BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
-------------------
VŨ THỊ HỒNG NHUNG
NÂNG CAO NHẬN THỨC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
KHỐI NGÀNH SƢ PHẠM TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
THÔNG QUA CUỘC VẬN ĐỘNG “ĐẨY MẠNH HỌC TẬP
VÀ LÀM THEO TƢ TƢỞNG, ĐẠO ĐỨC,
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH”
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Sơn La, tháng 5 năm 2017
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
-------------------
VŨ THỊ HỒNG NHUNG
NÂNG CAO NHẬN THỨC ĐẠO ĐỨC CHO SINH VIÊN
KHỐI NGÀNH SƢ PHẠM TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
THÔNG QUA CUỘC VẬN ĐỘNG “ĐẨY MẠNH HỌC TẬP
VÀ LÀM THEO TƢ TƢỞNG, ĐẠO ĐỨC,
PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH”
CHUYÊN NGÀNH: XH2b
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Giảng viên hƣớng dẫn: ThS. Giang Quỳnh Hƣơng
Sơn La, tháng 5 năm 2017
LỜI CẢM ƠN
Được sự đồng ý của Ban Giám hiệu trường Đại học Tây Bắc, Ban Chủ
nhiệm Khoa Lý luận chính trị và giảng viên hướng dẫn ThS. Giang Quỳnh
Hương, em đã thực hiện đề tài “Nâng cao nhận thức đạo đức cho sinh viên
khối ngành sƣ phạm trƣờng đại học Tây Bắc thông qua cuộc vận động
“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
làm khóa luận tốt nghiệp.
Để hoàn thành đề tài này, em xin được bày tỏ lòng biết ơn đối với các
thầy cô giáo trong khoa Lý luận chính trị và nhà trường đã tạo điều kiện giúp đỡ
em trong quá trình thực hiện và hoàn thành khóa luận tốt nghiệp.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn cô giáo ThS. Giang Quỳnh Hương,
người đã nhiệt tình hướng dẫn, chỉ đạo, theo sát và đóng góp những ý kiến quý
báu cho khóa luận của em hoàn thành đúng tiến độ và mục tiêu.
Trong quá trình điều tra còn nhiều khó khăn và năng lực còn hạn chế nên
không thể tránh khỏi những thiếu sót, em rất mong nhận được sự ủng hộ, chỉ bảo
và đóng góp ý kiến của Hội đồng Khoa học nhà trường, các thầy cô giáo và các
bạn sinh viên cho khóa luận tốt nghiệp của em được hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn!
Sơn La, ngày 08 tháng 05 năm 2017
Sinh viên thực hiện
Vũ Thị Hồng Nhung
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 3
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu.................................................. 4
3.1. Đối tượng nghiên cứu .................................................................................. 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 4
4. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................... 4
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................................... 4
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................ 5
7. Đóng góp của khóa luận ................................................................................. 5
Chƣơng 1: QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VÀ TƢ TƢỞNG HỒ
CHÍ MINH VÊ ĐẠO ĐỨC .............................................................................. 6
1.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác về đạo đức ................................................... 6
1.1.1. Quan niệm của các nhà triết học trước Mác về đạo đức ........................... 6
1.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin về đạo đức ................................. 7
1.1.2.1. Khái niệm đạo đức ................................................................................. 7
1.1.2.2. Cấu trúc của đạo đức ........................................................................... 10
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức ......................................................... 13
1.1.3.1. Hồ Chí Minh, lãnh tụ có nhiều cống hiến về tư tưởng đạo đức cách
mạng ................................................................................................................ 13
1.1.3.2. Bản chất, đặc điểm tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh ............................. 14
1.2. Nội dung cuộc vận động và học tập làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh ................................................................................................................ 15
1.2.1. Nhận thức chung về cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh” ............................................................................................ 15
1.2.2. Những nội dung chủ yếu của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh ................................................................................................................ 18
Kết luận chương 1 ............................................................................................ 39
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP TRAU DỒI ĐẠO ĐỨC
THÔNG QUA VIỆC NÂNG CAO NHẬN THỨC CHO SINH VIÊN KHỐI
NGÀNH SƢ PHẠM TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC VỀ CUỘC VẬN
ĐỘNG: “ĐẨY MẠNH HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TƢ TƢỞNG, ĐẠO
ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH” ...................................................... 40
2.1. Những yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức của sinh viên ............................... 40
2.1.1. Yếu tố khách quan .................................................................................. 40
2.1.2. Yếu tố chủ quan...................................................................................... 42
2.2. Kết quả nhận thức của sinh viên khối ngành sư phạm Đại học Tây Bắc đối
với cuộc vận động và những hạn chế, tồn tại .................................................... 43
2.2.1. Kết quả nhận thức ................................................................................... 43
2.2.2. Những hạn chế và tồn tại ........................................................................ 49
2.3 Những kiến nghị và đề xuất nhằm nâng cao nhận thức của sinh viên khối
ngành sư phạm trường đại học Tây Bắc với cuộc vận động, học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh ..................................................................... 51
2.3.1. Đối với nhà trường ................................................................................. 51
2.3.2. Đối với Đoàn thanh niên ......................................................................... 55
2.3.3. Đối với các tổ chức đoàn thể khác .......................................................... 57
2.3.4. Đối với bản thân sinh viên ...................................................................... 58
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn hóa, đạo đức là bộ phận trọng yếu của nền tảng tinh thần và là động
lực để phát triển xã hội. Sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán
bộ, đảng viên có nguy cơ làm giảm sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận
trong xã hội, tác động đến sự ổn định và phát triển bền vững của xã hội.
