Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

MỘT số CÔNG cụ CÔNG NGHỆ THÔNG TIN DÙNG TRONG THANH TOÁN điện tử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 135 trang )

-1-

MỞ ĐẦU
Trong những thập kỷ gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của Internet đã và đang làm
thay đổi một cách căn bản cách thức hoạt động của nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội,
trong đó có hoạt động thương mại. Khâu quan trọng nhất trong hoạt động TMĐT là
“thanh toán”, bởi vì mục tiêu cuối cùng của cuộc trao đổi thương mại là người mua
nhận được những cái gì cần mua và người bán nhận được số tiền thanh toán.
Vấn đề an toàn thông tin (ATTT) trong các giao dịch luôn là một yêu cầu cần
phải có đối với mọi hoạt động thương mại, đặc biệt là hoạt động thương mại điện tử vì
các quy trình giao dịch được thực hiện qua Internet - một môi trường truyền thông
công cộng. Các thành tựu của ngành mật mã, đặc biệt là lý thuyết mật mã khoá công
khai đã cung cấp các giải pháp ATTT cho các hoạt động thương mại, tạo cơ sở cho việc
xây dựng các hệ thống thanh toán điện tử.
Cơ sở hạ tầng mã khoá công khai (PKI - Public Key Infrastructure) cùng các tiêu
chuẩn và công nghệ ứng dụng của nó có thể được coi là một giải pháp tổng hợp và độc
lập để giải quyết vấn đề ATTT. PKI bản chất là một hệ thống công nghệ vừa mang tính
tiêu chuẩn, vừa mang tính ứng dụng được sử dụng để khởi tạo, lưu trữ và quản lý các
chứng chỉ khóa công khai (Public Key Certificate) cũng như các khoá công khai và
khóa bí mật (khóa riêng).
Hiện nay ở Việt Nam, việc nghiên cứu, ứng dụng và triển khai PKI nói chung và
dịch vụ cung cấp chứng chỉ số nói riêng là vấn đề còn mang tính thời sự. Bằng việc sử
dụng chứng chỉ và chữ ký số, những ứng dụng cho phép PKI đưa ra nhiều đặc tính đảm
bảo an toàn thông tin cho người sử dụng đặc biệt là trong các giao dịch điện tử.
Mỗi mô hình thanh toán điện tử đại diện cho một phương thức thanh toán điện tử
khác nhau như thanh toán bằng tiền mặt, bằng séc, bằng các loại thẻ…Mỗi phương
thức thanh toán điện tử có các giao thức được xây dựng dựa trên nền tảng lý thuyết mật
mã, đảm bảo cho các giao dịch thanh toán thực hiện an toàn và theo đúng quy trình. Vì
vậy, mỗi phương thức thanh toán đều phải có các giao thức rõ ràng, đảm bảo an toàn
cho việc giao dịch thông tin giữa các bên tham gia.
Luận văn thực hiện với mục đích nghiên cứu về hạ tầng cơ sở đảm bảo an toàn


thông tin, hạ tầng mật mã khóa công khai PKI (Các thành phần kỹ thuật của PKI, các
đối tượng và các hoạt động trong hệ thống PKI. . .), và một số công cụ dùng trong
thanh toán điện tử (thẻ thanh toán, giải pháp và công nghệ sử dụng tiền điện tử).
Nội dung chính của Luận văn gồm có:


-2Chương 1: Các khái niệm cơ bản
Trong chương này sẽ trình bày một số khái niệm toán học, tổng quan về an toàn
thông tin, một số vấn đề rủi ro mất an toàn thông tin, các chiến lược đảm bảo an toàn
thông tin và tổng quan về thanh toán điện tử trong thương mại điện tử.
Chương 2: Hạ tầng cơ sở đảm bảo an toàn thông tin
Trong chương này trình bày tổng quan về hạ tầng mạng, hạ tầng đảm bảo an toàn
thông tin, các giao thức đảm bảo an toàn truyền tin và hạ tầng mã hoá khóa công khai
(PKI) (các thành phần kỹ thuật, các đối tượng, các hoạt động cơ bản, công nghệ và
giao thức của PKI)
Chương 3: Một số tiện ích dùng trong thanh toán điện tử
Trong chương này giới thiệu một số tiện ích dùng trong thanh toán điện tử: Thẻ
thanh toán (thẻ thông minh, thẻ tín dụng. . .), và một số hệ thống thanh toán bằng tiền
điện tử.

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

1.1. CÁC KHÁI NIỆM TRONG TOÁN HỌC
1.1.1. Số nguyên tố và nguyên tố cùng nhau
Số nguyên tố là số nguyên dương chỉ chia hết cho 1 và chính nó.


-3Ví dụ: 2, 3, 5,…

Các hệ mật mã thường dùng các số nguyên tố cỡ 512 bit hoặc lớn hơn.
Hai số nguyên dương m và n được gọi là nguyên tố cùng nhau, nếu ước số chung
lớn nhất của chúng bằng 1, ký hiệu gcd(m, n) = 1.
Ví dụ: 8 và 17 là hai số nguyên tố cùng nhau.

1.1.2. Đồng dư thức
1) Định nghĩa
Cho a và b là các số nguyên, khi đó a được gọi là đồng dư với b theo modulo n,
ký hiệu là ab mod n nếu a, b chia cho n có cùng số dư. Số nguyên n được gọi là
modulo của đồng dư.
Ví dụ: 5  7 mod 2 vì: 5 mod 2 = 1 và 7 mod 2 = 1
2) Tính chất
Cho a, a1, b, b1, cZ. Ta có các tính chất sau:
+ ab mod n nếu và chỉ nếu a và b có cùng số dư khi chia cho n
+ Tính phản xạ: aa mod n
+ Tính đối xứng: Nếu ab mod n thì ba mod n
+ Tính giao hoán: Nếu ab mod n và bc mod n thì ac mod n
+ Nếu aa1 mod n, bb1 mod n thì a+ba1+b1 mod n và aba1b1 mod n
3) Lớp tương đương
Lớp tương đương của một số nguyên a là tập hợp các số nguyên đồng dư với a
theo modulo n.
Cho n cố định đồng dư với n trong không gian Z vào các lớp tương đương. Nếu
a=qn +r, trong đó 0  r  n thì ar mod n. Vì vậy mỗi số nguyên a là đồng dư theo
modulo n với duy nhất một số nguyên trong khoảng từ 0 đến n-1 và được gọi là thặng
dư nhỏ nhất của a theo modulo n. Cũng vì vậy, a và r cùng thuộc một lớp tương đương.
Do đó r có thể đơn giản được sử dụng để thể hiện lớp tương đương. [1]

1.1.3. Không gian Zn và Zn*
Không gian các số nguyên theo modulo n: Zn là tập hợp các số nguyên không âm
nhỏ hơn n. Tức là: Zn = {0, 1, 2,… n-1}. Tất cả các phép toán trong Zn đều được thực

hiện theo modulo n.
Ví dụ: Z25 ={0,1, 2,..., 24}. Trong Z25 : 12 + 20 = 7(mod 25)


-4Không gian Zn* là tập hợp các số nguyên p thuộc Zn sao cho ước chung lớn nhất
của p và n là 1. Tức là, Zn* = {p thuộc Zn | gcd(n, p) = 1} Ví dụ: Z2 = { 0,1 }; Z*2 = {1}
vì gcd(1, 2)=1

1.1.4. Khái niệm phần tử nghịch đảo trong Zn
1) Định nghĩa
Cho aZn. Nghịch đảo nhân của a theo modulo n là một số nguyên xZn sao cho
a*x1 (mod n). Nếu tồn tại thì đó là giá trị duy nhất và a gọi là khả đảo, nghịch đảo
của a ký hiệu là a-1.
2) Tính chất
+ Cho a,bZn . Phép chia của a cho b theo modulo n là tích của a và b -1 theo
modulo n, và chỉ được xác định khi b có nghịch đảo theo modulo n.
+ Giả sử d=gcd(a, n). Phương trình đồng dư ax  b (mod n) có nghiệm x nếu và
chỉ nếu d chia hết cho b, trong trường hợp các nghiệm d nằm trong khoảng 0 đến n-1
thì các nghiệm đồng dư theo modulo n/d. [1]
Ví dụ: 4-1 = 7(mod 9) vì 4*7  1(mod 9).

