Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ KINH tế CHÍNH TRỊ PHÁT TRIỂN KINH tế DU LỊCH gắn với bảo vệ CHỦ QUYỀN, AN NINH TRÊN BIỂN ở TỈNH QUẢNG NINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (517.91 KB, 99 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Bộ đội biên phịng

BĐBP

Khu cơng nghiệp

KCN

Kinh doanh du lịch

KDDL

Kinh tế du lịch

KTDL

Kinh tế - xã hội

KT - XH

Nguồn nhân lực

NNL

Quốc phòng - an ninh


QP-AN

Uỷ ban nhân dân

UBND

Xuất nhập cảnh

XNC


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1:

1.1.
1.2.

Chương 2:

2.1.
2.2.

Chương 3:

3.1.
3.2.

Trang
3

CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
GẮN VỚI BẢO VỆ CHỦ QUYỀN, AN NINH TRÊN
BIỂN Ở TỈNH QUẢNG NINH
Những vấn đề chung về kinh tế du lịch biển và bảo vệ chủ
quyền, an ninh trên biển
Quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến phát
triển kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh trên
biển ở tỉnh Quảng Ninh
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH
GẮN VỚI BẢO VỆ CHỦ QUYỀN, AN NINH TRÊN
BIỂN Ở TỈNH QUẢNG NINH
Thành tựu, hạn chế trong phát triển kinh tế du lịch gắn với
bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh
Nguyên nhân của thành tựu, hạn chế và những vấn đề đặt ra
cần giải quyết từ thực trạng phát triển kinh tế du lịch gắn
với bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU
LỊCH GẮN VỚI BẢO VỆ CHỦ QUYỀN, AN NINH
TRÊN BIỂN Ở TỈNH QUẢNG NINH THỜI GIAN TỚI
Quan điểm phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ
quyền, an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh
Giải pháp đẩy mạnh phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo
vệ chủ quyền, an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

11
11


18

34
34

52

64
64
70
90
91
95


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng – an ninh và quốc phòng – an
ninh với kinh tế - xã hội là yếu cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng, bảo
vệ Tổ quốc, là nội dung cơ bản, quan trọng trong đường lối cách mạng, là chủ
trương nhất quán, luôn được thể hiện thông qua các văn kiện, nghị quyết của
Đảng ta. Ngay từ Nghị quyết đại hội IX (2001), Đảng đã chỉ rõ: “Kết hợp chặt
chẽ kinh tế với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế
trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội” [16,
tr.11]. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (2011) tiếp tục nhấn mạnh: “Sự ổn định và phát triển bền vững mọi mặt
đời sống kinh tế - xã hội là nền tảng vững chắc của quốc phòng, an ninh. Phát
triển kinh tế - xã hội đi đơi với tăng cường sức mạnh quốc phịng, an ninh.
Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng, an ninh; quốc phòng, an ninh với

kinh tế trong từng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển kinh
tế - xã hội và trên từng địa bàn” [17, tr.82].
Kinh tế du lịch nói chung, KTDL biển nói riêng luôn được xác định là
ngành kinh tế mũi nhọn trong phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Trong mối
quan hệ giữa KT-XH với QP-AN đã được Đảng, Nhà nước ta xác định thì
việc kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế du lịch và bảo đảm quốc phòng,
bảo vệ chủ quyền, an ninh ở các địa phương có biển là nội dung quan trọng,
ln được quan tâm và trở thành vấn đề cấp thiết hàng đầu hiện nay.
Quảng Ninh là một tỉnh ven biển nằm ở phía Đơng Bắc đất nước, có lợi
thế và tiềm năng du lịch biển lớn, có địa hình đa dạng, phong phú, bờ biển
kéo dài, không gian du lịch phân bố rộng từ biển, đảo đến núi đá, xen kẽ với
nhiều địa bàn trọng điểm về QP-AN. Ngoài ra, với vị trí địa lý có ý nghĩa
quan trọng về mặt quốc phịng, vì là cửa ngõ thơng ra biển, lại nằm gần
đường hàng hải quốc tế nên việc phát triển KTDL gắn với bảo vệ chủ quyền,
an ninh trên biển là nhiệm vụ đặc biệt, vừa cấp bách, vừa lâu dài, quyết định
tương lai phát triển của Tỉnh.
Trong những năm qua, việc phát triển KTDL gắn với bảo vệ chủ quyền,
an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh đã góp phần quan trọng phát triển KT3


XH, củng cố QP-AN, đưa Quảng Ninh trở thành điểm đến hấp dẫn, an toàn
của đông đảo du khách trong nước, khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, bên cạnh
những thành tựu đạt được, vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, yếu kém cần giải
quyết, đó là: phát triển các loại hình, sản phẩm, thị trường du lịch có thời
điểm còn chưa gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển; chưa có chiến
lược gắn kết hai nhiệm vụ này một cách cụ thể ở địa phương; một số địa bàn
chiến lược có nguy cơ bị phá vỡ khu vực phịng thủ trên biển; tình hình vi
phạm pháp luật, vi phạm quy chế trên biển của các loại đối tượng lợi dụng
hoạt động du lịch để chống phá, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, chạy
theo lợi ích kinh tế đơn thuần cịn nhiều, dẫn tới nguy cơ đe dọa chủ quyền,

an ninh trên biển,.v.v.. Do đó, phát triển KTDL gắn với bảo vệ chủ quyền,
an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới đã và đang đặt ra
những vấn đề lý luận và thực tiễn cần phải được nghiên cứu và giải quyết.
Vì vậy, xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả lựa chọn đề tài:
“Phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển ở
tỉnh Quảng Ninh” làm luận văn tốt nghiệp cao học chun ngành kinh tế
chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Hiện nay đã có nhiều cơng trình khoa học được nghiên cứu liên
quan đến đề tài dưới các góc độ khác nhau, trong số đó tiêu biểu là:
* Nhóm cơng trình nghiên cứu khoa học về du lịch và phát triển
kinh tế du lịch
Trần Quốc Nhật (1995), Phát triển du lịch ở Bà Rịa - Vũng Tàu, Luận
văn thạc sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã đề cập và
làm rõ vai trò và xu hướng phát triển của du lịch, nghiên cứu tiềm năng và
thực trạng phát triển du lịch ở Bà Rịa - Vũng Tàu; đưa ra phương hướng và
những giải pháp lớn nhằm phát triển du lịch ở Bà Rịa - Vũng tàu.
Hoàng Đức Cường (1999), Phát triển kinh tế du lịch ở Nghệ An, Luận
văn thạc sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã tiếp cận
lý luận về kinh tế du lịch; đánh giá thực trạng phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh
Nghệ An; đồng thời đề ra phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế du lịch ở tỉnh Nghệ An.
4


Trần Ngọc Tư (2000), Phát triển kinh tế du lịch ở Vĩnh Phúc - tiềm năng
và giải pháp, Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Luận văn đã đề cập đến lý luận về kinh tế du lịch; tiềm năng phát triển kinh tế
du lịch và những giải pháp nhằm phát triển kinh tế du lịch ở Vĩnh Phúc.
Dương Vũ (2000), “Phát triển du lịch trong tầm nhìn mới”, Tạp chí

