Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

BÀI TIỂU LUẬN BIỆN PHÁP ẨN DỤ VỀ CON NGƯỜI TRONG CA DAO VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (218.36 KB, 17 trang )

a

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
======

BÀI TIỂU LUẬN
BIỆN PHÁP ẨN DỤ VỀ CON NGƯỜI
TRONG CA DAO VIỆT NAM

Giảng viên
Môn học

: Nguyễn Ngọc Kiên
: Ngôn ngữ và văn hóa

HANOI, 2017
1


MỤC LỤC

2


PHẦN 1: MỞ ĐẦU
1, Lí do chọn đề tài:
Ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ mật thiết, "biện chứng" và không
thể tách rời. Không phải ngẫu nhiên mà W. V. Humboldt nhận định rằng: Ngôn
ngữ là linh hồn dân tộc. Không có ngôn ngữ nào nằm ngoài văn hóa cũng như
không có văn hóa nào mà lại không được biểu thị thông qua ngôn ngữ. Do đó,


muốn tìm hiểu đặc trưng và bản sắc nền văn hóa ta không thể không nghiên cứu
ngôn ngữ và các hình thức biểu hiện của nó. Vì vậy, nếu chúng ta muốn giữ gìn
và phát triển nền văn hóa dân tộc cũng đồng nghĩa với việc chúng ta không thể
lơ là, không coi trọng đến việc bảo vệ và phát triển ngôn ngữ.
Tôi chọn đề tài "Ẩn dụ về con người trong ca dao Việt Nam" nhằm mục
đích vén mở tâm tình của người dân lao động qua những vần ca dao. Từ đó,
chúng ta thấy được cái ý nhị, tinh tế trong tâm hồn, trong suy nghĩ, tình cảm của
ông bà ta đã gửi gắm kín đáo qua những ẩn dụ, biểu tượng mang đậm đà bản sắc
văn hóa Việt, cũng như hiểu rõ hơn những đặc trưng của văn hóa trong đời sống
sinh hoạt của người Việt.
2, Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Những công trình nghiên cứu về khoa trương trong ca dao những năm qua
khá phong phú và đa dạng. Các công trình có tính sưu tầm vẫn chiếm đa số như:
tổng hợp tổng tập văn học dân gian của người Việt của trung tâm khoa học xã
hội và nhân văn quốc gia, kho tàng ca dao người Việt (tập 1, 2, 3), tục ngữ ca
dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan, tục ngữ ca dao của Mã Giang Lân….
3, Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của bài này là biện pháp ẩn dụ con người trong
tiếng Việt. Phạm vi nghiên cứu công trình kho tàng ca dao người Việt, ca dao trữ
tình Việt Nam, ca dao tục ngữ Việt Nam.
4, Mục đích nghiên cứu:
Luận án này giới thiệu bức tranh toàn cảnh biện pháp ẩn dụ trong tiếng
Việt về cách biểu đạt, cấu trúc, ngữ nghĩa và ngữ dụng. Thông qua việc khảo sát
3


đặc điểm cấu trúc – ngữ nghĩa, luận án góp phần vào việc nghiên cứu lí luận về
biện pháp ẩn dụ, một biện pháp tu từ trong các ngôn ngữ nói chung và trong một
ngôn ngữ cụ thể.
5, Phương án nghiên cứu:

Trên cơ sở tìm hiểu những tài liệu liên quan đến đề tài cùng với vận dụng
các phương pháp: tổng hợp, phân tích, khảo sát, để tìm ra biện pháp ẩn dụ trong
ca dao Việt Nam.

