Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Câu đối và những giai thoại đối đáp của các vị vua chúa triều nguyễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (115.01 KB, 11 trang )

Câu đối và những giai thoại đối đáp của các
vị vua chúa triều Nguyễn
1

Những câu đối của Quốc Chúa
Minh Vương Nguyễn Phúc Chu
(1675 - 1725)

Ca sa thấp vũ nhất trị thanh cơ kiến đạo
xương
Dịch nghĩa:
Mây phất phơ trên kinh lá bối, sáu thời tiếng
thiền niệm cầu hoa lợi phong đăng

iên Túng Đạo Nhân Nguyễn Phúc Chu là một vị chúa
rất sùng bái Phật giáo, khi kế nghiệp Chúa, Ngài mới
có 16 tuổi nhưng đã biết chiêu hiền đãi sĩ, biết nghe lời
can gián, được dân chúng yêu quý, thường gọi Ngài là
ốc Chúa hay Chúa Minh. Ngài không chỉ sáng tác
thơ văn viết về phong cảnh cùng chùa chiền ở kinh đô
uận Hóa và quanh miền, mà còn sáng tác nhiều câu
đối nữa, tất cả đều được ghi lại trong sách Hải ngoại
ký sự, một tập bút ký có nhiều giá trị về văn học và sử
liệu, dưới đây là một số câu đối của ngài:

Mưa thấm khắp nếp áo Cà sa, mùi đạo thanh
tu có cơ duyên phát đạt
• Câu đối ở Chánh điện chùa ập áp - Bình Định:
,
,
Phật tính viên


dung, trạm nhược hư không, mạc năng trắc
kỳ biên tế (Phật tính tròn đầy, trong trẻo tựa
hư không, khó lường được giới mốc)
,
,
Pháp thân vô
tướng, cảo như hao nhật, thục cảm nghĩ kỳ
cao minh (Pháp thân vô tướng, sáng như mặt
trời hiện, đâu dám chuyện nghĩ bàn)

• Câu đối viết dán trước Đại Giới Đàn chùa iền
Lâm:
í thị trì luật, nho giả lý trung, tổng yếu
tu thân thành ý, tự nhiên kính trực hồ nội,
nghĩa phương hồ ngoại (Cửa Phật giới luật,
nhà Nho trung dung, chỉ cốt thành ý chính
tâm, tự nhiên ngoài có nghĩa phương trong
có chính trực)

2 Câu đối của Quốc Chúa Ninh
Vương Nguyễn Phúc Chú (1697
- 1738)

ân tử sắc cơ, thiền nhân tập định, đồng
qui kiến tánh minh tâm, đoan do giới thận
bất đổ, khủng cụ bất văn (ân tử cơ vi,
iền sư nhập định, đều để minh tâm kiến
tánh, bởi vì răn chỗ chẳng thấy, sợ chỗ chẳng
nghe)


Nguyễn Phúc Chú còn có tên là Trú hay ụ. Chánh
quán của ông ở Gia Miêu (huyện Tống Sơn, anh
Hóa), ông là con trai trưởng của chúa Nguyễn Phúc
Chu. Khi trưởng thành, Nguyễn Phúc Trú được cử giữ
chức cai cơ tước Đỉnh thịnh hầu, đến năm 1715 được
thăng làm chưởng cơ, làm phủ đệ tại dinh cơ Tả Sùng.
Sau khi nối ngôi được tôn là ái phó tước Đỉnh ốc
công, hiệu là Văn Truyền đạo nhân (vì mộ đạo Phật).
Câu đối ban cho chùa Linh Phong vào năm 1733 được
sách Đại Nam dư địa chí ước biên của Cao Xuân Dục
(triều Nguyễn) chép kèm theo câu thơ sau: “Mây lành
khắp chốn, chùa Linh Phong bao bọc hoa tươi”:

• Câu đối ban tặng chùa ốc Ân - uận Hóa:
,
,
Bát bảo xán kim
lương, hiển nhật lâm quang, tiện hữu nhân
hữu cảnh (Bát bảo rực rường vàng, vầng nhật
chiếu thiền môn, mến được có người có cảnh)
,
,
Ngũ vân sinh ngọc
đống, xuân quang triển tọa, hỷ bất tức bất
ly (Năm mây ngời cột ngọc, ánh xuân soi bảo
tọa, vui thay không mất không xa)

,
Hải ngạn khởi lương
nhân, pháp vũ phổ thiên tư phật thổ (Bờ biển

gặp duyên may, mưa pháp cùng trời thấm
nhuần đất Phật)

và:

,
Linh Phong ngưng
thoại khí, tường vân biến địa ấm nhân gian
(Núi linh đọng khí tốt, mây lành khắp chốn
che chở cõi người)

Bối diệp phiêu vân, lục thời thiền tụng kỳ
phong mẫn
1


2

3

5

VUA THIỆU TRỊ VÀ HỒNG BẢO

Câu đối do vua Gia Long ban
tặng Ngô Thị Vinh Hoa

kết quả là Đại Nam có lãnh thổ rộng hơn cả. Một lần
vua Minh Mạng đến thăm chùa Non Nước (Ngũ Hành
Sơn – Đà Nẵng). Trong đoàn tùy tùng có Trương Đăng

ế là một đình thần hay chữ. ấy cảnh ở đây rất đẹp,
Ngô ị Vinh Hoa là con thứ mười của Ngô Khải, tuy vua ra vế đối:
vua ang Trung hết lòng yêu thương chiều chuộng,
song Vinh Hoa vẫn một mực không cho nhà vua thành
Chùa Non Nước trên non dưới nước, nước
thân. Nhà vua rất lấy làm buồn, tuy hàng ngày gặp
non về một đấng quân vương
nhau nhưng nhà vua vẫn không sao gần gụi được. Khi
Trương Đăng ế đối lại: Cửa uận An
chiếm Phú Xuân, tướng của Gia Long là Vũ Văn Toàn
trong thuận ngoài an, an thuận khắp bốn
vào trước, kéo quân thẳng vào hậu cung, cướp được
phương thiên hạ
Ngô ị Vinh Hoa. Vinh Hoa ở trong cung được nhà
vua hết sức vêu chiều. Dần dần nàng hồi tâm lại, đẹp
Trương Đăng ế tự là Diên
mơn mởn y như lộc mùa xuân. Biết Vinh Hoa có tài
Phương, hiệu là Đoan Trai, biệt
múa hát, nhà vua thích lắm, muốn lấy làm vợ. Nhà vua
hiệu ảng Khê, người làng Mỹ
bảo nàng: “Ta muốn sở hữu nàng như nuôi con gà, con
Khê Tây, huyện Bình Sơn, nay
vịt trong nhà.“ Vinh Hoa tâu: “Bệ hạ muốn làm vua gà,
thuộc xã Tịnh Khê, huyện Sơn
vua vịt hay sao?“ Nói rồi nàng ôm đàn hát, nhà vua
Tịnh. Ông thi đỗ hương tiến (tương
nghe tiếng đàn, mơ màng, gục đầu xuống bàn ngủ thiếp
đương cử nhân sau này) khoa Kỷ
đi. Khi tỉnh dậy, nhà vua không thấy Vinh Hoa đâu
Mão (1819) được bổ làm Hành tẩu