1.1.5. Khái niệm nhóm, nhóm con, nhóm Cyclic
1) Nhóm
Nhóm là bộ các phần tử (G, *) thỏa mãn các tính chất sau:
+ Tính chất kết hợp: ( x * y ) * z = x * ( y * z )
+ Tính chất tồn tại phần tử trung gian e  G: e * x= x * e = x , x  G
+ Tính chất tồn tại phần tử nghịch đảo x’  G: x’ * x = x * x’ = e


-52) Nhóm con

Nhóm con là bộ các phần tử ( S, * ) là nhóm thỏa mãn các tính chất sau:
1/ S  G, phần tử trung gian e  S
2/ x, y  S => x * y  S

3) Nhóm cylic
Nhóm Cyclic là nhóm mà mọi phần tử x của nó được sinh ra từ một phần tử đặc
biệt g  G. Phần tử này được gọi là phần tử nguyên thủy, tức là:
Với  x  G:  n  N mà gn = x.
Ví dụ: (Z+, *) là một nhóm cyclic có phần tử sinh là 1

1.1.6. Bộ phần tử sinh
{g1, …, gk} được gọi là bộ phần tử sinh nếu mỗi g i là một phần tử sinh và những
phần tử này khác nhau (gi  gj nếu i  j).
Ví dụ: {3, 5} là bộ phần tử sinh của Z7*, bởi vì:
1 = 36 mod 7 = 56 mod 7

2 = 32 mod 7 = 54 mod 7

3 = 31 mod 7 = 55 mod 7

4 = 34 mod 7 = 52 mod 7 5

= 35 mod 7 = 51 mod 7

6 = 33 mod 7 = 53 mod 7

2 không phải là phần tử sinh của Z7*, bởi vì:


{2, 22, 23, 24, 25, 26} = {1, 4, 1, 2, 4, 1} {1, 2, 4}

Tuy nhiên {1, 2, 4} là tập con của {1, 2, 3, 4, 5, 6} = Z 7*, dó đó số 2 được gọi là
“phần tử sinh của nhóm G(3)”, G(3) là nhóm có 3 thành phần {1, 2, 4}.

1.1.7 Bài toán đại diện
Gọi g là phần tử sinh của nhóm con G(q) thuộc Zn*. Bài toán logarit rời rạc liên
quan đến việc tìm số mũ a, sao cho: a = loggh mod n (với h  G (q)).
Cho k  2, 1  ai  q, i = 1… k.
Bài toán đại diện là: cho h thuộc G(q), tìm {a 1, …, ak}, của bộ phần tử sinh
{g1, …, gk}, sao cho:
h = g1a1 * g2a2 *… * gkak mod n.


-6{a1, …, ak} được gọi là đại diện (presentation).
Ví dụ: Cho tập Z23*, thì ta có thể tìm được:
Nhóm con G (11) = {1, 2, 3, 4, 6, 8, 9, 12, 13, 16, 18} với những phần tử sinh g i
là: 2, 3, 4, 6, 8, 9, 12, 13, 16, 18.
{2, 3} là 2 phần tử sinh của nhóm con G (11) trong Z23*.
Bài toán đại diện là với h = 13  G (11), tìm {a1, a2} sao cho:
13 = 2a1 * 3a2 mod 23
Logarit hai vế, có a1*log(2) + a2*log(3) = log(13) mod 23.
Kết quả là: a1 = 2 và a2 =2, vì 22 * 32 = 4*9 = 36 = 13 mod 23.
Hay a1 = 7 và a2 = 11, vì 27 * 311 = 128*177147 = 13 mod 23.

1.1.8. Hàm một phía và hàm một phía có cửa sập
1) Hàm một phía
Một hàm một phía là hàm mà dễ dàng tính toán ra quan hệ một chiều, nhưng rất
khó để tính ngược lại. Ví như biết x thì có thể dễ dàng tính ra f(x), nhưng nếu biết f(x)
thì rất khó tính ra được x. Trong trường hợp này “khó” có nghĩa là để tính ra được kết
quả thì phải mất rất nhiều thời gian để tính toán.
Ví dụ:

Tính y = f(x) = αx mod p là dễ nhưng tính ngược lại x = logα y là bài toán “khó”
(bài toán logarit rời rạc)

2) Hàm một phía có cửa sập
F(x) được gọi là hàm một phía có cửa sập nếu tính xuôi y = f(x) thì dễ, nhưng tính
ngược x = f-1(y) thì khó, tuy nhiên nếu có “cửa sập” thì vấn đề tính ngược trở nên dễ
dàng. Cửa sập ở đây là một điều kiện nào đó giúp chúng ta dễ dàng tính ngược. [1]
Ví dụ:
y = f(x) =xb mod n tính xuôi thì dễ nhưng tính ngược x= ya mod n thì khó, vì phải
biết a với a * b 1 (mod((n)) trong đó (n) = (p-1)(q-1)). Nhưng nếu biết cửa sập p,
q thì ta tính (n) sau đó tính a trở nên dễ dàng.


-7-

1.1.9. Độ phức tạp tính toán
Độ phức tạp tính toán (về không gian hay thời gian) của một tiến trình tính toán
là số ô nhớ được dùng hay số các phép toán sơ cấp được thực hiện trong tiến trình tính
toán đó. Dữ liệu đầu vào đối với một thuật toán thường được biểu diễn qua các từ trong
một bảng ký tự nào đó. Độ dài của một từ là số ký tự trong từ đó.
Cho thuật toán A trên bảng ký tự Z ( tức là có các đầu vào là các từ trong Z). Độ
phức tạp tính toán của thuật toán A được hiểu như một hàm số fa(n) sao cho với mỗi số
n thì fa(n) là số ô nhớ, hay số phép toán sơ cấp tối đa mà A cần để thực hiện tiến trình
tính toán của mình trên các dữ liệu vào có độ dài nhỏ hơn hoặc bằng n. Ta nói: thuật
toán A có độ phức tạp thời gian đa thức, nếu có một đa thức p(n) sao cho với mọi n đủ
lớn ta có: fa(n)  p(n), trong đó fa(n) là độ phức tạp tính toán theo thời gian của A.
Bài toán P được gọi là “giải được” nếu tồn tại thuật toán để giải nó, tức là thuật
toán làm việc có kết thúc trên mọi dữ liệu đầu vào của bài toán. Bài toán P được gọi là
“giải được trong thời gian đa thức” nếu có thuật toán giải nó với độ phức tạp thời gian
đa thức. [1]


