Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

ANH (CHỊ) hãy nêu NHỮNG THÁCH THỨC của môi TRƯỜNG VIỆT NAM và THẾ GIỚI các BIỆN PHÁP QUẢN lý NHÀ nước CHỦ yếu để GIẢM THIỂU NHỮNG THÁCH THỨC đó

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.69 KB, 25 trang )

Chương I
THÁCH THỨC CỦA MÔI TRƯỜNG
TOÀN CẦU VÀ VIỆT NAM
I. Những thách thức của môi trường toàn cầu
Có rất nhiều định nghĩa về môi trường. Theo “Luật Bảo vệ Môi trường
của Việt Nam”, thì : “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật
chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng
đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và thiên nhiên”.
Còn theo kinh tế học: “Môi trường là toàn bộ các vùng vật lý và sinh
học, các điều kiện vật chất - tự nhiên với tư cách là sản phẩm lâu dài của tạo
hóa, có trước con người, có tương tác lẫn nhau, và cùng tác động đến sự hình
thành, sinh tồn và phát triển của con người, cùng các hoạt động xã hội của họ.
Về cơ cấu, môi trường bao gồm sinh quyển (không khí, nước, đất đai, ánh
sáng...) và hệ sinh sống, mà giữa chúng có ảnh hưởng tương tác đến nhau, và
cùng ảnh hưởng đến cuộc sống của con người”...
Vậy nhưng, môi trường toàn cầu đang có chiều hướng ngày càng xấu đi
và có ảnh hưởng nhất định đến sự tồn vong của con người. Và con người đang
đứng trước những thách thức lớn về môi trường toàn cầu.
a) Ô nhiễm tầng khí quyển và hiệu ứng nhà kính
Khí thải công nghiệp, khí thải của các phương tiện giao thông có động
cơ, khí thoát ra từ các qúa trình sinh học đã là các nguồn chủ yếu gây ô nhiễm
môi trường không khí. Hàm lượng ngày càng tăng của các loại khí CO 2,
CH4, ... là loại khí thải do các ngành công nghiệp có sử dụng nhiên liệu hoá
thạch thải ra đã gây hiệu ứng nhà kính với hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả đó
được thể hiện ở hai dạng:
- Sự thay đổi khí hậu của quả đất dẫn đến sự mất cân bằng của hệ sinh
thái đã có ở đây.


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
- Mực nước biển dâng cao. Theo dự báo, đến giữa thế kỉ 21 nhiệt độ


không khí bình quân trên trái đất sẽ tăng thêm từ 1,5 - 4,5oC và mực nước biển
trên toàn cầu sẽ dâng cao thêm từ 0,25 - 1,4m.
Theo thống kê của Liên Hiệp Quốc, hiện có tới 50% dân số thành thị
trên thế giới sống trong môi trường không khí có mức khí SO2 vượt quá tiêu
chuẩn và hơn 1 tỉ người đang sống trong môi trường có bụi than, bụi phấn
vượt quá tiêu chuẩn cho phép. Những năm gần đây, lượng khí thải ngày càng
tăng lên (trong vòng 20 năm tới sẽ tăng gấp 15 lần so với hiện nay). Sự ô
nhiễm không khí có thể trực tiếp giết chết hoặc hủy hoại sức khỏe các sinh vật
sống, gây ra “hiệu ứng nhà kính” và các trận mưa a xít không biên giới làm
biến dạng và suy thoái môi trường, hủy diệt hệ sinh thái.
Ðồng thời, Hiện tượng El-nino, La- nina làm gia tăng mưa bão và hạn
hán nghiêm trọng cho một số vùng trên thế giới.
b) Vấn đề mưa a-xít
Mưa a-xít là là do SO2 và NOx do các ngành công nghiệp thải ra không
khí, sau đó kết hợp với nước, tạo thành các a-xít sulfuric và nitric. A-xít theo
nước mưa, tuyết, sương, rơi trở lại mặt đất. Mưa a-xít có thể tạo ra ô nhiễm
xuyên biên giới, khi di chuyển cùng gió và mây từ vùng này sang vùng khác.
Các hậu quả tiềm tàng của mưa a-xít bao gồm phá huỷ cây trồng, rừng và làm
giảm sản lượng nông nghiệp, ô nhiễm các dòng sông, các hồ ảnh hưởng đến
nuôi trồng thuỷ sản và các sinh vật khác, phá huỷ các công trình kiến trúc.
c) Ô nhiễm biển và đại dương
Ước tính đến năm 2000, tổng lượng chất phóng xạ có trong đại dương
sẽ tăng nhiều lần so với năm 1970, trong đó các chất thoát biến và chất phóng
xạ sẽ tăng lên 100 lần, chất triti (hidro siêu nặng) sẽ tăng 1000 lần.
Lượng dầu do đắm tàu, rò rỉ trong vận chuyển và phun ra từ giếng khai
thác vào các đại dương từ 5 - 10 triệu tấn/năm, số dầu do các xí nghiệp công
nghiệp thải từ 3 - 5 triệu tấn.

2



Tiểu luận môn Phân tích chính sách
Các hợp chất hữu cơ, kim loại nặng, các nguồn chất thải từ đất liền đã
gây ô nhiễm ngày càng nghiêm trọng.
Biển Ðông cũng đang nằm trong tình trạng chung như các đại dương và
biển khác.
d) Thủng tầng ôzôn
Sự phá hoại tầng ôzon là nguy hại rất lớn đối với con người và thiên
nhiên.
Nguyên nhân của sự phá hoại tầng ôdôn là do sự sử dụng và thải chất
CFC, ngoài ra còn do các hợp chất oxy nitơ được tạo ra trong khí thải của máy
bay phản lực cỡ lớn và của các loại máy bay khi bay vào tầng cao làm phân
giải khí ôzon. Theo dự báo đến năm 2000 các máy bay cỡ lớn bay ở tầng bình
lưu sẽ tiêu hao hàng chục vạn tấn xăng dầu chúng sẽ thải ra một lượng lớn oxit
nitơ, có thể phá hoại 10% khí ôzon.
e) Ô nhiễm nguồn nước
Sự ô nhiễm các nguồn nước đang có nguy cơ gia tăng do thiếu biện
pháp xử lý cần thiết các loại rác thải sinh hoạt và công nghiệp; do các hóa chất
dùng trong nông nghiệp và các nguồn nhiễm xạ, nhiễm bẩn từ các nguyên vật
liệu khác dùng trong sản xuất; ô nhiễm do các loài thực vật nổi trên mặt nước
sinh sôi mạnh làm động vật biển chết hàng loạt do thiếu ô xy. Một vài loài
thực vật nổi còn có thể sinh ra độc tố nguy hiểm cho hệ động vật và cả con
người; ô nhiễm do khai thác đáy biển lấy dầu khí và các loại khoáng sản quí
hiếm khác; ô nhiễm còn do các chất thải trong thiên nhiên (ước tính mỗi năm
có hơn 60 vạn tấn chất thải từ không trung rơi xuống nhất là chất hydro các
bua từ khí quyển - gọi là mưa khí quyển).
Hiện nay, có từ 40-50% lưu lượng ổn định của các dòng sông trên quả
đất bị ô nhiễm. Độ ô nhiễm nguồn nước trên thế giới có thể tăng 10 lần trong
vòng 25 năm tới. Bên cạnh đó, theo ước tính của giới khoa học thì, ước tính có
khoảng 96,5% nước trên quả đất là nước mặn nằm trong các đại dương. Chỉ có

