Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Tiểu luận môn các đảng chính trị trên thế giới đảng dân chủ ở mỹ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.77 KB, 27 trang )

MỤC LỤC

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đảng cầm quyền bao giờ cũng giữ vai trò lãnh đạo, chi phối toàn bộ hệ
thống chính trị, đặc biệt và trực tiếp nhất là nhà nước; bằng nhà nước và thông
qua nhà nước để thực hiện mục tiêu, chiến lược của mình. Giành, giữ và thực thi
quyền lực nhà nước là một hoạt động cơ bản của các đảng chính trị.
Tùy theo điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của từng nước cũng
như mục tiêu theo đuổi mà mỗi đảng cầm quyền có những phương thức tổ chức
và hoạt động khác nhau, song đều nhằm tới một hướng đích là giành, thực thi và
chi phối quyền lực nhà nước, từ đó chi phối và thực thi quyền lực của đảng mình
đối với các đảng khác và với toàn xã hội.
Cũng như đảng cầm quyền, đảng chính trị là một nhân tố hết sức quan
trọng trong hệ thống chính trị của các nước tư bản. Nó có vai trò là một trong
những thành phần cơ bản của chế độ chính trị, của xã hội công dân hiện đại, có
ảnh hưởng lớn đến đời sống chính trị, từ cơ cấu tổ chức đến sự vận hành của hệ
thống chính trị. Đây là một tổ chức chính trị phản ánh lợi ích của giai cấp, của
tầng lớp xã hội, nó liên kết, lãnh đạo những người đại diện tích cực nhất của
tầng lớp hay xã hội đó để cùng thực hiện đạt những mục tiêu và lý tưởng nhất
định.
Các đảng chính trị luôn là trung tâm cho các cuộc thảo luận và tranh luận
về việc đổi mới nền chính trị cũng như thực hiện các thay đổi chính trị. Các lợi
ích cho chính thể sẽ được tìm thấy qua các quyết sách sáng suốt của đảng chính
trị cầm quyền đó. Những lợi ích như vậy, không chỉ tìm thấy trong đảng cầm
quyền mà còn ở trong các các đảng chính trị đối lập.
Trong lịch sử chính trị nước Mỹ, Đảng Dân chủ là một trong những chính
đảng lớn nhất, ra đời sớm và tồn tại lâu đời nhất. Đảng Dân chủ được thành lập


năm 1828 và từ đó đến nay luôn là một nhân tố quan trọng hàng đầu cấu thành
hệ thống và thể chế chính trị Mỹ.
2


Mỗi nước đều có một đảng cầm quyền, từ việc nghiên cứu một số nét cơ
bản về vai trò của đảng dân chủ ở nước Mỹ hiện nay để nhằm góp phần xây
dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam ta trong xu thế hội nhập, tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền.
Chính vì lẽ đó, em xin chọn vấn đề: “Đảng Dân chủ ở Mỹ hiện nay” làm
đề tài tiểu luận kết thúc môn Đảng cầm quyền trong điều kiện xây dựng nhà
nước pháp quyền.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả từ nhiều
góc độ khác nhau nói về Đảng Dân chủ ở nước Mỹ. Cụ thể một số công trình,
bài viết tiêu biểu:
- Vài nét về Đảng Dân Chủ Ở Mỹ của GS,TS. Nguyễn Hoàng Giáp Viện
trưởng Viện Quan hệ quốc tế, Học viện CT-HCQG HCM, 2010. Bài viết đã khái
lược một số nét cơ bản về sự hình thành và phát triển của Đảng Dân chủ nước
Mỹ, từ hệ thống tổ chức và cách thức hoạt động đến chắt lọc những kinh nghiệm
cần có của một thể chế chính trị hoàn chỉnh ở các nước tư bản.
- Một số vấn đề về Đảng Cầm quyền và Đảng Đối lập trong đời sống
chính trị Hoa Kỳ của Nguyễn Thị Hạnh chủ biên, Nxb Khoa học xã hội, 2012.
Cuốn sách đã chỉ rõ một điều đặc biệt ở nước Mỹ là gần như trong quá trình
hình thành và phát triển cho đến nay, hai đảng Cộng hòa và Dân chủ liên tục
thay nhau cầm quyền, điều hành nước Mỹ mà không có một đảng thứ ba nào
giành được ghế tổng thống. Và bạn đọc sẽ hiểu rõ yếu tố chi phối sự tồn tại bền
vững của chế độ hai đảng trong nước Mỹ nói chung.
- Vai trò của đảng chính trị nói chung, đảng cầm quyền nói riêng đối với
nhà nước trong chủ nghĩa tư bản hiện đại( Qua khảo sát một số mô hình tiêu

biểu) của Nguyễn Xuân Tế, Đặng Đình Thành đã làm rõ tầm quan trọng chung
trong chiến lược phát triển của các nước. Suy cho cùng nó thể hiện định hướng
lâu dài trong việc sử dụng và dào tạo cán bộ chất lượng cao để duy trì hoạt động
của Đảng cầm quyền hiện tại.
3


- Vấn đề đảng cầm quyền và thẩm quyền quản lý nhà nước ở các nước
tư bản của Nguyễn Đăng Dung, Tạp chí nghiên cứu lập pháp điện tử. Bài viết đã
thể hiện rõ việc không phân biệt giữa sự lãnh đạo của đảng và sự quản lý của
nhà nước tại các nước tư bản có lý do chính là để tăng cường sự hợp pháp và sự
chịu trách nhiệm của đảng cầm quyền. ở các chính thể này cũng không có sự
phân biệt giữa các quan chức cao cấp của đảng với các quan chức cao cấp của
nhà nước. Người đứng đầu đảng và đứng đầu hành pháp hầu như là một. Họ là
các chính khách. Điều tối quan trọng là đảng chính trị có lấy được phiếu của
người dân để trở thành đảng cầm quyền hay không.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến đảng Dân Chủ
ở Mỹ. Đây chính là tài liệu để các nhà nghiên cứu có những hoạch định chính
sách trong chiến lược phát triển chung. Song vấn đề cụ thể về vai trò của đảng
Dân chủ ở Mỹ thì chưa có công nào nghiên cứu chuyên sâu cả. Vì thế bài tiểu
luận này là sự kế thừa, phát triển, bổ sung những vấn đề liên quan đến sự hình
thành và phát triển của đảng Dân Chủ ở nước Mỹ, từ đó đáp ứng yêu cầu hoàn
thiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay ở Việt Nam.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu cơ cấu tổ chức, tình hình hoạt động cũng như vai
trò quan trọng của đàng Dân Chủ ở Mỹ hiện nay để hiểu rõ hơn về cơ chế hoạt
động của đảng cầm quyền này và góp phần tạo tiền đề giúp cho Đảng Cộng sản
Việt Nam hoạch định và thực thi những đường lối chiến lược nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần cho nhân dân.