1.2. TỔNG QUAN VỀ AN TOÀN THÔNG TIN
1.2.1. Tại sao phải đảm bảo an toàn thông tin
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin thì việc ứng dụng
các công nghệ mạng máy tính trở nên vô cùng phổ cập và cần thiết.
Công nghệ mạng máy tính đã mang lại những lợi ích to lớn. Sự xuất hiện mạng
Internet cho phép mọi người có thể truy cập, chia sẻ và khai thác thông tin một cách dễ
dàng và hiệu quả. Việc ứng dụng các mạng cục bộ trong các tổ chức, công ty hay trong
quốc gia là rất phong phú. Các hệ thống chuyển tiền của các ngân hàng hàng ngày có
thể chuyển hàng tỷ đôla qua hệ thống của mình. Các thông tin về kinh tế, chính trị,
khoa học xã hội được trao đổi rộng rãi. Nhất là trong quân sự và kinh tế, bí mật là yếu


-8tố vô cùng quan trọng, do vậy các thông tin về quân sự và kinh tế được xem như là các
thông tin tuyệt mật và cần được bảo vệ cẩn thận. Đó cũng là một quá trình tiến triển
hợp logic, một yêu cầu thực tế tất yếu đặt ra cần phải được giải quyết. Những thông tin
này khi bị lộ có thể làm thay đổi cục diện của một cuộc chiến tranh hay làm phá sản
nhiều công ty và làm xáo động thị trường.
Internet không chỉ cho phép truy cập vào nhiều nơi trên thế giới mà còn cho phép
nhiều người không mời mà tự ghé thăm máy tính của chúng ta. Internet có những kỹ
thuật tuyệt vời cho phép mọi người truy nhập, khai thác, chia sẻ thông tin. Nhưng nó
cũng là nguy cơ chính dẫn đến thông tin bị hư hỏng hoặc bị phá hủy hoàn toàn, là đối
tượng cho nhiều người tấn công với các mục đích khác nhau. Đôi khi cũng chỉ đơn
giản là thử tài hay đùa bỡn với người khác. Nguy hiểm hơn là các thông tin quan trọng
có liên quan đến an ninh của một quốc gia, bí mật kinh doanh của một tổ chức kinh tế
hay các thông tin về tài chính, lại thường là mục tiêu nhằm vào của các tổ chức tình
báo nước ngoài hoặc của kẻ cắp nói chung. Thử tưởng tượng nếu có kẻ xâm nhập được
vào hệ thống chuyển tiền của các ngân hàng, thì ngân hàng đó sẽ chịu những thiệt hại
to lớn như mất tiền và có thể dẫn tới phá sản. Đó là chưa tính đến mức độ nguy hại,
một hậu quả không thể lường trước được khi hệ thống an ninh quốc gia bị đe dọa.

Để hình dung được mức độ nguy hại mà kẻ tấn công gây ra như thế nào, chúng ta
thử tìm hiểu những con số mà đội cấp cứu máy tính CERT (Computer Emegency
Response Team) đã cung cấp cho chúng ta như sau: số lượng các vụ tấn công trên
Internet được thông báo cho tổ chức này là ít hơn 200 vào năm 1989, khoảng 400 vào
năm 1991, 1400 vào năm 1993, và 2241 vào năm 1994. [1]
Các vụ tấn công này có quy mô khổng lồ, có tới 100.000 máy tính có mặt trên
Internet, của các công ty lớn như AT&T, IBM; của các trường đại học, các cơ quan nhà
nước, các tổ chức quân sự, nhà băng,… bị tấn công. Không chỉ số lượng các cuộc tấn
công tăng lên nhanh chóng, mà các phương pháp tấn công cũng liên tục được hoàn
thiện. Như vậy, khi phải đối mặt với những khó khăn đó chúng ta phải giải quyết ra
làm sao?
Chính vì vậy vấn đề an toàn thông tin trở thành yêu cầu chung của mọi hoạt động
kinh tế xã hội và giao tiếp của con người, và là vấn đề cấp bách cần được cọi trọng và
quan tâm đặc biệt.

1.2.2. Một số vấn đề rủi ro mất an toàn thông tin.
1.2.2.1. Xâm phạm tính bí mật.


-9Các hệ thống TMĐT lưu giữ dữ liệu của người dùng và lấy lại các thông tin về
sản phẩm từ các CSDL kết nối với máy chủ Web. Ngoài các thông tin về sản phẩm, các
CSDL có thể chứa các thông tin có giá trị và mang tính riêng tư.
Khi giao dịch qua internet, thông tin giao dịch được truyền đi trên mạng, những
thông tin này rất có thể bị nghe nén, hay bị dò rỉ, bị đánh cắp trên đường truyền làm lộ
tính bí mật của cuộc giao dịch. Trong một cuộc giao dịch điện tử nói việc đảm bảo tính
bí mật luôn phải đặt lên hàng đầu.Bằng không, doanh nghiệp có thể gặp những nguy cơ
như nghe trộm, giả mạo, mạo danh hay chối cãi nguồn gốc ...
Khi những thông tin nhạy cảm như thông tin cá nhân, thông tin thẻ tín dụng,
thông tin giao dịch… bị lấy cắp trên đường truyền gây ra những thiệt hại không nhỏ
với cả hai bên giao dịch. Một phần mềm đặc biệt, được gọi là trình đánh hơi (sniffer)

đưa ra cách móc nối vào Internet và ghi lại thông tin qua các máy tính đặc biệt (thiết bị
định tuyến - router) trên đường đi từ nguồn tới đích. Chương trình sniffer gần giống
với việc móc nối vào đường dây điện thoại để nghe thông tin cuộc đàm thoại. Chương
trình sniffer có thể đọc thông báo thư tín điện tử cũng như các thông tin TMĐT.
Tình trạng lấy cắp số thẻ tín dụng là một vấn đề quá rõ ràng, nhưng các thông tin
thỏa thuận hợp đồng, hoặc các trang dữ liệu được phát hành gửi đi cho các chi nhánh
của hãng có thể bị chặn xem một cách dễ dàng. Thông thường các thông tin bí mật của
hãng, các thông tin trong cuộc giao kết hợp đồng còn có giá trị hơn nhiều so với một số
thẻ tín dụng, các thông tin bị lấy cắp của hãng có thể trị giá đến hàng triệu đô la.

1.2.2.2. Xâm phạm tính toàn vẹn
Mối hiểm họa đối với tính toàn vẹn tồn tại khi một thành viên trái phép có thể sửa
đổi các thông tin trong một thông báo. Các giao dịch ngân hàng không được bảo vệ, ví
dụ tổng số tiền gửi được chuyển đi trên internet, là chủ thể của xâm phạm tính toàn
vẹn. Tất nhiên, tính xâm phạm toàn vẹn bao hàm cả xâm phạm tính bí mật. Bởi vì một
đối tượng xâm phạm (sửa đổi thông tin trái phép) có thể đọc và làm sáng tỏ thông tin.
Không giống hiểm họa với tính bí mật. Các hiểm họa tới tính toàn vẹn gây ra sự thay
đổi trong các hoạt động của một cá nhân hoặc một công ty, do nội dung cuộc truyền
thông bị thay đổi
Phá hoại điều khiển (Cyber vandalism) là một ví dụ về xâm phạm tính toàn vẹn.
Cyber vandalism phá (xóa bỏ để không đọc được) một trang web đang tồn tại.
Cyber Vandalism xảy ra bất cứ khi nào, khi các cá nhân thay đổi định kỳ nội dung
trang web của họ.