Cộng sản, số 20/2000. Bài viết đã hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn về du
lịch Việt Nam và đưa ra những ý tưởng ban đầu về cung đối với loại hình du
lịch mới; đồng thời, tập trung đánh giá thực trạng của du lịch Việt Nam với
những điểm mạnh, điểm yếu, tìm hiểu nguyên nhân để đưa ra các giải pháp và
kiến nghị nhằm phát triển du lịch nước ta trong tương lai.
Trần Xuân Cảnh (2001), “Bàn về thu hút vốn đầu tư phát triển ngành
du lịch tại Việt Nam”, Tạp chí phát triển kinh tế, số 123, tháng 01/2001. Bài
viết đã đưa ra những giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư phát triển ngành kinh
tế du lịch tại Việt Nam.
Tổng cục Du lịch Việt Nam (2001), Chủ trương và giải pháp đẩy mạnh
phát triển du lịch Miền Trung - Tây Nguyên, Đề án Quốc gia. Nội dung đề án
đã phác họa bức tranh về đặc điểm chung của các tỉnh Miền Trung - Tây
Ngun, chỉ rõ vị trí, vai trị của du lịch Miền Trung - Tây Nguyên; nêu ra
tiềm năng, lợi thế, các cơ sở, thực trạng, chủ trương và giải pháp phát triển
mạnh du lịch Miền Trung - Tây Nguyên.
Hồ Viết Chiến (2003), Kinh tế du lịch trong cơ cấu kinh tế của tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu hiện nay, Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh. Luận văn nghiên cứu làm rõ kinh tế du lịch trong cơ cấu kinh tế
của tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; đề xuất các giải pháp để kinh tế du lịch trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn trong cơ cấu kinh tế của địa phương.
Phạm Quang Hưng (2004), “Du lịch Việt Nam trong tiến trình hội nhập
kinh tế quốc tế”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 7. Tác giả đã nêu lên thực trạng
về du lịch và đề xuất những giải pháp lớn nhằm phát triển du lịch Việt Nam
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Trần Xuân Ảnh (2006), Thị trường du lịch ở Quảng Ninh, Luận văn
thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Luận văn tiếp cận

5



du lịch ở góc độ thị trường, các giải pháp chủ yếu nhằm mở rộng và phát triển
thị trường cung, cầu, quan hệ cung cầu và dịch vụ du lịch.
Lê Trọng Bình (2007), Một số giải pháp đột phá phát triển du lịch
vùng biển và ven biển Việt Nam, Tổng cục Du lịch Việt Nam. Tác giả chỉ
ra các lợi thế phát triển du lịch biển ở Việt Nam cũng như hiện trạng phát triển
du lịch vùng biển Việt Nam tập trung vào các nhân tố như thị trường khách du
lịch, thu nhập du lịch, sản phẩm du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật, lao động và
không gian du lịch, cơng tác quảng bá du lịch; qua đó, tác giả đưa ra một số
giải pháp phát triển du lịch biển Việt Nam.
Nguyễn Anh Tuấn (2009), Phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Khánh Hòa
hiện nay, Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị. Luận văn đã tiếp cận
lý luận về kinh tế du lịch; đánh giá thực trạng phát triển kinh tế du lịch, đồng
thời đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Khánh Hòa.
Trần Xuân Ảnh (2011), Thị trường du lịch Quảng Ninh trong hội nhập
kinh tế quốc tế, Luận án tiến sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ
Chí Minh. Tác giả đã nghiên cứu, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về thị trường
du lịch trong hội nhập kinh tế quốc tế, đánh giá thực trạng và đưa ra giải pháp
mở rộng thị trường du lịch Quảng Ninh trong thời gian tới.
Phạm Thị Dung (2015), Phát triển kinh tế du lịch biển ở Quận Đồ
Sơn, Thành phố Hải Phòng, Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị, Học viện
Chính trị. Tác giả đã làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận và thực tiễn
phát triển kinh tế du lịch biển ở quận Đồ Sơn, thành phố Hải Phòng;
Luận văn cho thấy vai trò và tầm quan trọng của việc thúc đẩy phát triển
kinh tế du lịch biển trong thời đại ngày nay.
Nguyễn Văn Vỹ (2016), Phát triển kinh tế du lịch trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế ở tỉnh Khánh Hịa, Luận văn thạc sỹ kinh tế chính trị,
Học viện Chính trị. Tác giả đã nghiên cứu, làm rõ lý luận, thực tiễn về phát
triển kinh tế du lịch ở tỉnh Khánh Hòa, đề xuất quan điểm cơ bản và giải pháp
chủ yếu đẩy mạnh phát triển kinh tế du lịch trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế ở tỉnh Khánh Hịa thời gian tới.

Nhìn chung, các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập tới
những lý luận chung nhất về du lịch và phát triển kinh tế du lịch, đưa ra
6


những giải pháp phát triển kinh tế du lịch cho từng địa phương và khẳng
định vai trò của phát triển kinh tế du lịch đối với sự phát triển chung của
kinh tế - xã hội đất nước.
* Nhóm cơng trình nghiên cứu khoa học về phát triển kinh tế du
lịch gắn với các hoạt động quốc phịng, an ninh
Nguyễn Đình Sơn (2003), Phát triển kinh tế du lịch và tác động của
nó tới quốc phịng - an ninh trên địa bàn tỉnh Hà Tây , Luận văn thạc sỹ,
Học viện Chính trị. Tác giả đã đề cập đến lý luận chung về kinh tế du lịch,
thực trạng phát triển kinh tế du lịch ở tỉnh Hà Tây; tác động của phát triển
kinh tế du lịch tới QP-AN trên địa bàn tỉnh Hà Tây; mục tiêu, phương
hướng và giải pháp chủ yếu để phát triển kinh tế du lịch gắn với củng cố
QP-AN trên địa bàn tỉnh Hà Tây.
Mai Văn Điệp (2006), Phát triển kinh tế du lịch biển và tác động
của nó đến củng cố quốc phịng trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa hiện nay ,
Luận văn thạc sỹ kinh tế, Học viện Chính trị. Luận văn phân tích tình hình
phát triển kinh tế du lịch biển của tỉnh Khánh Hịa trong thời gian gần đây, từ
đó khẳng định phát triển kinh tế du lịch biển ngày càng tác động mạnh mẽ đến
mọi mặt của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực quốc phịng; Luận văn chỉ
ra tính bức thiết trong giai đoạn hiện nay là cần phải nghiên cứu quá trình
phát triển của kinh tế du lịch biển và tác động của nói đến củng cố quốc
phịng trên địa bàn Tỉnh nói riêng và cả nước nói chung.
Nguyễn Đình Sơn (2006), “Phát triển du lịch bền vững quan hệ gắn bó
với quốc phịng - an ninh”, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 6/2006. Tác giả đã
đề cập sâu sắc mối quan hệ, tác động qua lại giữa phát triển du lịch bền vững
với quốc phòng - an ninh ở nước ta.

