Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

Xác định giá trị doanh nghiệp tại Công ty TNHH Hãng Kiểm toán AASC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.4 MB, 89 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI MỞ ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường, nhu cầu đánh giá và xác định giá trị đối với
loại hàng hóa này là một đòi hỏi hoàn toàn tự nhiên. Trong điều hành kinh tế vĩ
mô cũng như trong hoạt động quản trị kinh doanh luôn cần thiết thông tin về
GTDN. GTDN là mối quan tâm của các pháp nhân và thể nhân có lợi ích liên
quan, gắn bó trực tiếp đến GTDN được xuất phát chủ yếu từ các yêu cầu quản lý
và các giao dịch:
Định giá doanh nghiệp xuất phát từ yêu cầu của hoạt động mua bán, sáp
nhập, hợp nhất hoặc chia nhỏ doanh nghiệp. Đây là loại giao dịch diễn ra có tính
chất thường xuyên và phổ biến trong cơ chế thị trường, phản ánh nhu cầu về đầu
tư trực tiếp vào sản xuất kinh doanh, nhu cầu tài trợ cho sự tăng trưởng và phát
triển bằng các yếu tố bên ngoài, nhằm tăng cường khả năng tồn tại trong môi
trường tự do cạnh tranh. Để thực hiện các giao dịch đó, đòi hỏi phải có sự đánh
giá trên phạm vi rộng lớn các yếu tố tác động tới doanh nghiệp, trong đó GTDN
là một yếu tố có tính chất quyết định, là căn cứ trực tiếp để người ta thương
thuyết với nhau trong tiến trình giao dịch mua bán, sáp nhập, hợp nhất, chia nhỏ
doanh nghiệp.
GTDN là loại thông tin quan trọng để các nhà quản trị phân tích, đánh giá
trước khi ra các quyết định về kinh doanh và tài chính có liên quan đến doanh
nghiệp được đánh giá. Nội dung cơ bản của quản trị tài chính doanh nghiệp, xét
cho cùng là phải tăng được giá trị doanh nghiệp. GTDN là sự phản ánh năng lực
tổng hợp, khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy, căn cứ vào
đây các nhà QTKD có thể thấy được khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp
mình và các doanh nghiệp khác. Do vậy GTDN làm một căn cứ thích hợp, cơ sở
để đưa ra cac quyết định về kinh doanh, tài chính… một cách đúng đắn.
Trong cách nhìn của các nhà đầu tư, người cung cấp, thông tinh về GTDN


cho người ta một sự đánh giá tổng quát về uy tín kinh doanh, khả năng tài chính
và vị thế tín dụng để từ đó có cơ sở đưa ra các quyết định về đầu tư, tài trợ hoặc
tiếp tục cấp tín dụng cho doanh nghiệp.
2


GTDN là loại thông tin quan trọng trong quản lý kinh tế vĩ mô: Giá cả các
loại chứng khoán được quyết định bởi giá trị thực của doanh nghiệp có chứng
khoán được trao đổi mua bán trên thị trường. Vì vậy trên phương diện quản lý vĩ
mô, thông tin về GTDN là một căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định chính
sách, các tổ chức, các hiệp hội kinh doanh chứng khoán đánh giá tính ổn định
của thị trường, nhận dạng hiện tượng đầu cơ, thao túng thị trường, thâu tóm
quyền kiểm soát doanh nghiệp… để từ đó có thể đưa ra các chính sách điều tiết
phù hợp. Ngoài ra, trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế, xác định
GTDN còn là một bước đi quan trọng để cải cách các DNNN như: cổ phần hóa,
sáp nhấp, hợp nhất hay giao, bán và cho thuê.
Có thể nói, các hoạt động quản lý và những giao dịch kinh tế thông thường
trong cơ chế thị trường đã đặt ra những yêu cầu cần thiết phải xác định GTDN.
Đó có thể là những yêu cầu có tính chất tình huống, cũng có thể là đòi hỏi
thường nhật trong hoạt động SXKD. Chúng là mối quan tâm của 3 chủ thể: Nhà
nước, nhà đầu tư và nhà quản trị doanh nghiệp. Vì vậy định giá doanh nghiệp là
một đòi hỏi tất yêu đối với các quốc gia muốn xây dựng và phát triển kinh tế
theo cơ chế thị trường.

3


CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ
DOANH NGHIỆP
1.1/ Giá trị doanh nghiệp.

1.1.1/ Khái niệm giá trị doanh nghiệp.
Giá trị doanh nghiệp là sự biểu hiện bằng tiền về các khoản thu nhập mang lại
cho nhà đầu tư trong quá trình kinh doanh.
1.1.2/ Đặc điểm của giá trị doanh nghiệp.
Giống hàng hóa thông thường: Doanh nghiệp là đối tượng của giao dịch mua,
bán, sát nhập, chia nhỏ… Quá trình hình thành giá cả và giá trị đối với loại hàng
hóa đặc biệt này cũng chịu sự chi phối của các quy luật giá trị, quy luật cung
cầu, quy luật cạnh tranh…
Giống như Bất động sản: Mỗi doan nghiệp là một tài sản duy nhất. Mỗi doanh
nghiệp có quy mô và cơ cấu tài sản khác nhau, có vị trí và trụ sở kinh doanh
riêng biệt và độc lập, có cơ cấu quản trị và sự tác động của môi trường khác
nhau. Không có 2 doanh nghiệp giống nhau hoàn toàn. Việc so sánh giá trị của
doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác có tính chất tham chiếu.
Doanh nghiệp không chỉ đơn giản là tập hợp các tài sản vô tri vô giác, giá trị sử
dụng của chúng bị giảm dần theo thời gian. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế, là
một thực thể hoạt động, có thể hoàn chỉnh và phát triển trong tương lai. Sự phát
triển của doanh nghiệp phụ thuộc vào các mối quan hệ của doanh nghiệp với
môi trường. Vì vậy, đánh giá về giá trị doanh nghiệp đòi hỏi phải xem xét tất cả
các mối quan hệ bên trong và bên ngoài và đánh giá doanh nghiệp về mặt tổ
chức.
Nhà đầu tư sở hữu doanh nghiệp vì mục tiêu lợi nhuận. Các tài sản cố định, tài
sản lưu động, bộ máy kinh doanh là cách thức, là phương tiện để đạt mục tiêu
lợi nhuận. Tiêu chuẩn để nhà đầu tư đánh giá hiệu quả hoạt động, quyết định bỏ
vốn và đánh giá giá trị doanh nghiệp là các khoản thu nhập mà doanh nghiệp có
thể mang lại cho nhà đầu tư trong tương lai.
4


1.2/ Xác định giá trị doanh nghiệp.
1.2.1/ Nguyên tắc định giá doanh nghiệp.