-10Tấn công toàn vẹn chính và việc sửa đổi một yêu cầu và gửi nó tới máy chủ của
một công ty thực. Máy chủ thương mại không biết được tấn công này, nó chỉ kiểm tra
số thẻ tin dụng của khách hàng và tiếp tục thực hiện yêu cầu.

1.2.2.3. Xâm phạm tính sẵn sàng

Mục đích của xâm phạm tính sẵn sàng là phá vỡ quá trình xử lý thông thường của
máy tính hoặc chối bỏ toàn bộ quá trình xử lý.
Xâm phạm tính sẵn sàng là tấn công từ chối giao dịch. Khi khách hàng, đối tác
thấy các sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp, nhà cung cấp…thỏa mãn các yêu cầu
về sản phẩm của họ, họ muốn thỏa thuận giao kết hợp đồng với nhà cung cấp. Một kết
nối giao dịch đến nhà cung cấp được thiết lập. Tấn công từ chối giao dịch sẽ ngăn cản
làm chậm thậm chí từ chối sự kết nối giao dịch này. Điều này ảnh hưởng rất lớn đến
hoạt động thương mại của doanh nghiệp, gây tổn thất doanh thu, thậm chí gây mất lòng
tin của khách hàng- yếu tố được chú trọng hàng đầu của doanh nghiệp.

1.2.2.4. Giả mạo nguồn gốc giao dịch
Giao dịch trên mạng là loại hình giao dịch không biên giới, có tính chất toàn cầu.
Các bên giao dịch không gặp nhau, thậm chí không hề quen biết nhau, và đây cũng
chính là cơ hội để cho kẻ xấu lợi dụng để thực hiện mục đích của mình. Vì vậy, việc
kiểm tra tính đúng đắn của thông tin trong giao dịch cần phải được thực hiện thường
xuyên để phòng tránh những rủi ro như thông tin gây nhiễu, giả mạo hay lừa đảo.
Mặc dù đã dùng những biện pháp kỹ thuật để bảo mật thông tin trong giao dịch,
song khi nhận được các thông tin người dùng vẫn phải kiểm tra tính đúng đắn, xác thực
của thông tin.

1.2.2.5. Chối bỏ giao dịch
Chối bỏ giao dịch được được định nghĩa là sự không thừa nhận của một trong các
thực thể tham gia truyền thông, anh ta không tham gia tất cả hoặc một phần cuộc
truyền thông … Khác với giao dịch thông thường khi đối tác hai bên biết mặt nhau, thì
trong giao dịch điện tử được thực hiện trong môi trường Internet … Các bên tham gia
giao dịch điện tử ở cách xa nhau về địa lý, thậm chí họ có thể không biết mặt nhau thì


-11vấn đề chối bỏ giao dịch có thể xảy ra rất cao và luật pháp cho chúng chưa nhiều, gây
ra những thiệt hại to lớn cho bên tham giao dịch.


1.2.2.6. Các hiểm họa đối với hệ thống giao dịch
1) Hiểm họa với máy chủ
Máy chủ là liên kết thứ 3 trong bộ ba máy khách - Internet - máy chủ (Client
Internet-Server), bao gồm đường dẫn TMĐT giữa một người dùng và một máy chủ
thương mại. Máy chủ có những điểm yếu dễ bị tấn công và một đối tượng nào đó có
thể lợi dụng những điểm yếu này để phá huỷ, hoặc thu được các thông tin một cách trái
phép. Hiểm hoạ đối với máy chủ bao gồm máy chủ Web, máy chủ CSDL và các phần
mềm của chúng, các chương trình phụ trợ bất kỳ có chứa dữ liệu, các chương trình tiện
ích được cài đặt trong máy chủ.
Hiểm họa với máy chủ CSDL:
Các hệ thống TMĐT lưu giữ dữ liệu của người dùng và lấy lại các thông tin về
sản phẩm từ các CSDL kết nối với máy chủ Web. Ngoài các thông tin về sản phẩm, các
CSDL có thể chứa các thông tin có giá trị và mang tính riêng tư. Tính bí mật luôn sẵn
sàng trong các CSDL, thông qua các đặc quyền được thiết lập trong CSDL.
Tuy nhiên, một số CSDL lưu giữ mật khẩu/tên người dùng một cách không an
toàn, hoặc dựa vào máy chủ Web để có an toàn. Khi an toàn bị vi phạm, CSDL bị dùng
bất hợp pháp, làm lộ hoặc tải về các thông tin mang tính cá nhân và quý giá. Các
chương trình con ngựa thành Tơroa nằm ẩn trong hệ thống CSDL cũng có thể làm lộ
các thông tin bằng việc giáng cấp các thông tin này (có nghĩa là chuyển các thông tin
nhạy cảm sang một vùng ít được bảo vệ của CSDL, do đó bất cứ ai cũng có thể xem
xét các thông tin này). Khi các thông tin bị giáng cấp, tất cả những người dùng, không
ngoại trừ những đối tượng xâm nhập trái phép cũng có thể truy nhập.
Hiểm họa với máy chủ web:
Các máy chủ Web được thiết lập chạy ở các mức đặc quyền khác nhau. Mức thẩm
quyền cao nhất có độ mềm dẻo cao nhất, cho phép các chương trình thực hiện tất cả
các chỉ lệnh của máy và không giới hạn truy nhập vào tất cả các phần của hệ thống,
không ngoại trừ các vùng nhạy cảm và phải có thẩm quyền. Việc thiết lập một máy chủ
Web chạy ở mức thẩm quyền cao có thể gây hiểm hoạ về an toàn đối với máy chủ
Web. Trong hầu hết thời gian, máy chủ Web cung cấp các dịch vụ thông thường và

thực hiện các nhiệm vụ với một mức thẩm quyền rất thấp. Nếu một máy chủ Web chạy
ở mức thẩm quyền cao, một đối tượng xấu có thể lợi dụng một máy chủ Web để thực
hiện các lệnh trong chế độ thẩm quyền.


-12Một trong các file nhạy cảm nhất trên máy chủ Web chứa mật khẩu và tên người
dùng của máy chủ Web. Nếu file này bị tổn thương, bất kỳ ai cũng có thể thâm nhập
vào các vùng thẩm quyền, bằng cách giả mạo một người nào đó. Do đó, có thể giả
danh để lấy được các mật khẩu và tên người dùng nên các thông tin liên quan đến
người dùng không còn bí mật nữa.

2) Hiểm họa với máy khách
Cho đến khi được biểu diễn trên web, các trang web chủ yếu được biểu diễn dưới
trạng thái tĩnh. Thông qua ngôn ngữ biểu diễn siêu văn bản HTML, các trang tĩnh cũng
ở dạng động một phần chứ không đơn thuần chỉ hiển thị nội dung và cung cấp liên kết
các trang web với thông tin bổ sung. Việc dùng những nội dung động (active content)
mang lại sự sống động cho web tĩnh nhưng đã gây ra một số rủi ro cho trong TMĐT.
Gây ra những hiểm họa với máy khách. Active content được dùng trong TMĐT để đặt
các khoản mục mà chúng ta muốn mua trong giỏ mua hàng và tính toán tổng số hóa
đơn, bao gồm thuế bán hàng, các chi phí vận chuyển và chi phí xử lý.
Các nhà phát triển nắm lấy active content vì nó tận dụng tối đa chức năng của
HTML và bổ sung thêm sự sống cho các trang web, làm cho trang web có tương tác
với người dùng cao hơn. Nó cũng giảm bớt gánh nặng cho các máy chủ khi phải xử lý
nhiều dữ liệu. Gánh nặng này được chuyển bớt sang cho máy khách nhàn dỗi của
người dùng.
Active content cho các trang Web khả năng thực hiện các hoạt động trong suốt
hoàn toàn đối với bất kỳ người nào xem duyệt trang Web chứa chúng. Bất kỳ ai cố tình
gây hại cho một máy khách đều có thể nhúng một active content gây hại vào các trang
Web. Kỹ thuật lan truyền này được gọi là con ngựa thành Tơroa.
Các cookie được dùng để nhớ các thông tin yêu cầu của khách hàng, hoặc tên

