Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Nghiên cứu, đề xuất quy trình quản lý các nhiệm vụ, dự án bảo vệ môi trường trong ngành công an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (595.47 KB, 82 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Nghiên cứu, đề xuất quy trình quản lý các nhiệm
vụ, dự án bảo vệ môi trường trong ngành Công an” do TS. Nguyễn Thị Ánh
Tuyết hướng dẫn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Kết quả trong luận văn là hoàn toàn trung thực và chưa được công bố trong
bất cứ công trình nào khác. Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ
nguồn gốc.

Hà Nội, ngày … tháng … năm 2013
Học viên

Lê Bích Vân


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Nguyễn Thị Ánh Tuyết, người đã
tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn này. Xin cảm ơn các Thày,
Cô giáo Viện khoa học và Công nghệ Môi trường, Viện Đào tạo sau đại học Trường Đại học Bách khoa Hà Nội đã tận tình giúp đỡ, tạo điều kiện, giảng dạy và
đóng góp nhiều ý kiến, kinh nghiệm quý báu cho tôi trong thời gian học tập và
nghiên cứu tại trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn Phòng quản lý môi trường - Cục quản lý Khoa
học công nghệ và Môi trường - Tổng cục Hậu cần - Kỹ thuật - Bộ Công an và các
đơn vị, địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi về cơ sở vật chất và động viên tinh
thần, giúp đỡ tôi thu thập số liệu, thông tin để nghiên cứu nội dung của đề tài.
Xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến gia đình và đồng nghiệp, đồng môn đã có
những ý kiến góp ý cho tôi hoàn chỉnh luận văn, ủng hộ tôi về mặt tinh thần và tạo
điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp.

Hà Nội, ngày … tháng … năm 2013
Học viên


Lê Bích Vân


DANH MỤC VIẾT TẮT

Công an nhân dân:

CAND

Cán bộ chiến sỹ:

CBCS

Bảo vệ môi trường:

BVMT

Bộ Giao thông vận tải:

BGTVT

Bộ Tài nguyên môi trường:

BTNMT

Bộ Công thương:

BCT

Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn:


BNNPTNT

Quản lý môi trường:

QLMT

Tài nguyên môi trường:

TNMT

Đồng bằng sông Cửu Long:

ĐBSCL

Đa dạng sinh học:

ĐDSH


DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 1: Tổ chức công tác quản lý nhà nước về Bảo vệ môi trường
Hình 2 : Quy trình cơ bản xây dựng kế hoạch
Hình 3: Quy trình xây dựng kế hoạch của Bộ Giao thông vận tải
Hình 4: Quy trình xây dựng kế hoạch của Bộ Công thương
Hình 5: Quy trình xây dựng kế hoạch
Hình 6: Quy trình triển khai các nhiệm vụ, dự án BVMT của Bộ GTVT
Hình 7: Quy trình triển khai các nhiệm vụ, dự án BVMT của Bộ Công thương
Hình 8: Quy trình triển khai các nhiệm vụ, dự án BVMT đang áp dụng tại Bộ Công an
Hình 9: Quy trình đề xuất xây dựng kế hoạch BVMT ngành Công an

Hình 10: Quy trình đề xuất triển khai, thực hiện các nhiệm vụ, dự án BVMT ngành
Công an
Hình 11: Ý kiến của cán bộ địa phương đối với quy trình xây dựng kế hoạch
Hình 12: Quy chế phối hợp của các cơ quan chức năng thực hiện nhiệm vụ BVMT


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1: So sánh quy trình xây dựng kế hoạch BVMT của Bộ GTVT và Bộ CT
Bảng 2: So sánh quy trình triển khai nhiệm vụ, dự án BVMT của Bộ GTVT và Bộ CT
Bảng 3: Tóm tắt nguyên tắc có tính đặc thù liên quan đến công tác BVMT trong
CAND
Bảng 4: Tổng hợp thời gian xây dựng kế hoạch theo quy trình thử nghiệm năm KH
2013.
Bảng 5: Tổng hợp thời gian xây dựng kế hoạch theo quy trình thử nghiệm năm KH
2014.
Bảng 6: Tổng hợp thời gian triển khai nhiệm vụ theo quy trình thử nghiệm
Bảng 7: Tổng hợp chi phí thẩm định hồ sơ BCKTKT và dự toán nhiệm vụ


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết thực hiện đề tài:
Bảo vệ môi trường, phát triển bền vững đã trở thành xu thế tất yếu của thời
đại. Nhận thức đúng đắn về vấn đề môi trường trong quá trình phát triển đất nước,
Đảng và Nhà nước ta đã sớm quan tâm đến công tác bảo vệ môi trường song hành
với phát triển kinh tế-xã hội. Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ
Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước là sự cụ thể hóa quan điểm phát triển kinh tế xã hội đi đôi với công tác
bảo vệ môi trường của Đảng.
Trong những năm vừa qua, với nhiều nỗ lực cố gắng, công tác bảo vệ môi
trường ở nước ta đã có nhiều chuyển biến tích cực. Hệ thống văn bản pháp quy từng

bước được xây dựng và hoàn thiện, phục vụ ngày càng có hiệu quả cho công tác bảo
vệ môi trường trong các cấp, các ngành và nhân dân.
Tuy nhiên công tác bảo vệ môi trường ở nước ta đang đứng trước nhiều
thách thức đáng quan tâm như: thách thức giữa yêu cầu bảo vệ môi trường với lợi
ích kinh tế trước mắt; thách thức giữa cơ sở hạ tầng kỹ thuật bảo vệ môi trường lạc
hậu và khối lượng chất thải đang ngày càng tăng lên; thách thức giữa nhu cầu ngày
càng cao về vốn đầu tư vào môi trường với khả năng có hạn của ngân sách nhà
nước; thách thức giữa tổ chức và năng lực quản lý môi trường còn nhiều bất cập với
những đòi hỏi phải nhanh chóng đưa công tác quản lý môi trường vào nề nếp …
Nhận rõ tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường và trách nhiệm của
lực lượng CAND đối với công tác bảo vệ môi trường, ngày 22/11/2000 Bộ trưởng
Bộ Công an đã có Chỉ thị số 04/2000/CT-BCA(E11) về việc tăng cường thực hiện
nhiệm vụ bảo vệ môi trường và đấu tranh phòng, chống tội phạm về môi trường.
Mặc dù công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong lực lượng CAND đã
đạt được một số kết quả ban đầu song vẫn còn nhiều bất cập. Kinh phí ngân sách
nhà nước chi sự nghiệp môi trường cấp cho Bộ Công an hàng năm rất hạn chế,
trong khi nhu cầu sử dụng nguồn kinh phí này ngày một lớn do môi trường ngày
càng xuống cấp nghiêm trọng. Mặt khác, với đặc thù của lực lượng vũ trang đảm
1