Nguyên tắc:


Nguyên tắc sử dụng tốt nhất và hiệu quả nhất: Khi tính được giá trị của
doanh nghiệp thì giá trị của doanh nghiệp phải được thẩm định giá trên cơ
sở sử dụng hợp lý các nguồn lực của doanh nghiệp để tạo ra hiệu quả sử
dụng tốt nhất và cao nhất, chứ không dựa trên sự sử dụng hiện tại, nếu
như sự sử dụng hiện tại chưa phải là cao nhất và tốt nhất. Dự kiến trong
tương lai theo quan điểm tăng trưởng kỳ vọng và thời gian, rủi ro liên
quan và giá trị thời gian của đồng tiền. Thu nhập được chuyển hóa thành
giá trị bằng cách vốn hóa trực tiếp ròng hoặc phân tích theo dòng tiền
chiết khấu, hay phương pháp cổ tức, trong đó dòng tiền ước tính nhận
được trong tương lai được chuyển hóa thành giá trị hiện tại bằng cách áp
dụng tỷ suất chiết khấu.



Nguyên tắc đóng góp: Quá trình điều chỉnh để ước tính giá trị doanh
nghiệp phải dựa trên cơ sở có sự tham gia của những bộ phận hay yếu tố
hh́nh thành nên giá trị doanh nghiệp.

1.2.2/ Quy trình xác định giá trị doanh nghiệp.
Quy trình thẩm định giá doanh nghiệp gồm có 6 bước:
1.2.2.1/ Xác định vấn đề
Trong bước này cần chú ý các vấn đề sau:
-

Thiết lập mục đích thẩm định giá

-


Nhận dạng sơ bộ doanh nghiệp cần thẩm định giá: pháp lý, loại hình,
quy mô, địa điểm, các cơ sở, chi nhánh, tài sản, sản phẩm, thương
hiệu, thị trường,…

5

-

Xác định cơ sở giá trị của thẩm định giá

-

Xác dịnh tài liệu cần thiết cho việc thẩm định giá


1.2.2.2/ Lập kế hoạch thẩm định giá
- Việc lập kế hoạch thẩm định giá nhằm xác định rõ những bước công
việc phải làm và thời gian thực hiện từng bước công việc cũng như toàn bộ
thời gian cho việc thẩm định giá.
- Nội dung kế hoạch phải thể hiện những công việc cơ bản sau: Xác
định các yếu tố cung cầu thích hợp với chức năng, các đặc tính và các quyền
gắn liền với doanh nghiệp được mua bán và đặc điểm thị trường; Xác định
các tài liệu cần thu thập về thị trường, về doanh nghiệp, tài liệu so sánh; Xác
định và phát triển các nguồn tài liệu, đảm bảo nguồn tài liệu đáng tin cậy và
phải được kiểm chứng; Xây dựng tiến độ nghiên cứu, xác định trình tự thu
thập và phân tích dữ liệu, thời hạn cho phép của trình tự phải thực hiện; Lập
đề cương báo cáo kết quả thẩm định giá.
1.2.2.3/ Tìm hiểu doanh nghiệp và thu thập tài liệu
Trong bước này cần lưu ý:

- Khảo sát thực tế tại doanh nghiệp: kiểm kê tài sản, khảo sát tình hình sản
xuất kinh doanh thực tế của doanh nghiệp.
- Thu thập thông tin trước hết là các thông tin, tư liệu từ nội bộ doanh
nghiệp: tư liệu về tình hình sản xuất kinh doanh, các báo cáo tài chính - kế toán kiểm toán, hệ thống đơn vị sản xuất và đại lý, đặc điểm của đội ngũ quản lý điều
hành, nhân viên, công nhân,… Ngoài ra còn chú ý thu thập thông tin bên ngoài
doanh nghiệp đặc biệt là thị trường sản phẩm của doanh nghiệp, môi trường kinh
doanh, ngành kinh doanh, các đối thủ cạnh tranh, chủ trương của Nhà nước,…
Thẩm định viên cần tiến hành những bước cần thiết để bảo đảm rằng tất cả
nguồn dữ liệu làm căn cứ đều đáng tin cậy và phù hợp với việc thẩm định giá.
Việc thẩm định viên tiến hành các bước hợp lý để thẩm tra sự chính xác và hợp
lý của các nguồn tư liệu là thông lệ trên thị trường.
1.2.2.4/ Đánh giá các điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp:

6


Cần đánh giá các điểm mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp trên các mặt:
sản xuất kinh doanh, thiết bị công nghệ, tay nghề người lao động, bộ máy quản
lý và năng lực quản lý, vốn nợ, các chỉ tiêu tài chính, thị trường, môi trường
kinh doanh.
1.2.2.5/ Xác định phương pháp thẩm định giá, phân tích số liệu, tư liệu,
và ước tính giá trị doanh nghiệp.
Thẩm định viên về giá doanh nghiệp dựa vào ý kiến, kết quả công việc
của thẩm định viên khác hay các nhà chuyên môn khác là cần thiết khi thẩm
định giá doanh nghiệp. Một ví dụ thường thấy là dựa vào kết quả thẩm định giá
bất động sản để thẩm định giá các tài sản bất động sản thuộc sở hữu của doanh
nghiệp. Khi dựa vào ý kiến, kết quả của thẩm định viên khác hoặc các chuyên
gia khác, thẩm định viên về giá doanh nghiệp cần tiến hành các bước thẩm tra để
bảo đảm rằng những dịch vụ đó được thực hiện một cách chuyên nghiệp, các kết
luận hợp lý và đáng tin cậy.

1.2.2.6/ Phần chuẩn bị báo cáo và lập báo cáo thẩm định giá
Phần chuẩn bị báo cáo và lập báo cáo thẩm định giá doanh nghiệp tương tự
như các tài sản khác. Báo cáo kết quả thẩm định giá doanh nghiệp phải nêu rõ:
1.2.2.6.1/ Mục đích thẩm định giá
1.2.2.6.2/ Đối tượng thẩm định giá phải được mô tả rõ:
Cần phải nêu rõ đối tượng thẩm định giá là toàn bộ doanh nghiệp, lợi ích
doanh nghiệp hay một phần lợi ích doanh nghiệp, lợi ích đó thuộc về toàn bộ
doanh nghiệp hay nằm trong tài sản cá biệt do doanh nghiệp sở hữu. Mô tả
doanh nghiệp thẩm định giá, bao gồm những nội dung sau:
+
+

7

Loại hình tổ chức doanh nghiệp
Lịch sử doanh nghiệp

+

Triển vọng đối với nền kinh tế và của ngành

+

Sản phẩm, dịch vụ, thị trường và khách hàng.