3.2. Nhiệm vụ
Đề tài nhằm làm rõ cơ sở lý luận về đảng chính trị nói chung và đảng cầm
quyền nói riêng trong bối cảnh hiện nay của thế giới
Ngoài ra, qua việc tập trung nghiên cứu về đảng Dân Chủ ở nước Mỹ để
làm nổi bật vai trò hiện nay của đảng này đối với nước Mỹ và đặc biệt trong vị
trí đương nhiệm tổng thống của Barack Obama.
4


Từ đó đề xuất một số kinh nghiệm để xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là đảng Dân Chủ ở nước Mỹ hiện nay
4.2. Phạm vi
Tiểu luận tập trung nghiên cứu vai trò của đảng Dân Chủ ở nước Mỹ từ
khi Barack Obama nắm giữ vị trí tổng thống. ( Từ năm 2008 đến nay)
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của tiểu luận
Tiểu luận là công trình nghiên cứu một cách tập trung và trực tiếp từ góc
độ chính trị học về vai trò của đảng Dân chủ ở Mỹ hiện nay.
Chỉ ra được tầm ảnh hưởng và sự cần thiết quan trọng đối với việc phát
huy vai trò của đảng cầm quyền ở nước Mỹ. Từ đó rút ra được những bài học
quý báu trong chiến lược xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam hiện nay ở nước ta, dưới sự lãnh đạo của chính Đảng duy nhất là Đảng
Cộng sản Việt Nam.
6. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài này sẽ là tài liệu tham khảo cho những ai quan tâm nghiên cứu đến
vấn đề đảng cầm quyền nói chung và đảng Dân Chủ ở nước Mỹ nói riêng. Từ đó
có sự hệ thống hóa về vai trò quan trọng của đảng cầm quyền hiện nay đối với
sự phát triển của mỗi nước.

Đặc biệt nó sẽ là nền tảng cho việc hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam.
7. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương, 8 tiết.

5


Chương 1
KHÁI QUÁT LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
CỦA ĐẢNG PHÁI TRONG ĐỜI SỐNG CHÍNH TRỊ HOA KỲ
1.1. Quan niệm về đảng chính trị
Hiểu một cách đơn giản thì đảng chính trị là một dạng đặc biệt của tổ
chức xã hội. Nó không giống các hiệp hội, liên đoàn hay các nghiệp đoàn xã hội
ở cách thức tổ chức và đặc biệt là các hoạt động mang đậm tính chính trị.
Đảng chính trị không chỉ đơn thuần đấu tranh để tham gia vào việc thể
hiện các quan điểm chính trị mà còn đấu tranh để giành quyền đại diện cho
người dân trong quốc hội. Thông thường, các đảng chính trị đều giành quyền lực
thông qua việc bỏ phiếu của người dân. Trách nhiệm của đảng chính trị đối với
người dân thể hiện qua việc thực hiện các cam kết mà đảng chính trị đã đưa ra
trong chiến dịch tranh cử. Ý chí của người bỏ phiếu có ý nghĩa rất quan trọng
đối với một đảng chính trị.
Người ta gọi chính trị, đảng phái có nghĩa là cơ cấu chính trị trong đó
nhiều đảng tranh gianh quyền lãnh đạo chính quyền một cách hòa bình với nhau
thông qua bầu cử. Trong các nước tư sản, hình thái chủ yếu của chính trị đảng
phái là có chế độ Nội các Nghị viện và chế độ Tổng thống. Tùy theo số lượng
Đảng chính trị lớn ở trong một nước, người ta chia thành các loại lưỡng đảng, đa
đảng… Để bảo đảm cho Quốc hội và các Đảng được điều hành ổn định, điều
quan trọng là sự bảo đảm tự do về chính trị, ngôn ngữ, lập hội và bầu cử công

bằng và giảm bớt những căng thẳng trong nội bộ xã hội.
Các đảng chính trị luôn là trung tâm cho các cuộc thảo luận và tranh luận
về việc đổi mới nền chính trị cũng như thực hiện các thay đổi chính trị. Các lợi
ích cho chính thể sẽ được tìm thấy qua các quyết sách sáng suốt của đảng chính
trị cầm quyền đó. Những lợi ích như vậy, không chỉ tìm thấy trong đảng cầm
quyền mà còn ở trong các các đảng chính trị đối lập. Trong một thể chế dân chủ,
đảng đối lập thường có chức năng như là một “cơ quan giám sát” đối với các
6


chính sách của chính phủ hoặc cho các lựa chọn chính trị trong tương lai. Các
đảng chính trị đối lập thường là đối thủ đáng ngại cho đảng cầm quyền, nhưng
chính vì vậy, sự tồn tại của các đảng đối lập là hết sức cần thiết trong một thể
chế dân chủ.
Có thể hiểu đảng chính trị phải là đảng hợp pháp, được pháp luật thừa
nhận vì tổ chức và được hoạt động chính trị theo khuôn khổ của pháp luật.
Từ những đặc trưng trên của đảng chính trị có thể đưa ra một quan niệm
chung về đảng chính trị như sau: Đảng chính trị hay còn gọi là chính đảng, là
một tổ chức chính trị đại diện của một giai cấp, một lực lượng xã hội, có (hoặc
không có) tư cách pháp nhân, gồm những người có cùng chứng kiến, tự nguyện
tham gia hoạt động liên tục, nhằm thực hiện mục tiêu giành, giữ và thực thi
quyền lực nhà nước.
1.2.Quan niệm về đảng cầm quyền
Bản thân thuật ngữ đảng cầm quyền đã nói lên khá đầy đủ nội dung của
khái niệm này. Đó là khái niệm chỉ đảng nắm và sử dụng quyền lực nhà nước
theo cách mà nó muốn.
Đảng cầm quyền (tiếng Anh: ruling party hay governing party) trong
một đại nghị chế là đảng chính trị hay liên minh chính trị chiếm đa số ghế trong
quốc hội hay nghị viện. Trong một đại nghị chế, khối đa số trong quốc hội cũng
kiểm soát luôn cả ngành hành pháp của chính phủ vì thế không có khả năng hai

đảng hay hai khối chính trị đối nghịch nhau cùng lúc chiếm được ngành lập
pháp và ngành hành pháp của chính phủ như kiểu tổng thống chế của Mỹ là kiểu
thể chế mà đảng của tổng thống không nhất thiết cũng phải chiếm được đa số ghế ở
quốc hội. Trong tuyên ngôn chính trị của mình có tựa đề Sách Xanh, nhà lãnh
đạo Libya, Muammar al-Gaddafi đả kích cái khả năng của đảng cầm quyền, lấy đó
làm cái cớ căn bản cho việc ông chống đối nền chính trị đảng phái.
Đảng cầm quyền bao giờ cũng giữ vai trò lãnh đạo, chi phối toàn bộ hệ
thống chính trị, đặc biệt và trực tiếp nhất là nhà nước; bằng nhà nước và thông
qua nhà nước để thực hiện mục tiêu, chiến lược của mình. Giành, giữ và thực thi
7