4


PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG
1, Khái niệm ca dao:
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu âm thanh đặc biệt, là phương tiện giao
tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong một cộng đồng người;
ngôn ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư duy, truyền đạt truyền
thống văn hóa – lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác. Từ định nghĩa trên,
chúng ta không chỉ nhận ra được tầm quan trọng của ngôn ngữ trong đời sống
của con người mà bên cạnh đó, chúng ta còn nhận ra được mối quan hệ mật thiết
giữa ngôn ngữ và văn hóa – một "mối quan hệ biện chứng lẫn nhau". Nghiên
cứu ngôn ngữ nói chung dưới góc độ văn hóa đã trở nên phổ biến trong giới
ngôn ngữ học hiện nay, hướng tiếp cận ngôn ngữ - văn hóa không chỉ có ý nghĩa
về mặt nghiên cứu, khoa học mà nó còn đem lại nhiều giá trị về mặt nhận thức,
thực tiễn.
Ca dao là một trong những thể loại tiêu biểu của văn học dân gian Việt
Nam. Ca dao vốn là một thuật ngữ Hán Việt, trước đây, người ta còn gọi ca dao
là phong dao bởi vì có nhiều bài ca dao đã phản ánh những phong tục, tập quán
của từng địa phương, của từng thời đại lịch sử. Có nhiều định nghĩa khác nhau
về ca dao nhưng tựu trung lại, chúng ta có thể định nghĩa ca dao như sau: Ca dao
là những bài văn vần do nhân dân sang tác tập thể, được lưu truyền bằng miệng
và được phổ biến rộng rãi trong nhân dân.
Những bài ca dao với những vần điệu trữ tình, đằm thắm không biết tự
bao giờ đã đi vào đời sống văn hóa – tinh thần của người dân Việt Nam như một

món ăn thanh tao nhưng đậm đà hương vị; nó không chỉ tái hiện trước mắt
người đọc những danh lam thắng cảnh, những bức tranh làng quê bình dị của đất
nước Việt Nam với bao cảnh vật nên thơ mà đó còn là những khúc hát tâm tình
nhẹ nhàng mà sâu lắng, da diết của những người dân lao động hiền lành, chất
phác. Ca dao được ví như một chuyến đò ân tình chuyên chở biết bao tình cảm
của người dân Việt từ xưa đến nay; và nó cũng chuyên chở trên những vần thơ
trữ tình ấy bao nét tinh hoa của văn hóa Việt Nam. Có thể coi ca dao là tiếng hát
5


trái tim của người lao động, là thơ trữ tình dân gian. Đây là thể loại tiêu biểu về
số lượng và chất lượng. Ca dao có hàng mấy chục vạn bài và vẫn đang được tiếp
tục sưu tầm. Với hình thức ngắn, gọn, có vần điệu, nó dễ nhớ, dễ thuộc dễ đi vào
quần chúng.
Ví dụ:
- Trời mưa trời gió đùng đùng
Bố con ông Nùng đi gánh phân trâu
Đem về trồng bí trồng bầu
Trồng ngô, trồng lúa, trồng rau, trồng cà.
- Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi?
2, Khái niệm ẩn dụ:
Ẩn dụ là phương thức tu từ được sử dụng rất phổ biến trong ngôn ngữ nói
chung, đặc biệt là trong ngôn ngữ nghệ thuật - các tác phẩm văn chương nói
riêng. Với bản chất giàu tính hình tượng và hàm súc, ẩn dụ làm cho ngôn ngữ
trong văn, thơ trở nên bóng bẩy, trau chuốt, chứa đựng nhiều tầng nghĩa tinh tế,
đẹp và gợi cảm hơn.
Ẩn dụ là một hình thái trong văn nói hay một cụm từ được dùng để thể

hiện một cụm từ khác có cùng hoặc gần sắc thái nghĩa. Lối ẩn dụ này được sử
dụng thường xuyên trong văn học, đặc biệt là thơ - một bài viết có ít từ vựng,
nơi mà cảm xúc và những ý tứ trong nó lại được dùng để liên tưởng đến những
vật hay đặc tính trong bài khác. Nó so sánh hai sự vật mà không dùng những
cụm từ hoặc từ 'như', 'như là','giống như'. Khác với lối so sánh, lối ẩn dụ đạt tới
một mức độ cao hơn. Thay vì yêu cầu chùng ta mô tả một sự vật, sự kiện một
cách thông thường, lối ẩn dụ yêu cầu ta mô tả một sự vật, sự kiện mà lại lấy hình
ảnh của sự vật sự kiện khác.
Trong công trình “Phong cách học và các phong cách chức năng Tiếng
Việt”, tác giả Hữu Đạt đã định nghĩa "Ẩn dụ là kiểu so sánh không nói thẳng
6