+

Sự nhạy cảm đối với các yếu tố thời vụ hay chu kỳ

+


Sự cạnh tranh

+

Nhà cung cấp


+

Tài sản gồm tài sản hữu hình và vô hình

+

Nhân lực

+

Quản lý

+

Sở hữu

+

Triển vọng đối với doanh nghiệp

+


Những giao dịch quá khứ của các lợi ích sở hữu tương tự trong doanh
nghiệp.

1.2.2.6.3/ Phương pháp thẩm định giá
Các phương pháp thẩm định giá và lý do áp dụng các phương pháp này;
những tính toán và logic trong quá trình áp dụng một hay nhiều phương pháp
thẩm định giá; xuất phát của các biến số như các tỷ lệ chiết khấu, tỷ lệ vốn hoá
hay các yếu tố thẩm định khác; những lập luận khi tổng hợp những kết quả thẩm
định giá khác nhau để có kết quả giá trị duy nhất.
Những giả thiết và những điều kiện hạn chế khi thẩm định giá, những tiền
đề và giả thiết quan trọng đối với giá trị phải được nêu rõ.
Nếu có một khía cạnh nhất định của công việc thẩm định giá cần sụ vận
dụng so với những quy định của những tiêu chuẩn hay hướng dẩn mà sự vận
dụng đó xét thấy là cần thiết và thích hợp thì nội dung, những lý do vận dụng
cần được nêu rõ trong báo cáo.
1.2.2.6.7/ Phân tích tài chính:
+

Tóm lược bảng tổng kết tài sản và bản báo cáo thu nhập trong một
giai đoạn nhất định phù hợp với mục đích thẩm định giá và đặc điểm
của doanh nghiệp.

+

Những điều chỉnh đối với các dữ liệu tài chính gốc (nếu có).

+

Những giả thiết cơ bản để hình thành bảng cân đối tài sản và báo cáo
thu nhập.


+

Tình hình hoạt động tài chính của doanh nghiệp qua thời gian và so
sánh với các doanh nghiệp tương tự.

8


Thẩm định viên, người ký vào báo cáo cáo thẩm định giá chịu trách nhiệm

-

đối với những nội dung thực hiện trong báo cáo
1.2.3/ Các phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp.
Cùng với sự đa dạng về cách nhìn nhận, đánh giá GTDN ở các góc độ khác
nhau dẫn đến tồn tại nhiều phương pháp xác định GTDN.
1.2.3.1. Phương pháp giá trị tài sản thuần
a)Cơ sở lý luận
Phương pháp này dựa trên quan điểm : “giá trị của một DN được tính bằng
tổng giá thị trường của số tài sản mà DN hiện đang sử dụng vào SXKD”.
DN có hoạt động được là nhờ vào số vốn và tài sản hiện có trong DN, trong
quá trình hoạt động DN có thể phát triển số tài sản hoặc thâm hụt số tài sản của
mình
b) Phương pháp xác định
Trong số tài sản của DN trên Bảng cân đối kế toán, có những tài sản thuộc
sở hữu của DN nhưng có nhiều tài sản không thuộc quyền sở hữu của DN như
các khoản phải trả (công nhân viên, người bán, nhà nước...). Do vậy, khi xác
định GTDN ta phải loại bỏ các khoản này, có nghĩa là, ta phải xác định giá trị
tài sản thuần.

V0=Vt-Vn
Vo: Giá trị tài sản thuần thuộc về chủ sở hữu DN
Vt: Tổng giá trị tài sản mà DN sử dụng vào SXKD
Vn: Giá trị các khoản nợ
Do đó, theo cách này, người ta có thể :
1)

Xác định GTDN bằng cách dựa vào Bảng cân đối kế toán

Tổng tài sản

9




2) Xác định giá trị tài sản theo giá thị trường
Cách này có ưu điểm hơn vì:
-

Giá trị tài sản phản ánh trên sổ kế toán là giá gốc, có tính lịch sử nên có

thể đã bị thay đổi tại thời điểm xác định GTDN
-

Giá trị còn lại của TSCĐ phản ánh trên sổ kế toán cao hay thấp phụ thuộc

vào việc DN đang sử dụng phương pháp khấu hao nào, thời điểm mà DN xác
định nguyên giá và sự lựa chọn tuổi thọ kinh tế của TSCĐ. Vì vậy, giá trị TSCĐ
phản ánh trên sổ kế toán thường không phù hợp với giá thị trường tại thời điểm

xác định gía trị DN.
-

Đối với HTK (hàng hoá, vật tư, công cụ dụng cụ...) hoặc hàng đang dùng

trong sản xuất, một mặt phụ thuộc vào phương pháp tính giá hàng tồn kho, phụ
thuộc vào tiêu thức phân bổ chi phí khác nhau cho số hàng hoá dự trữ, mặt khác
chất lượng HTK tại thời điểm xác định GTDN có thể bị thay đổi do HTK đã để
lâu ngày kém, mất phẩm chất, không dùng được...
Để xác định giá trị tài sản theo giá thị trường, trước hết người ta loại ra
những tài sản không cần dùng(nếu vẫn có giá trị vẫn không tính vào tài sản của
DN CPH) và không có khả năng đáp ứng các yêu cầu của SXKD, sau đó tiến
hành đánh giá số tài sản còn lại trên nguyên tắc sử dụng giá thị trường để tính
cho từng tài sản hoặc từng tài sản cụ thể:
-

Đối với TSCĐ và lưu động là hiện vật thì đánh giá theo giá thị trường nếu

trên thị trường có bán những tài sản như vậy.
Nếu trên thị trường, không tồn tại loại TSCĐ đã cũ, đã qua sử dụng. Khi đó,
người ta xác định giá trị tài sản dựa theo công dụng hay khả năng phục vụ sản
xuất của tài sản để áp dụng một tỷ lệ khấu trừ trên giá trị của một TSCĐ mới.
-

Đối với những TSCĐ không còn tồn tại trên thị trường thì người ta áp

dụng một hệ số quy đổi so với các TSCĐ khác loại có tính năng tương đương.
-

Các tài sản bằng tiền được xác định bằng cách kiểm quỹ, đối chiếu số dư


trên tài khoản. Nếu là ngoại tệ sẽ được quy đổi về đồng nội tệ theo tỷ giá thị
trường tại thời điểm đánh giá. Vàng, bạc, kim đá quý... cũng được xác định
tương tự như vậy.
10


-

Các khoản phải thu: Do khả năng đòi nợ các khoản này ở nhiều mức độ

khác nhau nên bao giờ người ta cũng bắt đầu từ việc đối chiếu công nợ, xác
minh tính pháp lý, đánh giá độ tin cậy của từng khoản phải thu nhằm loại ra
những khoản mà DN không có khả năng đòi được hoặc khả năng đòi được là
thấp.
-