bảo an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, hàng năm Bộ Công an tiếp nhận một
số lượng lớn can phạm nhân đã hoặc chưa thành án để giam giữ, cải tạo, do đó vấn
đề môi trường cho các cơ sở giam giữ và cơ sở y tế, các đơn vị đóng quân vùng đồi
núi, vùng sâu, vùng xa… cần phải được quan tâm đúng mức, kịp thời. Bài toán đặt
ra là làm sao để sử dụng nguồn ngân sách chi sự nghiệp môi trường cấp cho ngành
Công an một cách khoa học, hiệu quả. Điều này rất cần phải có những quy định cụ
thể, được Bộ Công an ban hành thành văn bản pháp quy và được triển khai sâu rộng
trong toàn lực lượng.
Vì vậy, công tác nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý các nhiệm vụ, dự án

BVMT ngành Công an sao cho kinh phí môi trường được sử dụng tốt hơn, đúng nơi
đúng lúc và tiết kiệm là một yêu cầu cần thiết, là nền tảng xây dựng một văn bản
quy phạm pháp luật của ngành Công an về lĩnh vực này. Thông qua việc thống nhất
quy trình quản lý các nhiệm vụ, dự án bảo vệ môi trường trong toàn ngành, cơ quan
quản lý sẽ triển khai công tác được giao một cách suôn sẻ, rõ ràng, nâng cao vai trò,
vị trí của một cơ quan tham mưu cấp Bộ, thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ quản lý
nhà nước về bảo vệ môi trường toàn ngành. Đồng thời kết quả nghiên cứu còn giúp
Công an các đơn vị địa phương nâng cao nhận thức về bảo vệ môi trường, từng
bước thực hiện tốt trách nhiệm của mình trong công tác giữ gìn và bảo vệ môi
trường.
Trong quá trình công tác tại đơn vị, với chức năng nhiệm vụ được giao, tác
giả có điều kiện tiếp xúc với cán bộ làm công tác quản lý môi trường của Công an
rất nhiều đơn vị, địa phương. Một số đồng chí đã chia sẻ với tác giả những khó
khăn, vướng mắc, hạn chế về chuyên môn nghiệp vụ trong quá trình triển khai công
tác bảo vệ môi trường trong ngành. Một số đồng chí khác lại trao đổi những ý kiến
đóng góp trong quá trình thực hiện, những đề xuất của một đơn vị địa phương đối
với cơ quan cấp Bộ. Sau 5 năm đảm nhận nhiệm vụ hướng dẫn Công an các đơn vị
địa phương trong lĩnh vực bảo vệ môi trường trong ngành, tác giả luôn trăn trở về
một quy trình quản lý các nhiệm vụ được giao để Công an các đơn vị, địa phương
thực hiện một cách hiệu quả.

2


Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn của công việc mà bản thân được giao phụ
trách, tác giả quyết định lựa chọn đề tài: “Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý
các nhiệm vụ, dự án Bảo vệ môi trường trong ngành Công an” làm đề tài nghiên
cứu trong luận văn thạc sĩ.
2. Mục tiêu, đối tƣợng nghiên cứu và các nội dung chính của luận văn:
2.1. Mục tiêu và đối tƣợng nghiên cứu:

- Đánh giá và phân tích những thuận lợi và khó khăn, vướng mắc trong công
tác quản lý, triển khai thực hiện các nhiệm vụ, dự án trong ngành Công an, tìm ra
nguyên nhân của bất cập trong công tác quản lý, triển khai thực hiện và những
nguyên tắc có tính đặc thù của ngành Công an trong công tác này.
- Từ những đánh giá phân tích trong công tác quản lý và triển khai các nhiệm
vụ môi trường trên, đề xuất quy trình mới quản lý các nhiệm vụ, dự án bảo vệ môi
trường trong Công an nhân dân.
- Đánh giá khả năng thực hiện và những cải thiện trong thực tế khi đưa quy
trình vào áp dụng trong ngành Công an.
2.2. Phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu công tác quản lý các nhiệm vụ về bảo vệ môi trường trong nội
bộ lực lượng CAND, tại các đơn vị quản lý hành chính theo cấp Bộ, Sở và Công an
các huyện.
2.3. Phƣơng pháp nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: là phương pháp nghiên cứu sử dụng kỹ
năng thu thập các tài liệu có liên quan đến đề tài từ đó có nghiên cứu, đánh giá và
đề xuất những điểm mới. Nghiên cứu các tài liệu trong và ngoài ngành về công tác
quản lý các nhiệm vụ, dự án BVMT, đưa ra những ưu nhược điểm của từng ngành,
những tồn tại hạn chế cũng như rút ra nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó, từ đó
đưa ra giải pháp.
- Phương pháp đối chiếu - so sánh: là phương pháp nghiên cứu sử dụng kỹ
năng phân tích các sự vật hiện tượng có tính tương đồng, tìm ra những điểm khác

3


biệt, đặt trong hoàn cảnh cụ thể để đối chiếu, so sánh với nhau nhằm tìm ra điểm
chung - riêng của từng sự vật, hiện tượng. Sử dụng những thông tin thu thập được
đem so sánh, đối chiếu, đưa ra nhận xét đánh giá với từng quy trình quản lý của
từng Bộ, ngành so với quy trình quản lý của Bộ Công an, so sánh quy trình quản lý