2,53% tổng lượng nước là nước ngọt có thể dùng được cho trồng trọt và sinh
3


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
hoạt của con người. Thế nhưng nhu cầu tiêu dùng nước sạch ngày càng tăng
nhanh do sự gia tăng dân số và yêu cầu phát triển sản xuất. Có thể nói, sau
nguy cơ về dầu mỏ, loài người đã, đang và sẽ phải đối mặt với nguy cơ phổ
biến là thiếu nguồn nước sạch cần thiết để duy trì và phát triển đời sống kinh
tế - xã hội của mình.
Hiện nay, ước tính có trên 1/2 quốc gia và khu vực trên thế giới đang bị
thiếu nước với các mức độ khác nhau, trong đó có khoảng 50 quốc gia thiếu
nước nghiêm trọng. Có tới 80% bệnh tật liên quan trực tiếp do nguồn nước bị
nhiễm bẩn, mỗi năm có 25 triệu trẻ em đã chết vì dùng nước không sạch.
g) Chuyển dịch ô nhiễm
Theo tài liệu về qui hoạch môi trường của LHQ, mỗi năm toàn cầu có
500 triệu tấn rác thải nguy hại, trong đó có 98% là của các nước phát triển.
Việc một số nước phát triển chuyển dịch công nghệ lạc hậu và các chất thải
dưới nhiều hình thức khác nhau sang các nước đang phát triển là một thực tế
cần được chú trọng.
h) Ô nhiễm đất
Trên toàn thế giới đang có xu hướng tăng hiện tượng đất bị ô nhiễm,
bởi: một là, do con người quá lạm dụng hoặc do tác động phụ của việc sử
dụng phân hóa học, thuốc trừ sâu, chất diệt cỏ và các chất kích thích sinh
trưởng khác. Mỗi năm, trên thế giới có hàng nghìn hóa chất mới được đưa vào
sử dụng trong khi con người vẫn chưa hiểu biết hết tác động phụ của chúng
đối với hệ sinh vật. Hai là, không xử lý đúng kỹ thuật các chất thải công
nghiệp và sinh hoạt khác của người và súc vật, hoặc các xác sinh vật chết gây
ra... Ô nhiễm đất làm giảm năng suất và chất lượng cây trồng, hủy diệt sự sống
một số sinh vật trong những khu vực ô nhiễm nặng, đồng thời còn đe dọa đến

sức khỏe con người thông qua vật nuôi, cây trồng, thậm chí gây ra những biến
dạng sinh thái và di truyền nặng nề cho hệ sinh sống.
Ngoài ra, vấn đề ô nhiễm tiếng ồn, ô nhiễm phóng xạ, bức xạ, sự mất ổn
định về khí hậu... đều gây hại trực tiếp và lâu dài đến sức khỏe và di truyền
4


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
của sinh vật, thực vật sống, trong đó có con người. Hậu quả sẽ thật khủng
khiếp và khó lường. Những tổn thất về con người và vật chất do môi trường
suy thoái gây ra đã và đang vượt quá tổn thất về người và của do các biến
động xã hội và từ chiến tranh.
Dự báo, những năm đầu thế kỷ này, số nạn nhân của môi trường sẽ lên
đến ít nhất 50 triệu người. Con người đang đứng trước sự cảnh báo mới : Trừ
chiến tranh hạt nhân, thì sự biến đổi của khí hậu sẽ là mối đe dọa lớn nhất với
sự tồn vong của loài người và tương lai của quả đất. Đó là những lời cảnh báo
để con người mau chóng có những hành động tích cực với môi trường, vì môi
trường và vì sự sống của chính mình.
II. Những thách thức đối với môi trường Việt Nam
Hiện trạng môi trường tiếp tục xuống cấp và các vấn đề môi trường toàn
cầu vừa nêu là những thách thức nghiêm trọng đối với môi trường Việt Nam.
- Phát triển kinh tế - xã hội: Theo dự kiến, tốc độ tăng trưởng GDP
phải đạt xấp xỉ 7%/năm và được duy trì liên tục đến 2010. Theo tính toán của
các chuyên gia nước ngoài, nếu GDP tăng gấp đôi thì nguy cơ ô nhiễm tăng
gấp 3 đến 5 lần.
Từ các mục tiêu của kịch bản tăng trưởng kinh tế nêu trên có thể thấy
nếu như trình độ công nghệ sản xuất, cơ cấu sản xuất và trình độ quản lý sản
xuất, quản lý môi trường không được cải tiến thì sự tăng trưởng sẽ kéo theo
tăng khai thác, tiêu thụ tài nguyên, năng lượng, dẫn đến khai thác cạn kiệt tài
nguyên thiên nhiên, tạo ra sự gia tăng các loại chất thải gây sức ép lên môi

trường. Tình trạng tài nguyên thiên bị cạn kiệt, chất lượng môi trường bị
xuống cấp cũng chính là những thách thức đặt ra đối với phát triển kinh tế- xã
hội.
- Sự tăng dân số và di dân tự do: Những thách thức về nhân khẩu của
nước ta là rất nghiêm trọng đối với tất cả các vấn đề môi trường và tài nguyên
thiên nhiên. Tăng dân số vẫn ở mức cao và di dân nội bộ từ các khu vực nghèo
tài nguyên thiên nhiên và kinh tế kém phát triển vẫn đang tăng lên, không
5


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
kiểm soát được. Trung bình trong 10 năm qua (1989 - 1999) tỷ lệ tăng trưởng
dân số là 1,7%. Với mức tăng trưởng như vậy thì theo các dự báo đến năm
2020 số dân nước ta sẽ xấp xỉ 100 triệu người, tức là phải bảo đảm cuộc sống
cho thêm gần 25 triệu người, tương ứng với một số dân nước ta trước năm
1945, trong khi tài nguyên đất, tài nguyên nước và các dạng tài nguyên khác
có xu thế suy giảm, vấn đề nghèo đói ở các vùng sâu vùng xa chưa được giải
quyết triệt để (hiện có 1750 xã ở diện đói nghèo). Tất cả những vấn đề trên là
những thách thức nghiêm trọng, gây ra sức ép to lớn đối với cả tài nguyên và
môi trường trên phạm vi toàn quốc.
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Quá trình này đòi hỏi các nhu cầu về
năng lượng, nguyên liệu ngày càng to lớn, kéo theo chất lượng môi trường
sống ngày càng xấu đi, nếu không có biện pháp hữu hiệu ngay từ đầu. Mặt
khác quá trình phát triển công nghiệp và đô thị hoá ở nhiều khu vực, vùng lãnh
thổ chưa quán triệt đầy đủ hoặc quán triệt chưa đúng quan điểm phát triển bền
vững, tức là chưa tính toán đầy đủ hoặc tính đúng các yếu tố môi trường trong
phát triển kinh tế - xã hội của nhiều ngành, địa phương.
- Nhận thức về môi trường và phát triển bền vững còn thấp: Kiến
thức và nhận thức về môi trường và phát triển bền vững chưa được nâng cao
cho các nhà ra quyết định, các nhà quản lý, các doanh nghiệp và cộng