Đối với các khoản đầu tư ra bên ngoài DN : Về mặt nguyên tắc phải thực

hiện đánh giá một cách toàn diện về giá trị đối với các DN hiện đang sử dụng
khoản đầu tư đó. Tuy nhiên, nếu các khoản đầu tư này không lớn, người ta
thường trực tiếp dựa vào giá thị trường của chúng dưới hình thức chứng khoán
hoặc căn cứ vào số liệu của bên đối tác liên doanh để xác định theo cách thứ
nhất
-

Đối với các tài sản cho thuê và quyền thuê bất động sản : Tính theo chiết

khấu dòng thu nhập tương lai.
-


Các tài sản vô hình theo phương pháp này người ta chỉ thừa nhận giá trị

của các tài sản vô hình đã được xác định trên sổ kế toán và thường không tính
đến lợi thế thương mại của DN.
Ta có công thức sau:
Các khoản nợ

-

Phương pháp này có đặc điểm là:
-

Không coi DN là một thực thể, bỏ qua các giá trị về lợi thế DN, đánh giá

tài sản DN như một thực thể riêng rẽ, không có mối liên quan với nhau nên
không phản ánh được tầm nhìn chiến lược của DN, triển vọng sinh lời của DN.
-

Trong nhiều trường hợp, xác định giá trị tài sản thuần trở nên phức tạp do

một tập đoàn có nhiều chi nhánh lại có số lượng rất lớn các tài sản chi tiết. Do
vậy, chi phí đánh giá tốn kém và không chính xác do phụ thuộc vào thông số kỹ
thuật của tài sản mà các nhà kỹ thuật chuyên nghành đưa ra, vì vậy sai số đánh
giá có thể rất cao.
Tuy nhiên, phương pháp này lại phản ánh chính xác giá trị mà người chủ sở
hữu có được trong DN dựa trên giá thị trường của các tài sản, nó làm giá cơ sở
11



cho việc xác định giá bán DN. Phương pháp này rất phù hợp với những DN có
quy mô nhỏ.
1.2.3.2. Phương pháp hiện tại hoá các nguồn tài chính trong tương lai
Phương pháp này nhìn nhận xác định GTDN dưới góc độ đánh giá độ lớn
các khoản thu nhập mà DN có thể mang lại cho các nhà đầu tư trong tương lai.
t =n

Vo =

Ft

∑ (1 + i)t
t =1

Vo: GTDN
Ft: Thu nhập đem lại cho nhà đầu tư ở năm thứ t
i: tỷ suất hiện tại hoá (tỷ suất chiết khấu)
N: thời gian nhận được thu nhập (năm)
Phương pháp hiện tại hoá các nguồn tài chính tương lai bao gồm:
-

Phương pháp hiện tại hoá lợi nhuận

-

Phương pháp định giá chiết khấu

-

Phương pháp hiện tại hoá các dòng thu nhập của DN trong tương lai


1.2.3.3. Phương pháp định lượng Goodwill (lợi thế thương mại)
Phương pháp này xác định dựa trên giả định sau:
Một DN A ứng ra một lượng vốn là 100, thu về khoản lợi nhuận là 10 (
10% tỷ suất lợi nhuận trên vốn), DN B cũng ứng ra 100, thu về một khoản thu
nhập là 15 ( 15% tỷ suất lợi nhuận trên vốn).
Tại sao DN B cũng ứng ra một lượng vốn như vậy lại sinh ra một khoản lợi
nhuận cao hơn A, chỉ có thể giải thích được rằng vì B có vị trí kinh doanh thuận
lợi hơn, mạng lưới hàng hoá rộng hơn, chất lượng sản phẩm tốt hơn, trình độ
quản lý giỏi hơn,... Đó là những yếu tố vô hình, chúng hội tụ lại đã làm nên
khoản lợi nhuận vượt trội (5 đơn vị tiền tệ) so với DN A.
12


Nếu như 10% là tỷ suất lợi nhuận trung bình trên thị trường thì khoản lợi
nhuận 5 (5=15-10) là siêu lợi nhuận.
Như vậy, cơ sở xác định giá trị của tài sản vô hình là giá trị hiện tại của
khoản thu nhập do tài sản vô hình tạo ra. Tức là bằng gía trị hiện tại của các
khoản siêu lợi nhuận.
Vo = ANC + GW
Vo: GTDN
ANC: giá trị tài sản thuần
GW: giá trị tài sản vô hình (lợi thế thương mại)
GW =

n

Bt − r * At

∑ (1 + i)t

t =1

Bt: lợi nhuận năm t (t=1,n)
At: giá trị tài sản đưa vào kinh doanh
r: Tỉ suất lợi nhuận bình thường của tài sản đưa vào kinh doanh
r*At: lợi nhuận bình thường của tài sản năm t
Bt-r*At: siêu lợi nhuận ở năm t.
1.2.3.4. Phương pháp định giá dựa vào PER (Price Earning Ratio)
PER được xác định dựa trên các nhận định cơ bản :
-

Giá cả chứng khoán phụ thuộc vào cung cầu chứng khoán, đầu cơ,... Do

đó, giá cả chứng khoán thường không phản ánh đúng giá trị chứng khoán của
DN đã phát hành.
-

Thị trường chứng khoán hoàn hảo.

Khi đó:
PER=

Vo: giá trị của DN
P: lợi nhuận thuần hàng năm
13

Vo
P

=


1
i


i: tỷ suất hiện tại hoá
Lợi nhuận
dự kiến đạt được
Trong đó, PER là thông tin của những công ty lớn được công bố thường
xuyên trên thị trường và kể cả PER trung bình của các DN cùng một lĩnh vực
kinh doanh có chứng khoán đựơc giao dịch tại thị trường này. Vì vậy, người ta
phải sử dụng PER ở các kỳ trước.
1.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị doanh nghiệp.
Như vậy, qua trên ta đã có cái nhìn tổng quát về doanh nghiệp thông qua qua các
đặc điểm của nó. Tuy nhiên, để xác định được giá trị doanh nghiệp, người ta
phải quan tâm đến các yếu tố ảnh hưởng đến doanh nghiệp.
Giá trị doanh nghiệp được đo lường bằng khoản thu nhập mà doanh nghiệp
mang lại cho nhà đầu tư nhưng độ lớn của thu nhập đó là bao nhiêu thì nó lại
phụ thuộc rất lớn vào sự tồn tại của doanh nghiệp với các mối quan hệ bên trong
và bên ngoài của doanh nghiệp. Đó là các yếu tố vốn, tài sản, kỹ thuật, khả năng
thích ứng của nó với môi trường bên ngoài, các quan hệ hợp tác và các yếu tố
khách quan như các chính sách kinh tế, môi trường kinh doanh…
1.3.1 Nhân tố khách quan
Trước hết phải khẳng định GTDN chỉ được đánh giá trong một môi trường
kinh doanh nhất định. Môi trường kinh doanh được chia làm hai loại là môi
trường kinh doanh tổng quát và môi trường đặc thù.
1.3.1.1. Môi trường kinh doanh tổng quát
Môi trường kinh doanh tổng quát bao gồm: môi trường kinh tế, môi trường
chính trị, môi trường văn hoá - xã hội, môi trường tự nhiên, môi trường kỹ thuật
và môi trường dân số...