của Bộ Công an hiện đang được áp dụng với quy trình đề xuất.
- Phương pháp khảo sát thực tế: là phương pháp trực tiếp quan sát sự vật hiện
tượng trong một không gian và tại một thời điểm xác định để ghi nhận thực trạng
của sự vật hiện tượng. Trong nghiên cứu đề tài này, phương pháp này bao gồm các
kỹ năng quan sát, kiểm tra, ghi hình hiện trạng công tác quản lý nhà nước về BVMT
trong CAND.
2.4. Nội dung chính của luận văn:
Với mục đích đánh giá được hiện trạng công tác quản lý các nhiệm vụ bảo vệ
môi trường quốc gia nói chung và trong ngành Công an nói riêng làm cơ sở cho
những nghiên cứu đề xuất quy trình mới quản lý các nhiệm vụ bảo vệ môi trường
trong ngành Công an, tác giả chia nội dung luận văn làm 04 chương có thể tóm tắt
như sau:
Trong chương I, luận văn sẽ giới thiệu những nét tổng quan về công tác quản
lý nhà nước trong Bảo vệ môi trường của nước ta, những đường hướng chính sách
và công cụ quản lý môi trường đang áp dụng tại Việt Nam, đặc biệt tập trung những
nội dung công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường trong Công an nhân dân,
trong đó có 2 vấn đề cần quan tâm:
+ Công tác xây dựng kế hoạch Bảo vệ môi trường hàng năm.
+ Công tác triển khai các nhiệm vụ, dự án bảo vệ môi trường hàng năm.
Tại chương này, luận văn cũng sẽ chỉ ra những nguyên tắc có tính đặc thù
của ngành Công an và những bất cập trong công tác quản lý môi trường trong
ngành, là cơ sở cho các phân tích và đề xuất tại các chương tiếp theo.
Trong chương 2, luận văn sẽ giới thiệu quy trình cơ bản quản lý một kế
hoạch cho các Bộ, ngành, đồng thời lựa chọn quy trình quản lý nhiệm vụ, dự án

4


BVMT của 02 Bộ, ngành đã ban hành, đó là Bộ Công thương, Bộ Giao thông vận
tải để phân tích, so sánh với quy trình quản lý nhiệm vụ, dự án BVMT của Bộ

Công an, qua đó nêu bật những bất cập trong quy trình quản lý các nhiệm vụ, dự án
BVMT đang áp dụng hiện nay trong CAND, chỉ ra những nguyên nhân của bất cập
đó.
Trong chương 3, căn cứ các yêu cầu công tác quản lý môi trường của ngành
Công an, nhằm giải quyết những khúc mắc, bất cập trong công tác quản lý môi
trường của ngành đã phân tích tại chương trước, tác giả đề xuất 02 quy trình quản lý
các nhiệm vụ, dự án BVMT mới để triển khai thực hiện trong ngành Công an. Tác
giả sẽ có so sánh đối chiếu quy trình đang áp dụng và quy trình mới đề xuất, phân
tích giải trình tính hợp lý của các bước đề xuất trong quy trình mới.
Trong chương 4, luận văn trình bày phương pháp thực hiện các bước cụ thể
trong quy trình đề xuất sao cho hợp lý nhất, đánh giá tính khả thi của quy trình khi
đưa vào thực hiện, tổ chức áp dụng thử nghiệm tại Công an một số đơn vị, địa
phương, từ đó rút ra những hiệu quả thực tế của quy trình mới.
Tại phần kết luận, tác giả đã đối chiếu kết quả nghiên cứu với mục đích đề
ra, từ đó đánh giá kết quả nghiên cứu của mình và đưa ra hướng nghiên cứu tiếp
theo cho đề tài này.
3. Lịch sử nghiên cứu:
3.1. Các nghiên cứu tại các Bộ, ngành khác:
Công tác quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường luôn là một trong những
công tác trọng tâm trong Nghị quyết của Bộ chính trị về bảo vệ môi trường trong
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ năm 2005 đến nay,
công tác này không ngừng đổi mới cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế và
xã hội của đất nước. Nhằm đảm bảo mục tiêu bảo vệ môi trường và phát triển bền
vững, nhiều Bộ, ngành đã quan tâm và đầu tư nghiên cứu phương pháp, quy trình
quản lý các nhiệm vụ, dự án bảo vệ môi trường, có sử dụng ngân sách nhà nước chi
sự nghiệp môi trường hoặc các nguồn kinh phí khác nhưng thực hiện chiến lược,

5



chương trình, quy hoạch, kế hoạch về bảo vệ môi trường, ứng phó biến đổi khí hậu,
sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Bộ Tài nguyên và Môi trường với chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước về
bảo vệ môi trường quốc gia hiện nay vẫn đang trong quá trình nghiên cứu, chỉnh
sửa Dự thảo văn bản quy định và hướng dẫn thi hành các quy định về quản lý các
nhiệm vụ, dự án bảo vệ môi trường.
Tính đến thời điểm tháng 08/2013 đã có một số văn bản chính thức được ban
hành có liên quan đến đề tài nghiên cứu như sau:
- Thông tư số 76/2009/TT-BNNPTNT ngày 04/12/2009 của Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn hướng dẫn quản lý các nhiệm vụ bảo vệ môi trường thuộc
Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
- Thông tư số 13/2010/TT-BGTVT ngày 07/06/2010 của Bộ Giao thông vận
tải quy định về quản lý các nhiệm vụ môi trường trong ngành giao thông vận tải sử
dụng nguồn kinh phí ngân sách nhà nước.
- Thông tư số 36/2011/TT-BCT ngày 28/09/2011 quy định quản lý các nhiệm
vụ, dự án bảo vệ môi trường ngành Công thương.
3.2. Các nghiên cứu trong ngành Công an:
Hiện nay Bộ Công an chưa ban hành văn bản chính thức nào về quy trình
quản lý và triển khai các nhiệm vụ, dự án bảo vệ môi trường trong ngành. Năm
2005, Bộ Công an đã phê chuẩn dự án “Điều tra cơ bản thực trạng môi trường, công
tác bảo vệ môi trường và đề xuất các giải pháp bảo vệ môi trường trong lực lượng
CAND”, trong đó có 02 chuyên đề đã đề cập đến vấn đề quản lý môi trường trong
CAND:
- Chuyên đề “Giải pháp tăng cường năng lực, nâng cao công tác quản lý môi
trường trong Công an nhân dân”, nhóm tác giả Nguyễn Thế Sự, Lê Bích Vân.
- Chuyên đề “Công tác quản lý môi trường tại Công an các đơn vị, địa
phương”, nhóm tác giả Nguyễn Thế Sự, Phạm Mạnh Cường.