đồng.Còn tồn tại nhiều quan điểm cực đoan về môi trường.
- Du lịch, thương mại và môi trường: Trong nền kinh tế thị trường có
tính đến các yếu tố môi trường và hòa nhập với du lịch, thương mại khu vực
và toàn cầu, nhất thiết phải xem xét việc thay đổi mẫu hình tiêu thụ, phát triển
các sản phẩm thân thiện môi trường, chuẩn bị cơ sở hạ tầng về giao thông vận
tải, năng lượng đồng thời với việc xem xét đồng bộ vấn đề môi trường xã hội,
văn hoá, bảo tồn thiên nhiên và đa dạng sinh học. Việc phát triển kinh tế phải
đi liền bảo vệ môi trường, điều chỉnh dân số, xóa đói giảm nghèo trong tất cả
các vũng lãnh thổ, các vùng sinh thái của đất nước. Ðâylà một thách thức
nghiêm trọng đối với nước ta.
6


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
- Năng lực quản lý môi trường bị hạn chế: Hiện trạng về công tác
quản lý môi trường đang có nhiều vấn đề chưa đáp ứng được yêu cầu của quản
lý Nhà nước về bảo vệ môi trường, hệ thống tổ chức quản lý hiện nay còn
nhiều bất cập về nhân lực, nguồn lực và trang bị kỹ thuật và các cơ chế phối
hợp có hiệu quả giữa các bộ/ ngành và địa phương; đầu tư cho công tác bảo vệ
môi trường còn quá ít và thiếu tập trung, hệ thống các chính sách, luật pháp
còn chưa đồng bộ, thiếu tính hệ thống, các chính sách công cụ kinh tế trong
quản lý môi trường còn ít được áp dụng.
Các chương trình giáo dục, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường chưa
được tiến hành rộng khắp, chưa phát huy được vai trò của các đoàn thể, các tổ
chức chính trị và xã hội, cũng như các phong trào quần chúng tham gia công
tác bảo vệ môi trường.
Các kiến thức phổ cập về môi trường chưa được đưa vào hệ thống giáo
dục ở các cấp học, bậc học.
Các thông tin về môi trường, về chính sách, pháp luật chưa được cung
cấp và phổ biến thường xuyên đến cộng đồng.

- Mẫu hình tiêu thụ: Phát triển kinh tế đang đem lại mức tăng thu nhập,
mức tăng này sẽ làm tăng mức tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ xa xỉ, đồng thời
cũng làm tăng thêm lượng chất thải lên môi trường. Mẫu hình tiêu thụ này là
không phù hợp, thói quen này sẽ tác động nghiêm trọng lên môi trường, đòi
hỏi phải có sự thay đổi từ nhận thức đến hành động thực tế.

Chương II

7


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
BIỆN PHÁP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỂ GIẢM THIỂU
CÁC THÁCH THỨC CỦA MÔI TRƯỜNG THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
I. Đối với môi trường toàn cầu
Ðứng trước những diễn biến xấu của môi trường toàn cầu, cộng đồng
quốc tế và khu vực đều cam kết phối hợp nỗ lực nhằm cải thiện môi trường vì
mục tiêu phát triển bên vững cho cả thế hệ hiện nay và các thế hệ sau này; cam
kết hỗ trợ các nước chậm phát triển giải quyết các vấn đề môi trường sinh thái.
Ðặc biệt, các tổ chức tài chính thế giới cũng khuyến khích các dự án đầu tư
theo hướng thân môi trường. Nếu có định hướng đúng và sớm tăng cường
năng lực tiếp thu thì nước ta có thể tranh thủ được các nguồn tài trợ quốc tế để
giải quyết các vấn đề môi trường bức xúc và bảo vệ lợi ích chính đáng của
quốc gia.
Chúng ta có thể rút ra những bài học quý giá, cả thành công lẫn không
thành công, của các nước khác để có thể lựa chọn lộ trình thích hợp nhất cho
quá trình phát triển của mình, để sao cho vừa đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng
kinh tế mà không phải trả giá cao về môi trường. So với nhiều nước, nước ta
vẫn còn có những lợi thế nhất định về môi trường và tài nguyên thiên nhiên.
Nếu các nguồn tài nguyên đó được sử dụng chuẩn mực và được bảo vệ đúng

quy cách, thì các nguồn tài nguyên này sẽ trở thành một lợi thế trong cạnh
tranh quốc tế, kể cả trước mắt lẫn lâu dài. Cho dù các kỹ năng quản lý môi
trường của nước ta còn bị hạn chế, nhưng những kinh nghiệm tích luỹ trong
những năm gần đây sẽ giúp chúng ta có khả năng xác định các định hướng và
lựa chọn đúng đắn hướng phát triển của mình trong thập kỷ tới đây.
II. Đối với môi trường Việt Nam
1. Các quan điểm và nguyên tắc chỉ đạo
Chỉ thị 36-CT/TW của Bộ Chính trị đã đưa ra những quan điểm, nguyên
tắc cơ bản, thể hiện đường lối, chủ trương về bảo vệ môi trường trong thời kỳ
8


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta: "Coi công tác bảo vệ môi trường là
sự nghiệp của toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân; là nội dung cơ bản không
thể tách rời trong đường lối, chủ trương và kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội của tất cả các cấp, các ngành; là cơ sở quan trọng bảo đảm phát triển bền
vững, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước".
Chính phủ cũng đã cam kết vận dụng các nguyên tắc và nội dung cơ bản
của Chương trình Nghị sự 21 vào điều kiện cụ thể của nước ta: "Coi phòng
ngừa và ngăn chặn ô nhiễm là nguyên tắc chủ đạo kết hợp với xử lý ô nhiễm,
cải thiện môi trường và bảo tồn thiên nhiên; kết hợp phát huy nội lực với tăng
cường hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường và phát triển bền vững".
Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Ðảng và cam kết của Chính phủ,
Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001 - 2010 phải được xây dựng dựa
trên những nguyên tắc cơ bản sau:
-

Mục tiêu và nội dung của chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia


không tách rời mục tiêu và nội dung của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội,
mà nó phải là một bộ phận cấu thành của Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội, được xây dựng theo hướng phát triển bền vững.
-

Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia phải dựa trên việc phân tích

hiện trạng và dự báo xu thế biến động môi trường của đất nước, trong bối cảnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Ðồng thời chiến lược bảo vệ môi trường quốc
gia phải phù hợp với nguồn lực của quốc gia, được xây dựng trên cơ sở tiếp
thu các bài học kinh nghiệm của các nước, thu hút được đầu tư của nước ngoài
và là cơ sở pháp lý cho việc xây dựng các kế hoạch môi trường quốc gia trung
hạn và ngắn hạn.
2. Các mục tiêu chiến lược
2.1. Mục tiêu tổng quát:

9


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
Không ngừng bảo vệ và cải thiện môi trường nhằm nâng cao chất lượng
cuộc sống và sức khoẻ của nhân dân, bảo đảm sự phát triển bền vững của đất
nước.
2.2. Mục tiêu chiến lược
Tiếp tục phòng ngừa ô nhiễm, tăng cường bảo tồn đa dạng sinh học, chú
trọng sử dụng hợp lý các tài nguyên thiên nhiên và cải thiện môi trường.
3.3. Các mục tiêu cụ thể
- Phòng ngừa ô nhiễm:
Tăng cường khả năng về quản lý, đầu tư, pháp luật cưỡng chế và các
giải pháp hỗ trợ phòng ngừa ô nhiễm môi trường nước, không khí, tiếng ồn, và

chất thải rắn độc hại; nâng cao nhận thức và kiến thức, cung cấp đầy đủ thông
tin về phòng ngừa ô nhiễm cho toàn cộng đồng.
Xây dựng quy hoạch phát triển bền vững cho các đô thị, khu công
nghiệp, nông thôn, các vùng sinh thái.
Áp dụng các công nghệ sạch, công nghệ thích hợp trong sản xuất và xử
lý ô nhiễm môi trường.
Ðảm bảo thực hiện được tiêu chuẩn về môi trường tiệm cận với tiêu
chuẩn của các nước tiên tiến trong khu vực.
- Bảo tồn và sử dụng bền vững nguồn tài nguyên thiên nhiên, đa
dạng sinh học:
Tăng cường khả năng về quản lý, đầu tư, pháp luật cưỡng chế và các
giải pháp hỗ trợ để thực hiện bảo tồn, phát triển và sử dụng bền vững đa dạng
sinh học của các hệ sinh thái: rừng, biển, trên cạn, dưới nước.
Bảo vệ, khôi phục và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên
nhiên hiện có như tài nguyên đất, rừng, nước, khoáng sản, năng lượng và tài
nguyên đa dạng sinh học, v.v... phục vụ sự nghiệp phát triển bền vững của đất
nước.