nữa, chỉ thấy trên bàn có ghi mấy chữ: “ời lai phong
bộ Lễ dưới triều Gia Long, đến năm
tống tạ Đà giang” (ời vận đến, gió đưa lại phía sông
Minh Mạng thứ nhất (1820) được
Đà). Nhà vua sai tìm Vinh Hoa khắp nơi nhưng không
thăng Biên tu rồi sung làm Hoàng
thấy. ít lâu sau, ở vùng huyện lỵ Đà Bắc (thuộc phủ
tử trực học, trở thành 1 trong 3 thầy
Hưng Hóa), người ta vớt được một xác phụ nữ quý tộc
dạy của các hoàng tử dưới triều
trôi trên sông, trên tay có bế một đứa bé con còn sống.
Minh Mạng. Năm 1863, sau nhiều
an sở tại báo việc này về triều đình. Vua Gia Long
lần xin từ quan, ông được vua Tự
cho người lên xem xét, nhận ra người chết giống hệt
Đức cho về trí sĩ.
Ngô ị Vinh Hoa. Nhà vua cho làm ma nàng rất hậu,
bắt lập miếu thờ. Đứa bé con được những người dân
Mường ở đây đón về nuôi. Trong miếu thờ có đôi câu 5 Vua Thiệu Trị và Hồng Bảo
đối của nhà vua ban, ghi rằng:
iệu Trị tên húy là Nguyễn Phúc Miên Tông, ngoài ra
còn có tên là Nguyễn Phúc Tuyền và Dung. Ông là con
trưởng của vua Minh Mạng và Tá iên Nhân Hoàng
Lưu vạn cổ, bảo tồn phẩm tiết
hậu Hồ ị Hoa, sinh ngày 11 tháng 5 năm Đinh Mão,
tức 16 tháng 6 năm 1807, tại Huế. iệu Trị cũng nổi
Dịch nghĩa:
tiếng là một vị vua thi sĩ, có để lại rất nhiều bài thơ, nổi
tiếng nhất là 2 bài thơ chữ Hán có tên là Vũ Trung Sơn
ờ hai vua, vẫn giữ lòng trinh

ủy (Cảnh trong mưa) và Phước Viên Văn hội lương
dạ mạn ngâm (Đêm thơ ở Phước Viên). Cả 2 bài không
Lưu muôn thuở, còn nguyên phẩm tiết
trình bày theo lối thường mà viết thành 5 vòng tròn
đồng tâm, mỗi vòng tròn có 1 số chữ, đếm mỗi bài có
4 Vua Minh Mạng và Trương 56 chữ, ứng với một bài thơ thất ngôn bát cú, nhìn vào
như một “trận đồ bát quái”, vua có chỉ cách đọc và đố là
Đăng Quế
kiếm ra 64 bài thơ trong đó nhưng tới nay chưa ai tìm
ra được. Trong những lúc rảnh rỗi công việc y triều
Vua Minh Mạng, cũng gọi là Minh Mệnh, tức Nguyễn chính, thường hợp các hoàng tử nhỏ tuổi để thử thách
ánh Tổ là vị Hoàng đế thứ hai của nhà Nguyễn. Ông tài năng đối đáp. Một hôm nhà vua ra câu đối:
tên thật là Nguyễn Phúc Đảm, còn có tên Nguyễn Phúc
Kiểu, sinh tại làng Tân Lộc, gần Sài Gòn, giữa cuộc
Bắc sứ lai triều
Chiến tranh Tây Sơn–Chúa Nguyễn (1787-1802). Minh
Hoàng Tử Hồng Bảo nhanh nhẩu đối: Tây
Mạng chủ trương mở mang thế lực ra nước ngoài, ông
Sơn phục quốc
đổi tên Việt Nam thành Đại Nam, và muốn cho đất nước
Vua iệu Trị phì cười, mắng khéo
trở thành một đế quốc hùng mạnh. Nhà vua lập các phủ
con: “Tây Sơn mà phục quốc thì cả
Trấn Ninh, Lạc Biên, Trấn Định, Trấn Man nhằm khống
bà con mi không có đất mà chôn.
chế Ai Lao; và thực sự kiểm soát Chân Lạp, đổi Nam
Lần sau có đối thì cũng phải giữ
Vang (Phnôm Pênh ngày nay) thành Trấn Tây thành;
Sự nhị quân, vĩnh thủ trinh tâm



6.1

Cao Bá Quát
gìn ý tứ nghe con!" Hồng Bảo giật
mình, biết mình lỡ miệng, từ đó trở
nên e dè, thận trọng hơn trong lời
nói. Nguyễn Phúc Hồng Bảo là con
trưởng vua iệu Trị, mẹ là Đinh
ị Hạnh người Gò Công huyện
Tân Hòa, tỉnh Gia Định. Khi vua
iệu Trị mất, các hoàng thân và
các quan văn võ họp tại điện Cần
Chánh để tuyên đọc di chiếu, theo
đó hoàng thứ hai là Phúc Tuy công
Nguyễn Phúc Hồng Nhậm được lập
lên ngôi (tức vua Tự Đức). Di chiếu
đọc chưa dứt, An Phong công (Hồng
Bảo) phẫn uất thổ huyết hơn một
đấu, nằm vật ngã giữa điện đình.

6

Vua Tự Đức và Cao Bá Quát

6.1

Cao Bá Quát

• Cao Bá át là một danh sĩ sống vào thời vua

Tự Đức, tự Chu ần, hiệu Cúc Đường, biệt hiệu
Mẫn Hiên. Người làng Phú ị, huyện Gia Lâm,
tỉnh Bắc Ninh, nay là xã yết Chiến, huyện Gia
Lâm ngoại thành Hà Nội. Ông là anh em sinh đôi
với Cao Bá Đạt, thân phụ của họ là cụ Cao Huy
Giảng. Mặc dù là anh em sinh đôi, nhưng giữa họ
có nhiều điều khác biệt nhau về tư duy và cảm
nhận thơ văn. Lúc còn nhỏ, Cao Bá át ra tắm
ở Hồ Tây. Đúng vào lúc vua Minh Mệnh đi kinh
lý ở ngoài bắc để nhận sắc phong của Hoàng Đế
nhà anh, nhà vua cũng đến Hồ Tây xem phong
cảnh. Đạo ngự đi qua, tàn lọng rợp trời, gươm đao
sáng quắc, ai cũng phải tránh xa, riêng cậu át
cứ tự do vùng vẫy. Lính đến bắt lôi lên bờ, cậu cứ
trần truồng đến trước mặt vua, tự khai là học trò,
vì trời nực ra tắm mát. Vua nhìn xuống hồ thấy
có con cá lớn đang đuổi đàn cá con, liền đọc một
câu đối, bảo nếu đúng át là học trò thì phải đối
được, sẽ tha không đánh đòn.
nhà vua đọc: Nước trong leo lẻo, cá đớp cá
Cậu át ứng khẩu đối ngay: Trời nắng
ang ang, người trói ngườị
nhà vua tuy bực vì át cũng coi
mình như người thường nhưng vì
câu đối quá chuẩn nên không thể
bắt bẻ đành thả cậu át cho đi.
• Bữa nọ, Cao Bá át đến nghe bình văn ở một
trường Đốc. Nghe đọc những câu văn tầm thường,
ông cứ lắc đầu và còn bịt mũi tỏ ra khó chịu, quân
lính thấy vậy bắt vào nộp quan đốc học. át xưng

