Tải bản đầy đủ (.doc) (178 trang)

Ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học phật giáo đến đời sống tinh thần người hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (690.63 KB, 178 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tác giả. Các số liệu,
trích dẫn trong luận án là trung thực, có xuất
xứ rõ ràng và không trùng lặp với những
công trình đã công bố.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Tạ Thị Ngọc Lan


MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA
LUẬT NHÂN QUẢ TRONG TRIẾT HỌC PHẬT GIÁO
ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI HÀ NỘI

1.1. Thực chất ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học
Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội
1.2. Những yếu tố quy định ảnh hưởng của luật nhân quả trong
triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội
Chương 2 THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA TỪ ẢNH
HƯỞNG CỦA LUẬT NHÂN QUẢ TRONG TRIẾT
HỌC PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN


NGƯỜI HÀ NỘI HIỆN NAY
2.1. Thực trạng ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học
Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay
2.2. Một số vấn đề đặt ra từ ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết
học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay
Chương 3 GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG
TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC
CỦA LUẬT NHÂN QUẢ TRONG TRIẾT HỌC
PHẬT GIÁO ĐẾN ĐỜI SỐNG TINH THẦN NGƯỜI
HÀ NỘI HIỆN NAY
3.1. Nâng cao chất lượng các hoạt động sinh hoạt chính trị, tư
tưởng, văn hóa cho người Hà Nội hiện nay
3.2. Đẩy mạnh việc phát triển kinh tế, văn hóa xã hội nhằm tạo
ra môi trường lành mạnh cho đời sống tinh thần người Hà
Nội hiện nay
3.3. Phát huy tính tích cực, tự giác của người Hà Nội trong xây
dựng đời sống tinh thần hiện nay

KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

5
10

29
29
59


79
79
103

113
113
133
141
154
156
157
169


5
MỞ ĐẦU
1. Giới thiệu khái quát về luận án
Triết học Phật giáo ra đời ở Ấn Độ và nó đã có hàng nghìn năm tồn tại
và phát triển. Tư tưởng của triết học Phật giáo có nhiều đóng góp đối với
dòng chảy lịch sử tư tưởng của nhân loại. Trong đó tư tưởng về nhân quả của
triết học Phật giáo có những ảnh hưởng lớn đến tư tưởng của mỗi người dân
Việt Nam. Tư tưởng đó giữ một vai trò quan trọng trong cách ứng xử, để mỗi
người tự biết điều chỉnh những hành vi của mình trong cuộc sống. Do đó, đề
tài “Ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh
thần người Hà Nội hiện nay” là một vấn đề rất cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc. Đây cũng là vấn đề chưa được nghiên cứu một cách cơ bản,
hệ thống dưới góc độ triết học.
Luận án tập trung làm rõ quan niệm luật nhân quả trong triết học Phật
giáo, quan niệm về đời sống tinh thần người Hà Nội, quan niệm về ảnh hưởng

của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội.
Những vấn đề quy định ảnh hưởng của luật nhân quả đến đời sống tinh thần
người Hà Nội. Trên cơ sở lý luận đã xây dựng, tác giả đánh giá tình hình ảnh
hưởng của luật nhân quả đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay và vấn
đề đặt ra từ sự ảnh hưởng đó. Từ cơ sở đó, đề xuất những giải pháp cơ bản, đồng
bộ, khả thi phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của luật
nhân quả đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay, một trong những nhân
tố quan trọng trong xây dựng đời sống văn hóa tinh thần hiện nay.
2. Lý do lựa chọn đề tài
Phật giáo và những tư tưởng triết học Phật giáo đã xâm nhập vào Việt
Nam từ lâu và ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống tinh thần con người, xã hội
nước ta. Nghiên cứu về ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật giáo
đến đời sống tinh thần con người có ý nghĩa rất lớn trong việc định hướng
phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nó.


6
Hà Nội với vị trí là thủ đô, trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội
của cả nước, đồng thời là nơi hội tụ cao nhất cả về nội dung tư tưởng, cũng
như thiết chế xã hội của tổ chức Phật giáo. Có thời kỳ Phật giáo trở thành
quốc giáo, hệ tư tưởng của một số triều đại phong kiến. Nên Hà Nội là một
trong những trung tâm Phật giáo lớn của Việt Nam.
Đời sống tinh thần người Hà Nội là một bộ phận của đời sống xã hội,
nó phản ánh đời sống vật chất của người Hà Nội. Trong quá khứ cũng như
hiện nay, đời sống tinh thần người Hà Nội trong cái chung của cả nước, đồng
thời mang cái riêng về tính độc lập tương đối, trong đó có mối quan hệ qua lại
với các hình thái ý thức xã hội khác và ít nhiều chịu sự ảnh hưởng của các
hình thái ý thức xã hội đó. Sự xâm nhập của Phật giáo với nội dung luật nhân
quả ảnh hưởng đến đời sống tinh thần người Hà Nội có tác dụng răn dạy từ
bên trong và mang tính tự nguyện của mỗi người.

Ảnh hưởng của luật nhân quả đến đời sống tinh thần người Hà Nội
thông qua sức mạnh của Phật giáo với tính cách là hệ thống trên cả hai mặt
tích cực và tiêu cực. Về mặt tích cực là ở những nội dung, giá trị hướng thiện
con người, để trước những cám dỗ về lợi ích cá nhân, vụ lợi, con người được
chế ngự bởi tâm lý về “quả báo”, “báo ứng” mà tự kìm chế được. Tuy nhiên,
cùng với mặt tích cực, luật nhân quả còn có mặt tiêu cực là mang tính chất
hướng nội, tự tu tâm, ít đi vào cải tạo xã hội hiện thực. Về bản chất, nó phản
ánh sự bế tắc của con người trước hiện thực bất công và kéo theo là thủ tiêu
động lực hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội. Hướng ảnh hưởng này làm cho
con người tìm đến hạnh phúc ở thế giới hư ảo.
Trước yêu cầu xây dựng và phát triển Hà Nội trở thành một thủ đô văn
minh, hiện đại, vấn đề xây dựng đời sống tinh thần người Hà Nội là một yêu
cầu quan trọng. Sự tác động của mặt trái cơ chế thị trường, xu hướng hội nhập
quốc tế mạnh mẽ, những ảnh hưởng của luật nhân quả trong tư tưởng triết học
Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội đang có chiều hướng phức tạp,


7
khó kiểm soát. Sự tiếp nhận cũng như hành vi ứng xử theo luật nhân quả của
một số người Hà Nội đã và đang có những thái cực khác nhau; cá biệt có âm
mưu lợi dụng để phục vụ cho ích cá nhân, lợi ích nhóm, nên đã làm cho đời
sống tinh thần người Hà Nội ngày càng phức tạp, mất định hướng, mờ nhạt
những giá trị truyền thống. Tình hình trên có cả nguyên nhân khách quan và
chủ quan, trong đó cơ bản nhất là thiếu nghiên cứu về ảnh hưởng của luật
nhân quả; thiếu cơ sở định hướng khoa học cho phát huy ảnh hưởng tích cực
và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của nó. Đặc biệt, xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa với yêu cầu rất cao về trách nhiệm xã hội của công
dân trên thực tiễn đối với xã hội nói chung và những mặt, lĩnh vực xã hội, đời
sống tinh thần nói riêng, thì nghiên cứu này càng quan trọng, cấp bách.
Vì vậy, nghiên cứu vấn đề: “Ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết

học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay” là một việc làm
có ý nghĩa cấp thiết cả về lý luận và thực tiễn, góp phần xây dựng đời sống
tinh thần của người Hà Nội hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích:
Làm rõ những vấn đề lý luận, thực tiễn về ảnh hưởng của luật nhân quả
trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội, đề xuất giải
pháp phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của luật nhân
quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Luận giải thực chất ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật giáo
đến đời sống tinh thần người Hà Nội.
- Đánh giá tình hình ảnh hưởng và những vấn đề đặt ra từ ảnh hưởng
của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà
Nội hiện nay.