10


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
Bảo tồn các vùng có hệ sinh thái đặc thù để duy trì cân bằng sinh thái,
nâng tổng diện tích các khu bảo vệ đa dạng sinh học (công viên, vườn và khu
bảo tồn quốc gia) lên khoảng 2% diện tích tự nhiên của cả nước.
- Cải thiện môi trường:
Tăng cường khả năng về quản lý, đầu tư, pháp luật cưỡng chế và các
giải pháp hỗ trợ để tiến tới xử lý triệt để các cơ sở sản xuất có công nghệ lạc
hậu, gây ô nhiễm nghiêm trọng.
Tiến tới thu gom, xử lý về cơ bản chất thải rắn, chất thải công nghiệp,

chất thải bệnh viện và chất thải sinh hoạt ở các thành phố và khu dân cư đông
đúc.
Tăng cường phục hồi và trồng mới rừng tiến tới đạt mức độ che phủ
trên 40% diện tích cả nước vào năm 2010.
Hạn chế sử dụng các hoá chất độc hại như: phân bón hoá học, thuốc trừ
sâu, các chất bảo quản nông sản, thực phẩm, v.v....
Phấn đấu đến năm 2010 đảm bảo 90% dân số được dùng nước hợp vệ
sinh và các hệ thống vệ sinh đạt tiêu chuẩn môi trường, xử lý về cơ bản các
khu vực bị ô nhiễm, suy thoái môi trường nghiêm trọng do hậu quả của chiến
tranh để lại và do hoạt động sản xuất gây ra.
3. Các nội dung chủ yếu của chiến lược
3.1. Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước
Nước là nguồn tài nguyên vô cùng quan trọng đối với đời sống sản xuất
và sinh hoạt của con người, để bảo vệ và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên
này, trong chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia giai đoạn 2001-2010 cần
ban hành bổ sung các tiêu chuẩn và các quy định bảo vệ đối với các nguồn
nước ngầm, nước mặt, các lưu vực, các đập chắn nước, đưa chất lượng nước ở
các thuỷ vực lớn đạt tiêu chuẩn chất lượng nước đã ban hành, đảm bảo chất
lượng nước biển tại khu vực ven biển cửa sông đạt tiêu chuẩn cho phép.
Phấn đấu đến năm 2005 cải tạo được khoảng 40% các dòng sông, hệ
thống tiêu thoát nước, đặc biệt là các dòng sông đi qua các khu dân cư tập
11


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
trung, các khu công nghiệp và đô thị. Cả nước cần tập trung xử lý triệt để 90%
các nguồn gây ô nhiễm nước nghiêm trọng tại các khu công nghiệp, giải quyết
được các vấn đề về nước đối với các khu vực hoang mạc hoá.
Tổ chức đánh giá và kiểm soát được chất lượng, trữ lượng nước ngầm,
có kế hoạch khai thác và ban hành những quy định cụ thể về khai thác nguồn

này.
3.2. Bảo vệ môi trường đất và sử dụng bền vững tài nguyên đất
Hoàn thiện chiến lược, quy hoạch và các văn bản pháp quy quản lý tài
nguyên đất, bảo đảm việc quản lý và sử dụng đất trống có hiệu quả. Việc sử
dụng các hệ sinh thái, và địa lý đặc thù phải dựa trên cơ sở cân bằng sinh thái
và qui hoạch các khu bảo tồn.
Tăng cường các biện pháp quản lý, luật pháp và các biện pháp hỗ trợ để
giải quyết hài hoà các mâu thuẫn trong sử dụng đất với bảo vệ môi trường,
giữa khai thác khoáng sản với tài nguyên đất và các dạng tài nguyên khác.
3.3. Bảo tồn đa dạng sinh học
Các bộ, ngành và địa phương cần phối hợp tổ chức thực hiện tốt các nội
dung kế hoạch hành động quốc gia về đa dạng sinh học, đồng thời tiến hành
các chương trình bảo vệ, tăng cường tài trợ, quản lý các vườn quốc gia, công
viên biển, mở rộng các khu bảo vệ, phân cấp cho địa phương, các tổ chức
đoàn thể và cộng đồng quản lý những khu hệ bảo tồn đa dạng sinh học phù
hợp với năng lực của từng đơn vị.
Ðể bảo tồn đa dạng sinh học có hiệu quả cần nâng độ che phủ rừng lên
40% diện tích, trong đó khoảng 20-30% rừng đặc dụng(bảo vệ) và khoảng1020% rừng sản xuất. Phải coi tăng diện tích rừng như là một biện pháp hữu hiệu
cân bằng sinh thái tự nhiên giữa các hệ sinh thái và chất lượng môi trường.
Bảo vệ và sử dụng bền vững tài nguyên đa dạng sinh học các hệ sinh
thái rừng phải đồng bộ với việc bảo vệ các hệ sinh thái biển và xem đó là một
nội dung quan trọng của chiến lược này.

12


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
3.4. Bảo vệ môi trường không khí
Với chức năng và nhiệm vụ của mình, từng đơn vị sản xuất, kinh doanh
và các cơ quan quản lý phải kiểm soát chặt chẽ việc phát thải khí CO 2,

SO2,CO, ô nhiễm bụi do các hoạt động sản xuất công nghiệp, năng lượng, xây
dựng, nông nghiệp, giao thông vận tải nhanh chóng tạo điều kiện thực hiện
chính sách không sử dụng xăng pha chì để giảm bớt ô nhiễm không khí. Từng
bước phấn đấu để bảo đảm môi trường không khí ở nước ta được trong lành
theo các tiêu chuẩn tiếp cận mức trung bình của các nước ASEAN.
3.5. Bảo vệ môi trường đô thị và khu công nghiệp
Ðể duy trì chất lượng và cải thiện môi trường ở các đô thị và khu công
nghiệp lâu dài, cần xây dựng và ban hành chiến lược, quy hoạch và thể chế
hoá bằng các văn bản pháp quy: luật, nghị định, tiêu chuẩn, quy chế về quản lý
chất thải rắn, chất thải nguy hại. Phấn đấu đến năm 2010 tất cả các thành phố
loại I, loại II, các đô thị đông dân, khu công nghiệp phải có các bãi chôn lấp và
xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại theo đúng tiêu chuẩn. Thu gom và xử lý
90% chất thải rắn tại các đô thị và khu công nghiệp, thu gom và xử lý100%
chất thải công nghiệp, chất thải bệnh viện và quản lý 100% chất thải độc hại.
Ðảm bảo ít nhất 60% thành phố đạt tiêu chuẩn về quy hoạch không gian, cảnh
quan sinh thái.
Cần có cơ chế chính sách và biện pháp đồng bộ để xử lý triệt để đối với
các cơ sở sản xuất, kinh doanh, ....đang gây ô nhiễm nghiêm trọng về nước,
không khí, và tiếng ồn.
Bằng nhiều biện pháp để xây dựng hoàn thành cơ bản cải tạo, cải thiện
các hệ thống cấp nước, tiêu thoát nước, các cơ sở vệ sinh môi trường ở các
thành phố trực thuộc Trung ương, thành phố loại 2.
3.6. Bảo vệ môi trường nông thôn
Bảo vệ môi trường nông thôn không có nghĩa chỉ gìn giữ môi trường
trong sạch trong vùng mà còn cần có nhiều biện pháp để ngăn chặn ô nhiễm
có tính chất phòng ngừa đó là việc xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn về vệ
13