6



NỘI DUNG
CHƢƠNG I. TỔNG QUAN CÔNG TÁC
QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG
I.1. Các khái niệm và công cụ quản lý nhà nƣớc về Bảo vệ môi trƣờng:
I.1.1. Các khái niệm cơ bản:
1. Phát triển bền vững:
“Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm
thương tổn đến khả năng của các thế hệ tương lai đáp ứng nhu cầu của bản thân
họ”[5]
2. Quản lý môi trường:
“Quản lý môi trường là tổng hợp các biện pháp, luật pháp, chính sách kinh
tế, kỹ thuật, xã hội thích hợp nhằm bảo vệ chất lượng môi trường sống và phát triển
bền vững kinh tế xã hội quốc gia”. [10]
3. Chính sách môi trường:
“Chính sách môi trường là những chủ trương, biện pháp mang tính chiến
lược, thời đoạn, nhằm giải quyết một nhiệm vụ bảo vệ môi trường cụ thể nào đó,
trong một giai đoạn nhất định” [5]
4. Công cụ quản lý môi trường:
“Các công cụ quản lý môi trường là các phương pháp và kỹ thuật dùng để
nâng cao chất lượng của việc ra quyết định hay quản lý thông tin hay tác động đến
những thay đổi trong hành vi của những người khác nhằm mục đích chung là nâng
cao kết quả thực hiện các yêu cầu môi trường” [5]
5. Tiêu chuẩn môi trường:
Là chuẩn mực, giới hạn được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định,
làm căn cứ để quản lý và bảo vệ môi trường, bao gồm tiêu chuẩn về chất lượng môi
trường, tiêu chuẩn về chất thải.[10]

7



I.1.2. Mục tiêu cơ bản của quản lý môi trƣờng:
Mục tiêu cơ bản của quản lý môi trường là phát triển bền vững, nhằm đảm
bảo giữ cân bằng giữa phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ môi trường. Hay nói
cách khác, phát triển kinh tế - xã hội tạo ra các tiềm lực kinh tế để bảo vệ môi
trường, còn bảo vệ môi trường tạo ra các tiềm năng về tự nhiên và xã hội mới cho
công cuộc phát triển kinh tế - xã hội trong tương lai.
Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, mục tiêu cơ bản của
bảo vệ môi trường ở nước ta là:
“Hạn chế mức độ gia tăng ô nhiễm, khắc phục tình trạng suy thoái và cải
thiện chất lượng môi trường; giải quyết một bước cơ bản tình trạng suy thoái môi
trường ở các khu công nghiệp, các khu dân cư đông đúc ở các thành phố lớn và một
số vùng nông thôn; cải tạo và xử lý ô nhiễm môi trường trên các dòng sông, hồ ao,
kênh mương. Nâng cao khả năng phòng tránh và hạn chế tác động xấu của thiên tai,
của sự biến động khí hậu bất lợi đối với môi trường; ứng cứu và khắc phục có hiệu
quả sự cố ô nhiễm môi trường do thiên tai gây ra. Khai thác và sử dụng hợp lý các
nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo đảm cân bằng sinh thái ở mức cao, bảo tồn thiên
nhiên và giữ gìn đa dạnh sinh học. Chủ động thực hiện và đáp ứng các yêu cầu về
môi trường trong hội nhập kinh tế quốc tế, hạn chế các ảnh hưởng xấu của quá trình
toàn cầu hoá tác động đến môi trường trong nước nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân, bảo đảm phát triển bền vững đất
nước”.[12]
Mục tiêu QLMT có thể thay đổi theo thời gian và có những ưu tiên riêng đối
với mỗi quốc gia, tùy thuộc vào điều kiện kinh tế -xã hội, hệ thống pháp lý.
I.1.3. Các nguyên tắc chung trong quản lý môi trƣờng:
Có thể nêu lên các nguyên tắc chính yếu của công tác quản lý môi trường nói
chung như sau:
- Hướng tới sự phát triển bền vững

8



Nguyên tắc này yêu cầu phải xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương,
pháp luật và chính sách Nhà nước, ngành và địa phương theo hướng phát triển bền
vững, nghĩa là phát triển phải đảm bảo hài hòa các yếu tố phúc lợi kinh tế, phúc lợi
xã hội và phúc lợi sinh thái.
- Kết hợp các mục tiêu quốc gia - quốc tế - Vùng lãnh thổ và cộng đồng dân
cư địa phương trong việc quản lý môi trường
Môi trường không có ranh giới và sự chia cắt rạch ròi giữa các vùng địa lý,
do đó vấn đề ô nhiễm môi trường là vấn đề có tính chất quốc gia, quốc tế vì nó
không chỉ ảnh hưởng đến con người, sinh vật trên quốc gia, lãnh thổ riêng biệt nào
mà còn ảnh hưởng đến các quốc gia, vùng lãnh thổ xung quanh. Để thực hiện được
nguyên tắc này, cần tham gia vào công ước, hiệp định quốc tế về môi trường đồng
thời ban hành các văn bản quốc gia về pháp luật, tiêu chuẩn, quy định cũng như xây
dựng và ban hành quy chế bảo vệ môi trường địa phương
- Quản lý môi trường xuất phát từ quan điểm hệ thống và cần được thực hiện
bằng nhiều biện pháp và công cụ tổng hợp đa dạng và thích hợp
Thành phần môi trường của khu vực cần được bảo vệ thường rất đa dạng, do
vậy các công cụ và biện pháp bảo vệ môi trường cũng phải đa dạng và áp dụng
thích hợp cho từng loại đối tượng cần được bảo vệ khác nhau.
- Phòng ngừa tai biến, suy thoái môi trường cần được ưu tiên
Phòng ngừa là biện pháp ít tốn kém hơn nếu xảy ra ô nhiễm. Do hậu quả của
sự ô nhiễm là rất to lớn và không dự tính hết được, chi phí cho công việc xử lý
thường rất lớn và chưa chắc đã loại bỏ hết các chất độc hại ra khỏi môi trường nên
cần có biện pháp phòng ngừa để chúng không phát tán.
- Người gây ô nhiễm phải trả tiền:
Nguyên tắc này là cơ sở để xây dựng các quy định về thuế, phí, lệ phí và các
quy định xử phạt hành chính đối với các vi phạm về quản lý môi trường. Đối tượng
nào có hành động gây ô nhiễm, tổn hại đến môi trường phải trả kinh phí và có trách
nhiệm phục hồi chất lượng môi trường.