quyền lực nhà nước là một hoạt động cơ bản của các đảng chính trị. Tùy theo
điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của từng nước cũng như mục tiêu
theo đuổi mà mỗi đảng cầm quyền có những phương thức tổ chức và hoạt động
khác nhau, song đều nhằm tới một hướng đích là giành, thực thi và chi phối
quyền lực nhà nước, từ đó chi phối và thực thi quyền lực của đảng mình đối với
các đảng khác và với toàn xã hội.
Các đảng chính trị khi đã cầm quyền đều tuân theo những nguyên tắc
chung là lãnh đạo, chi phối, sử dụng quyền lực nhà nước, sử dụng sức mạnh, các
phương tiện vật chất đã được thiết chế hóa của nhà nước để thực hiện mục tiêu
của đảng mình, của giai cấp mình.
Song, mỗi đảng chính trị khác nhau đều có những phương thức lãnh đạo
và cách thức tổ chức thực hiện khác nhau tùy thuộc vào quan điểm, tư tưởng,
tương quan lực lượng trong hệ thống chính trị, tùy thuộc vào điều kiện khách
quan của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước và cả nhân tố chủ quan
của chính đảng cầm quyền. Vì thế, đảng cầm quyền là vấn đề quan trọng của hệ
thống chính trị của tất cả các quốc gia.
Như vậy, đảng cầm quyền được hiểu là đảng đang nắm giữ vị trí chủ chốt
trong bộ máy nhà nước để thực hiện quá trình hoạch định, thực thi chính sách

quốc gia.
1.3. Qúa trình hình thành đảng phái chính trị ở Mỹ
Nước Mỹ có nhiều đảng phái khác nhau, trong đó có cả đảng cộng sản và
một số đảng xã hội, nhưng từ trước đến nay, chỉ có hai đảng lớn là Dân chủ và
Cộng hoà. Hai đảng này luôn chiếm ưu thế ở mọi cấp độ chính quyền và luôn
khống chế nền chính trị Mỹ.
Hệ thống lưỡng đảng đã bắt rễ sâu trong nền chính trị Mỹ và cho dù có
đảng thứ ba xuất hiện trong các cuộc bầu cử Tổng thống, thì đảng thứ ba cũng
chưa bao giờ giành được chiến thắng. Các đảng thiểu số đôi khi cũng giành
được một số chức vụ trong chính quyền cấp dưới, nhưng hầu như không có vai
trò gì quan trọng trong nền chính trị Mỹ.
8


Cuộc ganh đua giữa hai đảng Dân chủ và Cộng hoà là một trong những
đặc điểm nổi bật và lâu đời nhất của nền chính trị Mỹ kể từ những năm 1860,
phản ánh những đặc trưng về mặt cơ cấu của hệ thống chính trị Mỹ và sự khác
biệt về mặt đảng phái của Mỹ so với các nước khác. Trong khi các nền dân chủ
phương Tây khác có các hệ thống đa đảng thì một đất nước rộng lớn, đông dân
và đa dạng như nước Mỹ lại chỉ có hai chính đảng thay nhau cầm quyền trong
suốt lịch sử tồn tại của nó.
Cơ chế pháp lý và chính trị Mỹ có những biện pháp tích cực và hiệu quả
trong việc duy trì ưu thế của hai đảng và ngăn một đảng thứ ba cạnh tranh trên
quy mô toàn quốc. Về cơ bản, hai đảng Cộng hoà và Dân chủ có những nét đặc
trưng sau:
Thứ nhất, hai đảng Cộng hòa và Dân chủ không phải là những tổ chức có
cơ cấu chặt chẽ mà là những liên minh lỏng lẻo, rộng lớn và không có chương
trình nhất quán. Bốn năm một lần, các đảng thông qua quan điểm về chương
trình trong hội nghị đề cử ứng viên Tổng thống nhưng quan điểm này cũng rất
chung chung, không rõ ràng và có thể có nhiều cách hiểu khác nhau.

Thông thường, các đảng chính trị Mỹ có truyền thống quan tâm trước hết
và lớn nhất tới việc giành chiến thắng trong các cuộc bầu cử và giành được các
vị trí trong Chính phủ. Chính vì vậy, cả hai đảng đều không tìm cách nhấn
mạnh những khác biệt trong chính sách của họ, không tìm cách đại diện cho hệ
thống các giá trị, chính sách khác nhau, bởi lẽ, những cam kết về một chương
trình hay những khác biệt chính sách sẽ gây khó khăn cho các đảng phái, làm
xói mòn sự đoàn kết bề ngoài của các liên minh rộng lớn và đa thành phần của
hai đảng.
Nguyên nhân là do Mỹ là một quốc gia rộng lớn và hết sức đa dạng, cho
nên để xây dựng một đảng có đủ sức mạnh giành được sự ủng hộ của đa số cử
tri đòi hỏi phải gắn kết được liên minh gồm rất nhiều loại người khác nhau về
tầng lớp, chủng tộc, tôn giáo, sắc tộc và khu vực. Trong khi đó, đa số các cử tri
bình thường của Mỹ đều không hăng hái, nhiệt tình như những thành viên hoạt
9


động tích cực của đảng, ít cam kết về lý tưởng và thiên về tán thành quan điểm
trung dung hơn. Vì vậy, phần lớn các chính trị gia đều không dám liều lĩnh xa
lánh một nhóm đông đảo cử tri bất kỳ nào đó bằng cách đưa ra những quan
điểm quá mạnh mẽ về ý thức hệ, mà thay vào đó, họ lựa chọn các phương cách
để có thể chiếm được lá phiếu ủng hộ của tầng lớp trung dung đông đảo
Thứ hai, vì các đảng không có một tổ chức chặt chẽ và tập trung, cho nên,
đa số các thành viên không trung thành sâu sắc với đảng. Các đảng ở Mỹ được
mô tả như là những tổ chức phi tập trung cao độ và được gắn kết một cách lỏng
lẻo hơn hẳn so với các đảng phái ở nhiều nước khác. Tổ chức đảng thiếu một
định nghĩa về tư cách thành viên của đảng và không có một sự nhất trí về ý
nghĩa của từ thành viên của đảng Dân chủ hay Cộng hoà, không có một cơ chế
ràng buộc đảng viên phải tuân theo kỷ luật của đảng, không có chế tài nào đối
với đảng viên chống lại đường lối do lãnh đạo đảng vạch ra.
Sự không rõ ràng về chính sách của đảng cũng phản ánh sự không rõ ràng

về tư cách đảng viên của đảng. Do đó, ở Mỹ, Chính phủ luôn tồn tại sự chia rẽ,
bởi trong khi Tổng thống là người của một đảng thì Quốc hội lại thường do đảng
kia nắm ưu thế (Tổng thống vịt què). Hoặc trong trường hợp, Tổng thống cũng
là người của đảng đang nắm đa số trong Quốc hội, nhưng khi thông qua chính
sách vẫn có thể có sự chia rẽ. Sở dĩ như vậy, vì mặc dù vẫn có sự thống nhất
nhất định trong một đảng, vẫn luôn có trường hợp đảng viên của đảng này bầu
cho những vấn đề do người của đảng kia bảo trợ và đề xuất. Ngược lại, ở các
nước phương Tây khác, điển hình là ở Anh, “đảng viên một đảng được bầu vào
các chức vụ nhà nước đều chấp nhận hoạt động theo những nguyên tắc và
đường lối của đảng. Ai không tuyệt đối tuân theo kỷ luật này sẽ bị đuổi ra khỏi
đảng và rất có khả năng không trúng cử nhiệm kỳ tiếp theo”..
Thứ ba, có rất ít sự khác nhau về tư tưởng giữa đảng Dân chủ và đảng
Cộng hoà, có chăng là ở chỗ, đảng Dân chủ dành sự quan tâm nhiều hơn đến
những người nghèo khổ và thất thế, các cộng đồng thiểu số, công đoàn. Còn lại,
hai đảng này giống nhau về những quan điểm cơ bản: hoàn toàn tán thành chủ
10