Tiểu luận môn Phân tích chính sách

sinh môi trường gắn với an toàn thực phẩm, tiến tới hạn chế về cơ bản và thay
thế sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật độc hại.
Thực hiện chính sách kế hoạch hoá gia đình để tạo điều kiện nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần đảm bảo không còn hộ đói nghèo ở nông thôn.
Phấn đấu đến năm 2010 đảm bảo 90% số hộ ở nông thôn được cung cấp nước
hợp vệ sinh, thu gom và xử lý được 90% chất thải sinh hoạt và xử lý về cơ bản
chất thải nguy hại, chất thải bệnh viện, các vùng nông thôn đều có cơ sở hạ
tầng đạt tiêu chuẩn môi trường.
3.7. Bảo vệ môi trường biển, ven biển và hải đảo
Cũng như chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vấn đề bảo
vệ môi trường biển, ven biển và hải đảo có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong
chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia. Bảo vệ môi trường biển, ven biển và
hải đảo bao gồm các nội dung và liên quan đến các lĩnh vực sau:
Chiến lược phát triển kinh tế biển phải được xây dựng theo quan điểm
sử dụng tổng hợp, hợp lý đi đôi với bảo vệ tài nguyên và môi trường biển và
ven bờ. Lĩnh vực này cần được các ngành khai thác dầu khí, giao thông vận
tải, thuỷ sản, lâm nghiệp, du lịch, .... thực hiện đầy đủ các yêu cầu bảo vệ môi
trường trong ngành và phối hợp với nhau cùng bảo vệ môi trường liên quan
đến biển, ven biển và hải đảo.
Chiến lược thực hiện các công ước và hiệp định quốc tế và khu vực liên
quan đến biển và đại dương và liên quan đến môi trường biển.
Chiến lược quản lý môi trường biển và ven biển với mục tiêu cơ bản là
tiến hành thành công xoá đói giảm nghèo và phát triển kinh tế một cách bền
vững tại vùng duyên hải thông qua các hoạt động quản lý và bảo vệ môi
trường trong vùng.
Chiến lược quản lý môi trường biển và ven biển bao gồm phân vùng
chức năng biển và ven biển, quản lý tổng hợp các hoạt động khai thác và nuôi
trồng thuỷ sản ven biển, thành lập hệ thống các khu bảo tồn biển và ven biển,
phát triển và cải thiện sinh kế cho những cộng đồng duyên hải, phòng ngừa và
14



Tiểu luận môn Phân tích chính sách
giảm thiểu tác hại của thiên tai ven biển, trước hết là bão, lụt, xói lở và nước
dâng đặc biệt là ở các tỉnh miền Trung và tăng cường năng lực quản lý môi
trường biển và ven biển.
Thực hiện nội dung bảo vệ môi trường biển, ven biển và hải đảo là một
nhiệm vụ cấp bách trong thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia.
3.8. Bảo vệ các vùng đất ngập nước
Ðất ngập nước là một hợp phần đặc biệt quan trọng của môi trường.
Bảo vệ các vùng đất ngập nước về lâu dài là nhằm quản lý việc sử dụng có
hiệu quả các vùng đất ngập nước, bảo vệ đa dạng sinh học trong vùng, đồng
thời duy trì các chức năng sinh thái, chức năng kinh tế - xã hội của những
vùng đất này.
Các hoạt động trước mắt nhằm bảo vệ môi trường trong vùng gồm:
- Chấm dứt việc sử dụng đất ngập nước một cách không bền vững, chỉ
chú trọng giá trị kinh tế, chuyển đổi mục đích sử dụng không hợp lý.
- Bảo tồn các giá trị đa dạng sinh học hiện còn của các vùng đất ngập
nước.
- Khôi phục các hệ sinh thái đất ngập nước ở các vùng nhạy cảm về môi
trường.
- Áp dụng các hệ canh tác nông-lâm-ngư nghiệp bền vững, bảo đảm sự
cân bằng giữa các chức năng sinh thái - kinh tế - xã hội của đất ngập nước.
3.9. Bảo vệ môi trường thiên nhiên và di sản văn hóa
Các di sản văn hoá, thiên nhiên của đất nước có vai trò đặc biệt đối với
công tác bảo vệ môi trường do tính độc đáo, đặc thù, quí hiếm, có một không
hai về các khía cạnh văn hoá và môi trường.
Nước ta có nhiều di sản văn hoá, thiên nhiên có tầm cỡ quốc tế và quốc
gia trong đó có những di sản đã được thế giới công nhận (Huế, Hạ Long, Hội
An, Mỹ Sơn) hoặc chuẩn bị công nhận (Phong Nha-Kẻ Bàng, ....).


15


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
Cần phải coi việc gìn giữ, bảo vệ và tôn tạo môi trường văn hoá, tự
nhiên cho di sản văn hoá, thiên nhiên của đất nước như một bộ phận quan
trọng của Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia.
Bộ phận này của Chiến lược phải tính toán đầy đủ đến việc bảo vệ đồng
bộ các loại môi trường văn hoá, nhân văn, lịch sử, sinh thái,... của từng di sản.
3.10. Sản xuất sạch hơn
Sản xuất sạch hơn là sự áp dụng liên tục một chiến lược phòng ngừa
tổng hợp về môi trường đối với qui trình công nghệ, các sản phẩm và dịch vụ
nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế, giảm thiểu các rủi ro có thể xảy ra, bảo đảm
sức khoẻ, an toàn và chất lượng môi trường.Ðể thực hiện sản xuất sạch hơn
cần xây dựng một chương trình có tính chất quốc gia, ban hành các chính sách
khuyến khích chuyển giao công nghệ sạch và tổ chức tiếp xúc trao đổi, thông
tin về sản xuất sạch hơn giữa các nhà doanh nghiệp, các chuyên gia trong
nước và Quốc tế về sản xuất sạch hơn và những người quản lý.
3.11. Bảo vệ môi trường gắn với phát triển kinh tế - xã hội vùng
Chiến lược bảo vệ môi trường tại các vùng và các lưu vực sông cần
được lồng ghép với các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội và phải phù hợp với
điều kiện tự nhiên và đặc điểm kinh tế- xã hội có tính đặc thù của mỗi vùng.
Nội dung lồng ghép chủ yếu là căn cứ vào hiện trạng môi trường vùng và
những thách thức về môi trường trong tương lai chịu sự tác động của các hoạt
động kinh tế trong vùng và các mục tiêu kinh tế - xã hội được đặt ra. Ðặc biệt
chú trọng đến mối quan hệ tương tác về mặt môi trường với các vùng xung
quanh (kể cả của nước ngoài nếu có); Năng lực giải quyết các vấn đề môi
trường của vùng. Nhận thức của nhân dân trong vùng và các tập tục văn hoámôi trường liên quan và nêu rõ các phương án tổ chức thực hiện chiến lược
vùng.