là học trò, hỏi học với ai, ông trả lời: “Tôi học với
ông Trình ông Chu” (Trình, Chu là hai vị học giả

3
vào hàng tôn sư trong đạo Nho. Trả lời như vậy là tỏ
ra mình học với các bậc thánh hiền, học từ gốc chứ
không thèm học ngọn!) an đốc giận, ra câu đối
bắt đối ngay: Nghĩ tiểu sinh hà xứ đắc lai, cảm
thuyết Trình Chu sự nghiệp (Chú bé này ở đâu
đến đây, dám nói đến sự nghiệp ông Trình, ông
Chu to lớn?)
Cậu át đối lại: Ngã quân tử kiến cơ nhi
tác, dục vi Nghiêu uấn quân dân (Người
quân tử gặp thời làm việc, muốn quân dân
đều được như đời uấn, đời Nghiêu)
an đốc phục tài, nhất là cảm
thấy chí hướng lớn lao của người
trẻ tuổi, ông đã không giận mà còn
thưởng cho Cao Bá át.
• Câu đối vịnh điều cày:
Ra tay cầm cán sôi trong nước
Ngậm khói phun mây sạ bụi trần
• Có một lần Cao Bá át đi thăm bạn ở xa. Bạn đi
vắng, ông phải trở về, bụng đói mà tiền thì đã hết
nhẵn. Ðang đi lang thang thất thểu, chợt nghe gần
đấy có kèn trống đám ma. át theo chừng lần tới
nơi. Hỏi ra biết là đám tang một ông cụ già nhà
khá giả. át liền bước vào nhà thấy quan viên
ngồi chật ních trong rạp; ở chính giữa rạp thấy có
dăm bảy ông râu dài, ngồi chễm chệ trên ghế cạp

điều, đang ngất ngưởng nói chuyện chữ nghĩa; lại
thấy hiếu chủ chắp tay bẩm báo chầu chực, nên
át đoán là văn thân hào mục, hay cử tú gì đó.
át liền tới gần hiếu chủ nói: “Tôi là khách qua
đường, nghe nói cụ nhà phúc đức lắm, nay chẳng
may cụ hai năm mươi về chầu Phật, bụng tôi lấy
làm cảm động vô cùng. Nên xin được vào phúng
cụ vài câu rồi đi”. Mấy vị ngồi chiếu cạp điều nghe
át nói thế thì muốn lên mặt đàn anh, vừa rung
đùi vuốt râu vừa hất hàm hỏi: “ế nhà thầy ở đâu
qua đây? Làm nghề gì?" át thưa: “Bẩm các quan,
tôi ở làng bên đi dạy học về qua đây!" Các ông lại
tranh nhau hỏi: “Dạy học à? ế đã thi cử khoa
nào chưa?" át đáp: “Bẩm cũng có theo đòi vài
ba khoa, nhưng đều hỏng cả, về nhà văn dốt vũ dát
nên đành phải đi gõ đầu trẻ!" Các quan viên lại hỏi
luôn: “ế nhà thầy định phúng câu đối Nôm hay
chữ đấy?" át trả lời: “Bẩm có mấy chữ đã dạy trẻ
hết mất rồi, giờ xin làm Nôm thôi ạ!" Các ông đàn
anh được thể lại lên giọng: "Ừ, thế thì cứ làm đi rồi
các cụ sẽ phủ chính cho!" át bèn hắng dặng rồi
ngâm nga rằng:
ấy xe thiên cổ xị đưa ra, không thân
thiết nhẽ đâu mà khóc mướn?
Tưởng sự bá niên đùng nghĩ đến, động
can tràng nên nỗi phải thương vay!


4


6 VUA TỰ ĐỨC VÀ CAO BÁ QUÁT
Các quan viên nghe xong đều thè
lưỡi thán phục, kéo ngay át lên
chiếu cạp điều mời cùng đánh chén.
Ðến sau rượu đã ngà, mấy ông cứ
gạn hỏi mãi, át đành phải xưng
tên thật. ế là ông nào ông nấy
giật mình thon thót, đứng vội dậy
chắp tay xin lỗi át rối rít. Có
thuyết khác lại nói đôi câu đối này
do Lê ý Đôn viết
• Tương truyền khi chưa quen nhau, ông át nghe
tiếng ông Nguyễn Văn Siêu dạy học, tìm đến thăm
dò. Ông Siêu còn nghèo lắm, chỉ ngồi trên ghế
chõng tre cũ kỹ, học trò trải chiếu ngồi quanh nền
nhà. Cao Bá át xin vào học, ông Siêu ra câu đối,
bảo có đối được mới nhận:
Tiên sinh tọa tị thượng, cót i két, két i
cót, cót cót két két
Cao Bá át đối ngay: Tiểu tử nhập đình
trung, thẩn i thơ, thơ i thẩn, thẩn thẩn
thơ thơ
Nguyễn Văn Siêu rất phục, dắt tay
mời vào. Từ đó hai người kết bạn
vong niên, dân gian vẫn gọi là
“ần Siêu ánh át” rất đúng
với đôi câu đối của vua Tự Đức
“văn như Siêu át vô Tiền Hán”
• Ở sau điện Cần Chánh mới đắp một quả núi non
bộ trong bể cạn, vua Tự Đức sai Nguyễn Văn Siêu