ra...thực chất của phép ẩn dụ chính là việc dùng tên gọi này để biểu hiện sự vật
khác dựa trên cơ chế tư duy và ngôn ngữ dân tộc". Ở đây, tác giả nhấn mạnh
việc đặt ẩn dụ trong mối tương quan chặt chẽ giữa ngôn ngữ với bối cảnh văn
hóa, truyền thống dân tộc.
Ví dụ:
- Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa
Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào.

7


CHƯƠNG 2: ẨN DỤ VỀ CON NGƯỜI TRONG CA DAO
Những mận, đào, lan, huệ, đào đông, liễu tây, cá nước, chim trời....là
những hình ảnh rất quen thuộc của làng quê Việt Nam, và ấy cũng chính là
những hình ảnh ẩn dụ - những biểu tượng - mộc mạc giản dị mà rất đỗi gần gũi,

thân thương cho những người lao động bình dân – những con người suốt ngày
"chân lấm tay bùn" nhưng tâm hồn thanh tao và có một đời sống tình cảm phong
phú, sâu nặng nghĩa tình. Ở những phần tiếp theo, tôi sẽ đi sâu phân tích những
ẩn dụ về con người – những ẩn dụ đã được khái quát hóa qua những biểu tượng,
hình ảnh tiêu biểu – trong ca dao để thấy rõ hơn nét đặc trưng văn hóa nông
nghiệp của Việt Nam.
1, Những hình ảnh ẩn dụ quen thuộc trong ca dao Việt Nam
a, Biểu tượng “Hoa”
Trong công trình Người phụ nữ qua những hình ảnh so sánh trong ca dao
Việt Nam của Lưu Thị Nụ (1992), tác giả đã đưa ra kết luận sau khi khảo sát
3506 lời ca dao là trong bốn hình ảnh thường được ví với người phụ nữ: "hoa",
"chim", "cây", "quả" thì "hoa" xuất hiện với tần số nhiều nhất.
Ví dụ:
Hoa thơm trồng dựa cành rào
Gió nam, gió chướng, gió nào cũng thơm.
Có thể nhận định rằng "hoa" là một biểu tượng nổi bật trong ca dao Việt
Nam, trong đó hoa nhài là một biểu tượng thẩm mĩ đặc biệt, nó gắn liền với
quan niệm thẩm mĩ – văn hóa của từng thời đại; bên cạnh đó chúng ta cũng bắt
gặp nhiều hình ảnh ẩn dụ tinh tế khác như hoa sen, hoa dâm bụt, hoa hồi, hoa
bèo, hoa cúc... Trong ca dao, hoa nhài thường được ví với nụ cười duyên dáng,
đáng yêu của người con gái:
Miệng em cười như cánh hoa nhài
Như nụ hoa quế như tai hoa hồng
Ước gì anh được làm chồng
Để em làm vợ, tơ hồng trời xe.
8