3.12. Bảo vệ môi trường gắn với phát triển các ngành kinh tế
Chiến lược Bảo vệ môi trường quốc gia 2001-2010 gắn với các ngành
kinh tế được lựa chọn phù hợp với cơ cấu kinh tế trong chiến lược phát triển
16


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
kinh tế - xã hội bao gồm các lĩnh vực: nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và
kinh tế nông thôn; công nghiệp, kết cấu hạ tầng và dịch vụ và được lồng ghép
hài hoà theo hướng "cùng phát triển".
Nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và kinh tế nông thôn được xác
định là một trọng điểm ưu tiên trong giai đoạn 2001-2010. Sự phát triển của
lĩnh vực này sẽ làm thay đổi cơ cấu của nền kinh tế và sẽ có tác dụng mạnh mẽ
đến môi trường theo hướng tích cực. Chiến lược bảo vệ môi trường phải được
lồng ghép trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của các ngành này theo
những nội dung chủ yếu sau:
- Qui hoạch môi trường gắn với qui hoạch ổn định các vùng sản xuất
lương thực, bảo đảm an ninh lương thực đồng thời bảo đảm gìn giữ môi
trường. Ðổi mới cơ cấu cây trồng trong nông nghiệp, bảo vệ, khôi phục và
phát triển tài nguyên rừng theo hướng là những tác nhân tích cực đối với hệ
sinh thái. Xây dựng nông thôn mới gắn liền với chiến lược vệ sinh môi trường
nông thôn nhằm nâng cao chất lượng sống và đổi mới phương thức sản xuất
nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp theo hưóng tiên tiến hiện đại ít gây ô
nhiễm môi trường.
- Công nghiệp được phát triển theo hướng đa dạng hoá sản phẩm với kỹ
thuật sản xuất tiên tiến hiện đại sẽ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của ngành
này, nhưng sẽ có 2 hướng tác động tích cực và tiêu cực đến môi trường. Ðể
giảm thiểu tác động tiêu cực và đẩy mạnh lợi thế tác động tích cực, chiến lược
bảo vệ môi trường cần gắn một số nội dung sau: Áp dụng công nghệ sản xuất
sạch, sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn tài nguyên thiên nhiên và qui

hoạch ngành công nghiệp đồng bộ với qui hoạch môi trường, đặc biệt chú
trọng các khâu khai thác, sử dụng nguyên nhiên liệu, xử lý chất thải công
nghiệp.
- Kết cấu hạ tầng là một lĩnh vực có nhiều tác động tích cực đến môi
trường, mạng lưới giao thông đường bộ, đường thủy không hợp lý sẽ là tác
nhân phá hủy hệ sinh thái hai bên đường, gây ô nhiễm môi trường nước mặt
17


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
trên sông, biển và ô nhiễm tiếng ồn trong các khu đô thị, dân cư, .... Chiến
lược môi trường cần được lồng ghép trong chiến lược kết cấu hạ tầng một số
nội dung chủ yếu sau: Qui hoạch mạng lưới giao thông đồng bộ với qui hoạch
các vùng sinh thái, khu bảo tồn thiên nhiên (trên đất liền và dưới biển), xây
dựng chính sách cung cấp nước sạch và xử lý nước thải và qui hoạch kết cấu
hạ tầng ở các khu công nghiệp, dân cư, .... gắn với qui hoạch xử lý chất thải
(rắn và lỏng).
- Dịch vụ là loại hình phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế
thị trường hiện đại, nhanh mang lại lợi nhuận cho nền kinh tế. Nhưng cũng
chính vì lợi nhuận và sự "nhanh nhậy" của cơ chế thị trường là những tác nhân
gây ô nhiễm môi trường nhanh nhất. Cần khai thác lợi thế trong ngành dịch vụ
như: du lịch sinh thái, đổi mới phong tục tập quán văn hóa, lễ hội, .... theo
hướng thân môi trường với những nội dung chủ yếu là: Tôn tạo cảnh quan
sinh thái gắn với lợi ích của ngành du lịch, xây dựng chính sách và qui chế
dịch vụ, thương mại liên quan đến vấn đề bảo vệ môi trường và duy trì và khôi
phục nếp sống văn hoá lành mạnh có lợi cho môi trường.
3.13. Nghiên cứu khoa học, công nghệ về môi trường
Cần tăng cường năng lực và đẩy nhanh tốc độ nghiên cứu khoa học
công nghệ về môi trường nhằm đặt nền móng vững chắc để phát triển ngành
môi trường, phục vụ một cách có hiệu quả các vấn đề về môi trường, đảm bảo

cho việc phát triển kinh tế - xã hội của nước ta được bền vững.
Nghiên cứu khoa học công nghệ còn nhằm tạo cơ sở để đánh giá chính
xác hiện trạng môi trường, đề xuất các giải pháp tối ưu để bảo vệ môi trường
cũng như phục vụ việc hoạch định các chính sách quản lý môi trường, đồng
thời áp dụng các công nghệ môi trường tiên tiến trong việc giải quyết các vấn
đề ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường.
Ðể công tác nghiên cứu khoa học công nghệ về môi trường thực sự có
hiệu quả cần xây dựng cơ sở nghiên cứu môi trường đủ khả năng đảm đương
nhiệm vụ nghiên cứu môi trường tầm quốc gia, tiến hành các chương trình
18


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
nghiên cứu các vấn đề bức xúc, trọng tâm, khuyến khích các nghiên cứu bảo
vệ môi trường.
4. Các biện pháp quản lý nhà nước trong thực thi chiến lược nhằm
giảm thiểu những thách thức của môi trường Việt Nam
4.1. Tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức về môi trường
Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của toàn xã hội, một trong những
biện pháp thực hiện tốt chiến lược là tăng cường giáo dục và nâng cao nhận
thức môi trường cho mọi người dân, cộng đồng, các doanh nghiệp, các nhà ra
quyết định, và các cán bộ của các cơ quan quản lý nhà nước các cấp. Chú
trọng đào tạo cán bộ cho cơ sở ở tỉnh, thành phố, quận, huyện và ở phường, xã
có các kiến thức, nhận thức môi trường ở địa phương, đào tạo và phát triển đội
ngũ chuyên gia môi trường phục vụ cho công tác quản lý nghiên cứu.
Tổ chức nâng cao nhận thức môi trường cho cộng đồng, tư nhân, doanh
nghiệp, các tổ chức chính trị, xã hội thông qua các biện pháp phổ biến kiến
thức pháp luật, tuyên truyền, phổ cập hoá nhận thức môi trường theo các
chương trình và thông tin môi trường như tivi, đài, báo hoặc mở lớp tập huấn
vv...và các phương tiện khác; Xây dựng mạng lưới phổ biến, nâng cao, đổi

mới nhận thức môi trường với sự tham gia của các đoàn thể, các tổ chức phi
chính phủ, các tuyên truyền viên môi trường, thí điểm chương trình cung cấp
thông tin về môi trường cho cộng đồng; Thực hiện xã hội hóa công tác bảo vệ
môi trường, như tổ chức quần chúng tham gia các phong trào Xanh-Sạch-Ðẹp,
VAC, VACR, cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường, gia đình văn hóa
mới,.....dưới các hình thức phù hợp đối với mọi lứa tuổi, giới tính, dân tộc.
Thông qua các phong trào để giáo dục các ý thức và đạo đức bảo vệ môi
trường.
Tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh đề án đưa các nội dung bảo vệ môi
trường vào hệ thống giáo dục quốc dân (Tất cả các cấp học, kể cả đại học và
sau đại học).