đề câu đối. Siêu nghĩ mà chưa biết đề như thế nào
cho hay, nhân gặp Cao Bá át đến chơi, mới ngõ
ý ấy. Cao Bá át lấy bút chép ngay:
Sơn nhược hữu thần hô Hán tuế (Núi nếu có
thần thì hô chúc tuổi vua Hán. eo tích: Hán
Vũ Đế đi chơi núi Tung Sơn, thị thần đứng
dàn hàng hai bên, lúc xe vua đi qua đều hô
vạn tuế , tiếng hô âm vào núi, vang ra ba lần.
Người ta nói đấy là sơn thần hô vạn tuế chúc
vua)
Hải như sinh thánh thiếp Chu Ba (Biển như
sinh thánh nhân thì im lặng sóng gió nhà
Chu. eo tích: Chu Công Đán hỏi: Nước
Việt ường cách đây vạn dặm, vì cớ gì sang
cống?". Sứ giả nói: " Hạ quốc thấy gần đây
mưa thuận gió hoà, ba năm nay biển không
gợn sóng”. Biết rằng Trung ốc có thánh
nhân cho nên sang cống”)
• Trong một dịp đón xuân ở Hà ành, Cao Bá át
được rất nhiều người đến xin câu đối về dán, có
một anh chàng làm nghề đóng áo quan, và một
chị nọ đang bụng mang dạ chửa cùng đến. ánh

át bèn viết cho anh thợ đóng áo quan một đôi
câu đối như sau:
iên tăng tuế nguyệt nhân tăng
ọ (Trời thêm năm tháng người thêm ọ)
Xuân mãn càn khôn phúc mãn
Đường (Xuân khắp non sông Phúc chật nhà)
Câu đối trên có thuyết khác nói

rằng của Nguyễn Công Trứ
Còn chị có bầu được ánh át tặng câu sau:
Xuân mãn càn khôn, phúc mãn
(Xuân đầy trời đất, phúc đẫy)
iên tăng tuế nguyệt, nhân tăng
(Trời thêm năm tháng, người thêm)
Sự tài tình mà cũng là cái sự
hóm hỉnh của Cao Bá át ở chỗ
lợi dụng được hai chữ thọ đường.
Chữ ọ đứng riêng là sống lâu,
chữ Đường đứng riêng là cái nhà;
nhưng thọ đường ghép liền thì lại
có nghĩa là cỗ áo quan/cỗ quan tài.
Câu đối vừa mừng Xuân vừa chỉ
đích danh vào cái nghề đặc biệt
của anh thợ mộc thì quả là sâu
sắc và hay tuyệt. Còn với chị đàn
bà bụng chửa, ánh át vẫn sử
dụng đôi câu đối ấy, song bớt đi
mỗi vế một chữ cuối, vế trên nói
đến ý “phúc đẫy” rõ ràng là nói
về cái bụng chửa; bởi chữ phúc là
hạnh phúc cũng đồng âm với chữ
phúc là cái bụng, mà “phúc mãn”
có nghĩa là cái bụng đẫy/bụng to,
tức là bụng có chửa. Còn vế dưới
nói đến ý “người thêm”, rõ ràng
là chỉ vào việc người phụ nữ sắp
đẻ, sắp thêm người thêm của như
lời chúc của dân gian. Bụng to rồi

đẻ thêm người, như thế là “mẹ
tròn con vuông”. Phỏng có lời chúc
nào đúng và hay hơn ý tứ của
đôi câu đối đó…! Có thuyết khác
lại kể rằng câu đối này được viết
cho 1 góa phụ vào tết năm 1903
(ý Mão), bấy giờ có một Ông
Đồ quê mang Nghiên Bút ra ngồi
Chợ Hưng Yên bán chữ. Goá phụ
thuộc hàng giàu có nhưng không
rành chữ Nho mang câu đối vui
mừng đem về dán trước cửa Nhà,
có một tên Ba xạo đi ngang chơi
ác cắt nghĩa rằng :"Trời tăng năm
tháng Người thêm, Xuân khắp Non
Sông bụng phổng!" ý nói là Cô bị


6.1

Cao Bá Quát
chữa hoang đó! (thay vì chữ Phúc là
phúc lộc, Hắn lại xuyên tạc thành
chữ Phúc là cái bụng-mang bầu).
Goá phụ nổi tam bành vác đơn đi
kiện ầy Đồ liền ngay ngày 28
Tết, an Án Sát Hưng Yên lúc ấy
là Ông Nghè Chu Mạnh Trinh rất
mực công bình nên đã quở trách
Goá Phụ về tội nghe xằng bậy và

buột bồi thường danh dự cho ầy
Đồ một an tiền kẻm!

• Cao Bá át có dịp vào ảng Nam, đến thăm
nhà một cụ đồ (sau này là thân sinh ông Nguyễn
Hiển Dĩnh). Nhiều người nghe tiếng ông giỏi thơ
văn đã đến xin chữ. Một người làm đôi đèn lồng
để thờ mẹ, xin ông cho một đôi câu đối Nôm. Ông
át viết luôn vào đôi đèn lồng hai câu:
Trước mẹ dạy con, gió iều nào e iều
ấy, con dạ
Giờ con thờ mẹ, đèn nhà ai rạng nhà nấy,
mẹ ơi!
Trong Nam truyền tụng là câu đối
rất hay, dùng toàn tục ngữ mà sát
với đôi đèn.
• Ông Chiêu Phu (không rõ tiểu sử) viết cho một bà
goá lấy chồng người Trung ốc:
Bí phát kết ngô duyên di hi kim iêu hồng
bắc khứ (Kết tóc đuôi sam, (theo kiểu người
Trung ốc) lấy chồng nước khác, con chim
hồng đã bay về phương bắc)
Bình đầu lưu khá địa ta tai hà nhật nhạn
nam quy (ay đầu về đất khách, thương ôi
đến ngày nào con chim nhạn về nam)
Bà goá này đi giữa đường gặp một
người chê “Dở lắm, đem trả lại, lấy
tiền về đây”. Ông Chiêu Phu biết
người chê mình là Cao Bá át liền
mời họ Cao đến chơi và hỏi câu đối

nọ của mình dở thế nào. Cao Bá
át thủng thỉnh đáp: “Dở ở chỗ
ý hai vế giống nhau”. Ông Chiêu
Phu mời Cao Bá át làm lại câu
đối ấy. Sau khi nghĩ ngợi một lát,
Cao Bá át đọc:
Xoắn đuôi uột, trở về với mẹ
Khép mu sò, dừng lại nuôi con
Câu đối rất hợp với tình cảnh người
đàn bà goá nọ nhưng cái chất bỡn
cợt, tinh nghịch rất Cao Bá át
vẫn hiện lên rất rõ rệt…

5
• Câu đối về đề tài giáo dục:
Mô phạm dăm ba thằng mặt trắng,
Đỉnh ung iếc rưỡi cái lương vàng.
• Câu đối viết tặng Đền Gióng:
Phá tặc đãn hiềm tam tuế vãn (Ba
tuổi phá giặc vẫn còn ngại là muộn)
Đằng vân do hận cửu thiên đê
(Cưỡi mây còn hận chin tầng trời là thấp)
• Câu đối Tết viết tặng Phan Nhạ:
Trong thi xã “Mạc vân” có Tiến Sĩ Nguyễn Nhạ là người
hay châm chọc Cao Bá át và tưởng át sợ, y đã gây
cho Cao Bá át không ít rắc rối. Nhân dịp Tết, Bá át
viết tặng Nguyễn Nhạ một câu đối:
Nhữ cấu vô nha hà tốc ngã (Nếu
anh không có nanh, chưa dễ hăm he được ta)
Ngô do hữu thiệt khởi thâu thuỳ