8
- Đề xuất giải pháp cơ bản định hướng phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn
chế ảnh hưởng tiêu cực của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời sống
tinh thần người Hà Nội hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu bản chất ảnh hưởng của luật nhân
quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội.
* Phạm vi nghiên cứu: Là ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học
Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay (người có hộ khẩu Hà
Nội và đang sinh sống ở Hà Nội). Các số liệu chủ yếu tập trung từ 2008 - đến
nay; phạm vi khảo sát các quận trên địa bàn thành phố Hà Nội hiện nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Đề tài dựa vào lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về tôn giáo…;
đồng thời, kế thừa những lý luận, lý thuyết khoa học có liên quan đến đề tài
luận án và những công trình khoa học nghiên cứu về triết học Phật giáo.
* Cơ sở thực tiễn: là tình hình ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết
học Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay, dựa trên các báo
cáo của các cơ quan chức năng, đơn vị trên địa bàn Hà Nội. Kết quả khảo sát
của tác giả luận án về vấn đề này.
* Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp luận chủ
nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp sử dụng một số
phương pháp nghiên cứu như: lôgic và lịch sử; phân tích và tổng hợp; khái
quát hóa, trừu tượng hóa; điều tra xã hội học; tham khảo ý kiến chuyên gia;
phương pháp phỏng vấn trực tiếp…
6. Những đóng góp mới của luận án
Góp phần làm rõ thực chất ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học
Phật giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội.


9
Đánh giá tình hình ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật
giáo đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay.
Đề xuất những giải pháp cơ bản định hướng phát huy ảnh hưởng tích
cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của luật nhân quả trong triết học Phật giáo
đến đời sống tinh thần người Hà Nội hiện nay.
7. Ý nghĩa của luận án
Luận án có thể được dùng làm tài liệu tham khảo trong việc bổ sung,
xây dựng các chủ trương, biện pháp về xây dựng đời sống tinh thần người Hà
Nội trước ảnh hưởng của luật nhân quả trong triết học Phật giáo.
Luận án có thể làm tài liệu phục vụ cho công tác giáo dục, tuyên truyền
nâng cao nhận thức, củng cố tình cảm, niềm tin cho người Hà Nội vào việc
phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực ảnh hưởng của luật nhân quả

trong triết học Phật giáo hiện nay.
8. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu; tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến
đề tài; 3 chương (7 tiết); kết luận; danh mục các công trình tác giả đã công bố;
danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


10
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI
1. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến phạm trù
nhân quả trong tư tưởng triết học Phật giáo
* Công trình nghiên cứu ở nước ngoài
Tác giả Junjro Takakusu với công trình “Tinh hoa triết học Phật giáo”
[130], đã luận giải về “Nghiệp” theo ba nhóm: Thân nghiệp, Khẩu nghiệp và
Ý nghiệp. Trong đó tác giả chủ yếu đề cập đến biểu hiện của Ý nghiệp thông
qua nội dung chữ “Tâm”. Khi bàn đến phạm trù tâm tác giả đã gián tiếp bàn
đến luật nhân quả, theo đó, nếu khởi tâm tạo tác, phải chịu trách nhiệm việc
làm đó và sẽ chịu báo ứng . Vì ý lực là một hành động ngay lập tức của tâm, dù
nó không phát biểu ra lời nói hay bộc lộ trong hành động của thân. Tâm là cứ
điểm căn để nhất của tất cả mọi hành động, luật duyên sinh phải đặt vào kho
tàng tâm ý, tức Tàng thức hay A-lại-da thức.
Tác giả Kassapa Thera với công trình “Phần giản dị trong Phật giáo”
[135], đã gửi thông điệp đến với mọi người: “… Hãy cùng gieo một thứ
giống, chúng ta sẽ cùng nhau gặt hái một thứ quả. Nếu chúng ta gieo giống
cao thượng ắt chúng ta gặt được quả cao thượng…”. Đây là cách dẫn giải
phản ánh tư tưởng triết học của Phật giáo thông qua luật nhân quả mà mọi thứ
đều được diễn ra theo quỹ đạo của nó nhất là trong mối quan hệ của “chúng
ta - cùng nhau”. Phật giáo quan niệm nhân quả luôn vĩnh viễn, liên tục và
tuần hoàn, đây là một đạo lý mà con người cần phải biết để trong mọi hoàn

cảnh con người biết đoạn trừ việc ác và tu tập các việc thiện. Nhân quả là
định luật tất yếu. Khi xét đến thời gian nhân quả, Phật giáo chỉ ra ba khoảng
thời gian: hiện báo, sinh báo và hậu báo. Điều này được đặt trong mối tương
quan với nghiệp. Bởi lẽ gieo nhân gặp quả nhưng con đường nhân quả không
phải lúc nào cũng là hiện nghiệp mà có thể là ngay tức thời, đời sau hay nhiều


11
đời sau. Cho nên, những nghiệp mà con người đã tạo ra là không mất đi, khi
nào duyên hội đủ thì tự khắc tạo quả. Do đó, Phật dạy con người luôn phải
giữ gìn nguyên tắc bình thường, có thể trì giới, tâm thanh tịnh thì trí tuệ sẽ
sáng, khi đó con người đủ năng lực chuyển đổi tất cả.
Tác giả Alexander Berzin với công trình “Giới thiệu tổng quát về
Nghiệp báo” [18], đã luận giải luật nhân quả trên tinh thần xuất phát từ
kinh nghiệm của con người, thái độ và những tác động của con người đến
cuộc sống của chính mình đều thể hiện thuyết “Nghiệp báo” đúng theo luật
nhân quả. Theo tác giả, cuộc sống của con người luôn trải qua những cung
bậc thăng trầm vui, buồn, sướng, khổ, tất cả là Nghiệp báo, nhân quả.
Tương tự như thế, chúng ta đối diện với cuộc sống của chính mình, những
kinh nghiệm chúng ta có được là kết quả không phải bởi một nguyên nhân
mà nó là kết quả của một khối lượng khổng lồ những nhân tố nguyên nhân
và những điều kiện (nhân duyên). Như vậy, điều này hoàn toàn phù hợp với
logic của cuộc sống và cả với khoa học, bởi vì, những gì đang diễn ra
không phải là những sự kiện cô lập mà là mọi thứ đều có liên kết với nhau.
Từ đó, việc nghiên cứu giáo lý Phật giáo nhất là nghiệp báo, nhân quả có ý
nghĩa thiết thực trong đời sống của con người. Nghiệp báo, nhân quả như
một nhân tố tinh thần, nó ảnh hưởng tới thái độ của con người, có thể đưa
con người đến với bến bờ hạnh phúc hay rơi vào vòng bất hạnh; xây dựng
hay tàn phá; quyết định hay tự do ý chí, đều là nhân quả, nghiệp báo. Do
đó, con người cần đi tìm cội nguồn của nghiệp báo, để tự chúng ta giải