người dùng và mật khẩu. Nhiều active content gây hại có thể lan truyền thông qua các
cookie, chúng có thể phát hiện được nội dung của các file phía máy khách, hoặc thậm
chí có thể huỷ bỏ các file được lưu giữ trong các máy khách. Trên máy tính cá nhân có
lưu một số lượng lớn các cookie giống như trên Internet và một số các cookie có thể
chứa các thông tin nhạy cảm và mang tính chất cá nhân.
Như vậy, các hiểm hoạ đối với máy khách khi khai thác thông tin qua Internet là
lớn và rất khó nhận diện.


-13-

3) Các hiểm họa đối với kênh truyền thông
Internet đóng vai trò kết nối một khách hàng với một tài nguyên TMĐT (máy tính
dịch vụ thương mại). Chúng ta đã xem xét các hiểm hoạ đối với các máy khách, máy
chủ, các tài nguyên tiếp theo chính là kênh truyền thông, các kênh này được dùng để
kết nối các máy khách và máy chủ.
Các thông báo trên Internet được gửi đi theo một đường dẫn ngẫu nhiên, từ nút
nguồn tới nút đích. Các thông báo đi qua một số máy tính trung gian trên mạng trước
khi tới đích cuối cùng và mỗi lần đi chúng có thể đi theo những tuyến đường khác
nhau. Không có gì đảm bảo rằng tất cả các máy tính mà thông báo đi qua trên Internet
đều an toàn. Những đối tượng trung gian có thể đọc các thông báo, sửa đổi, hoặc thậm
chí có thể loại bỏ hoàn toàn các thông báo của chúng ta ra khỏi Internet. Do vậy, các
thông báo được gửi đi trên mạng là đối tượng có khả năng bị xâm phạm đến tính bí
mật, tính toàn vẹn và tính sẵn sàng. [3]

1.2.3. Chiến lược đảm bảo an toàn thông tin
Giới hạn quyền: Đây là nguyên tắc cơ bản trong an toàn nói chung. Đối với mỗi
người dùng hệ thống chỉ được truy nhập vào một số tài nguyên hệ thống nhất định, đủ
để dùng cho công việc của mình. Phòng thủ theo chiều sâu: phân ra thành nhiểu lớp
bảo vệ. Dưới đây là hình vẽ tượng trưng cho lớp bảo vệ đó.

Thông tin

Mã hóa
dữ liệu

Password
đăng
nhập

Quyền
truy nhập

Bảo vệ bằng
phương pháp
vật lí

Hình 1.1: Các lớp bảo vệ thông tin
Thông tin nằm ở tầng trong cùng, trên nó là sự giới hạn quyền truy nhập, tiếp
theo là giới hạn đăng nhập và mật khẩu, tiếp theo là mã hóa thông tin, tiếp theo là bảo
vệ vât lý (khóa cửa phòng máy tính, khóa bàn phím, ổ ghi…), ngoài cùng là tường lửa.
Các phương pháp bảo đảm an toàn thông tin:
1)

Kiểm soát truy nhập thông tin. Bao gồm:
+ Kiểm soát, ngăn chặn các thông tin vào ra hệ thống máy tính
+ Kiểm soát, cấp quyền sử dụng các thông tin trong hệ thống máy tính
+ Kiểm soát, tìm diệt Vius vào ra hệ thống máy tính

Công cụ, kỹ thuật sử dụng để kiểm soát truy nhập là: Mật khẩu, tường lửa, mạng riêng
ảo, nhận dạng, xác thực thực thể, cấp quyền hạn.



-142)

Bảo mật thông tin.
Nhằm đảm bảo thông tin không bị lộ đối với người không được phép.

Công cụ, kỹ thuật sử dụng để bảo mật thông tin là: Mã hóa ( Thay đổi hình dạng dữ
liệu gốc, người khác khó nhận ra), giấu tin (cất giấu dữ liệu này trong môi trường dữ
liệu khác).
3)

Bảo toàn thông tin
Nhằm ngăn chặn, hạn chế việc bổ sung, loại bỏ và sửa dữ liệu không được phép.

Công cụ, kỹ thuật sử dụng để bảo toàn thông tin là: Mã hóa, giấu tin, hàm băm, ký số,
thủy ký.
4)

Xác thực nguồn gốc thông tin
Nhằm xác thực đúng thực thể cần kết nối, giao dịch, nguồn gốc của thông tin.

Công cụ, kỹ thuật sử dụng để xác thực nguồn gốc thông tin là: Chữ ký số, giao thức
xác thực thông tin.
5)

Phương pháp chống chối cãi
Nhằm xác thực đúng thực thể có trách nhiệm về nội dung thông tin.

Công cụ, kỹ thuật sử dụng để xác thực thực thể, chống chối cãi là: Chữ ký số, giao

thức xác thực thông tin, truy tìm dấu vết.
6)

Kiểm soát và xử lý các « lỗ hổng » an ninh.

Phát hiện và xử lý các « lỗ hổng » trong các thuật toán, các giao thức mật mã giấu tin,
trong các giao thức mạng, hệ điều hành mạng và trong các ứng dụng. [1]


-15-

1.3. TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN ĐIỆN TỬ
1.3.1. Khái niệm Thương mại điện tử
Ngày nay, Khi Internet phát triển mạnh mẽ và ngày càng trở nên phổ cập, thì khái
niệm TMĐT (E- commerce) không còn xa lạ với dân cư mạng nói riêng, và toàn xã hội
nói chung. Đó là quá trình mua bán hàng hóa hay dịch vụ thông qua việc truyền dữ liệu
giữa các máy tính trong chính sách phân phối tiếp thị thông qua mạng internet.
Bao gồm tất cả các loại giao dịch thương mại trong đó tất cả các đối tác thương
mại dùng kỹ thuật công nghệ thông tin.

1.3.2. Vấn đề thanh toán điện tử
Thanh toán là một trong những vấn đề phức tạp nhất của hoạt động thương mại
điện tử (TMĐT). Hoạt động TMĐT chỉ phát huy được tính ưu việt của nó khi áp dụng
được hình thức thanh toán từ xa - thanh toán điện tử.
Thanh toán điện tử (electronic payment) là việc thanh toán tiền thông qua các
thông điệp điện tử (electronic message) thay cho việc thanh toán bằng séc hay tiền mặt.
Bản chất của mô hình thanh toán điện tử cũng là mô phỏng lại những mô hình mua bán
truyền thống, nhưng từ các thủ tục giao dịch, thao tác xử lý dữ liệu rồi thực hiện
chuyển khoản, tất cả đều thực hiện thông qua hệ thống máy tính được nối mạng bằng
các giao thức riêng chuyên dụng. [7],[8].