(Ta còn cái lưỡi lẽ nào ta chịu thua anh) ::Nội
dung chữ đấu trong câu này là: Trong chữ Nhạ
� (Nguyễn Nhạ) có chữ nha � (nanh); trong
chữ át � (Cao Bá át) có chữ thiệt � (lưỡi).
Nanh tuy cứng hơn lưỡi nhưng lại mọc sau
và rụng trước, còn lưỡi thì mềm nhưng lại có
trước và chết sau. Ý là: Ngươi thử hỏng răng
xem, liệu có cắn được ta. Ta còn có lưỡi há chịu
thua ai. Chữ Nhạ có quai xước ngoài, và chữ
Nha là răng ở trong. Chữ át cũng có quai
xước ngoài, nhưng bên trong lại có chữ thiệt
là lưỡi. Phương ngôn: “Lưỡi mềm thì còn, răng
cứng thì mất”.
• Trước khi khởi nghĩa, Cao Bá át được triều đình
nhà Nguyễn đưa đi làm giáo thụ ở ốc Oai, vùng
đất thuộc Sơn Tây, xa chốn kinh đô, thành thị. Học
trò ít, cảnh sinh hoạt tiêu điều. Ông đã viết đôi câu
đối dán ngoài nhà học:
Nhà trống năm ba gian, một thầy, một cô,
một ó cái
Học trò dăm bảy đứa, nửa người, nửa ngợm,
nửa đười ươi
có thuyết khác nói rằng đôi câu đối
này là của Ông Ích Khiêm
• Câu đối bày tỏ ý chí trước khi nổi dậy:
Trượng phu lập thế thủ ý khí (Người trượng
phu đứng ở trên đời phải giữ vững chí khí)
Oải ốc đê đầu ngô sở sỉ (Cúi đầu dưới mái
nhà thấp là điều tôi lấy làm xấu hổ)



6

6 VUA TỰ ĐỨC VÀ CAO BÁ QUÁT
• Câu đối khắc trên lá cờ làm tôn chỉ cho cuộc khởi
nghĩa:

Hai năm 1853 – 1854, hai tỉnh Sơn Tây, Bắc Ninh bị hạn
hán, châu chấu hoành hành cắn phá lúa, nhân dân đói
khổ đặc biệt là vùng Lương Sơn, Chương Mĩ (Hà Tây).
Lòng bất mãn với triều đình phong kiến, nên nhân cơ
hội này ông đã tổ chức một cuộc khời nghĩa trên đất
Mĩ Lương, tôn Lê Duy Cự làm minh chủ, tự xưng làm
ốc sư. Trên lá cờ có ghi hàng chữ sau:
Bình Dương, Đồ Bản vô Nghiêu uấn (Ở
Bình Dương và Đồ Bản không có những ông
vua tốt như vua Nghiêu, vua uấn)
Mục Dã, Minh điều hữu Võ ang (ì ở
Mục Dã, Minh Điều phải có những người như
Võ Vương, ành ang nổi dậy)
• Cao Bá át khởi nghĩa không thành, bị bắt, bị
giam, bị cùm chân, chờ đem ra xử tội. Ngồi trong
ngục tối, ông vẫn ngâm nga đôi câu đối:
Một iếc cùm lim ân có đế
Ba vòng xí sắt bước thì vương
Tiền bạc của giời ung trống
trải thế mới vòng khuyên sáo
Công danh đường đất rộng kèn
cựa i o thẹn í tang bồng
• Trước khi thọ hình, Cao Bá át còn bình tĩnh

ứng khẩu:
Ba hồi trống giục mồ a kiếp
Một nhát gươm đưa đéo mẹ thời (thời chính
là tên của vua Tự Đức)
ực ra trong chính sử Cao Bá át
bị Đội Xuất Đinh ế ang bắn
chết ngoài sa trường tại vùng Yên
Sơn chứ không hề bị bắt, mấy câu
đối trên do hậu thế bịa ra ghi lại mà
thôi
• Chỉ vì tội tày trời của Cao Bá át, mà đại họa
xảy đến cho cả gia đình, bị tru di cả ba đời (tru di
tam đại). Cao Bá Ðạt (1809 - 1854) khi hay được
tin trên, đã ngất xỉu một hồi lâu, khi tỉnh dậy, liền
khóc rống lên mà đọc câu đối như kêu trời, kêu
đất rằng:
Khấp cùng vũ trụ thiên vô bác (Khóc cùng
vũ trụ trời không tựa)
Nộ đảo sơn hà địa dục đông (Giận đổ sơn hà
đất muốn xoay)

6.2 Vua Tự Đức
Tự Đức là niên hiệu của vị Hoàng đế thứ tư của nhà
Nguyễn, ông tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm. Khi
còn nhỏ Hồng Nhậm còn có tên khác là Nguyễn Phúc
ì. Tự Đức được đánh giá là một vị vua tốt, được các
quan nể phục. Năm 1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha
nổ súng tấn công Đà Nẵng. Các quan là Phan anh
Giản, Phạm Phú ứ, Nguyễn Trường Tộ, Đinh Văn
Điền, Nguyễn Hiệp, Lê Định liên tiếp dâng sớ xin nhà

vua cho cải cách toàn diện đất nước. Mãi đến năm 1878,
triều đình mới bắt đầu cử người thực hiện các bước
đầu tiên trong quá trình cải cách là cho học tiếng nước
ngoài. Năm 1883, sau cái chết của vua Tự Đức, Pháp
tấn công vào cửa biển uận An, một hiệp ước được ký
kết Hiệp ước ý Mùi 1883 với nội dung là xác nhận
quyền bảo hộ dài của người Pháp lên Trung Kỳ và Bắc
Kỳ chấm dứt mối ràng buộc phên dậu cả ngàn năm giữa
An Nam và thiên triều Trung Hoa, mở đầu thời kỳ Đông
Dương thuộc Pháp.
• Câu đối của vua Tự Đức đầy tự hào về văn học
Việt Nam thời Nguyễn:
Văn như Siêu, át vô Tiền Hán (Văn như
Siêu, át hơn Tiền Hán)
i đáo Tùng, Tuy thất ịnh Đường (ơ
cỡ Tùng, Tuy vượt ịnh Đường)
Ở đây nhà vua ca ngợi Cao Bá
át, Nguyễn văn Siêu (thần Siêu,
thánh át), Tuy Lý vương và
Tùng iện vương nói riêng (2 ông
Tùng, Tuy là con vua Minh Mạng,
vua Tự Đức phải gọi bằng chú)
• Câu đối vịnh Kiều:
Mộng lý căn duyên, tri nhất ẩm nhất trác
giai vi tiền định (Nghiệm căn duyên trong
mộng kia, biết rõ ràng miếng uống, miếng ăn,
đều do số trời định trước)
Cầm ung phận mệnh, quái đa tình đa sự
độc iếm tiên thanh (Xem mệnh khúc đàn
nọ, những quái lạ đa tình, đa sự, riêng chiếm

tiếng đầu tiên)
• Câu đối nói lái:
Kia mấy cây Mía
Có vài cái Vò
• Câu đối viếng Uy Viễn tướng quân Nguyễn Công
Trứ:
Tả hữu nghi văn nghi võ
Tử sinh danh tướng danh thần