9


Nguyên tắc này cần phối hợp với nguyên tắc người sử dụng trả tiền như các
loại phí rác thải, phí nước thải...[7]
I.1.4. Công cụ quản lý môi trƣờng
Công cụ QLMT là các biện pháp hành động thực hiện công tác quản lý môi
trường của nhà nước, các tổ chức khoa học và sản xuất. Mỗi một công cụ có một
chức năng và phạm vi tác động nhất định, liên kết và hỗ trợ lẫn nhau.
Công cụ QLMT có thể phân loại theo chức năng gồm: Công cụ điều chỉnh vĩ
mô, công cụ hành động và công cụ hỗ trợ. Công cụ điều chỉnh vĩ mô là luật pháp và
chính sách. Công cụ hành động là các công cụ có tác động trực tiếp tới hoạt động
kinh tế - xã hội, như các quy định hành chính, quy định xử phạt v.v... và công cụ
kinh tế. Công cụ hành động là vũ khí quan trọng nhất của các tổ chức môi trường
trong công tác bảo vệ môi trường. Thuộc về loại này có các công cụ kỹ thuật như
GIS, mô hình hoá, đánh giá môi trường, kiểm toán môi trường, quan trắc môi
trường. Công cụ quản lý môi trường có thể phân loại theo bản chất thành các loại cơ
bản sau:
- Công cụ luật pháp chính sách bao gồm các văn bản về luật quốc tế, luật
quốc gia, các văn bản khác dưới luật, các kế hoạch và chính sách môi trường quốc
gia, các ngành kinh tế, các địa phương.
- Các công cụ kinh tế gồm các loại thuế, phí đánh vào thu nhập bằng tiền của
hoạt động sản xuất kinh doanh. Các công cụ này chỉ áp dụng có hiệu quả trong nền
kinh tế thị trường.
- Các công cụ kỹ thuật quản lý thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát nhà
nước về chất lượng và thành phần môi trường, về sự hình thành và phân bố chất ô
nhiễm trong môi trường. Các công cụ kỹ thuật quản lý có thể gồm các đánh giá môi
trường, minitoring môi trường, xử lý chất thải, tái chế và tái sử dụng chất thải. Các
công cụ kỹ thuật quản lý có thể được thực hiện thành công trong bất kỳ nền kinh tế

phát triển như thế nào.[7]

10


I.2. Tổng quan công tác quản lý nhà nƣớc về bảo vệ môi trƣờng ở Việt Nam
I.2.1. Chính sách về bảo vệ môi trƣờng của nƣớc ta:
Chính sách bảo vệ môi trường quốc gia được chia làm 9 nhóm như sau:
1. Khuyến khích, tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia bảo vệ môi trường
2. Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục kết hợp áp dụng các biện pháp hành
chính, kinh tế…
3. Sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên, phát triển năng lượng sạch, tái
tạo và đẩy mạnh tái chế, tái sử dụng chất thải.
4. Ưu tiên giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc, tập trung xử lý cơ sở
gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng và phục hồi môi trường khu vực bị ô nhiễm,
chú trọng bảo vệ môi trường đô thị, khu dân cư.
5. Đầu tư bảo vệ môi trường là đầu tư cho phát triển, đa dạng hóa các nguồn
vốn đầu tư cho bảo vệ môi trường, bố trí khoản chi riêng cho sự nghiệp môi trường
trong ngân sách nhà nước hàng năm.
6. Ưu đãi cho các hoạt động bảo vệ môi trường: đất đai, thuế, tài chính…
7. Đào tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu, áp dụng và chuyển giao công nghệ
về bảo vệ môi trường, hình thành và phát triển ngành công nghiệp môi trường.
8. Mở rộng và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế: thực hiện đầy đủ các cam
kết quốc tế về môi trường và khuyến khích tổ chức, cá nhân hợp tác quốc tế về bảo
vệ môi trường.
9. Phát triển kết cấu hạ tầng bảo vệ môi trường, tăng cường và nâng cao năng
lực quốc gia về bảo vệ môi trường [9]
I.2.2. Các nội dung quản lý môi trƣờng:
Các nội dung của công tác quản lý môi trường tại Việt Nam được Bộ tài
nguyên và Môi trường quy định:

- Nước sạch và vệ sinh môi trường
- Quản lý môi trường đô thị
- Quản lý môi trường đất ngập nước
11


- Quản lý môi trường các điểm du lịch
- Quản lý chất thải rắn
- Quản lý chất thải nguy hại
- Quản lý hóa chất bảo vệ thực vật
- Kiểm soát vệ sinh an toàn thực phẩm
- Bảo vệ đa dạng sinh học
- Quản lý môi trường trong lĩnh vực chăn nuôi
- Kiểm soát tác động môi trường của các dự án nhỏ do cấp cơ sở cấp phép
- Quản lý môi trường các cơ sở nuôi thủy sản
- Quản lý môi trường đối với các cơ sở chế biến, buôn bán thủy sản
- Quản lý môi trường các làng nghề thủ công
- Quản lý môi trường các hoạt động tận thu khoáng sản
- Quản lý môi trường với lò giết mổ gia súc
- Quản lý chất thải rắn y tế tại các cơ sở hành nghề y tế tư nhân
- Quản lý môi trường tại những nơi ở không chính thức trong đô thị
- Quản lý môi trường trong và sau thiên tai
- Quản lý môi trường ở các khu vực tiền đô thị
- Hoạt động bảo vệ môi trường tại nơi công cộng
- Hoạt động bảo vệ môi trường tại nhà
- Quản lý môi trường các dự án di dân nội bộ
- Lồng ghép vấn đề dân số vào chính sách môi trường và phát triển của địa
phương.
- Lồng ghép mục tiêu giới vào các dự án phát triển
- Bảo vệ đa dạng văn hóa

- Tổ chức sự tham gia của cộng đồng trong bảo vệ môi trường
- Kế hoạch hóa công tác bảo vệ môi trường
- Thực hiện và điều hành công tác bảo vệ môi trường

12


- Giáo dục môi trường
- Truyền thông môi trường
- Hòa giải các tranh chấp môi trường.[7]
I.2.3. Công cụ quản lý môi trƣờng tại Việt Nam:
I.2.3.1. Các công cụ pháp lý:
Một số văn bản pháp lý trong công tác quản lý môi trường đã được ban hành:
- Luật Bảo vệ môi trường số 52/2005/QH11
- Nghị quyết số 41-NQ/TW ngày 15/11/2004 của Bộ Chính trị về bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Nghị quyết số 27NQ-CP về một số giải pháp cấp bách trong công tác quản lý
nhà nước về tài nguyên và môi trường
Quyết định số 34/2005/QĐ-TTg Ban hành chương trình hành động của
Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 41/NQ-TW ngày 15 tháng 11 năm 2004 của Bộ
Chính trị về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước
- Nghị định số 81/2007/NĐ-CP ngày 23/5/2007 của Chính phủ về quy định
tổ chức, bộ phận chuyên môn về bảo vệ môi trường tại cơ quan nhà nước và doanh
nghiệp nhà nước.
- Thông tư liên tịch số 45/2010/TTLT-BTC-TNMT ngày 30/03/2010 của
Liên tịch Bộ Tài chính - Bộ Tài nguyên và môi trường về hướng dẫn việc quản lý
kinh phí sự nghiệp môi trường.
- Thông tư liên tịch số 106/2007/TTLT/BTC-BTNMT ngày 06/09/2007 của
Liên tịch Bộ Tài chính - Bộ Tài nguyên và môi trường về sửa đổi, bổ sung Thông tư

liên tịch số 125/2003/TTLT-BTC-TNMT ngày 18/12/2003 của liên Bộ Tài chính Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn thực hiện Nghị định số 67/2003/NĐ-CP
ngày 13/6/2003 của Chính phủ về phí bảo vệ môi trường đối với nước thải.[7]
Thông tư liên tịch 01/2003/TTLT-BTNMT-BNV của Bộ Tài nguyên và Môi
trường và Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an) ban hành ngày 15/7/2003.