thoát những mê muội cho chính mình.
Tác giả Uthitila với công trình “Nghiệp báo và những bài học về nghiệp
báo” [154], đã coi Nghiệp như là quy luật về “Nguyên nhân và kết quả” hay
nói vắn tắt là “Nhân - Quả”. Mọi thứ đến với chúng ta đều là đúng cả, nghiệp
báo luôn công bằng nên khi những điều vui vẻ, dễ chịu đến với chúng ta thì đó


12
là do ta làm đúng, còn những gì đến với chúng ta bất lợi, có nghĩ nghiệp báo
cho chúng ta là do ta đã có những lỗi lầm. Đơn giản đó là tuân theo luật nhân
quả. Do đó, khi có những hiểu biết nhất định về học thuyết này thì con người
cần phải rút ra những bài học hay cho cuộc sống, cho chính những ứng xử hàng
ngày của mình như: Sự kiên nhẫn, sự tin tưởng, sự tự lực cánh sinh, sự kiềm
chế và hiểu về sức mạnh. Những hiểu biết này cần được cụ thể hóa vào việc
chúng ta làm, vào lời chúng ta nói và ngay cả ý nghĩ trong đầu cũng phải thuận
theo thuyết của Nghiệp để khi nghiệp báo đúng nghĩa của nhân quả mà nên.
Nghiên cứu về luật nhân quả, tác giả Thích Thiền Tâm hướng nội
dung trả lời cho câu hỏi: “Nhân quả có thật không?” [131]. Đầu tiên, tác
giả khẳng định, luật nhân quả là định luật bất biến chi phối cả sự tồn vong
của khoa học; từng ngày, từng giờ, từng phút, từng sát-na, mọi hoạt động
của con người đều do luật này chi phối, chẳng qua con người không để ý,
không hiểu, chỉ khi hậu quả xảy ra, con người mới chịu tin có nhân quả,
nghiệp báo. Nghiên cứu Phật giáo không thể không bàn đến luật nhân quả,
bởi nó là trụ cột giáo lý của Đức Phật. Luận giải cho giáo lý này, tác giả chỉ
ra hiện nay dù khoa học và kiến thức nhân loại đã tiến bộ vượt bậc, nhưng
một số không nhỏ vẫn tin rằng, những bất hạnh, khổ đau, những tội ác chiến
tranh, hủy diệt, diệt chủng, sự thù ghét, kỳ thị chủng tộc… là do thần linh;
chỉ một số nhỏ, thấm nhuần giáo lý Đức Phật mới không tin vào thuyết định
mệnh trên thiên đình, sự hiện hữu của thần linh mà tin vào nhân quả.
Trên tinh thần khẳng định quy luật chi phối toàn bộ vũ trụ này là nhân

quả, một câu hỏi khác đặt ra: “Tu có chuyển được nhân quả không” [79]. Tác
giả Tịnh Không, về mặt nguyên lý thì gieo nhân nào gặt quả ấy; gieo nhân
thiện gặt quả thiện; gieo nhân ác gặt quả ác. Tuy nhiên, cuộc sống diễn ra
luôn chịu sự tác động bởi “duyên” và những “duyên” đó, có phải lúc nào con
người cũng kiểm soát và làm chủ nó được không? Chính “duyên” là cái tự


13
nhiên, ngẫu nhiên không định trước, đòi hỏi con người khi đối diện với
“duyên” phải có phương pháp để ứng xử. Chính sự tu tập này là cơ sở để con
người chuyển được nhân quả.
* Công trình nghiên cứu ở trong nước
Tác giả Thích Viên Giác trong tác phẩm “Con đường Bồ Tát nhập thế
trong Kinh Bát Đại Nhân Giác” [47], đã từ góc độ tiếp cận của Nghiệp mà chủ
yếu đề cập đến khía cạnh Nghiệp ác để từ đó Phật giáo huấn con người tìm con
đường Tu. Theo tác giả, trước hết phải xác định được điều ác, điều bất thiện là
do tâm tạo chứ không phải cái từ bên ngoài phát sinh, đây là lập trường căn
bản của giáo lý về Nghiệp. Từ nhận thức sai lầm dẫn đến các tâm lý bất thiện
như tham, sân, si, mạn, nghi, tạo thành động lực cho nghiệp ác. Tất cả những
điều đó là do lạc thú và lạc thú từ thân, do thân mà ra. Đây là một trong ba
cửa tạo Nghiệp mà không một con người nào không có biểu hiện qua. Qua đó,
Phật dạy con người phải hiểu được căn nguyên tạo bởi nghiệp ác để mà tu tập,
hành đạo sao cho đúng để tránh được nghiệp ác, tạo được nghiệp và quán
chiếu trên đối tượng thân, tâm, hoàn cảnh của mình. Nội dung cuốn sách đề
cập đến tám điều giác ngộ và nó có giá trị vô cùng to lớn, đây chính là con
đường tập để thanh tịnh Tâm, Khẩu, Ý và ở đó có 6 bước để con người tu tập.
Liên quan đến con đường tu tập và giải thoát khỏi Nghiệp dựa trên quy
luật nhân quả, trong cuốn “Ban mai xứ Ấn” [70], có một chuyên đề nói về con
đường “trung đạo” hay còn gọi là định lý duyên khởi đã đánh thức nhân loại tự
biết mình là “chủ nhân ông của nghiệp và thừa tự nghiệp”. Đứng trên lập

trường nhân bản, Đức Phật nêu cao tinh thần tự giác của con người và đó là
vấn đề chủ yếu giúp con người đánh thức trí tuệ của mình để đạt đến giải thoát
và giác ngộ, hướng con người đến với môi trường sống trong xã hội tiến bộ,
biết sáng suốt nhìn và sống như thế nào để đem lại hạnh phúc cho chính mình
và cộng đồng xã hội. Đó là thái độ giáo dục mang tính tích cực, sáng tạo, dân