6.3

Vua Tự Đức và Cao Bá Quát

• Bấy giờ, thực dân Pháp càng ngày càng tham, hết
đòi quyền lợi này, đến muốn chiếm đất khác. Triều
đình nhu nhược, thiếu người tài, vua Tự Đức phải
than rằng:
Võ tướng tiêu sầu duy hữu tửu (an võ chỉ
biết mượn rượu để quên sầu)
Văn thần thoái lổ cánh vô thi (an văn làm
thơ đuổi giặc, cũng không làm được)
• Câu đối của vua Tự Đức điếu Nguyễn Bá Nhạ:
Nguyễn Bá Nhạ tên hiệu là Long Châu, sinh năm Nhâm
Ngọ (1822), con của tri huyện An Lạc Nguyễn ận
Tuyển. Lúc 22 tuổi, ông đã đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất
thân thứ nhất (tức Hoàng Giáp) tại khoa thi năm ý
Mão, iệu Trị (1843). Khoảng năm iệu Trị thứ 4
(1844), ông được bổ nhiệm làm Tri phủ Hàm uận.
Năm Mậu ân, Tự Đức 2 (1848), ông mất đột ngột vì

trọng bệnh khi vừa 27 tuổi. Vua Tự Đức thương tiếc
người tuổi trẻ tài cao, đã gửi viếng ông đôi câu đối:
“Nhân sinh bá tuế vi kỳ, bán i bán lân
quân mệnh bạc
Nhữ thiếu tam nguyên cập đệ, kỳ cá kỳ sử
ngã tâm bi”
Nghĩa là:
Người sinh trăm tuổi định kỳ, nửa trong nửa
thương người mệnh bạc
Người trẻ ba lần đậu nhất, tài trên tài khiến
trẫm thương tâm

6.3

Vua Tự Đức và Cao Bá Quát

• Cao Bá át có người anh song sinh là Cao Bá
Đạt, khi vua Tự Đức mới lên ngôi thì Cao Bá át
vẫn còn làm một chức quan nhỏ (Hành tẩu) ở bộ
Lễ. Tự Đức nghe tiếng hai anh em họ Cao đã lâu,
một hôm bèn cho triệu Cao vào để xem mặt và hỏi
thử tài học, nhà vua ra đùa một vế đối rằng:
Nhất bào song sinh, nan vi
huynh, nan vi đệ (Nghĩa là: một bọc sinh đôi,
khó làm anh, khó làm em).
Ý nhà vua ám chỉ hai ông Đạt và
át sinh đôi, khó biết ai là anh, ai
là em.
Cao Bá át liền đối lại một câu rất khéo
léo:

iên tải nhất ngộ, hữu thị
quân, hữu thị thần (Nghĩa là : Nghìn năm gặp
một, có vua ấy, có tôi ấy)

7
Ý Cao Bá át muốn nói có ông vua
tài giỏi (như vua Tự Đức) thì mới
có người bề tôi tài giỏi (như Cao
Bát át). Tự Đức rất hài lòng về
câu đối này, tuy nhiên nhà vua đã
không lường hết được những chỗ
thâm thúy của vế đối, vì câu này
còn có thể hiểu theo nghĩa khác:
“Có ông vua Tự Đức thì cũng có
người bề tôi như Cao Bá át để
đối chọi lại (theo ý “vỏ quít dày,
móng tay nhọn”) và đó cũng chính
là cái ý lắt léo của họ Cao”.
• Một hôm vua Tự Đức nghĩ hai câu đối treo ở điện
Cần Chánh như sau:
Tử năng thừa phụ nghiệp (con thừa
được nghiệp cha)
ần khả báo quân ân (tôi trả tròn ơn
chúa)
Khi đem treo trong điện, các quan
trông thấy, đều chịu là hay. Riêng
Cao Bá át thì tỏ vẻ không phục,
mai mỉa nói: “Hảo hề! Hảo hề! Phụ
tử quân thần điên đảo!" Nhà vua
nghe các quan tâu lại, gọi vào hỏi

nguyên do. Cao Bá át liền tâu:
“Muôn tâu bệ hạ, câu trên chữ tử
đứng trên chữ phụ, vậy là con trên
cha, câu dưới chữ thần đứng trên
chữ quân, vậy là tôi trên vua. Rõ
ràng phụ tử quân thần điên đảo”.
Vua bảo chữa, Cao Bá át liền
đọc:
ân ân, thần khả báo (nghiệp cha
con thừa hưởng)
Phụ nghiệp, tử năng thừa (ơn chúa tôi
trả tròn)
Nhà vua tuy tức giận, nhưng suy
nghĩ lại cũng phải nhận rằng chữa
như vậy, cương thường thuận lẽ
mà ý đặt cũng già hơn.
• Một đêm, vua Tự Đức mất ngủ, ngài nghĩ ra câu
đối sau:
Viên trung oanh uyển Khề Khà ngữ
(Trong vườn tiếng oanh thỏ thẻ khề khà)
Dã ngoại đào hoa Lấm Tấm khai (Ngoài
đồng hoa đào nở lấm tấm)
Nhà Vua rất hài lòng vì 2 câu thơ
chữ Hán này đều có 2 từ nôm thuần
Việt mà vẫn rất ý nhị và là đôi