nghĩa tư bản và các thể chế của nó, ủng hộ sứ mạng toàn cầu của Mỹ, bác bỏ chủ
nghĩa cộng sản cả trong nước Mỹ và trên thế giới. Lãnh đạo hai đảng đều giống
nhau về nguồn gốc xã hội, quá trình đào tạo và tuyển dụng.
Cơ cấu tổ chức của các đảng phái chính trị (ĐPCT) Mỹ về cơ bản gồm:
Uỷ ban quốc gia - với Chủ tịch là người đứng đầu của đảng; Uỷ ban vận động
tranh cử Thượng viện và Hạ viện được tổ chức độc lập với Uỷ ban quốc gia; tổ
chức đảng ở các bang, hạt, thành phố và ở cấp địa phương.
Hai biểu tượng con lừa của Đảng Dân chủ và con voi của Đảng Cộng hòa
đã hiện diện trên chính trường Mỹ từ thế kỷ 19. Biểu tượng con lừa của Đảng
Dân chủ có nguồn gốc từ chiến dịch tranh cử Tổng thống năm 1828 của Andrew
Jackson. Trong cuộc chạy đua đó, những đối thủ của Jackson gọi ông là “đồ con
lừa”.

Tuy nhiên, thay vì chối bỏ tên gọi này, Jackson – vốn là một người hùng
trong cuộc Chiến tranh năm 1812 và sau này là Nghị sỹ trong cả Hạ viện và
Thượng viện Hoa Kỳ – lại thấy thích thú với tên gọi đó và đã cho thêm hình ảnh
con lừa vào những tấm áp phích tranh cử của mình. Jackson đã chiến thắng
trước Tổng thống đương nhiệm John Quincy Adams và trở thành Tổng thống
thuộc Đảng Dân chủ đầu tiên của nước Mỹ. Trong những năm 1870, Thomas
Nast, một họa sĩ chuyên vẽ tranh biếm họa chính trị có ảnh hưởng lớn, đã giúp
hình ảnh con lừa trở nên nổi tiếng như là biểu tượng của toàn Đảng Dân chủ.

11


Chương 2
PHƯƠNG THỨC HOẠT ĐỘNG CỦA ĐẢNG
CẦM QUYỀN Ở HOA KỲ
Trong bối cảnh nền chính trị đa nguyên, đa đảng đối lập, các đảng chính
trị được tự do tổ chức, hoạt động theo khuôn khổ pháp luật nhà nước. Muốn trở
thành đảng cầm quyền, đảng phải chiến thắng trong tranh cử để trở thành đảng
đa số hoặc thắng cử trong cuộc bầu cử tổng thống.
2.1. Cơ cấu tổ chức, chức năng và nhiệm vụ của đảng Dân Chủ
Đảng phái ở Mỹ nói chung và đảng Dân Chủ nói riêng đều được tổ chức
theo kiểu phi tập trung hóa. Cơ cấu tổ chức của đảng giống như một hệ thống
gồm những tầng lớp tổ chức khác nhau theo mô hình kim tự tháp. Tuy nhiên, nó
không phản ánh chính xác quyền hạn của các tầng tổ chức đó.
Tầng dưới cùng là tổ chức đảng địa phương, dựa trên ủy ban các cấp như:
khu dân cư, phường, thị trấn...
Tiếp đến là tổ chức đảng cấp bang, dựa vào hội nghị đảng cấp bang và ủy
ban bang.
Tầng trên cùng là tổ chức đảng cấp quốc gia hay còn gọi là đảng chính trị
toàn quốc, dựa trên ủy ban toàn quốc, chủ tịch đảng và một số cơ quan giúp việc

khác. Đây là cơ quan quyền lực tối cao nhưng không có thực quyền. Quyền lực
ở mỗi cấp đảng khác nhau hoàn toàn độc lập, không chịu sự kiểm soát của cấp
trên đối với cấp dưới. Chỉ có hai tổ chức đảng cấp địa phương và đảng cấp bang
là những tổ chức có quyền hành thực sự.
2.1.1. Cơ cấu tổ chức
Trong lịch sử chính trị nước Mỹ, Đảng Dân chủ là một trong những chính
đảng lớn nhất, ra đời sớm và tồn tại lâu đời nhất. Đảng Dân chủ được thành lập
năm 1828 và từ đó đến nay luôn là một nhân tố quan trọng hàng đầu cấu thành
hệ thống và thể chế chính trị Mỹ.

12


Sau khi Đảng Cộng hòa ra đời năm 1854, Đảng Dân chủ cùng với đảng
này trở thành hai chính đảng tư sản thay nhau nắm quyền trong suốt 155 năm
qua. Với thắng lợi trong cuộc bầu cử cuối năm 2008, Đảng Dân chủ với ứng cử
viên tổng thống Barack Obama đã giành lại quyền kiểm soát Nhà trắng sau 8
năm rơi vào tay Đảng Cộng hòa, đồng thời giành quyền kiểm soát cơ quan lập
pháp ở cả Thượng viện và Hạ viện.
Các đảng phái chính trị ở Mỹ bắt đầu hình thành từ đầu thập niên 90 thế
kỷ XVIII. Dưới thời Tổng thống đầu tiên G. Oa-sinh-tơn, chính quyền Mỹ bị
chia rẽ thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất theo tư tưởng liên bang đứng đầu là Bộ
trưởng Tài chính A. Ha-mil-tơn chủ trương hình thành một chính phủ quốc gia
mạnh, tăng cường quyền lực trung ương, nâng đỡ giới công nghiệp-tài chính
miền Đông Bắc. Nhóm thứ hai đứng đầu là Bộ trưởng Ngoại giao T. Je-phe-sơn
chủ trương phân quyền cho các bang, nâng đỡ giới địa chủ, nông dân, tiểu thủ
công ở miền Nam.
Sau khi Hiến pháp liên bang được phê chuẩn (1789), nhóm thứ nhất trở
nên mạnh hơn và hoạt động như một đảng chính trị. T. Je-phesơn không được
Tổng thống Oa-sinh-tơn ủng hộ, nên từ chức và năm 1793 lập ra một đảng đối

lập với tên gọi Đảng Dân chủ-Cộng hòa, được coi là tiền thân của Đảng Dân chủ
ngày nay.
Năm 1800 dưới danh nghĩa đảng này, Je-phe-sơn ra tranh cử tổng thống
và đã thắng cử, trở thành Tổng thống thứ ba của nước Mỹ, mở ra thời kỳ 24 năm
cầm quyền liên tục của Đảng Dân chủ-Cộng hoà. Trong thời kỳ này, nền kinh tế
Mỹ, đặc biệt là nông nghiệp phát triển mạnh, do đó Đảng Dân chủ-Cộng hoà
giành được sự ủng hộ của những người nghèo, nô lệ da đen và nông dân.
Tuy nhiên, từ năm 1824 do những mâu thuẫn nội bộ nên Đảng Dân chủCộng hoà bị phân liệt thành nhiều phe phái khác nhau. Kết quả là, vào năm 1828
Đảng này bị chia rẽ thành hai đảng mới: Đảng Dân chủ và Đảng Uých (Whigs
Party). Đây được coi là thời điểm đánh dấu sự ra đời chính thức của Đảng Dân