14
chủ trong tinh thần vô ngã, có giá trị xuyên suốt thời gian, có khả năng hoá giải
được mọi căn bệnh mâu thuẫn, xung đột giữa con người với con người cũng
như giữa con người với tự nhiên và xã hội. “Con người là chủ nhân ông của
Nghiệp, là thừa tự của Nghiệp. Hãy tự mình thắp đuốc lên mà đi”.
Trong công trình “Lý thuyết nhân quả trong triết học Phật giáo và
trong học thuyết siêu nghiệm của Kant” của Thái Kim Lan [85], tác giả, xuất
phát từ quan hệ của con người với tự nhiên và sự phản ứng của các hiện tượng
tự nhiên đã đặt ra vấn đề lối sống, cách sống của con người trước tự nhiên
như thế nào để được hưởng sự an lành. Tác giả đã nghiên cứu sự khác biệt và
mối tương quan trong thuyết nhân quả của Kant và Phật giáo. Tinh thần cơ
bản được khái quát từ sự phân tích của tác giả đi đến kết luận của hai dòng tư
tưởng đó lại chính là vấn đề ứng xử, đạo đức.
Tác giả Thích Thanh Tứ với công trình “Tu là chuyển Nghiệp” [149],
đã trình bày giáo lý Phật giáo thông qua “Nghiệp” và trong đó biểu hiện mối
quan hệ biện chứng với luật “nhân quả”, đặc biệt là sự giác ngộ về con đường
Tu tập để đi đến sự giải thoát. Tinh thần đó được bắt nguồn từ sự khẳng định
con đường “Tu là hiền”; Lý giải “Nghiệp dẫn luân hồi trong lục đạo”; Phân
biệt rõ “Biệt nghiệp và đồng nghiệp”; Đặt vấn đề “Tu có chuyển được nhân
quả hay không” nhằm luận giải mối quan hệ biện chứng giữa Nghiệp và Nhân
quả; từ đó, cho thấy con đường “Tu trước khổ sau vui” và phân biệt “Chánh
báo và y báo”; đặc biệt là lý giải tại sao con người phải biết nhẫn nhục đó là
“Hạnh nhẫn nhục” và khẳng định được không có sự “thần thông” quảng đại

nào có thể hoá được “nghiệp lực” nếu như không “Tu”, cuối cùng cũng chỉ ra
chính tại “Bản ngã là gốc của mọi đau khổ và bất công”.
Trong các bài thuyết pháp tác giả Thích Thiện Hoa về luân hồi, nhân
quả, đã đề cập đến “Luân hồi theo luật nhân quả qua sáu cõi” [64]. Bài
thuyết pháp này giúp cho con người hiểu được, cuộc sống nơi trần gian là


15
nơi để con người tu tập, mọi giá trị sống của hiện tại sẽ là nguyên nhân để
có được quả ở kiếp sau, kiếp mà con người sau khi chết đi sẽ ngự, có thể là
một trong sáu cõi: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sinh, A- Tu- La, loài người và
cõi Trời. Như vậy, sự tu tập ở cuộc sống hiện tại như thế nào thì chính con
người đã tự định quả cho mình ở kiếp kế theo. Hiện tượng, luân hồi đến
nay chưa được khoa học chứng minh một cách đầy đủ, thuyết phục mà vẫn
dựa vào cách lý giải của giáo lý đạo Phật. Với cách luận giải này, tác giả
cho rằng: giáo lý luân hồi, nghiệp báo theo luật nhân quả sẽ đem lại cho
con người nhiều lợi ích. Thứ nhất, “đoạn kiến” sai lầm của con người, một
khi thân thể đã tiêu tan, cũng chẳng đem lại được điều gì. Nhưng khi hiểu
được giáo lý luân hồi, nhân quả, con người sẽ phá được “đoạn kiến” này để
sống có nghĩa hơn, hướng cuộc sống của mình đến với những điều tốt đẹp.
Thứ hai, con người còn có “thường kiến” sai lầm cho rằng, cuộc sống hiện
tại như thế nào thì sau khi chết cũng sẽ không có gì thay đổi, nên việc làm
phúc hay tội cũng vậy. Do đó, con người không cần phải cố gắng, số mệnh
sinh ra đã an bài. Khi hiểu được, luân hồi, nhân quả, con người sẽ định
hình được không có gì tồn tại vĩnh viễn, lại càng không có gì chờ đợi sẵn
chúng ta, con người sống là tạo nghiệp, nghiệp lành, ác là do chính con
người tạo, và cũng chính hiện nghiệp ấy là nhân cho quả trong tương lai
nghiệp, kiếp sau. Cho nên, con người không thể bình thản sống trong sự an
bài, định sẵn mà phải luôn tu tập, hướng thiện, mong quả kiếp sau được
làm người, được lên cõi Trời.

2. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến đời sống
tinh thần
Tác giả Lê Đại Nghĩa trong công trình “Ảnh hưởng của tín ngưỡng tôn
giáo đến đời sống tình thần quân nhân ở đơn vị cơ sở Quân đội nhân dân Việt
Nam hiện nay” [114], đã chỉ ra quan niệm về đời sống tinh thần xã hội là


16
“tổng hòa những giá trị, những sản phẩm, những hiện tượng, những quá trình,
những hoạt động, những quan hệ tinh thần của con người, phản ánh đời sống
vật chất xã hội và được thể hiện như một phương thức hoạt động và tồn tại
tinh thần của con người trong mỗi giai đoạn lịch sử” [114, tr.33]. Trong công
trình tác giả đã khẳng định tinh thần và đời sống tinh thần có tính độc lập
tương đối, các lĩnh vực của đời sống tinh thần đều có sự tác động, ảnh hưởng
lẫn nhau. Với quan niện về đời sống tinh thần như trên tác giả cho rằng đời
sống tinh thần bao trùm toàn bộ hiện thực tinh thần của xã hội.
Tác giả Nguyễn Thị Thúy Anh trong công trình “Ảnh hưởng của Phật
giáo đối với đời sống tinh thần ở xã hội Nhật Bản” [8], tác giả đã đi khái quát
sự hình thành và phát triển của Phật giáo ở Nhật Bản, bằng việc đi nghiên cứu
sự du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản; quá trình tiếp biến Phật giáo tại Nhật
Bản và sự phát triển của nó. Từ việc nghiên cứu đó, tác giả đã nhận diện được
Phật giáo Nhật Bản và chỉ ra được đặc trưng chủ yếu của nó.
Với sự đầu tư dày công nghiên cứu, tác giả đã chỉ ra được những nét
đặc trưng của Phật giáo trong đời sống tinh thần người Nhật Bản trước và
trong xã hội hiện đại ngày nay. Theo đó, tác giả quan niệm đời sống tinh thần
xã hội đó là: “Đời sống tinh thần xã hội là toàn bộ những sản phẩm, những
hiện tượng, những quá trình, những hoạt động, những quan hệ, những giá trị
tinh thần của con người, phản ánh đới sống vật chất xã hội và được thể hiện
như là một phương thức hoạt động và tồn tại tinh thần của con người trong
những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định” [8, tr.90]. Trong công trình này,

tác giả đã chỉ ra sự ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống tinh thần của người
Nhật Bản cả về thế giới quan và nhận thức của người Nhật Bản; Phật giáo ảnh
hưởng đến đạo đức và lối sống của xã hội Nhật Bản. Không những thế sự ảnh
hưởng của Phật giáo còn thấm sâu trong văn hóa, nghệ thuật của xã hội Nhật