Nguyễn Đình Sơn (2007), Phát triển kinh tế du lịch ở vùng du lịch
Bắc Bộ và tác động của nó tới quốc phịng - an ninh, Luận án tiến sĩ kinh
tế chính trị, Học viện Chính trị. Luận án chỉ ra những vấn đề lý luận chung
và kinh nghiệm phát triển kinh tế du lịch kết hợp với củng cố QP-AN; thực
trạng phát triển KTDL ở vùng du lịch Bắc Bộ và tác động của nó tới quốc
phòng - an ninh; phương hướng, mục tiêu và giải pháp cơ bản để phát triển
KTDL ở Vùng du lịch Bắc Bộ kết hợp với tăng cường củng cố QP-AN.
7


Nguyễn Thị Minh Loan (2008), Tác động của hoạt động du lịch đối
với vấn đề giữ gìn trật tự an toàn xã hội ở Quảng Ninh, thực trạng và giải
pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, Học viện Cảnh sát nhân dân.
Tác giả đã phân tích làm rõ về hoạt động du lịch và mối quan hệ giữa hoạt
động du lịch với yêu cầu giữ gìn trật tự an toàn xã hội; phân tích sâu sắc
đặc điểm và thực trạng hoạt động du lịch ở tỉnh Quảng Ninh; làm rõ tác động
của hoạt động du lịch đến nhiệm vụ giữ gìn trật tự an toàn xã hội trên địa bàn
Tỉnh; trên cơ sở đó, tác giả dự báo tác động của hoạt động du lịch đối với trật
tự an toàn xã hội ở tỉnh Quảng Ninh trong thời gian tới và đưa ra một số giải
pháp góp phần ngăn chặn tác động tiêu cực của hoạt động du lịch đối với trật
tự an toàn xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
Nguyễn Văn Tự (2008), “Khánh Hòa gắn kết phát triển kinh tế - xã
hội với tăng cường quốc phòng - an ninh trong giai đoạn mới” , Tạp chí
Quốc phịng tồn dân, số 10. Tác giả đã phân tích, làm rõ nét nổi bật của
Khánh Hịa trong quá trình kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng
cường QP-AN; chỉ rõ thực chất của sự kết hợp và làm rõ thực trạng phát
triển kinh tế - xã hội gắn với tăng cường QP-AN; trên cơ sở đó, tác giả đã
đưa ra phương hướng nhằm đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội gắn với
tăng cường QP-AN ở Khánh Hòa trong thời gian tới.
Nguyễn Anh Tuấn (2015), Phát triển kinh tế du lịch gắn với tăng

cường quốc phòng an ninh ở tỉnh Khánh Hòa, Luận án tiến sĩ kinh tế chính
trị, Học viện Chính trị. Luận án trình bày những khái niệm cơ bản về kinh tế
du lịch và phát triển kinh tế du lịch, một số giải pháp gắn phát triển kinh tế du
lịch với tăng cường quốc phòng an ninh ở tỉnh Khánh Hịa.v.v..
Nhóm các cơng trình khoa học này đã nghiên cứu các mặt phát triển của
KTDL gắn với các hoạt động QP-AN, bước đầu thấy được vai trò, sự ảnh
hưởng, tác động qua lại giữa phát triển KTDL với QP-AN trong thời gian qua.
Tóm lại, mặc dù có thể chưa thống kê hết các cơng trình khoa học
đã cơng bố, nhưng các cơng trình mà tác giả được biết, cho đến nay chưa
có cơng trình nào nghiên cứu một cách toàn diện về “Phát triển kinh tế
du lịch gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh”
dưới góc độ kinh tế chính trị được cơng bố, nhất là từ khi Đảng bộ và nhân
8


dân tỉnh Quảng Ninh triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng
(2011) và Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lần thứ
XIV (2015). Vì vậy, đề tài tác giả lựa chọn khơng trùng lặp với các cơng
trình khoa học đã cơng bố khác.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế du lịch gắn với
bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển; trên cơ sở đó đề xuất quan điểm và giải
pháp để phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển
ở tỉnh Quảng Ninh, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững độc
lập chủ quyền, an ninh biển đảo của Tổ quốc.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về phát triển kinh tế du lịch
gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển dưới góc độ kinh tế chính trị.
- Đánh giá thực trạng và những nhân tố tác động đến phát triển kinh tế

du lịch gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh.
- Đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo vệ
chủ quyền, an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh thời gian tới.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển
* Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo
vệ chủ quyền, an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh trong quy hoạch, kế hoạch;
trong các cơ chế, chính sách phát triển; trong mở rộng các loại hình kinh tế du
lịch; trong tổ chức quản lý, điều hành, kiểm tra, giám sát.
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu phát triển kinh tế du lịch gắn với
bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh.
- Về thời gian: các số liệu từ năm 2011 đến năm 2016.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
9


Chí Minh, quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và Chỉ thị,
Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh về phát triển kinh tế du lịch biển; Nghị
quyết của Đảng bộ các cơ quan liên ngành trong tỉnh về bảo vệ chủ quyền, an
ninh trên biển gắn với phát triển kinh tế - xã hội.
* Cơ sở thực tiễn
Thực trạng phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh
trên biển và tác động của nó tới phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh
trong 6 năm (2011-2016); kế thừa một số kết quả nghiên cứu của những cơng
trình khoa học có liên quan đã được cơng bố và những kết quả khảo sát thực tế
của tác giả.

* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phân tích tổng hợp, logic - lịch sử, phương pháp thống kê, so sánh, khảo sát kinh
nghiệm thực tế và một số phương pháp khác.
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn góp phần bổ sung cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển kinh tế
du lịch gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh. Kết quả
nghiên cứu luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho Đảng bộ, chính quyền tỉnh
Quảng Ninh trong lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ
quyền, an ninh trên biển. Đồng thời, có thể làm tài liệu tham khảo cho các địa
phương khác ở nước ta trong phát triển kinh tế du lịch biển hiện nay.
7. Kết cấu của đề tài
Đề tài gồm phần mở đầu, 3 chương (6 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.

10


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN PHÁT TRIỂN KINH TẾ DU LỊCH GẮN VỚI BẢO VỆ
CHỦ QUYỀN, AN NINH TRÊN BIỂN Ở TỈNH QUẢNG NINH
1.1. Những vấn đề chung về kinh tế du lịch biển và bảo vệ chủ quyền,
an ninh trên biển
1.1.1. Kinh tế du lịch biển
* Quan niệm về kinh tế du lịch
Theo dòng lịch sử, hoạt động du lịch ban đầu chỉ mang tính chất cá nhân
nhỏ lẻ, dần dần nó trở nên phổ biến và đa dạng hơn về hình thức. Đi du lịch,
khơng chỉ dừng lại ở hình thức cá nhân mà tiến đến nhóm người, tập thể người.
Không gian du lịch đồng thời cũng được mở rộng ra không chỉ trong phạm vi
từng lãnh thổ mà giữa các lãnh thổ với nhau. Yêu cầu đối với việc tổ chức các
chuyến đi ngày càng phức tạp hơn, du khách cần có các tổ chức với tư cách là

trung gian trong chuyến đi của mình để thực hiện các hoạt động như bố trí
phương tiện đi lại, chỗ ăn nghỉ, hướng dẫn tham quan,.v.v.. Trước yêu cầu đó,
các tổ chức kinh doanh du lịch ra đời. Lúc này, hoạt động du lịch khơng cịn là
hiện tượng mang tính chất cá nhân, tự phát, đơn lẻ mà đã trở thành một hoạt
động kinh tế, mang tính chất kinh doanh.
Cùng với sự phát triển về KT - XH, các nhu cầu nghỉ ngơi, vui chơi, giải
trí, giao lưu văn hoá và mở mang kiến thức của con người ngày càng tăng. Kinh
tế càng phát triển, điều kiện vật chất của xã hội ngày càng được cải thiện, các
nhu cầu thiết yếu của cuộc sống dần được đáp ứng một cách đầy đủ hơn thì con
người lại càng có điều kiện để thoả mãn những nhu cầu tinh thần đó của mình.
Trong xã hội cơng nghiệp và sản xuất hàng hoá cạnh tranh cao, nhu cầu tái sản
xuất sức lao động địi hỏi khơng chỉ được thoả mãn về ăn, ở, mặc,.v.v. mà nhu
cầu về đời sống văn hoá, tinh thần cũng phát triển mạnh. Đây chính là động lực
thúc đẩy ngành kinh tế du lịch phát triển. Ngày nay, trong xu thế hội nhập kinh tế
quốc tế, sự phát triển của kinh tế du lịch không chỉ dừng lại ở biên giới quốc gia
mà còn mở rộng ra quy mô toàn cầu. Mặt khác, điều kiện về giao thông vận tải,
thơng tin liên lạc càng đạt trình độ cao và an toàn, đáp ứng nhu cầu thuận lợi cho

