án hay quyết định của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan
16


nhà nƣớc có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật, trừ những trƣờng hợp theo

quy định của pháp luật; đối với một số loại việc trƣớc khi khởi kiện ngƣời khởi
kiện phải yêu cầu các cơ quan liên quan xem xét giải quyết trƣớc; việc khởi kiện
phải tuân thủ các yêu cầu và hình thức khởi kiện. Tất cả những vấn đề này
chúng tôi sẽ phân tích cụ thể, rõ ràng tại Chƣơng 2 của luận văn.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của thụ lý vụ án Dân sự
1.2.1. Khái niệm thụ lý vụ án Dân sự
Trong hệ thống các cơ quan tƣ pháp, “Tòa án là nơi biểu hiện tập trung
nhất của quyền tư pháp - nơi mà kết quả của hoạt động điều tra, công tố, bào
chữa được kiểm tra, xem xét một cách công khai thông qua thủ tục tố tụng theo
luật định để đưa ta những phán quyết cuối cùng có tính chất quyền lực nhà
nước, nơi phản án đầy đủ và sâu sắc nhất bản chất của nền công lý”[1, tr.1].
Nhƣ vậy Tòa án là nơi thể hiện chất lƣợng hoạt động và uy tín của hệ thống cơ
quan tƣ pháp. Hoạt động xét xử là hoạt động nhân danh quyền lực nhà nƣớc
nhằm xem xét, đánh giá và ra phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của
hành vi pháp luật hay quyết định pháp luật khi có sự tranh chấp và mâu thuẫn
giữa các bên có lợi ích khác nhau.
Theo quy định tại Điều 9 BLDS năm 2015, tất cả các quyền dân sự của cá
nhân, pháp nhân đƣợc tôn trọng và đƣợc pháp luật bảo vệ. Khi quyền dân sự của
một chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của
Bộ luật này hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận quyền dân
sự của mình; buộc chấm dứt hành vi vi phạm; buộc xin lỗi, cải chính công khai;
buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; buộc bồi thƣờng thiệt hại; bủy quyết định cá
biệt trái pháp luật cơ quan, tổ chức, ngƣời có thẩm quyền. Tại Khoản 1 Điều 4
BLTTDS năm 2015 quy định: “Cơ quan, tổ chức, cá nhân do Bộ luật này quy
định có quyền khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự tại Tòa án
có thẩm quyền để yêu cầu Tòa án bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
mình hoặc của người khác”[3, tr. 9].

17



Nhƣ vậy, cơ quan, tổ chức, cá nhân do BLTTDS quy định có quyền khởi
kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của ngƣời khác thông qua
con đƣờng Tòa án. Trong trƣờng hợp quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc của
ngƣời khác bị xâm phạm hoặc trong trƣờng hợp ảnh hƣởng đến lợi ích Nhà
nƣớc, lợi ích công cộng thuộc lĩnh vực mình phụ trách, cơ quan, tổ chức, cá
nhân có quyền khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án bảo vệ. Các quy định
về thẩm quyền xét xử của Tòa án (thẩm quyền theo vụ việc, thẩm quyền theo
cấp Tòa án hay thẩm quyền theo lãnh thổ, theo sự lựa chọn của nguyên đơn)
đảm bảo các bên đƣơng sự có thể tiếp cận đến Tòa án giải quyết vụ việc một
cách hợp lý và bình đẳng.
Các vụ việc đƣợc Tòa án giải quyết, phát sinh từ các quan hệ pháp luật
dân sự, hôn nhân-gia đình, kinh doanh, thƣơng mại và lao động đƣợc gọi là vụ
việc dân sự. Trong đó, đối với những vụ việc có tranh chấp về quyền và nghĩa
vụ giữa các bên thì đƣợc gọi là vụ án dân sự; đối với những vụ việc không có
tranh chấp về quyền và nghĩa vụ giữa các bên, đƣơng sự chỉ yêu cầu Tòa án
công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý là căn cứ làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ dân sự của mình hoặc của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác hau
yêu cầu Tòa án công nhận cho mình quyền dân sự thì đƣợc gọi là việc dân sự.
Thụ lý vụ án là một hoạt động của giai đoạn đầu tiên của thủ tục giải
quyết vụ án dân sự. Hoạt động này đƣợc Tòa án tiến hành ngay sau khi có đơn
khởi kiện của những chủ thể mà pháp luật quy định. Bản chất của hoạt động thụ
lý là việc Tòa án xác định các điều kiện khởi kiện và tiến hành vào sổ thụ lý vụ
án theo quy định của pháp luật.
Theo từ điển tiếng Việt: “Thụ lý là tiếp nhận giải quyết vụ kiện” [4,tr.
961] Còn theo từ điển luật học “Thụ lý vụ án là bắt đầu tiếp nhận một việc để
xem xét và giải quyết. Theo pháp luật tố tụng dân sự, thụ lý vụ án là việc tòa dân
sự nhận đơn yêu cầu của đương sự đề nghị xem xét, giải quyết một vụ việc để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, pháp nhân, cơ quan, tổ chức” [5,