17
Bản và phong tục, lễ hội của xã hội Nhật Bản trước hiện đại. Trong công trình
này, cũng đã chỉ ra Phật giáo cũng đã có những ảnh hưởng không nhỏ đến quá
trình hiện đại hóa Nhật Bản; hiện nay đang có một số khuynh hướng thế tục
hóa Phật giáo ở Nhật Bản.
Tác giả Vũ Khiêu trong công trình “Văn hóa Việt Nam, xã hội và con
người” đã quan niệm: “Lối sống là phạm trù xã hội, khái quát toàn bộ hoạt
động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những
điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định và biểu hiện trên các
lĩnh vực của đời sống: trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người
với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa” [77, tr.514]. Từ quan niệm
này đã khái quát được những nét đặc trưng cơ bản của lối sống, từ phương
diện vật chất của lối sống: phương thức sản xuất vật chất và hình thái kinh tế xã hội đến phương diện sinh hoạt tinh thần của lối sống. Lối sống được hiểu
chính là phương thức, là dạng hoạt động của con người, nó chịu sự quyết định
của phương thức sản xuất. Do đó, ở những hình thái kinh tế - xã hội khác
nhau, sẽ có lối sống khác nhau.
Tác giả Huỳnh Khái Vinh trong công trình “Một số vấn đề về lối sống,
đạo đức, chuẩn giá trị xã hội” [156] cho thấy: lối sống, đạo đức và chuẩn giá
trị xã hội là những yếu tố cơ bản trong đời sống xã hội của mỗi con người và
mỗi nền văn hóa, gắn liền với các cơ sở kinh tế, chính trị, tư tưởng và mọi
mặt đời sống vật chất, tinh thần của toàn xã hội. Trong đó, đạo đức về cơ bản
đóng vai trò là lẽ sống; còn lối sống mà hạt nhân là các khuôn mẫu ứng xử và
thể chế xã hội mang biểu trưng văn hóa điển hình và đóng vai trò định hình,
định tính văn hóa và con người. Dưới sự tác động của các nhân tố chính trị,

kinh tế, xã hội và xu hướng chuyển đổi lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội
trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ thực trạng lối sống, đạo


18
đức và chuẩn giá trị xã hội mới, tác giả đưa ra phương hướng, quan điểm và
giải pháp xây dựng lối sống, đạo đức và chuẩn giá trị xã hội mới.
Tác giả Nguyễn Viết Chức trong công trình “Nếp sống Người Hà Nội”
[27], đã đi từ khái niệm lối sống trong chủ nghĩa Mác - Lênin và vấn đề nếp
sống ở Hà Nội. Theo đó, tác giả khẳng định: “lối sống gắn liền với phương
thức sản xuất và hình thái kinh tế - xã hội” [27, tr.16-17]. Công trình này đã
trình bày nếp sống của người Hà Nội từ truyền thống của thủ đô Thăng Long,
ở thời Lý, Trần, Lê Trịnh, Nguyễn và thời Pháp thuộc; tiếp đến công trình đã
làm rõ nếp sống thủ đô từ sau Cách mạng tháng Tám 1945 và trong thời kỳ
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tiếp đến tác giả làm rõ nếp sống của
người Hà Nội qua những biến đổi về phong tục, tập quán và nghi lễ trong xã
hội ngày nay.
3. Những công trình nghiên cứu tiêu biểu liên quan đến ảnh hưởng
của luật nhân quả trong triết học Phật giáo đến đời sống tinh thần người
Hà Nội
Tác giả Thích Thánh Nghiêm với công trình “Áp dụng triết lý đạo Phật
để thành công trong công việc và luôn an lạc hạnh phúc” [117], đã mang một
nội dung có ý nghĩa sâu xa về việc ứng dụng triết lý đạo Phật vào cuộc sống.
Chính những giáo lý nhà Phật đã dạy cho con người biết sống có lòng từ bi hỷ
xả, cần phải có hiểu biết, nhìn nhận đúng bản chất thật sự của mọi việc xung
quanh, tùy vào cách ứng xử mà con người mang đến cho mình sự an lạc,
thảnh thơi hay bất hạnh. Qua đó, tác giả đưa ra một số nội dung căn bản như
những giải pháp cho con người áp dụng để cuộc sống ngày càng trở nên tốt
đẹp hơn. Theo tác giả:
Một là, tu trong công việc, trước tiên phải hiểu được ý nghĩa của công

việc, nghệ thuật làm việc, phương pháp ứng xử trong giao tiếp cũng như một số
nguyên tắc hợp tác đoàn thể. Quan điểm tìm việc theo tinh thần “tùy thuận nhân


19
duyên” để giảm bớt áp lực trong quá trình kiếm tìm công việc; lấy “cạnh tranh
lành mạnh” thay cho “cạnh tranh một mất một còn”; lấy “nghệ thuật chỉnh dây
đàn” theo tinh thần trung đạo để không rơi vào cực đoan. Tất cả cách tu này sẽ
giúp con người cân bằng tâm lý tất sẽ đi đến sự ổn định trong công việc.
Hai là, tìm lại chính mình, được chia là bốn phần gồm: 1.“La bàn định
hướng cuộc đời”; 2.“Giải thoát cho mình”; 3.“Tìm về âm thanh nội tại”;
4.“Khẳng định bản thân, trưởng thành và thể nhập vô ngã”. Xuất phát từ tầm
nhìn vĩ mô, tác giả cho rằng, khi con người xác định được phương hướng
đúng đắn, hòa mình vào mục tiêu chung của nhân loại, tự khắc sẽ định vị
được bản thân, không đi lệch hướng. Sự trưởng thành của mỗi cá nhân chính
là sự trưởng thành của cả nhân loại, thành công của mỗi cá nhân là thành công
của toàn xã hội, cá nhân và tập thể có mối quan hệ qua lại, bổ trợ lẫn nhau.
Đây hoàn toàn là tư tưởng biện chứng và phù hợp với thuyết nhân quả. Tìm
lại chính mình với bốn nội dung cơ bản trên là sự kết tinh của tâm từ mẫn, trí
xuất trần giúp con người hiểu đúng bản chất của chính mình. Chỉ khi con
người hiểu đúng, tự giải thoát và định tâm thì việc khẳng định bản thân,
trưởng thành và đi đến kết cục là nhập thể vô ngã tức mình là chính mình thì
không thể đổ tại khách quan.
Ba là, giao tiếp bằng trái tim, trong thời đại toàn cầu hóa, thời đại công
nghệ thông tin bên cạnh những giá trị tích cực thì mặt trái biểu hiện ra nằm
ngay trong trái tim của mỗi con người. Do vậy, nói một cách khái quát nhất,
Hòa Thượng đưa ra cách giao tiếp bằng trái tim, mà cụ thể là: học cách lắng
nghe và tập cho mình thái độ chân thành trong giao tiếp; học cách khen ngợi
khi phát hiện ưu điểm; mở rộng lòng từ bi và bao dung; học cách quan tâm
giúp đỡ và tinh thần hy sinh, phụng hiến. Như vậy, giao tiếp bằng trái tim là

phương pháp không chỉ học mà còn phải tu, rèn mới có.