13


Chỉ thị 17/2008/CT-TTg Về một số giải pháp cấp bách đẩy mạnh công tác
xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng theo Quyết định số
64/2003/QĐ-TTg ngày 22 tháng 4 năm 2003 của Thủ tướng Chính phủ
Chỉ thị số 24/2008/CT-TTg về việc tăng cường công tác phòng, chống tội
phạm và vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường trong thời kỳ hội nhập
I.2.3.2. Các công cụ kinh tế
Quan điểm về áp dụng công cụ kinh tế (CCKT) trong quản lý môi trường đã
được nhấn mạnh trong các văn kiện của Đảng và thể chế hóa trong Luật Bảo vệ môi
trường và các văn bản dưới luật. Đặc biệt là, ngày 02 tháng 12 năm 2009, Ban cán
sự Đảng Bộ Tài nguyên và Môi trường ban hành Nghị quyết số 27/NQBCSĐBTNMT về việc tăng cường chủ trương kinh tế hóa ngành tài nguyên và môi
trường.
- Thuế và phí môi trường
Thuật ngữ thuế và phí môi trường thường được sử dụng để chỉ khoản thu với
hai mục đích: Tạo động lực giảm phát thải ô nhiễm và tạo nguồn thu cho ngân sách
Nhà nước. Có hai loại thuế/phí môi trường chính: Thuế đánh vào đơn vị ô nhiễm xả
thải ra môi trường (thuế Pigovian), và thuế nguyên liệu/sản phẩm (hay còn gọi là
thuế gián tiếp).
Hiện tại ở Việt Nam, loại thuế/phí đánh vào đơn vị ô nhiễm xả thải ra môi
trường đang được áp dụng dưới hình thức phí BVMT đối với nước thải, đối với chất
thải rắn và khai thác khoáng sản.
Phí BVMT đối với nước thải được quy định tại Nghị định 67/2003/NĐ-CP
ngày 13/6/2003. Tuy nhiên, sau hơn 6 năm thực hiện, phí BVMT đối với nước thải

vẫn còn bộc lộ nhiều bất cập. Các cơ quan quản lý còn lúng túng trong cách thu và
tính phí. Các doanh nghiệp còn tìm cách trốn tránh và nợ phí. Kết quả là tỷ lệ thu
phí nước thải công nghiệp còn thấp. Phí BVMT đối với chất thải rắn thông thường
và chất thải rắn nguy hại được quy định trong nghị định 174/2007/NĐ-CP ngày
29/11/2007. Ngoài ra, phí vệ sinh được áp dụng 2003 theo quy định tại Thông tư số
71/2003/TT-BTC ngày 30/7/2003 của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, khoản thu từ các
14


khoản phí này không đủ bù đắp chi phí thu gom, xử lý chất thải rắn. Ngoài ra, các
văn bản hiện tại không quy định rõ trách nhiệm thu phí của các đơn vị, tổ chức nên
việc thu phí ở các địa phương còn gặp nhiều khó khăn.
Phí BVMT đối với khai thác khoáng sản được thực hiện theo Nghị định số
63/2008/NĐ-CP ngày 13/5/2008 của Chính phủ. Tuy nhiên, việc thu phí còn gặp
nhiều khó khăn do đối tượng phải nộp phí chưa tự giác thực hiện nghĩa vụ này. Còn
tình trạng doanh nghiệp kê khai sản lượng khai thác thấp hơn thực tế để giảm số phí
phải nộp.
Ngoài ba loại phí thuộc nhóm thuế/phí nêu trên còn có Luật Thuế BVMT
mới được thông qua và sẽ có hiệu lực từ tháng 7/2011. Đây là quy định thuế đánh
vào nguyên liệu/sản phẩm, bao gồm 8 nhóm sản phẩm: xăng dầu, than, môi chất
làm sạch chứa HCFC, túi nhựa xốp (túi nilon) và nhóm hạn chế sử dụng như: thuốc
bảo vệ thực vật, thuốc diệt cỏ, thuốc trừ mối và thuốc khử trùng kho. Một điểm
đáng lưu ý là thuế BVMT được định nghĩa là “loại thuế giãn thu, thu vào một số sản
phẩm, hàng hóa gây tác động xấu đến môi trường”. Định nghĩa này là định nghĩa
hẹp của thuế BVMT vì mới đề cập đến loại thuế nguyên liệu/sản phẩm chứ chưa
bao hàm loại thuế đánh vào đơn vị ô nhiễm xả thải ra môi trường. Ưu điểm của việc
áp dụng thuế BVMT đối với nguyên liệu/sản phẩm là dễ tính toán và dễ áp dụng.
Nhược điểm, loại thuế này chỉ khuyến khích gây ô nhiễm mà không khuyến khích
đầu tư xử lý ô nhiễm trong quá trình sản xuất ra sản phẩm đó. Vì vậy, tác động giảm
ô nhiễm của loại thuế này chỉ là tác động gián tiếp (thông qua việc sản xuất ít đi)

chứ không phải tác động trực tiếp vào quá trình phát thải ô nhiễm. Đối với những
hàng hóa thuộc loại xa xỉ thì loại thuế này có tác dụng nhiều trong việc hạn chế ô
nhiễm (thông qua hạn chế tiêu dùng/sản xuất) nhưng với hàng hóa thiết yếu thì loại
thuế này ít có tác dụng giảm ô nhiễm.
- Ký quỹ trong hoạt động khai thác khoáng sản theo Quyết định số
71/2008/QĐ-TTg ngày 29/5/2008 của Thủ tướng Chính phủ. Ký quỹ môi trường đã
đem lại những kết quả bước đầu đáng khích lệ trong công tác kiểm soát ô nhiễm đối
với các hoạt động khai thác khoáng sản. Tuy nhiên, việc áp dụng công cụ này trên