Nếu ở câu ca dao trên, hoa nhài chỉ xuất hiện với vẻ đẹp thuần túy bên
ngoài thì ở những câu ca dao sau đây, cùng với những ẩn dụ tinh tế, hoa nhài nổi

bật lên một "vẻ đẹp lâu bền, khó phai" bên trong; điều này cũng tựa như tâm hồn
của những cô thôn nữ chốn làng quê Việt.
Càng thắm lại càng mau phai
Thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu.
Trong thế giới tự nhiên cũng như trong ca dao dân gian, hoa nhài không
phải là loài hoa chiếm ngôi vị "nữ hoàng", đó không phải là loài hoa hương sắc
nhất, càng không phải loài hoa kiêu sa, đài các như hoa hồng thế nhưng trong
cái ngôi bậc "khiêm nhường" ấy của mình, hoa nhài lại càng khẳng định cái
"duyên ngầm" đáng yêu của mình:
- Hoa lí là chị hoa lài
Hoa lí có tài, hoa lài có duyên.
- Anh đừng tham bông quế, bỏ phế cái bông lài
Mai sau quế rụng, bông lài thơm xa...
Vẻ đẹp bình dị, hiền hòa của hoa nhài còn được ví von với vẻ đẹp của đôi
lứa xứng đôi:
Đôi ta lấm tấm hoa nhài
Chồng đây vợ đấy kém ai trên đời
Như vậy, trong tư duy của người dân lao động thời xưa, hoa nhài/ hoa lài
là một loài hoa đẹp, cao quý, thanh tao. Qua ý nghĩa của hoa nhài, chúng ta thấy
được quan niệm thẩm mĩ, văn hóa và đạo đức của nhân dân lao động. Đó là
truyền thống tốt đẹp của người dân Việt Nam: quý trọng thủy chung, tình nghĩa
sắt son, thích "cái nết đánh chết cái đẹp", "tốt gỗ hơn tốt nước sơn"; quý cái tình,
cái duyên bên trong hơn là những vẻ đẹp hào nhoáng, sáo rỗng, vô hồn. Bên
cạnh biểu tượng hoa nhài/ hoa lài tiêu biểu trong ca dao, chúng ta còn bắt gặp
nhiều hình ảnh ẩn dụ "hoa" khác như hoa cúc, hoa sen, hoa lan, hoa huệ... về
người dân lao động, những hình ảnh vốn rất quen thuộc, bình dị của nông thôn,
làng quê nhưng không hề thiếu sự tinh tế, thể hiện những nét đẹp dân dã cùng
9



phẩm chất tốt đẹp, nhân hậu của người dân lao động, chẳng hạn như trong các
câu ca dao sau:
- Hôm nay lan huệ sánh bày
Đào đông ướm hỏi liễu tây một lời
Lạ lùng ướm hỏi nhau chơi
Một mai cá nước chim trời gặp nhau.
- Hoa sen mọc bãi cát lầm
Tuy rằng lấm láp vẫn mầm hoa sen.
- Trên đời gì rẻ bằng bèo,
Chờ khi nước lụt, bèo trèo trên sen.
Trên đời gì đẹp bằng sen,
Quan yêu, dân chuộng, rã bèn cũng hư.
b, Biểu tượng “ Con vật”
Trong ca dao Việt Nam, có rất nhiều bài nói đến hình ảnh con cò. Có khi
là con cò lặn lội bờ ao, có khi là co cò bay lả bay la, có khi là con cò trắng bạch
như vôi, con cò bay bổng bay cao, con cò kì, con cò quăm... Không phải ngẫu
nhiên mà nhân dân lao động lại hay nhắc đến con cò như vậy. Như Vũ Ngọc
Phan từng nhận định trong Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam: Trong các loài
kiếm ăn ở đồng ruộng, chỉ có con cò thường gần nhiều người nông dân hơn cả.
Những lúc cày cuốc, cấy hái, người nông dân Việt Nam thường thấy trên đồng
lúa bát ngát, con cò đứng trên bờ ruộng rỉa lông rỉa cánh, ngắm nghía người
nông dân làm lụng.
Một đàn cò trắng bay tung
Đôi bên nam nữ, ta cùng hát lên!...
Hình ảnh con cò trắng "tuy ngày đêm lặn lội, nhưng nhiều lúc lại bay lên
mây xanh. Nó cũng vất vả, nhưng nó có vẻ trong trắng, thanh cao, có những lúc
nó vẫy vùng thoải mái, nó sống một cuộc đời mà người dân lao động nước ta
thời xưa hằng mong ước". Trong khi lao động vất vả, thấy đàn cò trắng cùng
nhau sum họp, người nông dân lại cất lên những câu ca dao trữ tình, thắm thiết.
Sự đoàn tụ của đàn cò là hình ảnh ẩn dụ cho niềm mong ước được gần gũi và