20
Các tác giả Thích Huyền Quang và Thích Nhất Hạnh với công trình
“Đạo Phật áp dụng vào đời sống hàng ngày” [124], đã khẳng định Giáo lý
đạo Phật là giáo lý khế cơ vì việc áp dụng đạo Phật vào đời sống hằng ngày là
phù hợp với các điều kiện sinh hoạt tâm lý, kinh tế và xã hội chứ không phải
bất biến, cố hữu với thời gian. Phật giáo là một tôn giáo không bảo thủ, có
tính cởi mở và khai phóng để mở rộng chân trời tương lai. Tuy nhiên, tính cởi
mở, khai phóng ấy vẫn bảo đảm được truyền thống từ bi, khoan dung, vô uý
và giải thoát. Trong công trình này, các tác giả muốn lý giải cho mọi người
chân lý của nhà Phật là xuất phát từ hiện thực, con người phải tôn trọng hiện
thực và chính những hành vi, lời nói, việc làm của con người trong hiện thực
sẽ là căn nguyên lý giải cho kết quả về sau. Tư tưởng này cũng chính là biểu
hiện của “Nghiệp” và “Nhân quả”.
Đạo Phật được khai sáng bởi con người để phục vụ con người, cho nên
giáo lý nhà Phật chủ trương rằng, con người chịu hoàn toàn trách nhiệm về bản
thân mình và xã hội, rằng con người có thể thay đổi được bản thân và hoàn
cảnh xã hội theo ý mình muốn theo nguyên lý khách quan. Những điều kiện
hiện tại của sự sống, những gì đã xảy ra, đang xảy ra đều do hành động tức là
“Nghiệp” (Karma) của mình tạo thành và thúc đẩy. Vậy nên, con người phải tự
thắp đuốc lên mà đi, tự tìm ra con đường để mà giải thoát cho chính mình. Con
đường đó chính là “tu hành”. Muốn tu hành chính quả thì phải hiểu rõ được
“Nghiệp”, “Nhân quả” mà ở đó có “duyên”. Lời tựa của cuốn sách dẫn dắt đến
tư tưởng của Pháp sư Tịnh Không về “Nghiệp” và “Nhân quả”. Nghiệp là kết
quả của những hành động tạo tác thành thói quen. Mỗi khi khởi tâm động niệm
đều là tạo nghiệp, vì vậy, từ vô lượng kiếp đến nay con người đã tạo ra rất
nhiều nghiệp.
Tác giả Hồ Bá Thâm với công trình “Triết lý Phật giáo, khoa học hiện

đại và chủ nghĩa Mác, dưới góc nhìn triết học” [134]. Tác giả đã chỉ ra ba


21
khuynh hướng hiện nay: một là, chứng minh Phật học và khoa học hiện đại là
tương đồng và ít liên hệ với nhận thức triết học biện chứng trong lịch sử; hai
là, chứng minh khoa học hiện đại và Phật học có sự tương đồng nhưng lại bác
bỏ chủ nghĩa duy vật biện chứng; ba là, nghiên cứu sự tương đồng, bổ sung
giữa khoa học hiện đại và chủ nghĩa duy vật biện chứng. Nghiên cứu sâu sắc
mối quan hệ này để thấy được tinh thần của “Đạo pháp - Dân tộc và Chủ
nghĩa xã hội”; tinh thần “Sống phúc âm trong lòng dân tộc” và “Chủ nghĩa
xã hội là văn hóa”; “Đổi mới là văn hóa” mà ở đâu cũng thấy xuất hiện văn
hóa tâm linh, văn hóa tín ngưỡng. Xã hội càng tiến bộ, càng chứng minh cho
những tư tưởng mà ở đó không gì khác ở sự hài hòa giữa triết lý Phật giáo,
khoa học hiện đại và chủ nghĩa Mác. Đó là phương thức khả dĩ, giúp con
người có được niềm tin để vượt qua sự khủng hoảng toàn cầu và sinh thái
trong thời đại của chúng ta.
Tác giả Hoàng Thị Thơ với công trình “Tư duy hướng nội của Phật
giáo và vai trò của nó trong tư duy của người Việt” [137], đã khái quát tư
tưởng của Phật giáo bắt nguồn từ sự phát triển phương thức tư duy hướng nội
truyền thống Bà La Môn giáo (Ấn Độ giáo). Nội dung của bài viết đã đưa
người đọc đến với các phạm trù phổ quát như: duyên khởi, vô thường, vô
ngã…; đồng thời làm rõ nội dung cơ bản của học thuyết tứ diệu đế của nhà
Phật để từ đó khẳng định giá trị độc đáo của tư duy Phật giáo với tư cách là
một trường phái tư duy của phương Đông. Hình thức tư duy đó phản ánh tư
duy hướng nội là một hình thức nhận thức đặc biệt - trực giác tức là vượt qua
cảm tính bản năng đơn giản và lý tình trừu tượng. Và cũng chính những đặc
điểm đó, tư duy hướng nội của Phật giáo khi du nhập vào Việt Nam đã càng
làm sâu sắc hơn tinh thần ấy thể hiện sinh động qua lối sống và tín ngưỡng
của người Việt một cách giản dị.



22
Tác giả Thích Nguyên Đăng với công trình “Nghiên cứu so sánh học
thuyết về Nghiệp trong Bà La Môn giáo, Kỳ Na giáo và Phật giáo” [46], đã
dẫn nhập phạm trù Nghiệp từ trong đời sống thường nhật với rất hiều cách lý
giải khác nhau và từ đó cho thấy phần ít người hiểu tường tận về Nghiệp. Học
thuyết về Nghiệp có lịch sử phát triển lâu dài và có nhiều tôn giáo nghiên cứu
về nó như Bà La Môn giáo, Kỳ Na giáo và cả Phật giáo. Trong bài viết, tác
giả đã phân tích những điểm khác nhau trong quan niệm của các tôn giáo này.
Như Bà La Môn giáo cho rằng Nghiệp theo nghĩa đen Rta tức là trật tự của vũ
trụ, của vạn vật, và về mặt nghĩa bóng RgVeda tức là tế thần chính là hình
thức của Nghiệp. Đến giai đoạn Upanisads, học thuyết về Nghiệp của Bà La
Môn giáo có liên quan đến tái sinh tức là khi con người chết đi con người có
hai con đường để về, một là về với Thượng đế, hai là về với tổ tiên, còn
những ai không biết hai con đường này thì trở thành côn trùng, sâu bọ và rắn
rết. Như vậy, Nghiệp trong Bà La Môn giáo chính là một loại tiền định bởi vì
người tạo nghiệp không phải chịu bất cứ một trách nhiệm nào và sở hữu một
cái Ngã bất biến thường hằng.
Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra giáo lý Nhà Phật về Nghiệp đó chính là sự
cố ý của chúng sinh tạo ra nghiệp qua thân, khẩu, ý và Phật chế định giáo lý
về nghiệp dựa trên tính chất nhân quả. Qua đó, tư tưởng về Nghiệp của Phật
giáo đã bác bỏ được tính tiền định trong Bà La Môn giáo và thuyết định mệnh
trong Kỳ Na giáo. Phật nhấn mạnh rằng thuyết định mệnh và Nghiệp hoàn
toàn khác nhau. Theo Phật, Nghiệp là trách nhiệm đạo đức của mỗi cá nhân
và là tiêu chí để đánh giá, xếp loại con người chứ không phải tế lễ thần linh.
Liên quan đến nội dung luật nhân quả, tác giả khẳng định đây là vấn đề gắn
liền với đời sống thực tế của con người, nó cũng được xem là lý do hiện hữu
của con người trong vòng sinh tử, luân hồi tái sinh. Tác giả phân tích nhân
quả là một định luật bù trừ mang tính khách quan, nhưng tác động của nó