15


thực tế chỉ mới dừng lại các dự án quy mô nhỏ hoặc còn ở giai đoạn thử nghiệm do
công thức dự toán chi phí cải tạo, phục hồi môi trường, chưa cụ thể, khó thực hiện.
Cơ chế hỗ trợ tài chính cho các các hoạt động BVMT được thực hiện theo
quy định tại Nghị định số 04/2009/NĐ-CP ngày 14/1/2009. Ngoài ra, thuế xuất
nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp cũng có những điều khoản ưu đãi về thuế
cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ, thiết bị và công
nghệ môi trường. Mặc dù đã có cơ chế hỗ trợ tài chính song chưa có nhiều doanh
nghiệp tham gia các hoạt động này vì nhu cầu đầu tư cho môi trường chưa cao. Nói
cách khác, "cầu" cho hoạt động BVMT chưa đủ cao để kích thích các hoạt động
"cung".
- Quỹ Môi trường đã được hình thành nhằm hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp
đầu tư BVMT như: Quỹ Môi trường cấp quốc gia (Quỹ BVMT Việt Nam, Quỹ Bảo
tồn Việt Nam), Quỹ BVMT các tỉnh/TP, Quỹ Môi trường ngành. Sau một thời gian
hoạt động, các quỹ môi trường đã góp phần đưa nguồn vốn của Nhà nước để thực
hiện dự án môi trường hiệu quả; bước đầu huy động được một phần nguồn lực từ
trong và ngoài nước cho các hoạt động BVMT. Tuy nhiên các quỹ này chưa phát
huy hết hiệu quả do nguồn vốn chưa đủ, các doanh nghiệp chưa có nhiều thông tin
về các thủ tục vay cũng như chưa có áp lực cần vay vốn đầu tư BVMT.

Công cụ công khai hóa thông tin hoạt động môi trường của doanh nghiệp
nhằm tạo áp lực từ cộng đồng và người tiêu dùng đến việc doanh nghiệp tuân thủ
các qui định môi trường cũng đã được áp dụng nhưng mới chỉ ở quy mô nhỏ trong
khuôn khổ một số dự án thử nghiệm tại Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Bắc Ninh và
Quảng Nam. Chương trình cấp Nhãn sinh thái đã được Bộ TN&MT phê duyệt năm
2009 nhằm khuyến khích các mẫu hình sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm thân thiện
với môi trường. Đặt cọc hoàn trả, mặc dù chưa có quy định của nhà nước nhưng
cũng đã được áp dụng có tính tự phát ở một số lĩnh vực như đặt cọc vỏ chai.
Có thể nói một số lượng đáng kể các công cụ kinh tế trong quản lý ô nhiễm
đã được triển khai ở Việt Nam. Tuy nhiên, hiệu quả của các công cụ này còn chưa

16


được như mong đợi do các quy định còn bất cập, năng lực thực hiện còn hạn chế
đặc biệt là các chế tài chưa đủ mạnh để tạo động lực tuân thủ các quy định này.
- Thuế tài nguyên: Pháp lệnh Thuế Tài nguyên ra đời ngày 30/3/1990 và
được sửa đổi năm 1998. Ngày 25/11/2009, Quốc hội đã thông qua Luật Thuế tài
nguyên. Trong Luật thuế Tài nguyên, các nhóm đối tượng chịu thuế có liên quan
đến ĐDSH bao gồm: các sản phẩm của rừng tự nhiên (thực vật và các loại sản phẩm
khác của rừng tự nhiên trừ động vật); hải sản tự nhiên (gồm các loại động vật và
thực vật ở biển) và yến sào thiên nhiên. Thống kê cho thấy, số tiền thu thuế tài
nguyên theo Pháp lệnh Thuế Tài nguyên bình quân trong giai đoạn 2005 - 2008,
mỗi năm trên 23.200 tỷ đồng, chiếm khoảng 15% tổng thu ngân sách nhà nước.
- Chi trả cho dịch vụ môi trường (PES) cho phép những người tạo và duy trì
các dịch vụ sinh thái được nhận những khoản chi trả từ những người sử dụng dịch
vụ. PES đã được thực hiện tại một số nước Nam Mỹ, Inđônêxia, Philippin, Trung
Quốc, Ấn Độ và Nepal. Tại Việt Nam, đã bắt đầu triển khai thử nghiệm chi trả dịch
vụ môi trường rừng theo Quyết định số 380/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
ngày 10/4/2008 về Chính sách thử nghiệm chi trả dịch vụ môi trường rừng và gần

đây là Nghị định 99/2010/NĐ-CP của Chính phủ về chính sách chi trả dịch vụ môi
trường rừng ngày 24/9/2010.
- Nhãn sinh thái: Trong những năm gần đây, các doanh nghiệp Việt Nam
phải hội nhập và tuân thủ những giá trị kinh doanh chung của thế giới, trong đó có
các giá trị về BVMT. Các ngành tiêu biểu gồm, lâm sản xuất khẩu và thủy sản.
Một số công cụ có thể áp dụng trong thời gian tới
Ngoài việc tiếp tục rà soát, chỉnh sửa nhằm nâng cao hiệu quả của các công
cụ kinh tế ở trên, trong thời gian tới có thể nghiên cứu áp dụng một số công cụ kinh
tế khác sau đây.
- Giấy phép phát thải có thể chuyển nhượng (tradable permits): kiểm soát
mức độ phát thải qua việc xác định tổng số giấy phép hoặc hạn ngạch thích ứng với
khả năng tiêu huỷ chất thải của môi trường. Các chủ nguồn thải có thể trao đổi hạn
ngạch phát thải sao cho chi phí phát thải ở mức thấp nhất. Công cụ này có tiềm
17