Sự suy giảm đạo đức, lối sống đang phá hoại hạnh phúc nhiều gia đình,
làm suy giảm nguồn nhân lực, gây hậu quả lớn về kinh tế do không phát huy
được nguồn lực để phát triển đất nước.
Sự suy thoái của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay đang là vấn đề
bức xúc trong dư luận xã hội. Nó làm cho nhân dân lo lắng, bất bình, ảnh hưởng
xấu đến uy tín của Đảng, đến việc tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ
rõ: Thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là các cơ
quan công quyền, các lĩnh vực xây dựng cơ bản, quản lí đất đai, quản lý doanh
nghiệp nhà nước và quản lý tài chính, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với
Đảng. Đó là một nguy cơ lớn, liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ.
Trong khi đặt phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, Đảng ta đã khẳng
định vai trò quyết định của nhân tố con người, vai trò nền tảng tinh thần và động
lực phát triển của văn hóa, đạo đức. Giáo dục đạo đức là một trong những biện
pháp đảm bảo sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội, sự ổn định
xã hội, tạo điều kiện cho sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững của đất nước
theo mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Văn hóa, đạo đức là động lực phát triển của xã hội. Công cuộc đổi mới đất
nước đang đặt ra những yêu cầu ngày càng cao, cần phải phát huy mạnh mẽ nội
lực, giải phóng mọi tiềm năng cho sự phát triển. Phát huy mạnh mẽ những chuẩn
mực đạo đức mới như năng động, sáng tạo, quyết tâm vượt khó làm giàu,…, là
động lực tinh thần to lớn để đẩy mạnh công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
1
Kinh tế thị trường càng phát triển, càng đặt ra yêu cầu cao về đạo đức xã
hội nói chung, đạo đức trong sản xuất, kinh doanh nói riêng. Xã hội muốn giàu
mạnh, văn minh, phát triển bền vững, mỗi cá nhân muốn thành đạt, phải biết
cạnh tranh và hợp tác, năng động, sáng tạo, lao động có kỉ luật, có kĩ thuật, có
năng suất, có chất lượng, hiệu quả cao, đồng thời phải tôn trọng chữ “tín”, có
lương tâm nghề nghiệp. Đó cũng chính là những yêu cầu và giá trị đạo đức phải
xây dựng trong kinh tế thị trường.
Trong bất kì giai đoạn cách mạng nào, đặc biệt trong tình trạng suy thoái
về tư tưởng, đạo đức, lối sống nghiêm trọng như hiện nay, cán bộ, đảng viên của
Đảng muốn phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu, lãnh đạo được quần chúng,
nhất thiết phải học tập, tu dưỡng, rèn luyện để trở thành tấm gương sáng về đạo
đức. Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên, cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm
liêm chính, chí công vô tư giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là
người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. [11, 252 – 253]
Học tập, tu dưỡng đạo đức thường xuyên là cơ sở để hoàn thiện mỗi cá
nhân, vì đạo đức của mỗi người không phải tự nhiên xuất hiện, mà do mỗi người
tự học tập, tu dưỡng, rèn luyện trong hoạt động thực tiễn và tiếp thu sự giáo dục,
quản lý của tổ chức, tập thể, cộng đồng, gia đình và xã hội. Vì vậy, để giữ gìn và
phát huy những giá trị cao đẹp, đòi hỏi mỗi người phải thường xuyên học tập, tu
dưỡng, rèn luyện, tự hoàn thiện chính bản thân mình. Mọi sự buông thả, thiếu tự
giác học tập, rèn luyện, tu dưỡng, xa rời sự quản lý, giáo dục của tập thể, cộng
đồng, đoàn thể và gia đình là con đường dẫn tới hư hỏng, tự đánh mất chính bản
thân mình.
Hiện nay, đất nước đang đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, tích cực và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa, thì
việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức cách mạng của Chủ Tịch Hồ Chí
Minh trở nên hết sức quan trọng. Bởi vì tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh luôn
là bộ phận quan trọng của nền tảng tinh thần xã hội, là động lực, nguồn sức
mạnh to lớn để nhân dân ta phát huy nội lực, vượt qua thử thách, khó khăn để
2
tiến lên. Đặc biệt, học tập và làm theo tấm gương đạo đức của Người là một biện
pháp quan trọng để mọi cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng sửa chữa, khắc phục
tình trạng suy thoái “có tính nghiêm trọng” về đạo đức, lối sống, giữ vững niềm
tin của nhân dân về sự lãnh đạo của Đảng.