13


chủ ngày nay ở Mỹ. Thời kỳ từ năm 1828 đến trước cuộc nội chiến ở Mỹ (18611865), Đảng Dân chủ và Đảng Uých thay nhau cầm quyền.
Năm 1854, một liên minh của Đảng Uých với những người thuộc Đảng
Dân chủ có xu hướng chống chế độ nô lệ đã thành lập Đảng Cộng hoà, đại diện
cho quyền lợi của tư bản công-thương nghiệp miền Bắc và miền Tây, Đảng Dân
chủ đại diện cho chế độ nô lệ ở miền Nam. Đây là nguyên nhân dẫn đến cuộc
nội chiến kéo dài từ 1861 đến 1865 với thắng lợi của tư bản miền Bắc.
Sau nội chiến đến đầu thế kỷ XX, Đảng Cộng hoà 6 lần thắng cử tổng
thống, nắm chính quyền 24 năm, Đảng Dân chủ 3 lần thắng, nắm chính quyền
12 năm. Trong lịch sử 192 năm (1828-2010) của Đảng Dân chủ, Đảng này đã 21
lần giành thắng lợi trong bầu cử tổng thống với 81 năm cầm quyền, so với con
số tương ứng của Đảng Cộng hòa là 22 lần và 88 năm (trong lịch sử 155 năm từ
khi thành lập 1854-2009).
Trong nền chính trị Mỹ đương đại, có hàng trăm đảng phái chính trị đang
tồn tại và hoạt động, nhưng trên thực tế chỉ có hai đảng lớn là Đảng Dân chủ và
Đảng Cộng hoà thay nhau cầm quyền ở hầu như tất cả các cấp từ liên bang, bang
đến địa phương.

Các đảng nhỏ khác chỉ có thể tham dự vào đời sống chính trị ở một mức
độ hạn chế, có thể thắng cử ở một vài cấp chính quyền địa phương, nhưng không
có khả năng làm thay đổi nền tảng chế độ chính trị TBCN ở Mỹ hiện nay.
Xét về mô hình cơ cấu tổ chức và hoạt động, Đảng Dân chủ cũng như
Đảng Cộng hòa ở Mỹ có nhiều điểm khác biệt so với các chính đảng ở phương
Tây nói riêng và trên thế giới nói chung. Trước hết, hai đảng này thực chất là
những đảng bầu cử, do đó không có cương lĩnh chính trị cố định và nhất quán,
ít có cam kết công khai về lý tưởng chính trị-tư tưởng; khi bầu cử kết thúc thì, về
cơ bản, hoạt động của các đảng cũng chững lại. Đảng có tổ chức lỏng lẻo,
quyền lực phân tán, không có nội quy, kỷ luật đảng, không có chế định đảng
viên.

14


Đảng và đảng viên không có mối liên hệ chặt chẽ về tổ chức, mà chỉ có
quan hệ được thiết lập trong bầu cử. Ai bầu cho Đảng thì là đảng viên của Đảng,
cơ cấu đảng được tổ chức theo khu vực bầu cử. Hoạt động của Đảng Dân chủ
vào dịp chuẩn bị bầu cử tổng thống trở nên rất sôi động. Đảng chuẩn bị xây
dựng cương lĩnh, trong đó thể hiện quan điểm chung về chương trình tranh cử,
lựa chọn các vấn đề đối nội và đối ngoại bức xúc đang đặt ra, đưa ra những cam
kết và lời hứa khi thắng cử, chuẩn bị chương trình trong hội nghị đề cử ứng cử
viên tổng thống của đảng.
Thông thường, các chính đảng ở Mỹ quan tâm hàng đầu tới việc phải
chiến thắng trong các cuộc bầu cử và giành được các vị trí trong Chính phủ. Mỹ
là một quốc gia rộng lớn và đa dạng, nên để xây dựng được một đảng đủ mạnh
có thể giành được sự ủng hộ của đa số cử tri đòi hỏi phải có một liên minh gồm
rất nhiều tầng lớp, chủng tộc, tôn giáo… ở nhiều khu vực khác nhau.
Mặt khác, các đảng cũng rất chú trọng các đối tượng cử tri truyền thống.
Đảng Dân chủ thường bảo vệ quyền lợi giới lao động, chủ trương phân phối lại

sản phẩm quốc dân có lợi cho tầng lớp nghèo và trung lưu, mở rộng hệ thống
bảo hiểm và phúc lợi xã hội, nên thường nhận được sự ủng hộ của những người
Thiên chúa giáo, Do thái, những người da màu, người lao động bình dân.
Trong khi, Đảng Cộng hoà thường gắn với giới kinh doanh, tài chính,
công nghiệp; bảo thủ trong kinh tế; ủng hộ nguyên tắc điều tiết nhà nước đối với
kinh tế thị trường, nhưng lại đặt mục tiêu nâng cao sức cạnh tranh của công
nghiệp, phản đối vai trò phân phối lại phúc lợi xã hội. Đảng này được nhiều
người da trắng, tầng lớp trung lưu theo đạo Tin lành và giới kinh doanh giàu có
ủng hộ.
Tuy nhiên, để giành thắng lợi trong bầu cử, hai đảng đều có định hướng
một cách thực dụng, luôn đưa ra những quan điểm sao cho được đông đảo người
Mỹ ủng hộ.
Về hệ thống tổ chức, Đảng Dân chủ có 3 cấp: Uỷ ban toàn quốc, bangquận, cơ sở địa phương, nhưng các cấp hoạt động tương đối độc lập với nhau,
15


quan hệ trên dưới không chặt chẽ. Trong hệ thống quyền lực ở nước Mỹ có sự
phân quyền cho chính quyền bang và chính quyền các địa phương khá mạnh, tổ
chức và hoạt động của chính quyền mỗi bang có nhiều nét đặc thù, cho nên tổ
chức và hoạt động của Đảng ở mỗi bang cũng không giống nhau.
Do đó nhiều người cho rằng, trên thực tế, không phải chỉ có một Đảng
Dân chủ trên toàn nước Mỹ, mà có tới 50 đảng dân chủ khác nhau ở 50 bang.
Đảng Dân chủ ở Mỹ thực chất chỉ là những liên minh 50 đảng dân chủ
mỗi khi đến kỳ bầu cử. Từ hệ thống cơ cấu tổ chức của Đảng Dân chủ, có thể
thấy, các tầng bậc chủ yếu sau: các tổ chức đảng địa phương là cấp thấp nhất ở
khu dân cư, phường, thị trấn, các uỷ ban cấp hạt ở trên, tiếp theo là uỷ ban cấp
bang. Uỷ ban toàn quốc của Đảng là cấp cao nhất và đại hội đảng toàn quốc là
cơ quan quyền lực tối cao. Tuy nhiên, các tầng bậc tổ chức này lại không phản
ánh chính xác quyền hạn của mỗi cấp. Quyền lực ở mỗi cấp độc lập, có tính tự
trị rất cao. ở địa phương, l đơn vị tổ chức đảng nhỏ nhất là khu dân cư, đây đồng