năng áp dụng cho những khu vực các nguồn ô nhiễm và phạm vi tác động tương đối
dễ xác định, ví dụ như các khu công nghiệp.
- Phí BVMT với khí thải: tương tự như phí BVMT đối với nước thải, loại phí
này đánh vào các đơn vị gây ô nhiễm trong khí thải như bụi, NOx, SOx, vì vậy tạo
động lực làm giảm phát thải các chất ô nhiễm vào không khí. Cần lưu ý là loại phí
này sẽ tương đối khó áp dụng vì quan trắc các thông số ô nhiễm là công việc phức
tạp. Ngoài ra, cũng không dễ xác định đối tượng phát thải. Kinh nghiệm quốc tế cho
thấy việc xác định phí khí thải căn cứ nguyên liệu đầu vào thường thuận lợi hơn
phương án xác định dựa vào việc đo kiểm đầu ra.
- Bồi thường thiệt hại môi trường: trách nhiệm bồi thường thiệt hại môi
trường tạo động lực để đối tượng gây ô nhiễm điều chỉnh hành vi để phòng tránh
việc phải chi trả tiền bồi thường thiệt hại và trong một số trường hợp là trách nhiệm
hình sự do hành vi ô nhiễm gây thiệt hại môi trường nghiêm trọng. Hiện tại Bộ
TN&MT đang thực hiện một số nghiên cứu nhằm ban hành hướng dẫn cho công tác

bồi thường thiệt hại môi trường.
Với lĩnh vực bảo tồn đa dạng sinh học, phí có thể khuyến khích việc tiêu
dùng bền vững và cung cấp nguồn tài chính cho các hoạt động bảo tồn. Các loại phí
phù hợp phụ thuộc vào bản chất của khu vực cần bảo tồn. Đối với các khu bảo tồn,
phí có thể dưới hình thức phí vào cửa. Để bảo vệ ĐDSH trong nông nghiệp, có thể
áp dụng phí tính trên đơn vị thuốc trừ sâu và phân bón.
- Hỗ trợ tín dụng là những khoản vay ưu đối với mức lãi suất thấp để hỗ trợ
các hoạt động bảo tồn của cá nhân và cộng đồng, có thể áp dụng cho du lịch sinh
thái, sản xuất nông sản hữu cơ, khai thác bền vững rừng, bảo vệ các giống loài có
nguy cơ tuyệt chủng.
- Quyền phát triển có thể mua bán trao đổi (tradable development rights) là
những quyền được trao cho người sở hữu đất nằm trong vùng cần bảo tồn ĐDSH.
Những quyền này có thể được bán lại cho những nhà đầu tư dự định đầu tư cho các
dự án phát triển ở các khu đất khác nhưng theo yêu cầu của pháp luật phải có được
một số lượng nhất định các giấy phép bảo tồn thì mới được tiến hành các hoạt động
18


đầu tư. Kết quả là các nhà đầu tư cần tìm mua giấy phép này từ những người thực
hiện các hoạt động bảo tồn.
- Cơ chế phát triển xanh (Green Development Mechanism) là một hình thức
đang được các nhà khoa học quốc tế nghiên cứu và đề xuất. Cơ chế phát triển xanh
sẽ tạo lập thị trường trao đổi các hạn ngạch các hoạt động phát triển kinh tế có ảnh
hưởng đến ĐDSH. Theo đó, sẽ có một số lượng hạn ngạch các hoạt động phát triển
nhất định được đặt ra cho một khu vực hoặc toàn cầu. Nếu quốc gia nào muốn phát
triển kinh tế quá hạn mức này sẽ phải mua lại quyền của các quốc gia khác. Thông
qua việc tạo lập thị trường này, ĐDSH sẽ được gắn một “giá cả” như một loại hàng
hóa và nhờ vậy sẽ được gìn giữ và bảo tồn tốt hơn. Khái niệm này gần giống với
Quyền phát triển có thể mua bán trao đổi song khác ở chỗ phạm vi áp dụng ở quy
mô rộng hơn: khu vực và toàn cầu.

I.2.3.3. Các công cụ kỹ thuật
Các công cụ kỹ thuật quản lý thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát nhà
nước về chất lượng và thành phần môi trường, về sự hình thành và phân bố chất ô
nhiễm trong môi trường. Các công cụ kỹ thuật quản lý có thể gồm các đánh giá môi
trường, minitoring môi trường, xử lý chất thải, tái chế và tái sử dụng chất thải. Các
công cụ kỹ thuật quản lý có thể được thực hiện thành công trong bất kỳ nền kinh tế
phát triển như thế nào.
I.2.3.4. Cơ quan giám sát và thực thi:
- Với các vi phạm trong lĩnh vực hành chính, cơ quan chịu trách nhiệm giám
sát và thực thi là Thanh tra Tài nguyên và Môi trường (theo Nghị định số
35/2009/NĐ-CP ngày 07/04/2009 của Chính phủ quy định về tổ chức, hoạt động
của thanh tra Tài nguyên và Môi trường)
- Với tội phạm và các vi phạm pháp luật khác về bảo vệ môi trường, cơ quan
chịu trách nhiệm giám sát và thực thi là Cảnh sát môi trường (theo Nghị định số
72/2010/NĐ-CP ngày 08/7/2010 của Chính phủ quy định về phòng ngừa, đấu tranh
chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác về môi trường

19


I.2.4. Phân cấp quản lý môi trƣờng tại Việt Nam:
Từ khi ra đời đến nay, nước ta đều lấy cấp xã làm đơn vị hành chính lãnh thổ
nhỏ nhất trong hệ thống chính quyền 4 cấp:
Cấp I: Cấp quốc gia (chính phủ)
Cấp II: Cấp tỉnh (gồm tỉnh, thành phố trực thuộc TW)
Cấp III: Cấp huyện (gồm huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh)
Cấp IV: Cấp xã (gồm xã, phường, thị trấn)
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định
chính quyền nhà nước cấp xã được gọi là chính quyền cơ sở.
Chính quyền cấp cơ sở là nơi trực tiếp thi hành đường lối, chính sách của

Đảng, pháp luật của nhà nước và của địa phương, có chức năng quản lý Nhà nước
trên mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội, môi trường, chính trị và an ninh quốc phòng theo
sự phân công và chỉ đạo của chính quyền cấp huyện, cấp xã là nơi gần dân nhất, là
cầu nối giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân, mọi hoạt động của các cơ quan cấp
xã đều liên quan trực tiếp đến nhân dân. Xã hội hóa bảo vệ môi trường cũng như
các mặt hoạt động khác đều liên quan trực tiếp với chính quyền cấp cơ sở. Để công
tác quản lý môi trường được nâng cao thì cần chú trọng đến việc kiện toàn và nâng
cao năng lực cho đội ngũ cán bộ thực thi các nhiệm vụ quản lý nhà nước về môi
trường tại cấp cơ sở. Tổ chức công tác quản lý nhà nước về BVMT như sau:

Hình 1 : Tổ chức công tác quản lý nhà nước về BVMT

20


×