11


du khách khi di chuyển từ nơi này đến nơi khác sẽ là cơ hội tốt để ngành kinh tế
du lịch biển phát triển.
Theo Luật du lịch Việt Nam tại điều 38 quan niệm: “kinh doanh du lịch là
kinh doanh dịch vụ, bao gồm các ngành, nghề: kinh doanh lữ hành; kinh doanh
lưu trú du lịch; kinh doanh vận chuyến khách du lịch; kinh doanh phát triển khu
du lịch, điểm du lịch; kinh doanh dịch vụ du lịch khác” [28, tr.39].
Theo từ điển Bách khoa Việt Nam (do nhà xuất bản Từ điển Bách khoa
Hà Nội năm 2002) đã đưa ra định nghĩa tương đối hoàn chỉnh về kinh tế du lịch.
Theo đó: “Kinh tế du lịch là một loại hình kinh tế có đặc thù mang tính dịch vụ

và được xem như ngành cơng nghiệp khơng khói, gồm có du lịch quốc tế và du
lịch trong nước, có chức năng nhiệm vụ tổ chức việc khai thác các tài nguyên và
cảnh quan của đất nước (tài nguyên thiên nhiên, phong cảnh, kinh tế, văn hoá,
lịch sử,.v.v.) nhằm thu hút khách du lịch trong nước và ngoài nước, tổ chức bn
bán xuất nhập khẩu tại chỗ hàng hố và dịch vụ cho khách du lịch” [46].
Như vậy, mặc dù có nhiều quan niệm khác nhau về kinh tế du lịch. Tuy
nhiên dưới góc độ kinh tế chính trị có thể thấy, kinh tế du lịch là một quan hệ
kinh tế trong lĩnh vực cung ứng sản phẩm du lịch, bao gồm các quan hệ ngành,
nghề: kinh doanh lữ hành, kinh doanh lưu trú du lịch, kinh doanh vận chuyến
khách du lịch, kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du lịch và kinh doanh
dịch vụ du lịch khác, nhằm thoả mãn nhu cầu tinh thần của du khách, đem lại lợi
ích kinh tế, chính trị, xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và bản thân doanh
nghiệp du lịch. KTDL là ngành sản xuất phi vật chất nhưng mang lại những giá
trị vật chất và tinh thần rất cao.
Từ sự phân tích trên có thể quan niệm kinh tế du lịch: là tổng thể các mối
quan hệ kinh tế nảy sinh trong quá trình sản xuất, trao đổi và tiêu dùng các sản
phẩm, dịch vụ du lịch giữa các nhà kinh doanh du lịch và khách du lịch, nhằm
thỏa mãn nhu cầu cho khách và mạng lại lợi ích kinh tế - xã hội cho doanh
nghiệp và địa phương làm du lịch.
* Quan niệm về kinh tế du lịch biển
Khi đề cập đến hoạt động du lịch biển, tác giả Đổng Ngọc Minh và
Vương Lơi Đình (2001) đã đưa ra quan niệm: “Gọi du lịch biển là chỉ tổng hòa
12


hiện tượng và quan hệ của các hoạt động du ngoạn, vui chơi, nghỉ ngơi tiến hành
ở biển, sinh ra lấy biển làm chỗ dựa nhằm mục đích thỏa mãn yêu cầu về vật
chất và tinh thần của mọi người dưới điều kiện kinh tế - xã hội nhất định” [25,
Tr.173]. Đây là khái niệm kinh tế du lịch biển dưới góc độ kinh tế ngành. Một số
nhà nghiên cứu lại gộp du lịch biển vào lĩnh vực kinh tế biển. Họ quan niệm

thủy sản, dầu khí, vận tải biển và du lịch biển hợp thành kinh tế biển. Quan niệm
này thường thấy ở các quốc gia có thế mạnh về biển. Theo đó, có thể thấy giữa
kinh tế du lịch và kinh tế biển có sự giao thao với nhau, khoảng giao thoa ấy
chính là kinh tế du lịch biển. Tuy nhiên, quan niệm này mới chỉ phần nào phản
ánh nội hàm của khái niệm kinh tế biển.
Từ các cách tiếp cận khác nhau, có thể hiểu khái niệm kinh tế du lịch
biển một cách khái quát như sau: Kinh tế du lịch biển là một phạm trù kinh tế
chỉ mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối,
trao đổi và tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ du lịch biển, nhằm thỏa mãn nhu
cầu của du khách và người kinh doanh du lịch trên cơ sở khai thác tài nguyên
thiên nhiên và tài nguyên nhân văn gắn liền với biển, trong những điều kiện
kinh tế - xã hội nhất định.
* Quan niệm về phát triển kinh tế du lịch biển
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển là một quá trình
vận động từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ chưa hoàn thiện đến hoàn
thiện hơn. Vì vậy, có thể tiếp cận khái niệm phát triển kinh tế du lịch biển trên cơ
sở sự hoàn thiện không ngừng cả về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Các
mối liên hệ kinh tế nảy sinh và vận hành trong kinh tế du lịch biển thể hiện trên
cả ba mặt của quan hệ sản xuất, bao gồm: quan hệ giữa người với người trong sở
hữu về tư liệu sản xuất để sản xuất và cung ứng các dịch vụ du lịch biển; quan hệ
giữa người với người trong quá trình tổ chức điều hành, quản lý việc sản xuất,
cung ứng các dịch vụ du lịch biển và quan hệ trong tổ chức phân phối các sản
phẩm, dịch vụ du lịch biển. Các quan hệ trên diễn ra ở cả bốn khâu của quá trình
sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng các sản phẩm, dịch vụ du lịch biển.
Như vậy, hiểu một cách khái quát: phát triển kinh tế du lịch biển là quá
trình vận động, hồn thiện khơng ngừng cả về lực lượng sản xuất và quan hệ
13


sản xuất, thơng qua việc khai thác có hiệu quả tài nguyên du lịch biển gắn với

bảo vệ môi trường, nâng cao số lượng và chất lượng các sản phẩm, dịch vụ;
không ngừng mở rộng thị trường, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của du
khách, trên cơ sở đó đạt được hiệu quả kinh tế xã hội cao và bền vững.
1.1.2. Bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển
* Quan niệm về chủ quyền
Chủ quyền là tính có quyền lực độc lập đối với một khu vực địa lý, ví
dụ như lãnh thổ. Nó được thể hiện trong quyền lực lãnh đạo và thiết lập luật
pháp. Các quốc gia có thể có chuyển quyền toàn phần hoặc hạn chế, hoặc
khơng có chủ quyền đối với những khu vực được luật pháp quốc tế quy định
là di sản chung của nhân loại.
Chủ quyền quốc gia gồm 2 nội dung: quyền tối cao của quốc gia trong
phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế.
Trong phạm vi lãnh thổ của mình, quốc gia có quyền tối cao về lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Mọi vấn đề chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của
quốc gia phải do quốc gia đó quyết định, các quốc gia khác, cũng như các tổ
chức quốc tế khơng có quyền can thiệp, mọi tổ chức, cá nhân cư trú trên lãnh
thổ của quốc gia đó phải tuân thủ pháp luật của quốc gia nếu điều ước quốc tế
mà quốc gia đã ký kết không có quy định khác.
Trong quan hệ quốc tế, quyền độc lập của quốc gia thể hiện:
Một là, tự quyết định mọi vấn đề đối nội và đối ngoại của mình, các
quốc gia khác khơng có quyền can thiệp hoặc áp đặt; khơng có một thế lực
nào, cơ quan nào đứng trên quốc gia, có quyền đặt ra pháp luật và bắt buộc
quốc gia phải thực hiện.
Hai là, quốc gia chỉ có nghĩa vụ tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của
luật quốc tế hiện đại, các quy định của điều ước quốc tế mà quốc gia đã ký kết
hoặc tham gia, đồng thời tôn trọng các tập quán quốc tế cũng như các điều
ước quốc tế do các quốc gia khác ký kết phù hợp với những nguyên tắc cơ
bản của luật quốc tế hiện đại.
Chủ quyền quốc gia trên biển cũng bao hàm những nội dung cơ bản nói
trên. Quốc gia ven biển thực hiện chủ quyền của mình một cách tuyệt đối, đầy