luôn được chi phối bởi các yếu tố tâm lý. Nghiệp mang ý nghĩa thiện - ác của


23
một hành động được phát sinh từ tâm mà con người phân chia thành nghiệp
thiện và nghiệp bất thiện. Nhân quả và Nghiệp có mối liên hệ chặt chẽ với
nhau, hay nói khác đi, Nghiệp chính là dòng vận hành của nhân quả mà ở đó
tâm thức bao giờ cũng là nền tảng cho mọi sự sinh khởi và đoạn diệt.
Tác giả Thái Minh Trung với công trình “Luật nhân quả trong cuộc
sống xã hội và khoa học”[144], khẳng định: khi không hiểu luật nhân quả,
con người sống trong sự sợ hãi, mê tín mù mờ. Theo tác giả, chính luật nhân
quả là một cuộc cách mạng về tâm linh, coi đó là nền tảng của thế giới tâm
linh và vật chất, là sợi dây vô hình nối liền hai biến cố xuyên qua thời gian,
không gian. Khi hiểu luật nhân quả, con người có thể thay đổi biến cố theo
chiều thuận cho ta, thay vì phải lo sợ cầu khẩn thần linh. Luật nhân quả đơn
giản, nếu muốn có quả lành thì phải tạo nhân tốt. Chỉ cần hiểu được như vậy,
con người sẽ tự biết tu nghiệp, tự phá tan gông cùm của sự mê tín và làm chủ
cuộc sống của mình. Thông qua sự luận giải luật nhân quả và khái niệm
không gian, thời gian; mối quan hệ nhân - duyên - quả; nhân quả và Thiên
Chúa giáo; nhân quả và y khoa; nhân quả và tâm lý học, tác giả chứng minh
cho việc cần thiết hiểu luật nhân quả sẽ có chìa khóa mở cửa tự do cho cuộc
đời và con người hoàn toàn làm chủ được cuộc đời mình, bình thản vượt qua
mọi khó khăn của cuộc sống.
Tác giả Thích Thuận An “Ảnh hưởng của giáo lý nhân quả trong đời
sống văn hóa dân tộc” [2], đã khái quát giáo lý nhân quả và ảnh hưởng của nó
đến đời sống văn hóa dân tộc. Với tư cách là một nhà nghiên cứu và theo đạo
Phật, tác giả đã luận giải khá sâu sắc về giáo lý nhân quả cùng với những đặc
tính thông qua tổng tướng, biệt tướng, nghiệp quả… và phân loại nhân quả theo
các lát cắt khác nhau giúp người đọc hiểu một cách hệ thống giáo lý luật nhân
quả. Tác giả bàn đến đời sống văn hóa dân tộc trong kho tàng văn học dân gian,

trong thơ văn chữ hán nôm, trong kho tàng truyện kể dân gian, cổ tích. Từ đó


24
khái quát đến sự ảnh hưởng rất gần gũi của giáo lý nhân quả trong triết học Phật
giáo. Thông qua mối liên hệ ấy giúp người đọc cảm nhận được sự giản dị, đời
thường trong giáo lý nhà Phật thẩm thấu vào đời sống văn hóa dân tộc Việt Nam
như một tất yếu. Đồng thời, tác giả phân tích sự ảnh hưởng của giáo lý nhân quả
trong đời sống sinh hoạt xã hội để thấy được sự đồng điệu và cả sự khác biệt
trong mỗi giai đoạn lịch sử. Cuối cùng, tác giả khái quát toàn bộ tư tưởng, sự ảnh
hưởng của giáo lý nhân quả đến đời sống văn hóa dân tộc Việt Nam toát lên tính
nhân văn sâu sắc. Tính nhân văn đó được thể hiện thông qua việc đề cao giá trị
con người, giá trị của sự giác ngộ giáo lý nhân quả sẽ là cơ sở để loại bỏ những
quan niệm tiêu cực trong xã hội góp phần xây dựng đạo đức truyền thống dân
tộc Việt ngày càng đậm đà hơn…
Tác giả Tạ Chí Hồng với công trình “Ảnh hưởng của đạo đức Phật
giáo trong đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam hiện nay” [67], đã luận giải
cơ sở nghiên cứu của vấn đề xuất phát từ thực tiễn của đạo đức; từ nền văn
hóa của dân tộc và từ quan điểm đấu tranh giữa chính trị và tôn giáo. Việc
nghiên cứu ảnh hưởng của đạo đức Phật giáo trong đời sống đạo đức của xã
hội nhằm luận giải sự ràng buộc lẫn nhau giữa các phạm trù giáo lý với đạo
đức Phật giáo và đời sống thực tiễn của con người. Luận án đã chỉ ra vị trí của
vấn đề đạo đức trong tư tưởng Phật giáo. Tác giả cũng khẳng định học thuyết
nhân quả, nghiệp báo là học thuyết cơ bản và có ảnh hưởng sâu sắc đến đời
sống của con người.
Tác giả Ngô Thị Lan Anh với công trình “Ảnh hưởng của “Tâm” trong
Phật giáo đến đời sống đạo đức ở nước ta hiện nay” [6], cho rằng, phạm trù
“Tâm” trong Phật giáo có nội dung quan trọng, góp phần tạo nên giá trị văn
hóa Phật giáo. Triết lý về “Tâm” trong Phật giáo có ý nghĩa sâu sắc, đã ảnh
hưởng không nhỏ tới đời sống đạo đức của con người Việt Nam trong quá