10


tâm tình với nhau của những người lao động chất phác, hiền lành. Trong con mắt
của người lao động thời xưa, con cò và những con chim đồng loại với nó như
con bồ nông, con hạc, con vạc có tình bạn thắm thiết với nhau, chúng túm tụm
sum họp với nhau đều có sự gần gũi với cảnh tình của người nông dân. Số phận
"con cò lặn lội bờ sông" cũng tựa như số phận những con người lao động ngày
đêm vất vả lao động để làm ra hạt thóc hạt gạo thế nhưng lại hẩm hiu, bèo bọt:
Con cò mày đi ăn đêm,
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao,
-Ông ơi ông vớt tôi nao,
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong,
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.
Những câu cao dao trên đều rất kín đáo, ý nhị, tác giả dân gian không hề
đả động gì đến con người và cũng không nhắc đến giá trị lao động của học
nhưng chúng ta đều ngầm hiểu cái "thân cò" ấy chính là than phận người nông
dân sớm nắng chiều mưa, đầu tắt mặt tối. Hình ảnh "con cò" không gì khác ấy
chính là hình ảnh những người nông dân Việt Nam muôn đời, những con người
cần cù, chăm chỉ, chất phác, kiên cường, luôn bền bỉ nhẫn nại cả trong lao động
sản xuất lẫn trong đấu tranh chống những thế lực đàn áp mình.
Ai làm cho bể kia đầy,
Cho ao kia cạn, cho gầy cò con.
Cái cò là cái cò con,
Mẹ đi xúc tép, để con ở nhà,
Mẹ đi một quãng đồng xa,
Mẹ sà chân xuống, phải mà con lươn,
Ông kia có chiếc thuyền nan,
Chở vào ao rậm, xem lươn bắt cò..

Ông kia chống gậy lò dò,
Con lươn tụt xuống, con cò bay lên...
11


Trong xã hội phong kiến Việt Nam, ngoài nghề nông, người dân còn làm
nghề buôn, nghề thủ công. Không kể người dân ở bất kỳ ngành nghề gì, bọn giai
cấp thống trị tham lam, độc ác, chúng không vơ vét, bóc lột tận xương những
người dân khốn khổ. Người dân lao động trong cái xã hội ấy bị rẻ rúm đến mức
chết cũng chẳng nguyên vẹn, toàn thây. Cái chết tang thương ấy có khi lại thành
trò, món béo bở cho bọn nanh độc.
Con cò chết rũ trên cây,
Bồ cu mở lịch xem ngày làm ma.
Cà cuống uống rượu la đà,
Bao nhiêu cóc nhái nhảy ra chia phần,
Chào mào thì đánh trống quân,
Chim chích mặc quần vác mõ đi rao...
Như vậy, qua những câu ca dao trên, chúng ta thấy rằng người dân lao
động thời xưa đã mượn hình ảnh con cò để nói về cuộc sống của chính mình,
dùng hình ảnh con cò để "gợi hứng, để tỏ sự mong muốn của mình, nói lên
những đức tính của mình, nông nỗi khổ cực của mình và cả những thói xấu của
mình nữa".
Con bống (hay cái bống, cá bống) cũng là hình ảnh tiêu biểu thường
xuyên xuất hiện trong ca dao Việt Nam. Theo Vũ Ngọc Phan, đối với người
Việt, nếu như con cò có thể là hình ảnh nói chung của người dân lao động, có
thể là nam hoặc nữ; thì cái bống hay con bống là biểu tượng đặc trưng cho người
thiếu nữ hay thiếu phụ. Nhà nghiên cứu quả là đúng đắn khi đưa ra nhận định
"nói chung đối với người nông dân, con cá bống có vẻ xinh xẻo, hiền lành, cho
nên mỗi khi nói đến cái Bống là người nông dân nước ta nói bằng một giọng
nâng niu.