14


đủ, toàn vẹn ở trong vùng nội thuỷ và thực hiện chủ quyền một cách đầy đủ,
toàn vẹn ở trong lãnh hải. Bởi vì, nội thuỷ được coi là bộ phận đất liền như ao
hồ, sông suối, các vùng nước nằm trong đất liền. Lãnh hải cũng được coi là
lãnh thổ biển của quốc gia ven biển. Ranh giới ngoài của lãnh hải là biên giới
quốc gia ven biển. Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên lãnh hải,
cũng như đến đáy và lòng đất dưới đáy của lảnh hải.
Điều 9, Luật Biển Việt Nam quy định: “Nhà nước thực hiện chủ quyền
hoàn toàn, tuyệt đối và đầy đủ đối với nội thuỷ như trên đất liền”.
Điều 12, Luật Biển Việt Nam quy định: “Nhà nước thực hiện chủ quyền
đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải và vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới
đáy biển của lãnh hải phù hợp với Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển
năm 1982”.
Theo quy định tại Điều 3 của Công ước 1982, chiều rộng lãnh hải không
vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở. "Chủ quyền của quốc gia ven biển được
mở rộng ra ngoài lãnh thổ và nội thủy của mình, và trong trường hợp một quốc
gia quần đảo, ra ngoài vùng nước quần đảo, đến một vùng biển tiếp liền, gọi là
lãnh hải (merterritoriale). Chủ quyền này được mở rộng đến vùng trời trên lãnh
hải, cũng như đến đáy và lòng đất của biển này" (Phần II, Điều 2).
* Quan niệm về an ninh biển
An ninh biển là một bộ phận của an ninh quốc gia, khu vực và thế giới, có
mối quan hệ chặt chẽ với các vấn đề an ninh trên đất liền. Với 70% dân số thế
giới sống ở các khu vực cách bờ biển khoảng 100 dặm và đa số các khu vực phát
triển nhất của thế giới đều nằm sát biển, an ninh biển ngày càng có ảnh hưởng
lớn đến an ninh đất liền nói riêng và an ninh của các quốc gia nói chung.
Đến nay, trên thế giới chưa có thuật ngữ chính thức được thừa nhận về an
ninh biển. Tuy nhiên, an ninh biển có thể được hiểu: là trạng thái ổn định, an
tồn, khơng có các mối đe dọa xuất phát từ biển và các vùng đất đối với các

hoạt động bình thường của các nước, các tổ chức, cá nhân trên biển hoặc các
mối đe dọa từ biển đối với các hoạt động bình thường của các nước, các tổ
chức, cá nhân trên đất liền.

15


Như vậy, nội hàm của an ninh biển cũng giống như an ninh trên đất liền,
bao gồm: an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống; các vấn đề an ninh
truyền thống trên biển liên quan đến chiến tranh, xung đột, tranh chấp chủ quyền
lãnh thổ trên biển; các vấn đề an ninh phi truyền thống trên biển bao gồm khủng
bố, cướp biển, tội phạm xuyên quốc gia, di dân bất hợp pháp, ô nhiễm môi
trường biển, thảm họa thiên nhiên,.v.v..
* Quan niệm về bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển
Biên giới quốc gia nói chung, biên giới trên biển nói riêng, là nơi có
nguồn tài nguyên thiên nhiên to lớn, là cửa ngõ trên biển của tổ quốc, địa bàn
chiến lược cả về chính trị, kinh tế - xã hội, QP-AN và đối ngoại. Lúc sinh
thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm tới chủ quyền biển, đảo bởi vị
trí, vai trị quan trọng và tác động to lớn của nó đến chủ quyền, an ninh đất
nước. Người nói: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày nay, ta có ngày, có
trời, có biển. Bờ biển của ta dài, tươi đẹp, ta phải biết giữ gìn lấy nó” [24,
tr.151]. Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề biên giới, biển đảo là
cơ sở lý luận để Đảng, Nhà nước ta trong từng giai đoạn phát triển của đất
nước có những chiến lược phát triển phù hợp với từng ngành kinh tế. Trong
giai đoạn hiện nay, chúng ta cần đẩy mạnh phát triển kinh tế du lịch trên
biển, đảo với phương châm vừa phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất
lượng cuộc sống của người dân, vừa góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh
biển đảo của tổ quốc.
Xuất phát từ các vấn đề đã nghiên cứu về bảo vệ chủ quyền, an ninh
trên biển, có thể khái quát: Bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển là hoạt động

quản lý, chống lại mọi sự huỷ hoại, xâm phạm để giữ nguyên vẹn chủ quyền
quốc gia trên biển, trên không, trong lịng biển; quản lý, giữ vững an ninh
chính trị, trật tự an toàn xã hội; quản lý tài nguyên mơi trường và lợi ích
quốc gia trên biển; quản lý và đảm bảo việc thực thi pháp luật, quy chế, các
điều ước quốc tế trên biển; quản lý xuất nhập cảnh (khách du lịch, hàng hóa,
phương tiện), quá cảnh, xuất nhập biên tại các cảng biển; quản lý hoạt động
đối ngoại biên phòng.

16


Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển yêu cầu rất toàn diện
“Bảo vệ biên giới trên biển, bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của đất nước,
bảo vệ an ninh chính trị, trật tự xã hội, chống xâm nhập trái phép và chống
buôn lậu trên biển, bảo vệ tài nguyên đất nước, xây dựng biên giới trên biển
hịa bình, hữu nghị, hợp tác, phát triển với các nước láng giềng” [7, tr.1]. Hiện
nay, bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển ở nước ta được thể hiện một cách
toàn diện trên các mặt, đó là: bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, tài nguyên, môi
trường sinh thái trên biển; chống lại sự xâm phạm của các đối tượng hoạt
động dưới mọi hình thức; bảo vệ tổ chức Đảng, chính quyền, các tổ chức đoàn
thể, các doanh nghiệp và quần chúng nhân dân, bảo đảm giữ vững sự ổn định
về chính trị - xã hội ở địa bàn trên biển, đảo, không để xảy ra gây rối, bạo
loạn lật đổ, bảo vệ sự bình yên của hệ thống chính trị các cấp ở các khu vực
biển đảo; giữ gìn đạo đức, thuần phong mỹ tục trong đời sống cộng đồng các
dân tộc; bảo vệ tính mạng, tài sản của nhân dân và du khách để mọi người có
cuộc sống ổn định, các lợi ích chính đáng khơng bị xâm hại; bảo vệ các cơ sở
kinh tế, văn hóa, du lịch trên biển đảo để giữ vững sự ổn định và phát
triển,.v.v.. Đây là những điều kiện rất quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội
nói chung và phát triển kinh tế du lịch trên biển nói riêng.
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển, đòi

hỏi giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy sức mạnh của
cả hệ thống chính trị, gắn kết chặt chẽ giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh biển
đảo, nhiệm vụ tham gia phát triển kinh tế - xã hội và công tác đối ngoại
trong bảo vệ chủ quyền biển đảo, an ninh quốc gia. Đồng thời, nhận thức rõ
những chính sách của Đảng, Nhà nước về kinh tế - xã hội, chính trị - văn
hóa, QP-AN, đối nội, đối ngoại, sự toàn vẹn về chủ quyền lãnh thổ, an ninh
biển đảo của Tổ quốc.