Môi trường kinh tế:

-

Môi trường mà DN tồn tại là một môi trường kinh tế cụ thể. DN chịu ảnh
hưởng của tốc độ phát triển kinh tế, mức độ ổn định của nền kinh tế, tốc độ lạm
phát, tỷ suất đầu tư, mức độ ổn định của đồng tiền, tỷ giá trên thị trường chứng
14


khoán,… Các yếu tố trên đều là những yếu tố khách quan nhưng nó lại có tác
động một cách không nhỏ đến sự hoạt động của DN. Một DN không thể hoạt
động tốt trong một môi trường mà lạm phát cao, tỷ suất đầu tư cao,…
Mỗi sự thay đổi nhỏ trong các yếu tố này bao giờ cũng ảnh hưởng tới sự
đánh giá về DN. Nền kinh tế với tốc độ phát triển cao chứng tỏ nhu cầu đầu tư
tiêu dùng cao, ngược lại, nền kinh tế với mức lạm phát cao, chứng tỏ sự bất ổn
định về tỷ giá đồng tiền là dấu hiệu chứng tỏ sự bất ổn về môi trường hoạt động
của DN. Do đó, mọi sự đánh giá về DN, trong đó có GTDN sẽ bị đảo lộn hoàn
toàn.
Môi trường chính trị:

-

Hoạt động SXKD chỉ có thể tồn tại và phát triển trong một môi trường có
sự ổn định về chính trị ở một mức độ nhất định. Những bất ổn trong xã hội (tệ
nạn xã hội, chiến tranh,…) là những yếu tố tác động rất lớn đến hoạt động
SXKD của DN. Các yếu tố của môi trường chính trị liên quan đến SXKD bao
gồm:
+) Tính đầy đủ, rõ ràng, chi tiết, đồng bộ của hệ thống luật pháp
+) Quan điểm của nhà nước đối với SXKD thông qua các văn bản pháp quy

như bảo vệ SXKD, bảo vệ nhà đầu tư, bảo vệ người tiêu dùng, đầu tư nước
ngoài, quan điểm phân biệt đối xử thực hiện trong luật thuế, luật cạnh tranh, luật
sở hữu trí tuệ...
+) Năng lực hành pháp của chính phủ và ý thức chấp hành pháp luật của
các công dân và các tổ chức sản xuất. Pháp luật đã được ban hành nhưng không
trở thành hiện thực, tệ nạn buôn lậu, trốn thuế, hàng giả, hàng nhái... là biểu hiện
của một môi trường chính trị gây bất lợi cho sản xuất.
+) Xu hướng, quan điểm trong quan hệ ngoại giao và hợp tác quốc tế của
chính phủ với các quốc gia khác trong tiến trình toàn cầu hoá và quan điểm cá
nhân của những người đứng đầu Chính phủ cũng tác động to lớn đến SXKD.
Nền kinh tế hiện nay là nền kinh tế có sự tham gia quản lý của Nhà nước.
Do đó, các chính sách kinh tế, các luật, các quan điểm kinh tế có ảnh hưởng trực
tiếp đến SXKD của DN. Môi trường kinh tế và môi trường chính trị đóng vai trò
15


như những điều kiện thiết yếu để DN có thể hoạt động. Vì vậy, khi đánh giá DN
bao giờ cũng phải xem xét các yếu tố này.
-

Môi trường Văn hoá - Xã hội
Mỗi DN tồn tại trong một môi trường văn hoá nhất định. Môi trường văn
hoá bao gồm những hệ tư tưởng của số đông cộng đồng về lối sống, đạo đức, tác
phong, quan niệm về chân, thiện, mỹ, quan niệm về nhân cách, văn minh xã hội,
thực hiện trong tập quán sản xuất và tiêu dùng.
Môi trường xã hội thể hiện ở số lượng và cơ cấu dân cư, giới tính, độ tuổi,
mật độ sự gia tăng dân số, thu nhập bình quân đầu người và hàng loạt các vấn đề
mới nảy sinh như ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt...
Thói quen tiêu dùng, tâm lý tiêu dùng, cơ cấu dân cư, mật độ dân số, thu
nhập bình quân đầu người,… ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô và cách thức

SXKD. SXKD chỉ có thể tồn tại khi mà nó đảm bảo các yêu cầu về Văn hoá Xã hội như đảm bảo không bị ô nhiễm môi trường, tài nguyên cạn kiệt,… DN ra
đời là để đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao trong đời sống vật chất và tinh
thần của cộng đồng nơi DN hoạt động. Chính vì thế đánh giá về DN không thể
bỏ qua những yếu tố, những đòi hỏi bức xúc của môi trường Văn hoá - Xã hội
trong hiện mà còn phải thực hiện dự báo được sự ảnh hưởng yếu tố này đến SXKD
của DN trong tương lai.

-

Môi trường kỹ thuật, công nghệ
Thời đại ngày nay là thời đại của công nghệ thông tin. Một loạt những phát
minh được ứng dụng trong thực tế gây ảnh hưởng trực tiếp, rõ rệt đến đời sống
hàng ngày của con người như hàng loạt các phát minh mới về công nghệ sinh
học: sinh sản vô tính, công nghệ máy tính,… Những phát minh này không chỉ
ảnh hưởng đễn các phương thức sản xuất kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp
mà còn ảnh hưởng đến nhu cầu sản phẩm và chất lượng sản phẩm trong DN.
Các sản phẩm sản xuất ra ngày càng đa dạng và phong phú, chứa đựng một hàm
lượng lớn tri thức. Đây là xu hướng tiến tới nền kinh tế tri thức trên toàn cầu.
Trên bình diện xã hội, đó là những bước tiến nhảy vọt của nền văn minh
nhân loại. Song trên giác độ DN, trong cơ chế thị trường, đó không chỉ là cơ hội
16


mà còn là thách thức đối với sự tồn tại của DN. Việc thiếu nhạy bén trong việc
áp dụng những thành tựu khoa học mới nhất có thể là nguyên nhân đưa DN đến
chỗ phá sản.
Chính vì thế, việc đánh giá DN phải xem xét chúng trong môi trường của
kỹ thuật công nghệ. Việc đánh giá phải chỉ ra mức độ tác động của môi trường
này đến SXKD và khả năng thích ứng của DN trước những bước phát triển mới
của khoa học công nghệ.