Về mặt mô hình, một phương thức thanh toán nói chung là một mô tả hoạt động
của một hệ thống xử lý phân tán có nhiều bên tham gia, trong đó có hai bên cơ bản là
bên mua (người trả tiền) và bên bán (người được trả tiền). Các bên được đại diện bởi
các máy tính của mình nối với nhau qua mạng máy tính, sử dụng chúng để thực hiện
các giao thức thanh toán.
Hệ thống có thể có các tổ chức tài chính (ví dụ các ngân hàng) đại diên cho mỗi
bên. Trong một số hệ thống thanh toán lại sử dụng một thực thể khác đóng vai trò là
người môi giới, đảm nhiệm việc phát hành những hình thức của tiền hoặc một vật thể
nào đó mang giá trị trao đổi thanh toán thường được gọi là đồng tiền số (digital coin)
hoặc séc điện tử (electronic cheque) và đổi lại thành tiền mặt.


-16Đặc trưng của mô hình thanh toán điện tử là các bên tham gia sẽ trao đổi với nhau
các chứng từ được số hoá (thành những chuỗi bit máy tính có thể dùng được). Bản chất
là bên được thanh toán có thể thông qua ngân hàng của mình (tất nhiên là phải liên hệ
với ngân hàng của bên thanh toán) để chuyển tiền vào tài khoản của mình.
Các quá trình này sẽ được phản ánh trong các giao thức thanh toán của mỗi hệ thống.
Có 2 mô hình thanh toán được sử dụng trong thanh toán điện tử là:
Mô hình trả sau:
Trong mô hình này, thời điểm tiền mặt được rút ra khỏi tài khoản bên mua để
chuyển sang bên bán, xảy ra ngay (pay-now) hoặc sau (pay-later) giao dịch mua bán.
Hoạt động của hệ thống dựa trên nguyên tắc tín dụng (credit credential). Nó còn được
gọi là mô hình mô phỏng Séc (Cheque-like model)
Mô hình trả trước:
Trong mô hình này, khách hàng liên hệ với ngân hàng (hay công ty môi giới –
broker) để có được chứng từ do ngân hàng phát hành. Chứng từ hay đồng tiền số này
mang dấu ấn của ngân hàng, được đảm bảo bởi ngân hàng và do đó có thể dùng ở bất
cứ nơi nào đã có xác lập hệ thống thanh toán với ngân hàng này.
Vì nó có thể sử dụng giống như tiền mặt, do đó mô hình này còn được gọi là mô
hình mô phỏng tiền mặt (Cash-like model).

Có 2 hình thức thanh toán trong thanh toán điện tử là :
Thanh toán ngoại tuyến (off-line payment)
Phiên giao dịch giữa người sử dụng và nhà cung cấp có thể diễn ra, mà không cần
đến sự tham gia của ngân hàng. Nói cách khác, nhà cung cấp tự kiểm tra tính hợp lệ
của đồng tiền, mà không cần sự trợ giúp của bên thứ ba.
Thanh toán trực tuyến (online payment)
Trong mỗi lần giao dịch, nhà cung cấp sẽ yêu cầu ngân hàng kiểm tra tính hợp lệ
của đồng tiền do người dùng chuyển trước khi chấp nhận thanh toán. Vì vậy, hệ thống
thanh toán trực tuyến có khả năng kiểm tra được tính tin cậy của đồng tiền.
Thanh toán trực tuyến thích hợp với những giao dịch có giá trị lớn. Với hệ thống
này, quá trình thanh toán và gửi tiền vào ngân hàng tách biệt nhau trong mỗi lần giao
dịch. Do vậy, chi phí về thời gian cũng như tiền bạc sẽ tốn kém hơn. [3], [7], [8].


-17-

1.4. CÔNG CỤ CNTT DÙNG TRONG THANH TOÁN ĐIỆN TỬ
1.4.1 Hạ tầng cơ sở bảo đảm an toàn thông tin
1.4.1.1. Tường lửa
Tường lửa được dùng như một hàng rào giữa một mạng (cần được bảo vệ) và
internet hoặc mạng khác (có khả năng gây ra mối đe dọa). Mạng và các máy tính cần
được bảo vệ nằm bên trong bức tường lửa, các mạng khác nằm ở bên ngoài. Các bức
tường lửa có các đặc điểm sau đây:
Tất cả các luồng thông tin từ trong ra ngoài, từ ngoài vào trong đều phải chịu sự
quản lý của nó.
Chỉ có các luồng thông tin được phép đi qua nó.
Bức tường lửa tự bảo vệ mình.
Các bức tường lửa hoạt động ở tầng ứng dụng. Chúng cũng có thể hoạt động ở
tầng mạng và tầng vận tải. Các site của công ty khác nhau phải có một bức tường lửa
cho mỗi kết nối ngoài với internet. Đảm bảo một phạm vi an toàn không thể phá vỡ.

Ngoài ra, mỗi bức tường lửa trong công ty phải tuân theo chính sách an toàn.

1.4.1.2. Mạng riêng ảo
Mạng riêng ảo VPN (Virtual Private Network) là giải pháp công nghệ cho phép
thiết lập mạng dùng riêng trên nền mạng công cộng sẵn có bằng cơ chế mã hóa, tạo ra
các “đường hầm ảo” thông suốt và bảo mật.
Bảo mật của VPN còn được hỗ trợ bằng công nghệ thẻ thông minh và sinh trắc
học. Micrsoft đã tích hợp một giao thức khác gọi là EAP-TLS trong Windows, chuyên
trách công việc này cho VPN truy cập từ xa.
EAP-TLS là chữ viết tắt của Extensible Authentication Protocol - Transport
Layer Security (giao thức thẩm định quyền truy cập có thể mở rộng - bảo mật lớp
truyền dẫn). Kết nối dựa trên giao thức này đòi hỏi có một chứng nhận người dùng
(user certificate) trên cả máy khách và máy chủ IAS của mạng VPN. Đây là cơ chế có
mức độ an toàn nhất ở cấp độ người dùng.


-18Một mạng VPN điển hình bao gồm mạng LAN chính tại trụ sở (Văn phòng
chính), các mạng LAN khác tại những văn phòng từ xa, các điểm kết nối (như "Văn
phòng" tại gia) hoặc người dùng (Nhân viên di động) truy cập đến từ bên ngoài. [3]

Hình 1.2 : Một hệ thống mạng riêng ảo

1.4.1.3 Hạ tầng mật mã hóa công khai
Nhu cầu sử dụng dịch vụ chữ ký số trong đời sống xã hội đang ngày được quan
tâm. Để có thể triển khai dịch vụ này thì cần phải có một cơ sở hạ tầng mật mã hóa
công khai (PKI) hoàn chỉnh, ổn định.
Khái niệm PKI đã được thế giới biết đến từ hơn 20 năm nay, hiện đang được coi
là giải pháp tốt nhất trong việc bảo mật, xác thực và toàn vẹn dữ liệu trong các giao
dịch điện tử với các ứng dụng trực tuyến như ngân hàng điện tử, thanh toán điện tử, ký
số tài liệu, xác thực đăng nhập…

Hàng triệu người trên khắp thế giới đã truy cập vào các website để thực hiện các
tác vụ như thanh toán ngân hàng, mua bán trực tuyến… và PKI được sử dụng để đảm
bảo an toàn cho các phiên giao dịch đó.
Tại Việt Nam, giao dịch điện tử cũng đã được phát triển mạnh mẽ cả ở khối Nhà
nước cũng như khối thương mại – doanh nghiệp, và đi kèm theo đó là nhu cầu cần có
ứng dụng chữ ký số (chữ ký điện tử), nhiều Bộ, ngành đã và đang chuẩn bị triển khai
các dịch vụ công trực tuyến bắt buộc phải sử dụng chữ ký số mới đạt yêu cầu dịch vụ
hoàn chỉnh, điển hình như thuế điện tử (e-tax) của Tổng cục Thuế, ngân hàng điện tử
(e-banking) của Ngân hàng Nhà nước, chứng nhận nguồn gốc xuất xứ điện tử
(ecertificate of origin) của Bộ Công Thương…
Cơ sở hạ tầng khoá công khai PKI có thể hiểu là một tập hợp các công cụ, phương
tiện và các giao thức đảm bảo an toàn truyền tin cho các giao dịch trên mạng máy tính
công khai. Đó là nền móng mà trên đó các ứng dụng, các hệ thống an toàn bảo mật
thông tin được thiết lập. [2], [13].