17


1.2. Quan niệm, nội dung và những nhân tố tác động đến phát triển
kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh
1.2.1. Quan niệm về phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ quyền,
an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh
Kinh tế du lịch là ngành kinh doanh tổng hợp có nội dung phong phú,
mang tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao. Muốn kinh tế du lịch ở các
khu vực có biển phát triển mang lại hiệu quả cao, điều kiện rất quan trọng
không thể thiếu đó là ở nơi khai thác du lịch phải có mơi trường chính trị - xã
hội ổn định, trật tự xã hội được duy trì nghiêm, chủ quyền, an ninh trên biển
được giữ vững, lực lượng liên ngành chuyên trách làm nhiệm vụ tại các vùng
biển, cảng biển phải có đủ sức mạnh để sẵn sàng răn đe, đạp tan mọi âm mưu,
thủ đoạn của các thế lực thù địch chống phá sự nghiệp đổi mới của đất
nước; khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch và kịp thời đấu tranh với các
loại tội phạm núp bóng du lịch để hoạt động, công khai ra vào các cảng
biển, xâm nhập sâu trong nội địa để hoạt động tình báo, gián điệp,.v.v. gây
mất ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, làm ảnh hưởng đến
sự phát triển của kinh tế - xã hội nói chung, kinh tế du lịch biển nói riêng.
Phát triển kinh tế du lịch và bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển có mối
quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau một cách biện chứng. Chủ quyền

an ninh trên biển được giữ vững, trật tự an toàn xã hội trên biển, vùng biển
được đảm bảo sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế du lịch phát triển, đem
lại hiệu quả cao và ngược lại nếu chủ quyền, an ninh trên biển thường
xuyên bất ổn; xảy ra tranh chấp, trật tự an toàn xã hội không được đảm bảo,
các loại tội phạm ở khu vực khai thác du lịch gia tăng, sẽ tác động tiêu cực
đến sự phát triển của kinh tế du lịch biển.
Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra rằng, giữa kinh tế và quốc phòng
tuy là hai lĩnh vực hoạt động khác nhau theo những quy luật riêng, nhưng
giữa chúng có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy
nhau cùng phát triển. Trong mối quan hệ đó, kinh tế bao giờ cũng giữ vai
trò quyết định. Phát triển kinh tế nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật, của
cải cho xã hội, tạo lập nền tảng, tiền đề của tiềm lực và sức mạnh quốc
18


phòng. Đề cập đến vấn đề này, V.I.Lênin đã chỉ rõ: “chúng ta chủ trương
bảo vệ Tổ quốc nên chúng ta địi hỏi phải có thái độ nghiêm túc đối với vấn
đề chuẩn bị chiến đấu của nước nhà. Cuộc chiến tranh này cần được chuẩn
bị từ trước, lâu dài, nghiêm túc bắt đầu từ kinh tế” [21, tr.480].
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch ln tìm mọi biện pháp
hịng xóa bỏ các nước xã hội chủ nghĩa. Do đó, muốn bảo vệ thành quả
cách mạng và xây dựng thành cơng chủ nghĩa xã hội thì tất yếu phải chăm
lo tăng cường quốc phòng, xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh, làm
nòng cốt cho sự nghiệp quốc phòng. Đầu tư cho sự nghiệp quốc phòng tuy
rất tốn kém nhưng đó là sự cần thiết khách quan. Tăng cường quốc phịng
vững mạnh có tác động trở lại đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh
tế. Nó tạo ra mơi trường hịa bình, ổn định để phát triển kinh tế, bảo vệ công
cuộc xây dựng đất nước. Đồng thời, quốc phòng cũng đặt ra những nhu cầu
bắt nguồn từ quy luật của đấu tranh vũ trang mà nền kinh tế phải vươn lên đáp
ứng ngày càng tốt hơn.

Kinh tế và quốc phòng là những hoạt động có mục đich, có ý thức xã
hội sâu sắc. Tuy chúng thống nhất với nhau nhưng lại có sự chế ước lẫn nhau.
Do đó, kết hợp chặt chẽ giữa kinh tế với quốc phòng; quốc phòng với kinh tế
là kết hợp một cách cân đối, hài hịa giữa lợi ích kinh tế với lợi ích quốc
phịng, là cách lựa chọn khôn ngoan, khoa học, tiết kiệm và hiệu quả nhất,
vừa làm cho kinh tế phát triển mà quốc phòng cũng được củng cố, tăng
cường. Cho nên, không được phép chỉ nhấn mạnh đến phát triển kinh tế mà
coi nhẹ tăng cường quốc phòng hoặc ngược lại.
Đảng ta đã xác định, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là
hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam. Đây là sự vận dụng sáng
tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước ta; là sự
kế thừa và phát triển quy luật dựng nước phải đi đôi với giữ nước của dân tộc
ta trong thời đại mới. Hai nhiệm vụ đó ln gắn bó chặt chẽ, khơng thể tách
rời. Kết hợp kinh tế với QP-AN và QP-AN với kinh tế là sự cụ thể hóa hai
nhiệm vụ chiến lược nói trên, trở thành quan điểm, chủ trương đúng đắn và
nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, được triển khai trên thực tế, góp phần
19


quan trọng giữ vững mơi trường hịa bình để xây dựng, phát triển kinh tế và
bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, mục tiêu của Đảng là: “Tăng cường quốc phòng,
an ninh, kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo đảm ổn định chính trị xã hội và mơi trường hịa bình để xây dựng, bảo vệ đất nước; khơng để bị
động, bất ngờ trong mọi tình huống” [18, tr.311-312].
Kết hợp kinh tế với QP-AN chính là hoạt động chủ động của Nhà nước
trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan của hai lĩnh vực mà
gắn kết chặt chẽ hoạt động của các ngành, các lĩnh vực kinh tế với QP-AN
nhằm bổ sung, tạo điều kiện cho nhau và thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển.
kinh tế phát triển, QP-AN được tăng cường sẽ góp phần tạo nên sức mạnh
tổng hợp của đất nước, làm cho độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, chế dộ

chính trị - xã hội và lợi ích dân tộc luôn ở trạng thái tự bảo vệ và được bảo vệ
một cách vững chắc. Sự kết hợp đó là hoạt động của toàn xã hội, song vai trò
quyết định thuộc về Nhà nước trong việc đề ra chiến lược và tổ chức thực
hiện nhằm gắn kết hai lĩnh vực đó để đạt được mục tiêu của mình.
Cụ thể hơn, kết hợp kinh tế với QP-AN là làm cho cả hai nhiệm vụ xây
dựng kinh tế và tăng cường QP-AN được phát triển cân đối, hợp lý, hài hịa.
Nghĩa là, trong xây dựng kinh tế phải tìm ra những phương hướng, biện pháp,
hình thức tổ chức có tác dụng thúc đẩy tăng cường QP-AN; trong tăng cường
QP-AN phải chọn được những phương hướng, biện pháp phù hợp có tác dụng
thúc đẩy kinh tế phát triển mạnh mẽ.
Theo đó, thực chất phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ quyền, an
ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh là mối gắn kết chặt chẽ, là quan hệ hữu cơ giữa
hai nội dung trong một chỉnh thể thống nhất, tức là quan hệ hai chiều, hai việc
lồng vào nhau, cái này là điều kiện tiền đề cho sự tồn tại, phát triển của cái kia và
ngược lại. Nhận thức rõ tầm quan trọng của mối quan hệ đó, các chủ thể không
chỉ quan tâm đến việc thu hút khách du lịch, đến lợi nhuận mà còn phải đảm bảo
an toàn tuyệt đối cho khách du lịch; chú trọng, quan tâm đến vấn đề chính trị, xã
hội, QP-AN, bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển, bảo vệ môi trường sinh
thái,.v.v. trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
20