Cái bống mặc xống ngang chân
Lấy chồng kẻ chợ cho gần xem voi
Trong ca dao Việt Nam, ngoài hình ảnh con cò, cái bống là những hình
ảnh tiêu biểu, chúng ta còn bắt gặp những hình ảnh của các con vật khác –
những hình ảnh ẩn dụ cho người dân lao động thời xưa như: con nhện, con tằm,
12


con tép, con tôm, con tép, con cua, con cóc,con gà, con rùa, con tò vò, con cá,
con chim, ong, bướm, loan phượng... Mượn những hình ảnh quen thuộc của làng
quê, người dân muốn gửi gắm vào trong những tôm tép, con tằm, con nhện.. ấy
những tâm tư, tình cảm của chính mình. Chẳng hạn như những câu ca dao như
sau:
- Thương thay thân phận con rùa
Trên đình đội hạc, dưới chùa đội bia.
- Xa xôi dịch lại cho gần,
Làm thân con nhện mấy lần vương tơ.
Chuồn chuồn mắc phải tơ vương,
Nào ai quấn quýt thì thương cho cùng.
c, Biểu tượng “Cây”
Hình ảnh trúc, mai là những hình ảnh quen thuộc của làng quê Việt và
cũng xuất hiện rất nhiều lần trong ca dao. Tác giả dân gian nhắc đến trúc, mai;
nhưng không phải để tả thực cây trúc cây mai, cũng không phải bàn chuyện trúc
mai phong cảnh, mà họ mượn mai, trúc để nói về con người. Trong ca dao, khi
trúc đứng một mình, thường đó là biểu tượng cho người con gái xinh đẹp, thướt
tha, duyên dáng:
Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh.
Hình ảnh trúc mai quấn quýt bên nhau chính là ẩn dụ cho tình cảm đôi lứa
thắm thiết, mặn nồng của người dân lao động:

Đêm qua nguyệt lặn về tây
Sự tình kẻ đấy, người đây còn dài...
Trúc với mai, mai về, trúc nhớ
Trúc trở về, mai nhớ trúc không?
Bây giờ kẻ Bắc người Đông
Kể sao cho xiết tấm lòng tương tư!
Như vậy, hình ảnh trúc, mai trong ca dao Việt Nam thường được dùng để
ví với đôi bạn trẻ, cho tình yêu lứa đôi. Mượn hình ảnh trúc, mai, người dân xưa
13


đã khéo léo nói lên tâm trạng của chính mình một cách tinh tế, ý nhị. Bên cạnh
hình ảnh cây trúc, cây mai, trong ca dao, ông bà ta còn lấy hình ảnh các loại cây,
trái, quả khác để tượng trưng cho người dân lao động như: quế, hương, mận,
đào, cây đa, cây tùng, cây xoan đào, cây liễu, chanh, cam, lê lựu, gừng, bòng,
cau trầu....
- Già thời bế cháu đỡ con,
Già đâu lại ước cau non trái mùa.
- Già nay ước những của chua
Cau non trái mùa già vẫn muốn ăn
Quý chi một nải chuối xanh
Nam bảy người giành cho mủ dính tay.
- Bao giờ cho chuối có cành,
Cho sung có nụ cho cành có hoa.
2, Một số hình ảnh ẩn dụ khác trong ca dao Việt Nam:
Trong ca dao, chúng ta còn bắt gặp rất nhiều hình ảnh quen thuộc của làng
quê Việt Nam được các tác giả dân gian sử dụng rất khéo và tinh tế để tượng
trưng cho người dân lao động, để gửi gắm những tâm tư, tình cảm thầm kín của
họ vào những câu ca dao mượt mà, đằm thắm, trữ tình. Đó có khi là hình ảnh
thuyền bến, bờ sông