thời cũng là một khu vực bỏ phiếu.
Những hoạt động tích cực của cơ sở đảng tại các khu dân cư là một trong
những nhân tố quan trọng góp phần giành thắng lợi của Đảng trong các kỳ bầu
cử. Tiếp theo là uỷ ban cấp phường, thị trấn và cấp hạt. Ở cấp hạt có uỷ ban
đảng với một chức chủ tịch đảng. Hoạt động của đảng cấp địa phương chủ yếu
tập trung vào các cuộc vận động bầu cử bầu chính quyền địa phương.
2.1.2. Chức năng
Tại 50 bang và các vùng lãnh thổ của nước Mỹ đều có tổ chức của Đảng
Dân chủ. Mỗi bang đều có một ủy ban Trung ương (UBTƯ) bang, một chủ tịch
đảng bang và một bộ máy giúp việc chuyên nghiệp được trả lương. Các uỷ viên
của UBTƯ bang được lựa chọn từ các đại hội cấp hạt, từ các cuộc bầu cử sơ bộ
và từ các hội nghị của đảng. Ngoài ra, một bộ phận các thành viên đại diện cho
các khu vực bầu cử Quốc hội, Nghị viện bang.

16


Chức năng chính của UBTƯ bang là đề cử ứng cử viên cho các cơ quan
chính quyền bang, đồng thời tiến hành vận động tranh cử cho các ứng cử viên
của Đảng.
2.1.3. Nhiệm vụ
Uỷ ban có nhiệm vụ quảng bá, giới thiệu các hoạt động của Đảng, quyên
tiền, xây dựng đường lối chung của Đảng, đồng thời thi hành các quyết định
được thông qua tại Đại hội Đảng cấp bang.
Chủ tịch Đảng cấp bang là người hưởng lương và làm việc thường trực,
chỉ đạo trực tiếp việc hoạch định chính sách và các hoạt động của Đảng như:
tăng nguồn quỹ, xây dựng tổ chức đảng, xây dựng chiến lược cho chiến dịch vận
động tranh cử. Tổ chức đảng cấp quốc gia là Uỷ ban toàn quốc của Đảng, bao
gồm những đại biểu được lựa chọn từ tổ chức đảng cấp bang và các nhóm khác
nhau của Đảng. Lãnh đạo uỷ ban là một Chủ tịch thường do ứng cử viên tổng

thống của Đảng lựa chọn với nhiệm kỳ 4 năm. Dưới cơ quan quyền lực này là
đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp của Đảng.
Đây là những chuyên gia nắm vững và hiểu biết công nghệ vận động
tranh cử hiện đại và các đạo luật phức tạp điều chỉnh việc quyên góp và chi tiêu
tài chính. Hội nghị toàn quốc của Đảng thường được tổ chức vào mùa hè trước
khi diễn ra cuộc bầu cử tổng thống.
Các đại biểu được lựa chọn bằng nhiều cách khác nhau từ các tổ chức
đảng ở cấp bang. Các đại biểu dự Hội nghị thông qua cương lĩnh của Đảng, bầu
ra ứng cử viên tổng thống của Đảng.
Hội nghị đóng vai trò là cơ quan lãnh đạo tối cao của Đảng trên phạm vi
toàn quốc. Tổ chức đảng ở cấp bang, hạt và thành phố không chịu sự chỉ dẫn,
hoặc kiểm soát của Uỷ ban toàn quốc hoặc Chủ tịch Đảng cấp toàn quốc. ủy ban
đảng ở mỗi cấp có một chương trình hoạt động riêng, một chương trình gây quỹ
và gây dựng cơ sở của riêng mình.
Về nguyên tắc, các uỷ ban đảng của các địa phương không phải là cấp
dưới của uỷ ban đảng ở cấp bang và toàn quốc, không nhất thiết phải nghe theo
17


mệnh lệnh của ủy ban đảng cấp trên. Trong công việc hàng ngày, các đơn vị
đảng ở các cấp này là những đơn vị tự quản và độc lập. Việc đăng ký trở thành
đảng viên của Đảng là hoàn toàn dựa trên cơ sở tự nguyện. Sau khi đã trở thành
đảng viên, họ không phải đóng đảng phí và thực hiện bất kỳ một nghĩa vụ nào
đối với Đảng. Khi đảng viên cảm thấy Đảng không đem lại lợi ích gì cho mình,
họ có thể ra khỏi Đảng và có thể đăng ký trở thành đảng viên một đảng khác,
hoặc trở thành một cử tri độc lập.
2.2. Nguyên tắc bầu cử của đảng Dân Chủ
So với Đảng Cộng hòa, cách thức tiến hành bầu cử sơ bộ của Đảng Dân
chủ có những điểm khác biệt.
Để củng cố tính thống nhất tổ chức đảng của mình, Đảng Dân chủ đã đưa

ra các nguyên tắc bầu cử áp dụng trên phạm vi toàn quốc, theo đó Đảng này yêu
cầu 75% số đại biểu của mỗi bang phải được bầu ở những khu vực bầu cử có
dân số tương đương với khu vực bầu cử Quốc hội để tăng cường sự đại diện của
các nhóm thiểu số.
Tại Hội nghị Đảng toàn quốc, Đảng Dân chủ cũng nêu ra những yêu cầu
bắt buộc về cơ cấu, về giới tính cho các ứng viên tổng thống và phó tổng thống,
đây là điều mà Đảng Cộng hòa không đặt ra.
Mặc dù về tổ chức và hoạt động, Đảng Dân chủ cũng như Đảng Cộng hòa
ở Mỹ đều không có sự gắn bó và kỷ luật chặt chẽ, không có cương lĩnh chính trị
nhất quán như nhiều chính đảng cầm quyền khác ở các nước tư bản phát triển
phương Tây, nhưng hai đảng này vẫn thay nhau cầm quyền.
Tuy nhiên cũng cần thấy rằng, xét về thực chất, đây là các chính đảng của
giai cấp tư sản nên cương lĩnh của họ chính là sự nhất quán với các cơ sở nền
tảng của xã hội TBCN, với những mục tiêu chung là: bảo vệ chế độ sở hữu tư
nhân, chế độ nhà nước cộng hoà, hiến pháp liên bang, thể chế chính trị đương
thời, chống cộng sản và coi bá chủ thế giới luôn là “sứ mệnh” của nước Mỹ.