19


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
4. 2.Tăng cường vai trò của cộng đồng, doanh nghiệp, tư nhân trong
bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường là sự nghiệp của toàn dân. Việc thực hiện chiến lược
bảo vệ môi trường đương nhiên đòi hỏi sự tham gia của cộng đồng, của các
doanh nghiệp và tư nhân.
Các tổ chức cộng đồng ở cơ sở, các tổ chức chính trị - xã hội tham gia
thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường Quốc gia 2001-2010 trong các kế
hoạch, các chương trình và các phong trào quần chúng tham gia bảo vệ môi
trường.
Nhà nước thực hiện chính sách xã hội hoá bảo vệ môi trường bằng luật
pháp, các văn bản pháp lý, để huy động cộng đồng tham gia vào các hoạt động
quản lý môi trường các cấp, vào việc ra các quyết định liên quan của các cơ
quan nhà nước; tổ chức quản lý môi trường địa phương lồng ghép nội dung
bảo vệ môi trường vào các phong trào hiện có, tổ chức truyền thống, giáo dục

nâng cao nhận thức cho cộng đồng.
Các tư nhân, các doanh nghiệp thực hiện chiến lược bảo vệ môi trường
theo các qui định của pháp luật, các chính sách và kế hoạch của nhà nước như
đầu tư cải thiện môi trường, tổ chức sản xuất sạch hơn để thực hiện hệ thống
quản lý môi trường doanh nghiệp theo tiêu chuẩn 780/4001 hoà nhập vào thị
trường thương mại trong khu vực và quốc tế. Nhà nước có chính sách tư nhân
hoá dịch vụ môi trường.
4.3. Tăng cường và đa dạng hoá đầu tư bảo vệ môi trường
Ðầu tư là một trong những biện pháp quan trọng để thực hiện thành
công chiến lược bảo vệ môi trường. Ðầu tư bảo vệ môi trường phải được thực
hiện xã hội hoá, huy động mọi nguồn lực trong và ngoài nước và theo nguyên
tắc:"người gây ô nhiễm phải đầu tư". Hình thức xã hội hoá và nguyên tắc đầu
tư này phải được quán triệt sâu rộng trong tất cả các cấp lãnh đạo của Ðảng,
chính quyền và các nhà quản lý đến từng người dân sống trong cộng đồng.

20


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
Ðầu tư bảo vệ môi trường phải được đa dạng hoá về hình thức và nguồn
vốn nhằm huy động được mọi nguồn lực trong xã hội. Hình thức đầu tư bao
gồm đầu tư bằng trí lực, vật lực, ngày công lao động hữu ích và bằng tiền,.....
Trong đó toàn xã hội tham gia đầu tư bảo vệ môi trường dưới mọi hình thức
và chủ yếu đầu tư cho những chương trình, dự án,.... mang tính cộng đồng; các
đơn vị sản xuất kinh doanh đầu tư cho việc phòng ngừa ô nhiễm, xử lý sự cố,
cải tạo, bảo vệ môi trường trong phạm vi quản lý của đơn vị mình. Ngân sách
nhà nước đóng vai trò chủ đạo trong việc đầu tư để bảo vệ môi trường có tính
liên vùng, liên ngành và thực hiện các dự án quốc gia, quốc tế.
Nguồn vốn đầu tư bảo vệ môi trường được huy động từ ngân sách nhà
nước, từ các doanh nghiệp, các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành

phần kinh tế, từ nguồn viện trợ ODA, GEF và các tổ chức trong, ngoài nước
và trong cộng đồng dân cư.
Mức đầu tư bảo vệ môi trường phải được tăng cường theo nhịp độ tăng
trưởng của nền kinh tế, trước mắt trong giai đoạn 2001-2005 hàng năm toàn
xã hội cần đầu tư để bảo vệ môi trường không dưới 1% GDP, trong đó huy
động khoảng 2% tổng chi ngân sách của nhà nước. Các doanh nghiệp được
tính vốn đầu tư bảo vệ môi trường trong giá thành chi phí sản xuất để huy
động từ 1-2% tổng chi phí của doanh nghiệp, ngoài ra cần huy động trong
cộng đồng dân cư và từ các nguồn viện trợ khác để đầu tư bảo vệ môi trường
dưới mọi hình thức khác nhau.
Nhà nước qui định mức kinh phí mà các doanh nghiệp phải đầu tư cho
bảo vệ môi trường, xử lý chất thải và có chính sách khuyến khích doanh
nghiệp đổi mới công nghệ thân thiện môi trường. Tranh thủ kinh phí từ các dự
án Quốc tế song phương, đa phương cho bảo vệ môi trường.
Ban hành Nghị định về tăng cường và đa dạng các nguồn vốn bảo vệ
môi trường, trong đó dự kiến hàng năm tăng dần tổng chi ngân sách cho hoạt
động bảo vệ môi trường 10%, thành lập cơ chế tài chính như Quỹ Môi trường
Quốc gia, địa phương, ngành và ngân hàng môi trường.
21


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
Thành lập Quỹ Môi trường Quốc gia để huy động các nguồn lực của
Nhà nước, cộng đồng, của các tổ chức trong và ngoài nước và sự ủng hộ, tài
trợ của các tổ chức quốc tế để tập trung giải quyết các vấn đề môi trường bức
xúc ưu tiên. Quỹ môi trường là cơ chế tài chính để giải quyết những vấn đề bất
cập hiện nay về đầu tư cho công tác bảo vệ môi trường. Quỹ hỗ trợ đầu tư cho
việc phòng, chống, khắc phục suy thoái, ô nhiễm và sự cố môi trường; hỗ trợ
các dự án bảo vệ môi trường; hỗ trợ các dự án xử chất thải và đầu tư thay thế
công nghệ sạch. Quỹ Môi trường là tổ chức tài chính Nhà nước hoạt động trên

phạm cả nước, hoạt động theo điều lệ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt.
Quỹ môi trường được khai thác các nguồn kinh phí thu được từ việc áp dụng
các công cụ kinh tế như thuế, phí, quota chất thải, đặt cọc ký cược môi trường,
các công kinh tế này cần được nghiên cứu và triển khai một cách đồng bộ với
các giải pháp: hỗ trợ, khuyến khích, tăng cường năng lực cưỡng chế, tăng
cường trang thiết bị kỹ thuật kiểm tra giám sát, quan trắc môi trường, hoàn
thiện hệ thống tiêu chuẩn môi trường.
4.4. Tăng cường năng lực quản lý nhà nước về môi trường
Phát triển bền vững trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước và thực hiện chương trình hành động của thế kỷ 21, thế kỷ của chuẩn
mực về sinh thái nhân văn, của hội nhập khu vực và toàn cầu hoá trong thương
mại với môi trường. ...đòi hỏi phải kiện toàn tổ chức, tăng cường năng lực
quản lý nhà nước về bảo vệ môi trường.
Kiện toàn bộ máy tổ chức của hệ thống quản lý nhà nước về môi trường
từ trung ương đến địa phương, nâng cấp hệ thống cơ quan quản lý môi trường
trung ương thành lập Tổng cục Môi trường, hoặc Bộ Môi trường và kiện toàn
tổ chức quản lý môi trường ở các Bộ/ngành; kiện toàn tổ chức quản lý môi
trường ở cấp tỉnh, thành phố, quận huyện và các vùng kinh tế trọng điểm, các
khu công nghiệp tập trung, .v.v..
Tăng cưòng năng lực quản lý nhà nước về môi trường phù hợp với chức
năng, nhiệm vụ của hệ thống tổ chức như tăng cường nguồn lực về nhân lực
22


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
về đầu tư cho các hoạt động quản lý môi trường; chú trọng đầu tư cho nghiên
cứu chính sách và pháp luật, kiểm soát ô nhiễm và chất thải, thanh tra, hệ
thống quan trắc và phân tích môi trường, giáo dục và nâng cao nhận thức môi
trường, cũng như tăng cường các cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt động quản
lý Nhà nước về môi trường từ Trung ương đến địa phương.