- Đói lòng ăn nắm lá sung,
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng
Một thuyền một lái chẳng xong
Một chĩnh đôi gáo còn nong tay vào.
Có khi đó là hình ảnh của mây, núi, gió, trăng
Vì mây cho núi lên trời
Vì cơn gió thổi hoa cười với trăng
Vì chuôm cho cá bén đăng
Vì tình nên phải đi trăng về mờ
Có khi đó lại là những hình ảnh rất mộc mạc của hạt gạo, nước cà, bát sứ,
bát đàn, của gối chăn, gương lược
14


- Tiếc thay hột gạo trắng ngần
Đã vo nước đục lại vần than rơm
Tiếc thay hột gạo tám xoan
Thổi nồi đồng điếu lại chan nước cà.
- Trách người quân tử bạc tình
Có gương mà để bên mình biếng soi.

15


PHẦN 3: KẾT LUẬN
Trong ca dao chúng ta thường bắt gặp những hình ảnh quen thuộc của
làng quê Việt Nam nhưtrầu, cau, lan, huệ, trúc, mai, nhài... Tác giả dân gian
không mấy khi nói đến hình ảnh trúc mai, lan huệ để tả thực cây trúc, cây mai
mà ở đây mai, trúc... đã trở thành những biểu tượng thân thương nhằm thể hiện
con người – người lao động bình dân với những tình cảm tha thiết, chân thành,

mộc mạc mà rất đỗi ân tình. Ẩn dụ này trong ca dao Việt Nam cũng gắn liền với
những đặc trưng tiêu biểu của nền văn minh lúa nước. Những hình ảnh rất đỗi
quen thuộc và dung dị của làng quê Việt: những thuyền, bến, những cây đa, mái
đình, giếng nước;những con cò, cái bống, con trâu, con nghé, con cá, con tằm;
những hoa sen, hoa cúc, hoa hồi; những con ong, cánh bướm... đã bước ra từ
làng quê mộc mạc, đơn sơ đi vào những câu ca dao đằm thắm và trở thành
những hình ảnh ẩn dụ tinh tế - những biểu tượng trữ tình, gợi cảm – cho những
con người lao động chất phác, hiền lành mà chan chứa thương yêu, ân tình sâu
sắc. Họ đã mượn những hình ảnh gần gũi, quen thuộc để giãi bày, để tâm sự, để
gửi gắm và sẻ chia những tâm sự thầm kín trong lòng; tất cả những tình cảm ấy
đậm đà qua từng vần ca dao, nó da diết mà vẫn kín đáo, ý nhị; thể hiện rõ nét
văn hóa tinh tế trong đời sống tinh thần của người dân Việt.

16


PHẦN 4: TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bùi Mạnh Nhị (chủ biên), Văn học Việt Nam văn học dân gian những
tác phẩm chọn lọc (Tái bản lần thứ tư), NXB. Giáo dục, Hà Nội, 2004.
2. Bùi Mạnh Nhị (chủ biên), Văn học Việt Nam văn học dân gian những
công trình nghiên cứu (Tái bản lần thứ tư), NXB. Giáo dục, Hà Nội, 2003.
3. Đinh Trọng Lạc (chủ biên), Phong cách học tiếng Việt (Tái bản lần thứ
sáu), NXB. Giáo dục, Hà Nội, 2006.
4. Vũ Ngọc Phan, Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam (Tái bản lần thứ mười
lăm có sửa chữa và bổ sung), NXB. Văn học, Hà Nội, 2007.
5. Hoàng Kim Ngọc ( chủ biên), So sánh & ẩn dụ trong ca dao trữ tình
(dưới góc nhìn ngôn ngữ - văn hóa học), NXB. Lao động (2011).

17




×