8

8


NHỮNG GIA THOẠI ĐỐI ĐÁP CỦA VUA DUY TÂN (1900 - 1945)

câu đối rất chuẩn. Sáng hôm sau
trong buổi chầu, Nhà Vua nói với
bá quan: “Đêm qua Trẫm nằm mơ
làm được 2 câu thơ rất kỳ lạ” và
đọc 2 câu thơ trên. ần thần đều
thán phục và ca ngợi tài thơ của
nhà vua, Cao Bá át vốn ghét
bọn nịnh thần nên đã tâu rằng: ”
Tâu Bệ Hạ, từ nhỏ ần đã thuộc
cả bài thơ, trong đó có 2 câu này”.
Nhà vua hết sức tức giận vì rõ ràng
2 câu thơ này mình vừa nghĩ ra,
nhưng vẫn cố kiềm chế, ngài phán:
“Khanh phải đọc lại toàn bài thơ
đó, nếu không sẽ bị trị tội nặng”.
Cao Bá át suy nghĩ giây lát như
để nhớ lại rồi cao giọng đọc bài
thơ sau đây: Bảo mã tây phong
Huế Hoác lai, Huênh Hoang
nhân sự thác đề hồi, viên trung
oanh uyển Khề Khà ngữ, dã
ngoại đào hoa Lấm Tấm khai,
xuân nhật bất văn sương Lộp
Bộp, thu thiên ỉ kiến vũ Bài
Nhài, Khù Khờ thi tứ đa nhân
thức, Khuệnh Khoạng tương lai
vấn tú tài (Phạm Văn Dương đã

dịch bài thơ của họ Cao ra Tiếng
Việt như sau: Huyế hoác ngựa
về với gió Tây, người Huênh
Hoang cũng tự về đây, Khề Khà
oanh hót trong vườn nhỏ, Lấm
Tấm đào khai giữa gió mây, Lộp
Bộp sương rơi nghe ẳng rõ, Bài
Nhài mưa trút thấy như bày, Khù
Khờ thơ ấy bao người biết, còn
hỏi tú tài Khuệnh Khuạng thay!)
Vua Tự Đức kinh ngạc biết át
xỏ mình nhưng vẫn phải phục tài
xuất khẩu thành thơ, nhà vua sai
lấy chè và quế ban cho át và bắt
át phải thú nhận đã bịa thêm 6
câu trong bài thơ trên.
Lam Hồng cũng dịch ra Tiếng Việt với hai bài
gieo hai vần khác nhau:
1 - Bài thứ nhất: Ngựa tốt gió tây Huế Hoác âu,
Huênh Hoang nhiễu sự bỡi vì đâu, oanh vàng vườn
tịt Khề Khà hót, đào thắm trời mù Lấm Tấm âu,
Lộp Bộp xuân văn hời cõi tục, Bài Nhài thu lũ hợt trời
ngâu, Khù Khờ nỏ biết bài thơ ấy, Khuệnh Khoạng tú
tài hỏi khó nhau
2 - Bài thứ hai: Huế hoác gió tây ngựa tốt i, vuốt
mèo khen ủ Huênh Hoang đi, Khề Khà oanh vọng
ca ênh phá, Lấm Tấm đào tơ nở lệ thì, Lộp
Bộp câu văn xuân ắc rụng, Bài Nhài ngữ nghĩa thu
mong gì, thơ xưa ưa biết Khù Khờ thế, hỏi tú bài


này Khuệnh Khoạng nguy

7 Câu đối vua Tự Đức viết tặng
Tuy Lý Vương Nguyễn Miên
Trinh (1820 - 1897)
Nguyễn Miên Trinh có tên là Khôn Chương và ý
Trọng, hiệu Trình Phổ và Vĩ Dạ, là con thứ 11 của
Nguyễn ánh Tổ. Ông rất hiếu học nên được vua cha
rất thương yêu . Có lúc Ông bị bệnh, Vua bãi triều ở
Văn Minh Ðiện, tự thân đến thăm hỏi. Ðó là chuyện
rất hiếm thấy, việc nầy có ghi trong ương Sơn cung
từ: Bất thị Miên Trinh kim đới bệnh, thử gian hà xứ
đắc thiên hương (Miên Trinh chẳng bệnh hôm nay,
hương trời lan đến chốn nào trong cung?) Năm Mậu
Ngọ (1958), nhân sinh nhật thứ 40 của Ông, Vua Dực
Tông có tặng câu đối:
Văn ất kiêm ưu, công kham đương thử
Hiếu từ đại lạc , ngã diệc tự i
Dịch nghĩa:
Rực rỡ văn đức, Ông nên nhận lấy
Mừng vui từ hiếu, ta cũng giống thay

8 Những gia thoại đối đáp của vua
Duy Tân (1900 - 1945)
Vua Duy Tân tên húy là Nguyễn Phúc Vĩnh San, còn có
tên là Nguyễn Phúc Hoảng, sinh tại Huế. Khi vua cha
bị thực dân Pháp lưu đày, ông được người Pháp đưa lên
ngôi. Năm 1916, lúc ở Âu châu có cuộc Đại chiến, ông
liên lạc với các lãnh tụ Việt Nam ang Phục Hội định
khởi nghĩa. Dự định thất bại, Duy Tân bị bắt đem an trí

trên đảo Réunion ở Ấn Độ Dương. Trong cuộc Chiến
tranh thế giới lần thứ hai (1939 - 1945) ông gia nhập
quân Đồng Minh chống phát xít Đức. Ngày 26 tháng
12 năm 1945, ông mất vì tai nạn máy bay ở Cộng hoà
Trung Phi.
• Đối đáp với viên cố đạo người Pháp:
Năm 12 tuổi, vua Duy Tân được mời dự tiệc ở toà Khâm
Sứ Trung Kỳ, có một cố đạo Pháp thạo tiếng Việt, hiểu
chữ Hán, hiểu phong tục tập quán lịch sử, địa lý của
Việt Nam. Sau một hồi làm việc căng thẳng, để giảm
sức căng, Y khéo léo lái cuộc ’’hội đàm’’ sang lĩnh vực
văn chương, cùng nhà vua bàn chuyện thi phú… sau
một hồi rào đón…rốt cuộc đề nghị hai bên chơi chữ –
đọc câu đối. Nhà vua trẻ đồng ý, viên khâm sứ đọc vế
ra: hắn ra một vế đối để thăm dò, trình lên nhà vua một
tờ giấy ghi hai chữ:


9
Vương Tam (Rút ruột vua tam phân thiên
hạ)(vế ra rất hay, khúc chiết, lại nói lên được
vấn đề mà Y đang quan tâm. Đây là loại câu
đối dùng chiết tự trong chữ Hán: Chữ Vương
là Vua. Nếu (rút) bỏ đi nét sổ, nằm ở giữa
(ruột) – chữ Vương thành chữ TAM là Ba –
con số 3 đang nhức nhối trong lòng nhà vua
(tam phân thiên hạ). Cân đối ngụ ý: Ông Vua
hãy cởi lòng, bỏ đi những trăn trở, mặc cảm
đưa việc phân chia địa lí (3 Kì) vào ổn định,
để Pháp – Việt chung sống trong hòa bình,