khứ cũng như trong hiện tại và có lẽ cả sau này nữa. Vì vậy, ở mỗi người cần


25
có cho mình những phút giây lắng đọng trong tâm hồn, đó chính là lúc để con
người nhìn nhận lại mình, nhìn nhận lại những gì từ chính cuộc sống. Khi ấy,
“Tâm” có lẽ mới thực sự cần thiết đối với mỗi người. Cũng theo tác giả nếu
mọi hành động của con người đều xuất phát từ “Tâm từ”, “Tâm bi”, “Tâm
cảm thông”, “Tâm trí tuệ” thì cuộc sống này chắc hẳn sẽ trở nên tốt đẹp hơn,
tình người hơn, đáng trân trọng hơn. Cái “Tâm” trong Phật giáo được tỏa sáng
từ những giáo lý từ bi, hướng thiện, nhân từ, đức độ, bình đẳng, bác ái...
hướng con người tới những hành vi thiện, hành vi đạo đức, để góp phần xây
dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn, an lành hơn. Phật Tổ từng dạy: “Phật là tâm,
tâm là Phật”.
4. Khái quát kết quả nghiên cứu chủ yếu của các
công trình khoa học đã công bố có liên quan và những
vấn đề đặt ra luận án tiếp tục giải quyết
4.1. Khái quát kết quả nghiên cứu chủ yếu của các công trình khoa
học đã công bố có liên quan đến đề tài luận án
Thứ nhất, các công trình đã đi sâu làm rõ luật nhân quả trong triết học
Phật giáo. Theo các tác giả, trong tư tưởng Phật giáo đã xuất phát từ vũ trụ để
giải thích vũ trụ và cho rằng vạn vật không tuần hành, biến dịch một cách tự
nhiên, vô lý mà tuân theo luật chung. Quy luật chung đó là luật nhân quả.
Luật nhân quả không do một đấng sáng tạo nào, không một xã hội nào đặt ra
được nó là quy luật khách quan. Nội dung cốt lõi của luật nhân quả khẳng
định: nhân nào quả ấy; trong nhân có quả, trong quả có nhân; và sự phát triển
từ nhân đến quả nhanh chậm khác nhau. Nhân quả có trong thực tế, ở mọi sự
vật: nhân quả trong các vật vô tri vô giác; nhân quả trong các loài thực vật;
nhân quả trong các loài động vật; và nhân quả nơi con người. Trong đó, nhân
quả xét về phương diện tinh thần được thể hiện ở tư tưởng, hành vi, tốt hay

xấu đều theo đúng quy luật “gieo nhân nào gặt quả ấy”. Việc hiểu biết và áp


26
dụng hợp lý luật nhân quả vào thực tiễn cuộc sống đem lại nhiều lợi ích cho
con người. Một là, tránh được mê tín dị đoan, những tư tưởng sai lầm vào
thần quyền; hai là, đem lại cho con người lòng tin tưởng vào chính con
người; ba là, giúp con người có động lực để không chán nản, trách móc. Bằng
nhiều câu chuyện kể dẫn dụ, các công trình nghiên cứu về luật nhân quả
muốn chứng minh một chân lý về giá trị của luật nhân quả, giúp con người
định hướng gieo nhân.
Tuy nhiên qua các công trình nghiên cứu cho thấy việc tiếp nhận và
làm theo quy luật nhân quả lại được thực hiện một cách duy tâm, không bằng
hành động cải tạo thực tiễn mà bằng con đường tu đạo. Mặt khác, các công
trình nghiên cứu chủ yếu đề cập đến lịch sử, đặc điểm, hay những nét tinh hoa
của Phật giáo dưới góc độ tôn giáo học.
Thứ hai, các công trình đã phân tích và cho rằng đời sống tinh thần của
xã hội chính là toàn bộ hiện thực của xã hội, phản ảnh cả mặt hoạt động và
kết quả của mặt hoạt động tinh thần trong xã hội. Đời sống tinh thần là sự
phản ánh sinh động đời sống sản xuất vật chất của xã hội. Khi bàn về đời
sống tinh thần các tác giả đều đi từ việc nghiên cứu ý thức xã hội vì đây là
dấu hiệu để nhận biết quan trọng nhất; ý thức xã hội là cái phản ảnh tồn tại xã
hội trong những giai đoạn xã hội nhất định. Nên nghiên cứu đời sống tinh
thần xã hội không thể tách rời vấn đề này được.
Trong đời sống tinh thần cần đặc biệt chú ý đến hoạt động và quan hệ
tinh thần, chú ý đến vấn đề này, theo các tác giả để tránh được sự nhầm lẫn
giữa đời sống tinh thần và tinh thần. Thông qua hoạt động và quan hệ tinh
thần, để thấy được rằng đó là những hoạt động sống đang diễn ra ở lĩnh vực
đời sống tinh thần của xã hội chứ không phải những hoạt động mang tính chất
tinh thần thuần túy. Nói đến đời sống tinh thần chúng ta thấy được nó có cơ

chế vận động riêng của nó, không giống với tinh thần. Nên khi nghiên cứu đời


27
sống tinh thần của xã hội chúng ta đặc biệt chú ý đến những vấn đề căn bản
về cấu trúc và nội dung để thấy được quy luật vận động riêng của nó.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu có liên quan cơ bản đều cho rằng: luật
nhân quả có một vị trí quan trọng trong giáo lý Phật giáo và nó có ảnh hưởng
nhất định đến đời sống tinh thần con người. Nhiều tác giả còn cho rằng luật nhân
quả là một cuộc cách mạng về tâm linh, coi đó là nền tảng của thế giới tâm linh
và vật chất, là sợi dây vô hình nối liền hai biến cố xuyên qua thời gian, không
gian. Thông qua sự luận giải luật nhân quả và khái niệm không gian, thời gian;
mối quan hệ nhân - duyên - quả;... Một số tác giả khẳng định khi hiểu luật nhân
quả, con người có thể thay đổi biến cố theo chiều thuận cho ta, thay vì phải lo sợ
cầu khẩn thần linh. Luật nhân quả đơn giản, nếu muốn có quả lành thì phải tạo
nhân tốt. Chỉ cần hiểu được như vậy, con người sẽ tự biết tu nghiệp, tự phá tan
gông cùm của sự mê tín và làm chủ cuộc sống của mình. Hiểu và hành theo luật
nhân quả sẽ có chìa khóa mở cửa tự do cho cuộc đời và con người hoàn toàn làm
chủ được cuộc đời mình, bình thản vượt qua mọi khó khăn của cuộc sống. Như
vậy, ảnh hưởng của luật nhân quả là hiện hữu trong đời sống tinh thần con
người, có mức độ ảnh hưởng nhất định đến đạo đức, đến đời sống sinh hoạt tín
ngưỡng một bộ phận nhân dân. Sự thâm nhập vào đời sống tinh thần con người
ở góc độ rất tự nhiên, chủ yếu dưới góc độ sức mạnh tôn giáo - Phật giáo. Còn
dưới góc độ triết học, cũng có một số công trình nghiên cứu ảnh hưởng của nhân
sinh quan Phật giáo đến đạo đức, lối sống hay là đi vào một phạm trù cụ thể như
chữ “tâm”…
4.2. Những vấn đề đặt ra để luận án tiếp tục giải quyết
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài, tác giả nhận
thấy sự ảnh hưởng của luật nhân quả đến đời sống tinh thần còn khoảng trống
đủ lớn để nghiên cứu sinh nghiên cứu, khai thác trong luận án dưới góc độ

chuyên ngành chủ nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.


×