Xuất phát từ những luận cứ trên, tác giả đưa ra quan niệm: phát triển
kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh là
tổng thể các hoạt động của Đảng bộ, chính quyền, các lực lượng chức năng liên
quan và nhân dân địa phương trên cơ sở nhận thức, vận dụng các quy luật khách
quan của hai lĩnh vực mà gắn kết chặt chẽ các hoạt động kinh tế du lịch với bảo
vệ chủ quyền, an ninh trên biển, để hai nhiệm vụ này phát triển cân đối, hợp lý,
hài hòa; vừa thúc đẩy kinh tế du lịch biển phát triển, vừa góp phần thực hiện bảo
vệ vững chắc chủ quyền, an ninh trên biển của Tỉnh.

Từ quan niệm trên, có thể hiểu nội hàm của nó trên một số vấn đề sau:
Một là, chủ thể tiến hành phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ
quyền, an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh là Đảng bộ, chính quyền, các lực
lượng chức năng liên quan và nhân dân địa phương, để hai nhiệm vụ này được
phát triển cân đối, hợp lý, hài hòa. Tổng thể các hoạt động đó là: sự lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế du lịch và bảo vệ chủ quyền, an
ninh trên biển của Đảng bộ, chính quyền tỉnh Quảng Ninh thông qua việc ban
hành, tổ chức thực hiện các Nghị quyết, Chỉ thị, Chính sách, các văn bản quy
phạm pháp luật,.v.v. còn các lực lượng chức năng liên quan và nhân dân trong
tỉnh thực hiện chủ trương, đường lối đó.
Hai là, các hoạt động của Đảng bộ, chính quyền, các lực lượng chức
năng liên quan và nhân dân địa phương gắn hai nhiệm vụ này dựa trên cơ sở
nhận thức các quy luật khách quan của hai lĩnh vực kinh tế du lịch và bảo vệ
chủ quyền, an ninh trên biển. Trên thực tế, kinh tế du lịch và bảo vệ chủ
quyền, an ninh trên biển là hai lĩnh vực chịu sự chi phối của hai hệ thống quản
lý khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Nhưng cả hai lĩnh vực này đều là hoạt
động có ý thức, có mục đích của con người nhằm mục tiêu chung là xây dựng
và bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh tổ quốc, nên cần và có thể kết hợp
được nhằm đạt tới các mục tiêu kinh tế - xã hội và QP-AN trên địa bàn Tỉnh.
Ba là, mục đính sự gắn kết này là nhằm vừa thúc đẩy kinh tế du lịch
biển phát triển, vừa góp phần bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển ở tỉnh
Quảng Ninh. Phát triển kinh tế du lịch biển sẽ góp phần tạo ra nguồn lực vật
chất, kỹ thuật cho bảo vệ chủ quyền, an ninh, xây dựng khu vực phòng thủ
21


QP-AN của Tỉnh ngày càng vững chắc; ngược lại, bảo vệ vững chắc chủ
quyền, củng cố và tăng cường QP-AN trên biển sẽ tạo môi trường thuận lợi
để kinh tế du lịch phát triển bền vững. Nếu không gắn hai lĩnh vực này với
nhau thì việc tạo lập, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an

ninh nhân dân sẽ rất tốn kém, cả về vật chất và thời gian mà vẫn khó có thể
đạt được mục tiêu, yêu cầu đặt ra trong việc bảo đảm sự ổn định, tính liên
hoàn vững chắc của sự kết hợp này trên địa bàn Tỉnh. Phấn đấu đưa Quảng
Ninh trở thành trọng điểm du lịch an toàn hàng đầu quốc gia và quốc tế.
Bốn là, phương thức gắn phát triển kinh tế du lịch với bảo vệ chủ quyền,
an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh là: kết hợp mở rộng quy mô, nâng cao chất
lượng, hiệu quả các hoạt động du lịch ở khu vực biển đảo với giữ gìn, bảo
đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn trên biển, tham gia xây dựng thế trận
quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân vững mạnh, bảo vệ môi trường, bảo
tồn và làm phong phú thêm bản sắc văn hóa dân tộc, thực hiện các mục tiêu
kinh tế - xã hội của Tỉnh. Góp phần tích cực, hiệu quả vào xây dựng Quảng
Ninh trở thành khu vực phòng thủ vững chắc về quốc phòng - an ninh và trung
tâm du lịch biển quy mơ lớn, mang tầm vóc quốc tế.
1.2.2. Nội dung phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ quyền,
an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh
Một là, phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh
trên biển ở tỉnh Quảng Ninh trong quy hoạch, kế hoạch
Trong quá trình quy hoạch và xây dựng kế hoạch các khu vực để phát
triển kinh tế du lịch biển trên địa bàn tỉnh, các cấp chính quyền địa phương cùng
với cơ quan chức năng cần phải nghiên cứu, xem xét kỹ lưỡng về hiệu quả kinh
tế, xã hội, QP-AN của khu vực khai thác du lịch. Cần dánh giá những tác động
của việc khai thác du lịch ở những khu vực dự kiến quy hoạch, có ảnh hưởng
tới khu vực phịng thủ biển đảo hay không. Việc quy hoạch các khu vực khai
thác, phát triển du lịch gắn với bảo về chủ quyền an ninh trên biển góp phần rất
quan trọng để tránh việc quy hoạch không phù hợp với thực tiễn, quy hoạch vào
những khu vực nhạy cảm về QP-AN, ảnh hưởng đến nhiệm vụ bảo vệ chủ
quyền an ninh trên biển, gây ra những cẳng thẳng giữa hai nước có chung
22