18


Chính điều đó trở thành đặc điểm chủ yếu nhất của hệ thống hai đảng
cầm quyền ở Mỹ, nó đảm bảo sự thống trị của hai đảng trong gần suốt lịch sử
hơn 200 năm của nước Mỹ.
Mặt khác, hệ thống bầu cử Mỹ phức tạp, theo nguyên tắc đa số tương đối,
“người thắng được tất cả”, các ứng cử viên của đảng nào thu được đa số tương
đối phiếu bầu ở một bang sẽ giành được toàn bộ số phiếu đại cử tri của bang đó.
Cơ chế đó ngăn cản các đảng nhỏ và người nghèo tham gia vào hệ thống quyền
lực, đồng thời loại bỏ được các đối thủ chính trị của cả Đảng Dân chủ và Đảng
Cộng hòa.
Cũng như các nước TBCN khác, thể chế chính trị Mỹ được xây dựng,

phát triển và ngày càng hoàn thiện trên cơ sở bảo vệ quyền lợi của giai cấp tư
sản. Những chỉ số về mức tăng trưởng kinh tế, về GDP bình quân đầu người
không thể che lấp tình trạng bi đát của một bộ phận không nhỏ những người dân
nghèo trong quốc gia này. Đằng sau chế độ dân chủ có vẻ nhộn nhịp qua các
cuộc tranh cử giữa các đảng phái, vẫn là sự xiết chặt về chính trị.
Các lực lượng đối lập, đặc biệt là Đảng Cộng sản đều bị kiểm soát chặt
chẽ. Vì vậy khi nghiên cứu về các chính đảng, nhất là hai đảng cầm quyền Dân
chủ hay Cộng hòa, cũng như khía cạnh cấu trúc, kỹ thuật của thể chế chính trị
Mỹ, rất cần thiết chắt lọc những kinh nghiệm có thể tham khảo, mặt khác cần
nhận rõ bản chất giai cấp tư sản của thể chế chính trị đó để từ đây có cách đánh
giá một cách khách quan, đúng đắn .
2.3. Phương thức hoạt động chung
Hoạt động trong nội bộ các đảng chính trị Mỹ nói chung cũng như hai
đảng Dân Chủ và đảng Cộng Hòa nói riêng, cùng dựa trên nền tảng ba nguyên
tắc cơ bản: dân chủ rộng rãi, theo đa số và không tập trung.
Vào năm 2008, Đảng Dân chủ là đảng chính trị lớn nhất, với hơn 74 triệu
cử tri (chiếm 37% số cử tri có đăng ký) tuyên bố gắn kết với đảng, theo Trung
tâm Nghiên cứu Pew. Barack Obama là người thứ 15 của Đảng Dân chủ giữ
chức vụ tổng thống Hoa Kỳ.
19


Đảng Dân chủ đã ủng hộ cho địa vị đứng đầu của nhánh hành pháp (đứng
đầu bởi tổng thống) bên trên các nhánh quyền lực khác trong bộ máy nhà nước
và phản đối các chương trình mà đảng này cho là phát triển công nghiệp không
phục vụ quyền lợi của người dân.
Trong đêm bầu cử ở Hoa Kỳ, vô tuyến truyền hình cập nhật bản đồ Hoa
Kỳ với các mảnh ghép, màu đỏ cho Đảng Cộng hòa và màu xanh cho Đảng Dân
chủ để chỉ ra các bang đã bỏ phiếu ra sao. Đó là một hình ảnh mà người dân Mỹ
hiểu ngay bởi hệ thống hai đảng này đã trở thành một phần trong cuộc sống

hàng ngày của họ.
Đảng Dân chủ được xem là đảng tự do hơn, còn Đảng Cộng hòa thì bảo
thủ hơn. Trong các phạm trù tư tưởng rộng lớn đó, mỗi đảng đều xoay quanh
một phạm vi các niềm tin và quan điểm của mình. Nhiều người Mỹ tự nhận thấy
mình là “độc lập” (không gắn kết với một đảng nào), và số cử tri như vậy đang
ngày một tăng lên.
Như đã nêu trên, Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa đã giữ vai trò chủ đạo
trong đời sống chính trị và các cuộc bầu cử từ những năm 1860. Kỷ lục chưa
nước nào phá được về việc hai đảng thay nhau liên tục kiểm soát các cuộc bầu
cử đã phản ánh các khía cạnh về cấu trúc của hệ thống chính trị Mỹ cũng như
những đặc điểm của hai đảng này.
Quy định chuẩn đối với các nghị sĩ Quốc hội của liên bang và các thành
viên trong cơ quan lập pháp các bang ở Hoa Kỳ là hệ thống “mỗi quận một đại
biểu”, theo đó ứng cử viên nào nhận được số phiếu cao nhất của một quận thì
thắng cử. Mặc dù một vài bang yêu cầu phải nhận được đa số phiếu bầu thì mới
được coi là thắng cử, song hầu hết những người đứng đầu các cơ quan dân sự
chỉ cần có số phiếu cao nhất là được. Không giống như các hệ thống bầu đại
biểu quốc hội theo tỉ lệ ở nhiều quốc gia dân chủ, nguyên tắc “mỗi quận một đại
biểu” chỉ cho phép mỗi quận có một đảng thắng cử.

20


Do đó, hệ thống này tạo ra một động cơ thành lập nên những đảng phái
hoạt động trên phạm vi toàn quốc với diện rộng, với đầy đủ các kỹ năng quản lý,
nguồn lực Các hạ nghị sĩ tuyên thệ nhậm chức trong Hạ nghị viện trong lễ khai
mạc Quốc hội Hoa Kỳ thứ 112 vào ngày 3/1/2011.‐ 15 ‐ tài chính và giành được
sự yêu thích của dân chúng thì mới có thể giành được số phiếu bầu cao nhất ở
mỗi quận, từ đó giành thắng lợi chung trên cả nước. Theo hệ thống này, các ứng
cử viên thiểu số và của các đảng thứ ba sẽ bị bất lợi. Những chính đảng có

nguồn lực tài chính hạn chế và số người ủng hộ ít ỏi sẽ khó có thể giành được
bất kỳ sự đại diện nào.
Do đó, các đảng mới khó mà giành được một mức độ đại diện hợp lý và
tầm ảnh hưởng trên toàn quốc do cơ chế “được ăn cả-ngã về không” của hệ
thống bầu cử Hoa Kỳ. Tại sao lại là hai đảng có nguồn tài chính dồi dào, mà
không phải là một con số khác, như ba đảng chẳng hạn? Một phần là do hai
đảng được coi là đã đủ cho dân chúng lựa chọn, phần vì công chúng Mỹ từ trước
tới nay luôn không thích các quan điểm chính trị cực đoan.
2.3.1. Phương thức hoạt động giành chính quyền của đảng dân chủ
Theo hoạt động tranh cử là cuộc chạy đua để giành những vị trí quan
trọng trong bộ máy nhà nước dao dân bầu cử, đứng đầu là ngôi vị tổng thống.
Qua đó làm nổi bật lên hoạt động sống còn của hai đảng chính trị chủ yếu là Dân
Chủ và Cộng Hòa.
Sơ với hoạt động bỏ phiếu của cử tri, hoạt động tranh cử ở Mỹ sôi động và
quyết liệt hơn nhiều.
Về hình thức, hoạt động tranh cử là cuộc đấu tranh giữa các cá nhân, song
thực chất là cuộc chạy đua giữa các đảng phái mà chủ yếu là hai đảng lớn.
2.3.2. Phương thức sử dụng chính quyền
Thứ nhất, đưa người của đảng vào bộ máy nhà nước để thực thi cụ thể
công việc theo quy định của pháp luật nhưng theo ý đồ của đảng và nâng cao vị
thế của đảng.