1.3.1.2. Môi trường đặc thù
Môi trường đặc thù là môi trường có tác động trực tiếp đến hoạt động sản
xuất kinh doanh của DN. Các yếu tố thuộc môi trường này có thể kiểm soát
được.
Thuộc môi trường đặc thù có các yếu tố về khách hàng, nhà cung cấp, các hãng
cạnh tranh và cơ quan Nhà nước.
Quan hệ doanh nghiệp với khách hàng



Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, sự đa dạng hoá các mặt hàng kinh
doanh dẫn đễn nhu cầu đa dạng về các sản phẩm dịch vụ đầu vào. Do đó, mối
quan hệ với khách hàng của DN cũng đa dạng. Yếu tố khách hàng là yếu tố
quyết định đến sự tồn tại và phát triển của DN. Khách hàng của DN có thể là các
cá nhân, các DN khác hoặc Nhà nước, họ có thể là khách hàng hiện tại nhưng
cũng có thể là khách hàng tương lai.
Để đánh giá về doanh nghiệp, người ta căn cứ vào mối quan hệ bền vững
của DN với khách hàng hay mức độ uy tín thể hiện ở thời gian hợp tác với khách
hàng, chất lượng khách hàng (thể hiện ở tiếng tăm của họ), số lượng của khách
hàng và khả năng phát triển mối quan hệ lâu dài với khách hàng. Tuy nhiên yếu
tố quan trọng nhất vẫn là thị phần hiện tại của doanh nghiệp, thị phần tương lai,
doanh số bán ra và tốc độ phát triển của chỉ tiêu này qua các thời kỳ kinh doanh
khác nhau của DN.

17


DN thường phải trông đợi sự cung cấp từ bên ngoài các hàng hoá, NVL,
các dịch vụ điện, nước, thông tin tư vấn... Tính ổn định của nguồn cung cấp đó
có ý nghĩa quan trọng đảm bảo cho sản xuất và tiêu thụ được thực hiện theo yêu

cầu mà DN đã định ra. Do tính khan hiếm của NVL nhiều khi DN cũng gặp phải
những khó khăn nếu như không có sự cung cấp kịp thời và không có NVL thay
thế. Vì vậy, để đánh giá sự ổn định trong hoạt động kinh doanh của DN ta phải
quan tâm đến khả năng đáp ứng nhu cầu của DN, mối quan hệ của DN với các
nhà cung cấp.
Các hãng cạnh tranh.



Cạnh tranh là hoạt động tranh đua nhằm giành giật những điều kiện sản
xuất và kinh doanh có lợi nhất giữa các DN cùng sản xuất và kinh doanh cùng
loại mặt hàng hoặc những mặt hàng có thể thay thế được cho nhau.
Cạnh tranh được thể hiện dưới ba hình thức:
-

Cạnh tranh về giá cả

-

Cạnh tranh về chất lượng

-

Cạnh tranh về dịch vụ bảo hành, sửa chữa (hậu thương mại)

Được sự ủng hộ từ phía nhà nước, hầu hết các lĩnh vực kinh tế, mức độ
cạnh tranh giữa các DN trên thị trường trong nước và quốc tế ngày càng trở nên
quyết liệt hơn. Sự quyết liệt trong cạnh tranh được coi là mối nguy cơ trực tiếp
đến sự tồn tại của DN. Do đó, đánh gía năng lực cạnh tranh, ngoài việc xem xét
trên 3 tiêu chuẩn trên còn phải xác định được số lượng DN tham gia cạnh tranh,

năng lực thực sự và thế mạnh của họ là gì. Đồng thời phải chỉ ra được những
yếu tố và mầm mống có thể làm xuất hiện các đối thủ mới. Có như thế mới kết
luận được sự đúng đắn về vị thế và khả năng cạnh tranh của DN trên thị trường.
Các cơ quan nhà nước



Trong cơ chế thị trường, DN tuy được chủ động trong hoạt động SXKD,
tuy nhiên nhưng sự hoạt động của DN luôn phải được đặt dưới sự kiểm tra giám
sát của cơ quan nhà nước như cơ quan thuế, thanh tra, các tổ chức công đoàn…
18


Các tổ chức này có trách nhiệm kiểm tra giám sát đảm bảo cho hoạt động của
DN không vượt ra khỏi những quy ước của xã hội bằng các luật thuế, môi
trường, luật cạnh tranh, luật công đoàn,...
DN có mối quan hệ tốt đẹp với các tổ chức đó thường là DN thực hiện tốt
nhiệm vụ đối với xã hội như nộp thuế đầy đủ, đúng hạn, chấp hành tốt luật lao
động, quan tâm giải quyết vấn đề môi trường sinh thái... Đó cũng là biểu hiện
của những DN có tiềm lực tài chính vững mạnh, lợi nhuận thu được không phải
bằng cách buôn lậu, trốn thuế, làm hàng hoá giả... Vì vậy, xác định sự tác động
của yếu tố môi trường đặc thù đến SXKD còn cần phải xem xét chất lượng và
thực trạng của mối quan hệ giữa DN với các tổ chức đó trong những khoản thời
gian xác định.
1.3.2/ Nhân tố chủ quan
1.3.2.1/ Hiện trạng về tài sản trong doanh nghiệp
Tài sản trong DN là toàn bộ tài sản hữu hình và vô hình nằm trong danh
mục bảng cân đối kế toán tại thời điểm đánh giá. Đây là một quan niệm cần
thiết để phân biệt nó với lợi thế thương mại.
Số lượng và cơ cấu các loại tài sản thường có sự khác nhau giữa các DN

ngay cả khi chúng ở trong cùng ngành SXKD. Khi xác định GTDN, bao giờ
người ta cũng quan tâm đến hiện trạng tài sản vì:
-

Tài sản DN là biểu hiện của yếu tố vật chất cần thiết, tối thiểu đối với quá

trình SXKD. Số lượng, chất lượng, trình độ kỹ thuật và tính đồng bộ của các loại
tài sản là yếu tố quyết định đến số lượng, chất lượng sản phẩm của DN. Tức là,
khả năng cạnh tranh của DN phụ thuộc trực tiếp vào yếu tố này.
-

Giá trị tài sản của DN được coi là một căn cứ và là một sự bảo đảm rõ

ràng nhất về GTDN. Vì thay cho việc dự báo các khoản thu nhập tiềm năng thì
người sở hữu có thể bán chúng bất cứ lúc nào để nhận được thu nhập từ tài sản
đó.
Do đó, trong thực tế, người ta thường vận dụng phương pháp có liên quan
trực tiếp đến việc xác định giá trị tài sản của DN.
19