đường biên giới quốc gia trên biển, dẫn đến việc xây dựng kế hoạch và đầu tư,
khai thác du lịch ở những khu vực này khơng hiệu quả.
Đồng thời, tìm hiểu kỹ nhà đầu tư để tránh những sai sót đáng tiếc khi
ký hợp đồng với các nhà đầu tư. Khi các dự án đầu tư vào du lịch, phục vụ du
lịch ở khu vực biển đảo được cấp phép xây dựng, thì cần phải có kế hoạch
kiểm tra, giám sát chặt chẽ q trình thi cơng. Qúa trình đó phải được thực
hiện theo đúng quy hoạch, kế hoạch đã đề ra, khơng để diễn ra tình trạng cố
tình làm sai, gây lãng phí về tiền bạc, ảnh hưởng tiêu cực đến QP-AN và khu
vực phòng thủ trên biển. Đây là vấn đề nhạy cảm mà các thế lực thì địch dễ lợi
dụng để kịch động quần chúng nhân dân, gây mất ổn định về an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội ở các khu vực này.
Hai là, phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh
trên biển ở tỉnh Quảng Ninh trong các cơ chế, chính sách phát triển
Phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển
thể hiện trong các cơ chế, chính sách phát triển và được thực hiện cụ thể trong
việc xây dựng, hoạch định mục tiêu, chiến lược phát triển, huy động nguồn lực,
lựa chọn, thực hiện các giải pháp tổng thể. Theo đó, Tỉnh phải có cơ chế, chính
sách thoả đáng động viên, khích lệ dân ra đảo trụ bám làm ăn lâu dài. Phát
triển các loại hình dịch vụ du lịch trên biển, đảo, tạo điều kiện cho dân bám
trụ, sinh sống, làm ăn. Xây dựng cơ chế, chính sách tạo điều kiện mở rộng
liên kết làm ăn kinh tế ở vùng biển, đảo thuộc phạm vi chủ quyền của Tỉnh,
nhằm tạo ra các đối tác đan xen lợi ích và chống lại sự lấn lướt của các đối
tượng. Thông qua đó, vừa phát triển kinh tế du lịch, vừa thể hiện chủ quyền
trên biển, hạn chế âm mưu bành trướng, lấn chiếm, chống phá của các thế lực
thù địch, tạo thế và lực để giải quyết hoà bình các tranh chấp trên biển, đảo.
Chú trọng đầu tư phát triển chương trình đánh bắt xa bờ, xây dựng lực lượng dân
quân biển, các hải đoàn tự vệ của ngành Hàng hải, Cảnh sát biển; kiểm tra, kiểm
soát, ngăn chặn kịp thời những hoạt động vi phạm chủ quyền, an ninh biển đảo
của Tỉnh,.v.v.. Đồng thời, xây dựng một số đơn vị kinh tế - quốc phòng mạnh
trên biển, đảo để làm nòng cốt cho phát triển kinh tế du lịch biển và tạo thế bảo

vệ biển, đảo vững chắc. Xây dựng phương án đối phó với các tình huống có thể
23


xảy ra ở các vùng biển, đảo. Mạnh dạn đầu tư xây dựng lực lượng nòng cốt và
thế trận phòng thủ trên biển, phát triển và hiện đại hoá các lực lượng liên ngành
trong Tỉnh để đủ sức mạnh canh giữ, bảo vệ vùng biển đảo. Việc xây dựng các
cơ chế, chính sách trên các mặt nêu trên vừa phục vụ tốt nhất cho việc phát triển
kinh tế - xã hội nói chung, phát triển kinh tế du lịch biển nói riêng, vừa tăng
cường được khả năng thực tế trong bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển. Qua đó,
tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển kinh tế du lịch gắn kết chặt chẽ với bảo vệ
chủ quyền, an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh.
Ba là, phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ quyền, an ninh trên
biển ở tỉnh Quảng Ninh trong mở rộng các loại hình kinh tế du lịch
Tỉnh Quảng Ninh với tiềm năng phong phú, đa dạng về tài nguyên du
lịch tự nhiên và du lịch biển, để khai thác những tiềm năng kinh tế du lịch ở
khu vực biển đảo, cần phải phát triển kinh tế du lịch gắn với bảo vệ chủ
quyền, an ninh trên biển trong mở rộng thị trường du lịch, đa dạng hóa các
loại hình, sản phẩm và không gian du lịch biển.
Thị trường du lịch, đặc biệt là thị trường khách du lịch quốc tế đến với
Quảng Ninh những năm qua rất đông, số lượng lớn và trong những năm tiếp
theo, khách du lịch quốc tế được dự báo sẽ tăng mạnh, trong đó thị trường
khách Trung Quốc tăng mạnh nhất, ngoài ra cịn có khách Mỹ, Anh, Tây Ban
Nha,.v.v.. Do đó, khi mở rộng thị trường khách du lịch, Quảng Ninh cũng cần
đề phòng các thế lực thù địch có thể lợi dụng con đường du lịch để đưa người
thâm nhập, tuyên truyền kích động, phá hoại, gây mất ổn định chính trị, trật tự
an toàn xã hội trên địa bàn Tỉnh.
Căn cứ vào tiềm năng, đặc điểm sự phân bố tài nguyên du lịch và các
điều kiện về kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch thì những loại hình
du lịch chủ yếu của tỉnh Quảng Ninh từ nay đến 2020, tầm nhìn 2030 được xác

định chủ yếu vẫn là du lịch biển đảo, gắn liền với cảnh quan thiên nhiên, bao
gồm: du lịch tham quan, nghỉ mát, tắm biển, thăm quan hang động; thăm
quan, khám phá đáy biển và các hải đảo; bơi thuyền, lướt ván, lặn biển, các
hoạt đông thể thao, nghỉ dưỡng trên biển,.v.v.. Đây lại thường là những địa bàn
trọng yếu, có vị trí chiến lược và nhạy cảm về chủ quyền, QP-AN. Do đó, sự
24


phát triển của KTDL khơng chỉ có ý nghĩa đơn thuần về mặt kinh tế, cho phép
khai thác tốt các tiềm năng, thế mạnh về kinh tế du lịch biển của Tỉnh, mà cịn
có ý nghĩa chiến lược quan trọng về bảo vệ chủ quyền, an ninh trên biển và
tăng cường QP-AN trong Tỉnh.
Sự phát triển mạnh của các loại hình, sản phẩm du lịch biển cùng với
nguồn nhân lực du lịch với các bộ phận bảo vệ, nhân viên hướng dẫn du lịch
dồi dào tại các cảng và các vùng biền sẽ góp phần quan trọng vào việc tạo lập
và tăng cường thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân
vững mạnh, góp phần bảo vệ vững chắc chủ quyền, an ninh trên biển của Tỉnh.
Đồng thời, tích cực phối hợp với lực lượng liên ngành tại các cảng biển, các
vùng biển và trên đảo để kịp thời xử lý các vấn đề liên quan đến khách du
lịch, đặc biệt là khách du lịch nước ngoài không để các vụ việc diễn biến phức
tạp, ảnh hưởng đến sự phát triển của kinh tế du lịch, tác động tiêu cực đến
công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước và của Tỉnh.
Sự phát triển mạnh của các đội tàu thuyền đưa du khách trong nước và
quốc tế thăm quan, nghỉ dưỡng trên các vùng biển, vịnh và các đảo khơng chỉ góp
phần khai thác tốt tiềm năng, lợi thế về du lịch biển của Tỉnh mà cịn góp phần
vào việc khẳng định chủ quyền và lợi ích của tỉnh Quảng Ninh trên biển. Theo đó,
Uỷ ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã phê duyệt xây dựng chiến lược phát triển
kinh tế du lịch thông qua các đề án, kế hoạch phát triển lớn, trong đó nổi bật là hai
đề án ký ngày 04 tháng 7 năm 2014: đề án số 1418/QĐ-UBND về “Quy hoạch
tổng thể phát triển du lịch Quảng Ninh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030” và

đề án số 1419/QĐ-UBND về “phát triển sản phẩm du lịch tỉnh Quảng Ninh đến
năm 2020, định hướng đến năm 2030”. Điều đó thể hiện tầm nhìn chiến lược, sự
linh hoạt, sáng tạo của Đảng bộ tỉnh trong thời kỳ hội nhập kinh tế khu vực và
quốc tế. Đặc biệt, trước bối cảnh chủ quyền, an ninh trên biển của nước ta bị đe
dọa với mức độ, tính chất phức tạp, khó lường trong thời gian qua. Vì vậy, trong
đầu tư, mở rộng thị trường khách du lịch, đa dạng hóa các loại hình và sản phẩm
du lịch biển cần phải chú trọng gắn với xây dựng thế trận QP-AN, bảo vệ vững
chắc chủ quyền, an ninh trên biển ở tỉnh Quảng Ninh.

25


×