21


Thứ hai, tác động vào quá trình lập pháp để hiện thực hóa các ý chí của
đảng và đưa nó vào cuộc sống.
Thứ ba, giám sát và kiểm tra các hoạt động của bộ máy nhà nước.
2.3.3. Phương thức hoạt động đối với tổ chức xã hội và công dân
Hoạt động đối với các tổ chức xã hội và công dân được đảng dân chủ coi

là một trong những mảng công việc cần thiết với phương thức:
Xây dựng và thực hiện các mối quan hệ trực tiếp với công dân và các tổ
chức xã hội. Sự liên hệ của đảng cầm quyền đối với công dân tương tự gần như
quan hệ và hành động chăm sóc khách hàng của các nhà kinh doanh.
Việc tiếp xúc trực tiếp của đảng cầm quyền ở Mỹ được tổ chức dưới hình
thức những cuộc tiếp xúc, liên hệ giữa cá nhân các nghị sĩ của đảng với những
cử tri tại đơn vị bầu cử.
Qua việc vận động hành lang là kênh quan trọng để giúp cho những người
được bầu, tiếp xúc với những người mà họ đại diện. Bằng phương tiện truyền
thông, internet ngày càng phổ biến, nó giúp quảng bá hình ảnh của đảng phái,
nhất là đảng cầm quyền hiện nay.

22


Chương 3
MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ VỀ ĐẢNG CẦM QUYỀN Ở MỸ HIỆN NAY
VÀ GỢI MỞ CHO VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
3.1. Một số đánh giá về đảng cầm quyền ở Mỹ hiện nay
Trong hệ thống đảng chính trị Hoa Kỳ, các đảng phái chính trị, nhất là hai
đảng Dân Chủ và Cộng Hòa có vai trò đặc biệt quan trọng. Các đảng không
những là tổ chức gần như duy nhất lựa chọn và cung cấp ứng cử viên cho các
cuộc bầu cử, mà còn ảnh hưởng rất lớn đến tổ chức và các quyết định lập pháp
của đất nước. So với các nền dân chủ phương Tây có cùng mô hình thì hệ thống
đảng Dân Chủ có điểm khác biệt.
Thứ nhất, các đảng chính trị nói chung và hai đảng lớn ở Mỹ nói riêng là
những đảng bầu cử . Đây được xem là một trong những đặc điểm riêng của hệ
thống lưỡng đảng ở Hoa Kỳ.
Thứ hai, đảng Dân Chủ và đảng Cộng Hòa đều ủng hộ quan điểm ôn hòa

trong xã hội. Và cơ cấu tổ chức hoạt động mang tính phi tập trung hóa với
nguyên tắc tham gia tự nguyện.
Thứ ba, đảng cầm quyền luôn khuyến khích người dân tích cực tham gia
chính trị bằng cách tham gia vào chiến dịch vận động tranh cử, quyên góp tài
chính, chạy đua vào các chức vụ trong chính quyền.
Thứ tư, đảng cầm quyền là nhân tố tạo sự liên kết thống nhất trong bộ máy
cơ quan hành pháp, bởi tổng thống là người đại diện cho quyền lợi của đảngNgười có quyền lựa chọn các thành viên nội các quan chức chop bu khác trong
chính phủ là người của đảng.
Thứ năm, phương thức hoạt động của đảng cầm quyền ở nước Mỹ rất đa
dạng, liên quan đến đời sống chính trị - xã hội của toàn quốc gia.

23


Đảng dân chủ thường giành được sự ủng hộ từ tầng lớp có thu nhập thấp
và nghề nghiệp thấp như nhóm cử tri Mỹ - Phi, các thành viên của hiệp hội Gia
đình, người Do Thái và những người có trình độ trung học.
Chính vì thế, người ta gọi đảng Dân Chủ là đảng của tầng lớp lao động.
3.2. Gợi mở cho Việt Nam trong quá trình xây dựng Đảng, hoàn thiện
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Khi đấu tranh giành và giữ chính quyền nhà nước, giai cấp xây dựng Đảng
chính trị của mình để lãnh đạo và cầm quyền. Ở Mỹ, Đảng Dân chủ và Đảng
Cộng hòa thay nhau cầm quyền từ đầu thế kỷ XIX đến nay. Các nước phương
Tây khác cũng do các đảng tư sản cầm quyền. Đảng Cộng sản lãnh đạo cách
mạng và đã, đang cầm quyền ở một số nước. Các nhà nước ở các nước khác
cũng đều do một đảng chính trị nắm quyền. Đảng chính trị cầm quyền ở các
nước là vấn đề tất yếu và đều hướng tới xây dựng nhà nước pháp quyền.
Xây dựng và hoạt động của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ.

Từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng Cộng sản đã lãnh đạo Nhà
nước và cầm quyền ở Việt Nam. Sự lãnh đạo, cầm quyền đó mang tính liên tục
từ cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên 6-1-1946, Tổng tuyển cử thống nhất đất nước
25-4-1976 và các kỳ bầu cử Quốc hội sau này. Đó chính là sự tín nhiệm và ủy
thác của toàn thể nhân dân Việt Nam đối với Đảng. Hiến định sự lãnh đạo Nhà
nước và xã hội của Đảng trong Điều 4 Hiến pháp là sự khẳng định tính pháp lý
từ một hiện thực lịch sử rõ ràng và bền vững. Mặt khác, đó cũng chính là đòi hỏi
của nhân dân, đất nước để Đảng có đầy đủ trách nhiệm, năng lực, trí tuệ xứng
đáng với vai trò lãnh đạo và cầm quyền. Cụ thể:
Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình hướng nào cũng phải kiên trì thực
hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển

24


chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân
tộc và chủ nghĩa xã hội.
Hai là, phải thật sự coi trọng chất lượng hiệu quả tăng trưởng và phát triển
bền vững, nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc
độ tăng trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô.
Ba là, phải coi trọng kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Bốn là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng
và tổ chức. Thật sự phát huy dân chủ, giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương,
đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng.
Năm là, trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phải rất nhậy bén, kiên quyết,
sáng tạo, bám sát thực tiễn đất nước, chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra
các giải pháp phù hợp với tình hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền, tạo
sự đồng thuận cao, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Hiến pháp sửa đổi năm 2013 được xây dựng sau gần 30 năm tiến hành
đổi mới ở nước ta, trong không khí dân chủ, pháp quyền, mở cửa và hội nhập
nên chứa đựng nhiều nội dung và tinh thần mới; đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc, phát triển bền vững và chủ động hội nhập quốc tế; là bảo đảm
chính trị - pháp lý vững chắc cho toàn Đảng, toàn dân ta vững bước tiến lên
trong thời kỳ mới.

25


×