thịnh vượng – đề huề)
Liếc nhìn qua, vua Duy Tân đã hiểu thâm ý
chơi chữ của viên cố đạo này, bèn lấy bút lông
phê ngay bên cạnh hai chữ: Tây Tứ (Chặt
đầu Tây, Tứ hải giai huynh)(Vua Duy Tân là
ông vua có ý chí tự cường, thông minh bẩm
sinh (2). Ngay từ khi lên ngôi, tuổi còn ấu
thơ (8 tuổi) đã có tinh thần kiên cường , là
một trong 2 vị vua thời nhà Nguyễn có tinh
thần chống Pháp mạnh nhất (Duy Tân, Hàm
Nghi). Vế ra đề không thể làm khó được vị
vua thiếu niên anh hùng)
Viên cố đạo cầm xem tím mặt,
gượng cười đưa cả hai tay ra đỡ
lấy tờ giấy vua ta ban. ì ra chữ
“Vương” là Vua, gồm ba nét ngang
và một nét sổ; chữ “Tam” chỉ có
ba nét ngang. Vậy rút bỏ nét dọc
của chữ Vương (ý: rút ruột Vua)
thì thành chữ tam (ý: tam phân
thiên hạ, chia nước ta thành ba
khu vực Bắc, Trung, Nam để dễ bề
cai trị). Chữ “Tây” gồm chữ “Tứ”
và phần đầu có một nét ngang và
hai nét dọc. Nếu cắt bỏ phần đầu
đó đi (ý: chặt đầu thằng Tây!) thì
thành chữ tứ (ý: tứ hải giai huynh,
bốn bể đều là anh em, nước Nam
quyết không cho kẻ thù chia cắt!).
Cứ tưởng hai Nho sĩ đang thù tạc

khi ’’trà dư tửu hậu’’, nhưng thực
chất là một cuộc đấu bằng ý chí
thông qua ngôn ngữ. Đó là thông
điệp của ’’thiên tử’’ , thay mặt cho
’’thần dân’’ nước đại Việt, dõng
dạc tuyên bố: Nước Việt quyết tâm
đánh đuổi kẻ xâm lược, xây dựng
mối giao hảo an hem với bốn biển
năm châu….
• Đối đáp với Lại Bộ ượng ư Hữu Bài (1863 1935):
Nguyễn Hữu Bài sinh tại làng Cao Xá, tổng Xuân Hòa,
phủ Vĩnh Linh, tỉnh ảng Trị. Khi Khâm sứ Pháp
Mahé đề nghị đào vàng bạc chôn ở lăng vua Tự Đức,

Nguyễn Hữu Bài phản đối. Dân chúng đương thời đặt ra
câu tục ngạn: “Phế vua không Khả, đào mả không Bài”.
Năm 1933, vua Bảo Đại cải cách triều đình, Nguyễn
Hữu Bài bị bãi chức. Năm 1935, Nguyễn Hữu Bài từ
trần. Tương truyền ông có giai thoại đối đáp với vua
Duy Tân như sau:
Vua Duy Tân ra: Đi i, đường đạo, sợ cụ
Ông Nguyễn Hữu Bài đối: Không vô, trong
nội, nhớ hoài
Các cặp cùng nghĩa TV–HV: “Đi”–
”chi”; “đường”–”đạo”; “sợ”–”cụ”
(vế trên); “không” –”vô”; “trong”–
”nội”; “nhớ”–”hoài” (vế dưới). Các
từ HV được chuyển từ cùng âm
TV sang một cách tự nhiên, nhuần
nhuyễn đến mức khó nhận ra có

sự dụng công, mà chỉ như những
câu nói đầu cửa miệng. Có thuyết
khác nói vế ra của vua Duy Tân
là: Mua mãi cửa quan sợ cụ.

9 Những câu đối liên quan đến vua
Khải Định (1885 - 1925)
Khải Định tên húy là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, còn có
tên là Nguyễn Phúc Tuấn. Dưới thời vua Khải Định,
triều đình Huế không có xích mích với Pháp. Khải Định
hết thân với Khâm sứ Trung kỳ Jean François Eugène
Charles và gửi gắm con mình là Vĩnh ụy (tức vua
Bảo Đại) cho vợ chồng Khâm sứ. Ông tự sáng chế ra
những bộ y phục mới cho mình và cho cả quan hộ vệ.
Ông rất chuộng trang điểm, không tuân theo y phục
hoàng bào truyền thống của các vua chúa và thường
bị đả kích trên báo chí đương thời. Ở Huế nhân dân đã
truyền tụng câu ca dao phổ biến về Khải Định: “Tiếng
đồn Khải Định nịnh Tây, Nghề này thì lấy ông này tiên
sư". Dân gian đến nay còn lưu truyền đôi câu đối sau:
Xuân xanh tuổi ngoài đôi ục, ơi đục
trần ai, khi bài khi bạc, khi tài bàn vác, khi
tổ tôm quanh, khi năm canh ngồi nhà hát,
khi gác cổ ả đào, khi ghẻ tàu con đĩ xác, khi
nằm rạp thuốc phiện tiêm, hoanh ra dáng,
dạng ra rồng, ngông ra phết, cóc biết i tồi,
miệng én đưa qua mùi gió thoảng ;
ốc gia lị tứ thiên dư, do truyền nhân
vật, như Tô như Duật, như Phật tử ân,
như Trần ốc Tuấn, như Phạm công

ượng thướng quân, như Bạ Vân Phu tử,
như Ngự sử Lê Cảnh Tuân, như công thần
Nguyễn Công Trứ, tài i tuấn, thời i tế,
thế i sừ, khỉ nhưng nhiên phủ, thân long
đắc vũ tiện vân đằng.


10

10 LIÊN KẾT

Năm 1925, được tin vua bù nhìn Khải Ðịnh qua đời, từ
nơi bị đày (đảo Rê-uy-ni-ông), vua Duy Tân đã gửi về
triều đình Huế, phúng một bức trướng, có câu đối sau:
Ông vội bỏ đi đâu? Bỏ bạc, bỏ tiền, bỏ vợ, bỏ
con; bỏ hát bội, thày tu - bỏ hết trần duyên
trong một lúc
Tôi nay còn lại đó! Còn trời, còn đất, còn
non, còn nước; còn anh hùng, hào kiệt - còn
nhiều vận hội giữa năm âu

10

Liên kết


11

11
11.1


Nguồn, người đóng góp, và giấy phép cho văn bản và hình ảnh
Văn bản

• Câu đối và những giai thoại đối đáp của các vị vua úa triều Nguyễn Nguồn: />E1%BB%91i_v%C3%A0_nh%E1%BB%AFng_giai_tho%E1%BA%A1i_%C4%91%E1%BB%91i_%C4%91%C3%A1p_c%E1%BB%A7a_c%C3%
A1c_v%E1%BB%8B_vua_ch%C3%BAa_tri%E1%BB%81u_Nguy%E1%BB%85n?oldid=37452 Người đóng góp: ần Đồng Cổ Nhạc và
Pitpisit

11.2

Hình ảnh

• Tập_tin:Wikipedia-logo-v2-en.svg Nguồn: Giấy
phép: CC BY-SA 3.0 Người đóng góp: Wikimedia Foundation Nghệ sĩ đầu tiên: Wikimedia Foundation

11.3

Giấy phép nội dung

• Creative Commons Aribution-Share Alike 3.0



×