-19-

1.4.2. Một số tiện ích dùng trong thanh toán điện tử
1.4.2.1. Thanh toán bằng các loại thẻ
1) Thẻ tín dụng
Thanh toán bằng thẻ tín dụng là phương thức được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay
trên Internet. Để thực hiện giao dịch, người mua hàng chỉ việc cung cấp số hiệu thẻ và
thời hạn sử dụng của tấm thẻ, người bán sẽ chuyển các thông tin này đến ngân hàng để
xác nhận giao dịch. Phương thức thanh toán này chủ yếu thực hiện thanh toán theo
kiểu trực tuyến.
Ưu điểm: Đây là phương thức thanh toán đơn giản và dễ sử dụng.
Nhược điểm: Kiểu thanh toán này không an toàn cho cả hai bên mua và bán,
không cho phép ẩn danh, chi phí cao và không cho phép thanh toán nhỏ lẻ.
2) Thẻ “tiền mặt”

Thẻ “tiền mặt” được phát triển đáp ứng nhu cầu giảm việc giữ tiền mặt của khách
hàng và mong muốn phương tiện thanh toán thuận tiện và linh hoạt hơn. Thẻ “tiền
mặt” được phân loại theo đặc điểm vật lý thành hai loại: thẻ từ và thẻ thông minh.
Thẻ từ, đã tồn tại khá lâu, sử dụng các vạch từ để lưu trữ thông tin, trong khi thẻ
thông minh sử dụng công nghệ vi mạch để lưu trữ thông tin, khắc phục nhược điểm về
tính an toàn của thẻ từ. Thẻ thông minh được thiết kế nhằm ngăn chặn tình trạng giả
mạo và làm sai lệch các thông tin được lưu giữ.

1.4.2.2. Thanh toán bằng séc điện tử
Séc điện tử chính là một hình thức thể hiện của séc giấy. Nói cách khác, séc điện
tử bao gồm tất cả các thông tin trên séc giấy truyền thống nhưng có thể chuyển được
bằng thư điện tử (e-mail), có khuôn dạng đặc biệt được gửi trên Internet. Bên trong
bức thư điện tử là tất cả các thông tin giống như trên một tấm séc giấy gồm tên người
hưởng, số tiền, ngày thanh toán, số tài khoản người trả tiền và ngân hàng của người trả.
Séc điện tử được “ký” bằng chữ ký điện tử của người gửi và được mã hoá bằng khoá
công khai của người nhận. Nó cũng gồm một xác nhận số từ ngân hàng của người gửi
xác nhận rằng số tài khoản là hợp lệ và thuộc về người ký tờ séc này.

1.4.2.3. Thanh toán bằng tiền điện tử
Đây là phương tiện thanh toán được sử dụng trong thương mại điện tử. Tiền điện
tử e-cash (còn gọi là tiền mặt số, xu điện tử…) có các thông tin giống như trên tiền mặt
thông thường: nơi phát hành, giá trị bao nhiêu và số seri duy nhất.


-20Người tiêu dùng có thể mua tiền mặt điện tử và lưu trữ nó trong một ví tiền số
(digital wallet hoặc electronic purse) trên một đĩa nhớ. Ví tiền số gồm bàn phím và
màn hình. Nó có thể được kết nối tới tài khoản ngân hàng của người tiêu dùng và có
thể nạp thêm tiền bất cứ lúc nào.
Người dùng có thể tiêu tiền số tại bất kỳ cửa hàng nào chấp nhận tiền mặt điện tử,
mà không phải mở tài khoản hay chuyển đi số thẻ tín dụng. [3],[7],[8].


CHƯƠNG 2 HẠ TẦNG CƠ SỞ BẢO ĐẢM AN TOÀN
THÔNG TIN
2.1. HẠ TẦNG MẠNG MÁY TÍNH
2.1.1. Mạng Lan, Wan, Intranet, Extranet và Internet
2.1.1.1. Mạng cục bộ ( LAN)
Các mạng cục bộ (Local area networks-LANs) nối kết các máy tính và các thiết
bị xử lý thông tin khác trong một khu vực hạn chế, như văn phòng, lớp học, tòa nhà,
nhà máy sản xuất, hay nơi làm việc khác. LANs đã trở nên thông dụng trong nhiều tổ
chức đối với việc cung cấp các khả năng mạng viễn thông nối kết nhiều người dùng
trong các văn phòng, bộ phận, và các nhóm làm việc khác.


-21LANs sử dụng nhiều phương tiện viễn thông, như dây điện thoại thông thường,
cáp đồng trục, hay thậm chí các hệ thống vô tuyến để nối các trạm máy vi tính và các
thiết bị ngoại vi với nhau. Để giao tiếp qua mạng, mỗi PC thường có một bo mạch
được gọi là một card giao tiếp mạng. Phần lớn LANs dùng một máy vi tính mạnh hơn
có dung lượng đĩa cứng lớn, được gọi là file server hay máy chủ mạng, chứa chương
trình hệ điều hành mạng kiểm soát viễn thông, cách dùng và chia sẻ tài nguyên mạng.
Ví dụ, nó phân phối các bản sao các tập tin dữ liệu thông thường và các bộ phần mềm
đến các máy vi tính khác trong mạng và kiểm soát truy cập đến các máy in và các thiết
bị ngoại vi khác đã được chia sẻ.

Hình 2.1 : Mạng LAN cho phép chia sẻ tài
nguyên phần cứng, phần mềm và dữ liệu
Topo mạng cục bộ
Topo (hay topology) mạng là sơ đồ vật lý của một mạng cục bộ.
Mạng LAN đầu tiên sử dụng kiểu kênh/tuyến (Bus). Dây cáp mạnh tạo thành một
kênh duy nhất và các máy trạm nối vào đó. Để giải quyết tranh chấp, mạng bus sử
dụng vài loại kỹ thuật quản lý tranh chấp. Kỹ thuật này nhằm loại bỏ dữ liệu bị hỏng

do tranh chấp. Mạng có ưu điểm là thiết kế đơn giản nhưng khó kiểm soát và không
thể đưa thêm một trạm vào giữa mạng.
Kiểu hình sao (Star) giải quyết vấn đề mở rộng mạng bằng cách đưa vào một bộ
tập trung là Hub, nhờ đó việc bổ sung thêm người sử dụng khá đơn giản nhưng độ tin
cậy thấp vì tất cả máy tính phụ thuộc vào máy chủ trung tâm.
Kiểu vòng (Ring) tạo ra cách duy nhất để chống tình trạng tranh chấp, một trạm
làm việc chỉ có thể truyền dữ liệu khi sở hữu một thẻ bài, là đơn vị đặc biệt chạy vòng
trong mạng này.