Nghiên cứu thành lập một cơ chế quản lý liên ngành, có thể là một hội
đồng quốc gia về phát triển bền vững để điều phối thực hiện các mục tiêu, nội
dung các chương trình trong chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 20012010 cũng như thực hiện chương trình hành động của thế kỷ 21 mà Việt Nam
đã ký kết
4.5. Mở rộng hợp tác quốc tế và thu hút sự tài trợ của quốc tế
Môi trường quốc gia liên quan đến môi trường xuyên biên giới khu vực
và toàn cầu, vì vậy sự nghiệp bảo vệ môi trường của Việt nam cũng gắn với sự
nghiệp bảo vệ môi trường trong khu vực và trên toàn thế giới thông qua việc
thực hiện các Công ước quốc tế về môi trường, tham gia các chương trình, dự
án đa phương hoặc song phương về bảo vệ môi trường.
Phải tổ chức kiểm soát chặt chẽ bằng các biện pháp luật pháp, hành
chính nghiêm ngặt đi đôi với đối thoại, thương lượng trong việc vận dụng các
thoả thuận, các công ước, luật pháp quốc tế và thu hút tài trợ quốc tế như thu
hút sự trợ giúp của các nhà tài trợ, của nguồn ODA, của Quỹ môi trường toàn
cầu (GEF), của các hợp tác quốc tế đa phương, song phương.Phải tăng cường
cơ chế phối hợp thông qua việc thành lập Hội đồng các nhà tài trợ môi trường
có thành viên là đại diện của các tổ chức Quốc tế như chương trình phát triển
của Liên hợp quốc (UNDP), Ngân hành Thế giới (WB), Hiệp hội bảo vệ thiên
nhiên thế giới (IUCN),...
Hàng năm cần tổ chức diễn đàn các nhà tài trợ, tiến hành các hoạt động
trao đổi thông tin, thảo luận về các chủ đề có liên quan, các cơ chế hợp tác
giữa các bên liên quan, giữa các nhà tài trợ và giữa chính phủ với các nhà tài

23


Tiểu luận môn Phân tích chính sách
trợ để phối hợp các nguồn viện trợ cho các chương trình, dự án hợp tác về môi
trường.
Trên cơ sở chiến lược bảo vệ môi trường, cần xây dựng kế hoạch đầu tư

dài hạn, xác định các mục tiêu và danh mục các chương trình, dự án ODA và
dự án GEF để cân đối nguồn ngân sách quốc gia với hỗ trợ tài chính quốc tế.
Ðể sử dụng các nguồn tài chính quốc tế đó có hiệu quả, cần thiết phải tăng
cường năng lực các cơ quan đầu mối quốc gia, quốc tế về các chương trình, dự
án thu hút từ nguồn tài trợ quốc tế, nhất là các dự án được tài trợ từ nguồn vốn
ODA, GEF.
Ðối với nguồn vốn ODA cần nâng tỷ trọng viện trợ ODA cho môi
trường lên 2 lần so với tổng vốn viện trợ, đồng thời điều chỉnh cơ cấu ODA
cho môi trường, tập trung viện trợ nhiều hơn cho các dự án ưu tiên của chiến
lược, tăng cường năng lực cho các cơ quan quản lý môi trường ở TW, bộ/
ngành và địa phương; Chú trọng khai thác nguồn ODA theo cơ chế của Nghị
Ðịnh thư KYOTO trong lĩnh vực biến đổi khí hậu.
Cần nhiều biện pháp có hiệu quả nhằm tranh thủ tối đa các dự án GEF
để hoà nhập các mục tiêu môi trường quốc gia với mục tiêu môi trường toàn
cầu trong các lĩnh vực ưu tiên đã được lựa chọn. Ðể thu hút được nhiều dự án
từ nguồn GEF, nhà nước đầu tư phát triển năng lực cho tổ chức GEF- Việt
Nam, cơ quan điều phối quốc gia trong lĩnh vực huy động nguồn GEF ở nước
ta.
4.6. Kết hợp chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia với chiến lược
phát triển kinh tế xã hội
Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia 2001-2010 là một bộ phận của
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và là cơ sở để xây dựng chiến lươc bảo
vệ môi trường của các ngành, vùng và địa phương. Các chiến lược đó được
thực hiện trong 2 giai đoạn 5 năm: 2001-2005 và 2006-2010.
Giai đoạn 2001-2005 tập trung vào việc kết hợp giữa chiến lược kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội của tất cả các ngành, lĩnh vực nhằm xác định
24


Tiểu luận môn Phân tích chính sách

khuôn khổ thích hợp để giám sát, báo cáo và có tính trách nhiệm. Các hoạt
động và kế hoạch về bảo vệ môi trường sẽ được chuẩn bị để đưa vào kế hoạch
phát triển kinh tế - xã hội. Giai đoạn chính trong quá trình này là xây dựng và
thực hiện kế hoạch môi trường cho các vùng kinh tế và vùng đa dạng sinh học
được ưu tiên. Các chương trình kiểm soát sự ô nhiễm môi trường, xây dựng
năng lực và nâng cao kỹ năng quản lý môi trường.
Giai đoạn 2006-2010 tập trung thực hiện các dự án ngăn ngừa ô nhiễm
môi trường. Trong giai đoạn này phải xử lý triệt để, đóng cửa hoặc di chuyển
địa điểm các cở sở sản xuất đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng,
những cơ sở lạc hậu và không có khả năng đáp ứng được các tiêu chuẩn môi
trường; Thực hiện các dự án cải thiện môi trường dự án nhằm khôi phục và
nâng cao chất lượng môi trường.
Các mục tiêu và nội dung của Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia
2001-2010 được kế hoạch hoá trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội quốc
gia, các kế hoạch Ngành, địa phương và theo vùng kinh tế.
Bộ Kế hoạch và Ðầu tư và Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường có
trách nhiệm thiết lập nhóm công tác liên bộ để hoà nhập các kế hoạch hành
động của Chiến lược bảo vệ môi trường quốc gia trong kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội hàng năm, 5 năm và 10 năm chiến lược phát triển kinh tế xã
hội. Nhóm công tác này cần thực hiện ít nhất trong 2 năm, có nguồn ngân sách
riêng cho hoạt động của nhóm, thành phần nhóm gồm các nhà kinh tế môi
trường để giúp phân tích lợi ích chi phí của các chính sách phát triển chọn lọc.

25


×