1.3.2.2/ Vị trí kinh doanh
Vị trí kinh doanh có ý nghĩa quan trọng đối với SXKD. Vị trí kinh doanh
bao gồm các yếu tố như địa điểm, diện tích của DN và các chi nhánh của DN,
yếu tố địa hình, thời tiết, môi trường sinh thái, an ninh khu vực, thu nhập dân cư
trong vùng, tốc độ phát triển kinh tế và khả năng cung cấp các dịch vụ cho sản
xuất của khu vực đó.
DN hoạt động thương mại có vị trí thuận lợi là DN hoạt động ở khu vực
đông dân cư, trung tâm buôn bán, các đầu mối giao thông quan trọng. Với vị trí
thuận lợi, DN có thể giảm được chi phí vận chuyển, bảo quản, lưu kho, giao

dịch… đồng thời DN có những thuận lợi lớn để tiếp cận với nhu cầu, thị hiếu
của thị trường,… Bên cạnh đó, DN phải chịu những chi phí cao về thuê văn
phòng, thuê lao động, và có thể phải di chuyển trụ sở đi nơi khác do sự quy
hoạch của nhà nước.
Những thuận lợi và bất lợi cơ bản của yếu tố vị trí đối với SXKD là lý do
chủ yếu giải thích sự chênh lệch về giá cả đất đai, giá thuê nhà giữa các khu vực
với nhau. Và vì thế, khi nói về yếu tố lợi thế thương mại, người ta thường trước
hết đề cập đến yếu tố vị trí. Trong thực tế, do có sự khác nhau về vị trí kinh
doanh mà có sự chênh lệch rất lớn khi đánh giá về GTDN. Vì vậy, vị trí kinh
doanh cần được coi là một trong các yếu tố quan trọng hàng đầu khi đưa ra phân
tích, đánh giá GTDN.
1.3.2.3/ Uy tín kinh doanh
Uy tín kinh doanh của DN được thể hiện ở sự ổn định của khách hàng, ở sự
gia tăng nhanh chóng thị phần và doanh số bán.
Uy tín kinh doanh là sự đánh giá của khách hàng về sản phẩm của DN
nhưng nó lại được hình thành bởi nhiều yếu tố khác nhau từ bên trong DN như:
do chất lượng sản phẩm cao, do trình độ và năng lực quản trị kinh doanh giỏi, do
có nghệ thuật quảng cáo, do thái độ phục vụ tận tình của nhân viên...
Trong thực tế, có những DN trong nước có thể sản xuất những mặt hàng có
chất lượng không thua kém gì hàng nước ngoài nhưng không thể bán với giá cao
vì chưa gây được uy tín với khách hàng.
20


Như vậy, có thể thấy rằng, khi sản phẩm đã được đánh giá cao trong con
mắt của khách hàng thì uy tín đã trở thành một tài sản thực sự, chúng có giá, và
người ta gọi chúng là giá trị của nhãn mác hay thương hiệu. Trong nền kinh tế
thị trường, người ta có thể mua bán quyền dán nhãn mác các sản phẩm, quyền
dán nhãn mác có khi được đánh giá rất cao. Vì vậy, uy tín của DN được đông
đảo các nhà kinh tế thừa nhận là một yếu tố quan trọng hình thành nên GTDN.

1.3.2.4/ Trình độ kỹ thuật và tay nghề của người lao động
Một trong những yếu tố quyết định sự thắng lợi trong cạnh tranh là chất
lượng sản phẩm sản xuất ra phải được thị trường đánh giá cao. Chất lượng sản
phẩm DN một mặt phụ thuộc vào trình độ của máy móc thiết bị, một mặt phụ
thuộc vào trình độ kỹ thuật và tay nghề của nhân viên.
Trình độ kỹ thuật và sự lành nghề của người lao động không chỉ có ý nghĩa
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn có thể làm giảm chi
phí SXKD do việc sử dụng hợp lý NVL,... trong quá trình sản xuất, giảm được
chi phí đào tạo, bồi dưỡng từ đó góp phần nâng cao thu nhập cho DN.
Để đánh giá về trình độ kỹ thuật tay nghề của người lao động ta không chỉ
xem ở bằng cấp, bậc thợ, số lượng lao động đạt được các chuẩn mực đó mà quan
trọng hơn, trong điều kiện hiện nay, còn phải xem xét hàm lượng tri thức có
trong mỗi sản phẩm mà DN sản xuất. Khi đánh giá khả năng tồn tại và phát
triển, khả năng sáng tạo ra lợi nhuận của DN, cần thiết phải xem xét đến trình độ
kỹ thuật và tay nghề của người lao động, coi chúng như một yếu tố nội tại quyết
định đến GTDN.
1.3.2.5/ Năng lực quản trị kinh doanh
Một trong những yếu tố quyết định đến hoạt động SXKD, chất lượng sản
phẩm, khả năng cạnh tranh… là khả năng quản lý. Cách tổ chức tốt trong việc
sử dụng các nguồn lực sản xuất, tận dụng, nắm bắt các cơ hội nảy sinh, ứng phó
năng động với sự biến động của môi trường,… là những yếu tố quan trọng ảnh
hưởng đến khả năng tồn tại của DN trên thị trường. Do đó, năng lực quản trị
kinh doanh là một yếu tố quan trọng đặc biệt trong GTDN.
21


Năng lực quản trị kinh doanh của một DN cần được xem xét về khả năng
hoạch định chiến lược, chiến thuật, trình độ tổ chức bộ máy quản lý, năng lực
quản trị các yếu tố đầu vào và đầu ra của quá trình sản xuất, khả năng quản trị
nguồn nhân lực.

Năng lực quản trị kinh doanh là một yếu tố định tính nhiều hơn là yếu tố
định lượng. Vì vậy, khi đánh giá cần phải xem xét chúng dưới sự tác động của
môi trường. Ngoài ra, năng lực quản trị kinh doanh còn được thể hiện thông qua
các chỉ tiêu tài chính của DN. Do đó, thực hiện phân tích một cách toàn diện tình
hình tài chính trong những năm gần đây với thời điểm đánh giá cũng có thể rút
ra những kết luận quan trọng về năng lực quản trị và sự tác động của nó đến
GTDN.
Tóm lại,
-

GTDN bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài.

-

Các yếu tố đã phân tích trên có tác động lẫn nhau, chúng được xác định về

mặt định tính nhiều hơn định lượng. Thực hiện sự đánh giá về chúng, người ta
xây dựng các tiêu thức cơ bản rồi áp dụng phương pháp xếp hạng cho điểm. Tuy
nhiên, phương pháp này mang nặng tính chủ quan của người đánh giá, do đó để
hạn chế yếu điểm này, người ta đánh giá chúng bởi số đông, có thể là một hội
đồng. Mặc dù vậy, quyết định xếp hạng không phải lúc nào cũng đúng. Quyết
định khách quan cuối cùng là thị trường.
-

GTDN là khoản thu nhập mà DN có thể mang lại cho nhà đầu tư, người

mua DN không phải là mua lấy những tài sản, uy tín kinh doanh và trình độ
quản lý giỏi... mà là sự đánh đổi lấy các khoản thu nhập tiềm năng ở DN. Do đó,
ta phải nghiên cứu chúng để phân biệt các yếu tố tác động tới cấu thành DN và
làm cơ sở để xác định GTDN.