-22-

Hình 2.2 : Các topology mạng cục bộ (vòng, sao, tuyến)

2.1.1.2. Mạng diện rộng- WAN
Các mạng viễn thông bao phủ một phạm vi địa lý rộng lớn được gọi là mạng diện
rộng (wide area network-WAN). Các mạng bao phủ một thành phố lớn hay phạm vi
thủ đô (metropolitan area network-MAN) cũng có thể được bao gồm trong loại này.
Các mạng lớn như vậy đã trở nên cần thiết cho việc thực hiện các hoạt động hàng ngày
của nhiều tổ chức kinh doanh và chính phủ và những người dùng cuối của nó. Ví dụ,
WAN được dùng bởi nhiều công ty đa quốc gia để chuyển và nhận thông tin giữa các
nhân viên, khách hàng, nhà cung cấp, và các tổ chức khác qua nhiều thành phố, vùng,
quốc gia và thế giới. Hình minh họa một ví dụ của một mạng diện rộng toàn cầu cho
một công ty đa quốc gia lớn.


-23-

Hình 2.3: Mạng diện rộng (WAN)


2.1.1.3. Mạng Intranet, Extranet
-

Intranet : Là mạng cục bộ dành cho các nhân viên bên trong tổ chức.
+ Mạng riêng gồm nhiều LAN & WAN.
+ Sử dụng các giao thức để liên lạc như : TCP/IP, IPX/SPX...
+ Thường có Firewalls nếu có kết nối Internet.

-

Extranet : Dạng mở rộng của Intranet, cho phép kết nối từ ngoài vào.
+ Một kiểu mạng Intranet mở rộng.
+ Dành cho giao tiếp với khách hàng, đại lý bên ngoài.

2.1.1.4. Mạng Internet
- Internet : kết nối nhiều LAN, tạo khả năng truy cập mở trên toàn cầu.
+ Mạng cộng đồng diện rộng, sử dụng giao thức TCP/IP
+ Gồm nhiều Intranet kết nối bằng đường điện thoại, vệ tinh...
+ Mỗi máy tính trong mạng có một địa chỉ IP duy nhất.
Các mạng xương sống được kiểm soát bởi các Nhà cung cấp dịch vụ mạng
(Network Service Providers - NSPs) như MCI, Sprint, UUNET/MIS… Mỗi mạng
xương sống xử lý hơn 300 terabytes/tháng. Các mạng con đến từ các Nhà cung cấp
dịch vụ Internet (Internet Service Provider - ISPs) trao đổi dữ liệu với NSP tại các
điểm truy cập mạng (Network Access Points - NAPs). Hình sau đây minh họa các kết
nối giữa ISP, NAP và các mạng xương sống.


-24-

Hình 2.4 : Kiến trúc mạng Internet

Khi người sử dụng gửi một yêu cầu lên Internet từ máy tính của mình, nó sẽ theo
mạng ISP, di chuyển qua một hay nhiều mạng xương sống và băng qua mạng ISP khác
đến máy tính chứa thông tin quan tâm. Câu trả lời cho yêu cầu đó sẽ theo thứ tự lộ
trình tương tự. Bất kỳ yêu cầu và kết quả trả lời nào cũng đều không theo lộ trình định
sẵn. Thật vậy, chúng bị tách ra thành các gói và mỗi gói lại theo những lộ trình khác
nhau. Những lộ trình này được xác định bởi các máy tính đặc biệt gọi là Router. Các
Router có những bản đồ mạng trên Internet có thể cập nhật được cho phép chúng xác
định đường đi cho các gói tin.

2.1.2. Một số dịch vụ internet (internet services)
2.1.2.1. World Wide Web – WWW
Đây là dịch vụ thông dụng nhất trên Internet. Để sử dụng dịch vụ này, người dùng
cần có một trình duyệt web thường được gọi là browser. Hai trình duyệt thông dụng
nhất hiện nay là Internet Explorer của công ty Microsoft và Netscape Navigator của
công ty Netscape.
Để truy cập vào một trang web, chúng ta cần phải biết địa chỉ (URL – Uniform
Resource Location) của trang web đó. Ví dụ: Để truy cập vào trang web của công ty
Microsoft, ta gõ vào: />Trong mỗi trang web truy cập vào, chúng ta có thể thấy được văn bản, hình ảnh,
âm thanh, … được trang trí và trình bày hết sức đẹp mắt. Ngoài ra, để có thể di chuyển
tới các trang web khác, chúng ta có thể sử dụng các siêu liên kết (hyperlink). Do con
trỏ chuột thường thay đổi hình dạng ngang qua một đối tượng có chứa hyperlink nên
đây là cách đơn giản để nhận diện chúng.


-25Sự ra đời của www là một bước ngoặt lớn của mạng Internet, nó tạo cơ hội cho
chúng ta truy cập đến một kho thông tin khổng lồ với hàng triệu triệu trang web. Điều
này mở ra nhiều cơ hội và thách thức lớn cho công việc của chúng ta trong hiện tại và
tương lai. Dịch vụ này sử dụng giao thức HTTP (Hypertext Transfer Protocol).

2.1.2.2. Thư điện tử – Email

Email (Electronic mail) là dịch vụ trao đổi các thông điệp điện tử bằng mạng viễn
thông. Các thông điệp này thường được mã hóa dưới dạng văn bản ASCII. Tuy nhiên,
chúng ta cũng có thể gửi các tập tin hình ảnh, âm thanh cũng như các tập tin chương
trình kèm theo email. Email là một trong những dịch vụ ban đầu của Internet và được
sử dụng rất rộng rãi. Chiếm phần lớn lưu lượng trên mạng Internet là email.
Giao thức thường dùng để gửi/nhận email là SMTP (Simple Mail Transfer
Protocol)/POP3 (Post Office Protocol 3).
Để sử dụng dịch vụ email, chúng ta cần phải có:
Địa chỉ email. Một địa chỉ email thường có dạng name@domainname. Ví dụ,
trong địa chỉ email , hpbac đóng vai trò là tên hộp thư (name),
gmail.com là tên miền (domain name).
Tên đăng nhập và mật khẩu để truy cập vào hộp thư: Điều này đảm bảo rằng chỉ
có chính chúng ta mới có thể đọc và gửi các thư của chính mình.
Địa chỉ email được quản lý bởi 1 mail server. Tại Việt Nam, các nhà cung cấp
dịch vụ email thường là các ISP như VNPT, FPT, SaigonNet,... Do đó, tên miền trong
các địa chỉ email của chúng ta thường có dạng : hcm.vnn.vn, hcm.fpt.vn, saigonnet.vn,
… Tuy nhiên, có rất nhiều website trên Internet cung cấp dịch vụ email miễn phí.
Thông dụng nhất vẫn là Yahoo, Hotmail, Gmail…

2.1.2.3. Truyền, tải tập tin – FTP
FTP (File Transfer Protocol) là dịch vụ dùng để trao đổi các tập tin giữa các máy
tính trên Internet với nhau. FTP thường được dùng để truyền (upload) các trang web từ
những người thiết kế đến các máy chủ. Nó cũng thường được dùng để tải (download)
các chương trình và các tập tin từ các máy chủ trên mạng về máy của người sử dụng.

2.1.2.4. Tán gẫu – Chat
Dịch vụ tán gẫu cho phép người dùng có thể trao đổi trực tuyến với nhau qua
mạng Internet. Cách thông dụng nhất là trao đổi bằng văn bản. Nếu đường truyền tốt,



×