tr. 732]. Trong giáo trình Luật tố tụng dân sự của trƣờng Đại học luật Hà Nội
năm 2015 đƣa ra khái niệm thụ lý vụ án: “Thụ lý vụ án là việc Tòa án nhận đơn
18


khởi kiện của người khởi kiện và vào sổ thụ lý vụ án dân sự để giải quyết” [9,
tr.254]. Tòa án là cơ quan có chức năng xét xử các vụ án phát sinh từ các lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội. Bên cạnh việc xét xử các vụ án hình sự, kinh
tế, hành chính…thì việc giải quyết các tranh chấp về dân sự là một bộ phận
không nhỏ trong toàn bộ khối lƣợng công việc của Tòa án. Để giải quyết các
tranh chấp này đƣợc kịp thời và chính xác Tòa án phải tuân theo một quy trình
tố tụng nghiêm khắc, chặt chẽ. Điểm khởi đầu và có tính chất làm xuất phát
điểm, là cơ sở cho các bƣớc tiếp theo của quy trình tố tụng chính là hoạt động
thụ lý vụ án dân sự của Tòa án nhân dân. Tuy nhiên, hoạt động thụ lý của Tòa án
có phát sinh hay không hoàn toàn phụ thuộc vào việc thực hiện quyền khởi kiện
vụ án dân sự của các đƣơng sự và các chủ thể có thẩm quyền có đúng quy định
của pháp luật không. Trên cơ sở yêu cầu khởi kiện của đƣơng sự khi giả thiết
quyền lợi của mình bị xâm phạm và tranh chấp, Tòa án phải xác định quan hệ
pháp luật tranh chấp đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án mình hay
không. Nhƣ vậy Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ án khi có đơn khởi kiện hợp
pháp của đƣơng sự và yêu cầu khởi kiện đó, đáp ứng đƣợc đầy đủ các điều kiện
khởi kiện.
Tòa án là cơ quan có chức năng giải quyết các tranh chấp về dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thƣơng mại, lao động. Để giải quyết các tranh
chấp này Tòa án phải thụ lý. Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ án khi có đơn khởi
kiện hợp pháp của đƣơng sự. Nhƣ vậy, thụ lý vụ án dân sự có mối quan hệ mật
thiết với các hoạt động tố tụng khác, Tòa án chỉ tiến hành hòa giải, đƣa vụ án ra
xét xử sau khi đã thụ lý vụ án. Thụ lý vụ án dân sự là một giai đoạn của tố tụng
dân sự, giai đoạn đầu tiên trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án. Thụ lý vụ án
dân sự thực chất là việc Tòa án chấp nhận đơn khởi kiện xem xét giải quyết.

Đây là một hành động cụ thể của Tòa án trong việc giải quyết các tranh chấp.
Thụ lý vụ án làm phát sinh quyền và nghĩa vụ tố tụng của các chủ thể tham gia
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Tòa án có trách nhiệm căn cứ vào các quy
phạm nội dung giải quyết tranh chấp đúng pháp luật, và để vụ án dân sự đƣợc
giải quyết đúng thời hạn và chính xác thì tòa án phải làm tốt công tác thụ lý. Thụ
19


×