22


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VỀ XÁC ĐỊNH GIÁ TRỊ
DOANH NGHIỆP
2.1/ Cơ sở pháp lý trong hoạt động xác định giá trị doanh nghiệp
2.1.1 Các văn bản quy định của Nhà nước làm căn cứ xác định giá trị doanh
nghiệp
Doanh nghiệp trực tiếp làm công tác thẩm định giá doanh nghiệp phải được sự
cấp phép của Bộ Tài chính và những doanh nghiệp này phải tuân theo các quy
định của pháp luật trong các văn bản chung và riêng trong ngành mà doanh
nghiệp hoạt động được các cơ quan nhà nước ban hành như:
-

Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của Chính phủ về chuyển
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần;

-

Nghị định số 189/2013/NĐ-CP ngày 20/11/2013: Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 của chính phủ về
chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành Công ty cổ phần;

-

Nghị định số 116/2015/NĐ-CP ngày 11/11/2015: Sửa đổi, bổ sung một số
điều của Nghị định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/07/2011 của chính phủ về
chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành Công ty cổ phần;


-

Thông tư 127/2014/TT-BTC: Hướng dẫn xử lý tài chính và xác định giá trị
doanh nghiệp khi chuyển doanh nghiệp nhà nước 100% vốn nhà nước thành
Công ty Cổ phần;

2.1.2 Các hồ sơ tài liệu mà khách hàng cung cấp
-

Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp

-

Quyết định thành lập Hội đồng kiểm kê tài sản của khách hàng tại thời điểm
30/06/2016;

-

Báo cáo tài chính năm 2013, 2014, 2015 đã được kiểm toán và Báo cáo tài
chính 6 tháng đầu năm 2016 do phía khách hàng lập;

-

Hồ sơ kiểm kê, phân loại và xử lý tài chính;

-

Hồ sơ tài sản là Nhà cửa vật kiến trúc, Máy móc thiết bị, Phương tiện vận tải,
Thiết bị quản lý và các hồ sơ về đất đai;


Các biên bản đối chiếu công nợ phải thu, phải trả, Biên bản kiểm quỹ tiền
mặt, tiền gửi ngân hàng và các tài liệu kế toán liên quan khác;
23
-


-

Sổ sách kế toán và các tài liệu khác có liên quan.

2.2/ Quy trình xác định giá trị doanh nghiệp tại Công ty TNHH Hãng Kiểm
toán AASC
Một cuộc xác định GTDN bắt đầu khi trưởng phòng kiểm toán nhận được
thư yêu cầu xác định GTDN, người này sẽ thực hiện gửi thư trở lại cho khách
hàng, hẹn ngày cùng nhau ký kết hợp đồng kiểm toán. Đối với những đơn vị mà
BCTC đã được một cơ quan kiểm toán hợp pháp nào đó kiểm toán thì công việc
xác định GTDN còn lại của công ty sẽ đơn giản và gọn nhẹ hơn. Đối với trường
hợp này, KTV chỉ cần phân loại tài sản và nguồn vốn, sau đó loại trừ ra khỏi
GTDN những tài sản không nằm trong GTDN theo quy định. Trường hợp còn
lại, tức là đối với những DN chưa được kiểm toán BCTC, thì công ty phải vừa
thực hiện kiểm toán vừa phân loại để xác định GTDN.
Nhưng dù trong trường hợp nào đi nữa, KTV của AASC cũng tìm hiểu sơ
bộ về tình hình kinh doanh của đơn vị khách hàng trước khi đi vào kiểm toán cụ
thể.
Chẳng hạn, việc tìm hiểu khách hàng A của AASC được ghi trên giấy tờ
của KTV như sau:
Biểu 1: Tổng quan về doanh nghiệp
(Trích giấy tờ làm việc của kiểm toán viên)

Tổng quan về DN:

Giám đốc: Ông Hùng
Kế toán trưởng: Bà Bính
Công ty thành lập lần đầu tiên năm 1959, sau đó kinh doanh lại vào năm 1991
Công ty có 01 xí nghiệp (xí nghiệp 105) hạch toán phụ thuộc vào công ty
Công ty mở một chi nhánh ở thành phố Hồ Chí Minh nhưng không hoạt động.
Công ty có một cửa hàng bán lẻ hạch toán chung tại công ty
Diện tích: 45.000 m2
24


Nhà xưởng xây dựng : 1960
Cán bộ công nhân viên: 60 người
Hoạt động SXKD: hoạt động thương mại 95%, sản xuất 5%
Khách hàng: chủ yếu là khách hàng trong nước (mọi loại khách hàng),
nhập khẩu vật tư hàng hoá đến 31/12/2002 không còn công nợ với khách hàng.
Các giấy tờ mà KTV thu thập trước khi tiến hành xác định GTDN và ký kết
hợp đồng xác định GTDN là:
-

Quyết định của cấp có thẩm quyền về việc CPH công ty, DN.

-

Đăng ký thành lập DNNN, giấy phép kinh doanh, đăng ký thay đổi ngành

nghề kinh doanh.
-

Hợp đồng thuê đất


-

Biên bản thanh tra việc chấp hành pháp luật về thuế (nếu có).

-

Bảng cân đối kế toán, các chỉ tiêu ngoài bảng cân đối kế toán, kết quả

hoạt động SXKD quư, năm. tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước, báo cáo
lưu chuyển tiền tệ.
-

Một số chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình hoạt động của DN,...

Sau khi thực hiện tìm hiểu sơ bộ về khách hàng, KTV tiến hành xác định
GTDN.
KTV không phân biệt DNNN hoạt động trong lĩnh vực SXKD hay lĩnh vực
thương mại, tất cả các loại DN đều được xác định theo cùng một phương pháp
như nhau đó là phương pháp giá trị tài sản thuần.
Sau khi thực hiện tìm hiểu chung về khách hàng, KTV thực hiện điịnh giá
chi tiết từng tài sản trong quy mô và khoản mục được chọn.
1)Đối với TSCĐ
Kiểm kê toàn bộ tài sản hiện có tại DN, kể cả những tài sản đang cho thuê,
tài sản nhận giữ hộ, tài sản được tặng biếu, viện trợ, tài sản vô chủ hiện có trong
khu vực quản lỹ của DN. Đối với công trình XDCBDD hoàn thành, bàn giao
đưa vào sử dụng thì được kiểm kê như tài sản cùng loại.
Khi thực hiện kiểm toán, KTV thực hiện:
25



×