Vì vậy quan tâm đến việc thực hiện nâng cao nhận thức đạo đức cho sinh
viên ngành sư phạm trường Đại học Tây Bắc theo tấm gương và đạo đức Hồ
Chí Minh em quyết định lựa chọn đề tài “Nâng cao nhận thức đạo đức cho
sinh viên khối ngành sƣ phạm trƣờng đại học Tây Bắc thông qua cuộc vận
động “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí
Minh” làm khóa luận tốt nghiệp nhằm góp phần đẩy mạnh nâng cao đạo đức
cho sinh viên khối ngành sư phạm trường Đại học Tây Bắc theo tấm gương
đạo đức Bác Hồ.
2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
Vai trò, vị thế, tầm quan trọng của việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo
đức, phong cách Hồ Chí Minh là vấn đề đã và đang được Đảng và Nhà nước đặc
biệt quan tâm, chú trọng. Đáp ứng yêu cầu thực tiễn, có không ít các công trình
nghiên cứu của các tổ chức hoặc cá nhân đã góp phần luận giải nhiều vấn đề
thực tiễn đặt ra trong nghiên cứu:
- Các đề tài khoa học về tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức và việc nâng cao
đạo đức cho sinh viên thông qua việc học tập và làm theo tư tưởng và đạo đức Hồ
Chí Minh:
- Đề tài “Giáo dục đạo đức đối với sự hình thành và phát triển nhân cách
sinh viên Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” tác giả Trần Sỹ Phán,( Luận án
tiến sĩ Triết học, 1999, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh).
- Đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh với công tác chăm lo, bồi dưỡng đạo đức
thế hệ trẻ” tác giả Nguyễn Ngọc Hiếu (2013, đại học Kiến trúc thành phố Hồ
Chí Minh).
- Giáo dục đạo đức cho sinh viên trường đại học Tây Bắc thông qua cuộc
vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, tác giả ThS
3
Đinh Thế Thanh Tú (giảng viên khoa Lí luận chính trị - trường đại học Tây Bắc
- Tạp chí giáo dục và xã hội - số đặc biệt tháng 5/2016).
Những tài liệu trên của các tác giả là nguồn tư liệu quý giúp tôi tiếp thu
tham khảo, làm định hướng cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
Ở Thành Phố Sơn La, việc nghiên cứu nâng cao đạo đức, lối sống cho sinh
viên ngành sư phạm tại trường Đại học Tây Bắc hiện nay vẫn chưa có công trình
nghiên cứu chuyên sâu nào. Vì vậy, đề tài Nâng cao đạo đức cho sinh viên
khối ngành sƣ phạm trƣờng đại học Tây Bắc thông qua cuộc vận động
“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”
trên cơ sở kế thừa có chọn lọc những công trình nghiên cứu trước đây tôi mạnh
dạn nghiên cứu vấn đề này với lòng mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc luận
giải những vấn đề lý luận và thực tiễn đã và đang đặt ra.
3. Đối tƣợng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đạo đức của sinh viên khối ngành sư phạm trường Đại học Tây Bắc về
cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Sinh viên khối ngành sư phạm trường Đại học Tây Bắc.
4. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ nhận thức của sinh viên khối ngành sư phạm trường đại học Tây
Bắc đối với cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”. Qua đó, đưa ra một số ý kiến, đề xuất nhằm nâng cao nhận thức của sinh
viên khối ngành sư phạm trường đại học Tây Bắc đối với cuộc vận động này.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu và đánh giá thực trạng đạo đức của sinh viên khối ngành sư
phạm trường đại học Tây Bắc thông qua cuộc việc học tập và làm theo tư
tưởng,đạo đức,phong cách Hồ Chí Minh.
- Đề xuất các phương hướng nhằm phát triển nâng cao đạo đức cho sinh
viên khối ngành sư phạm trường đại học Tây Bắc thông qua cuộc vận động
“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” .
4
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, người nghiên cứu dựa trên phương
pháp luận Chủ Nghĩa Mác – Lênin: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa
duy vật lịch sử, đồng thời thời vận dụng một số phương pháp cụ thể sau:
- Phương pháp phân tích các tài liệu
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp thống kê so sánh
- Phương pháp điều tra xã hội học
7. Đóng góp của khóa luận
Làm rõ được thực trạng đạo đức của sinh viên khối ngành sư phạm
trường đại học Tây Bắc theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Từ đó
đề ra các phương hướng và một số kiến nghị nhằm nâng cao đạo đức cho sinh
viên khối ngành sư phạm trường đại học Tây Bắc thông qua cuộc vận động
“Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
5
Chƣơng 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC VÀ TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH
VÊ ĐẠO ĐỨC
1.1. Quan niệm của chủ nghĩa Mác về đạo đức
1.1.1. Quan niệm của các nhà triết học trước Mác về đạo đức
Trước Mác, Ăngghen, những nhà triết học (kể cả duy tâm và duy vật) đều
rơi vào quan niệm duy tâm khi xem xét vấn đề xã hội và đạo đức. Họ không
thấy được tính quy định của nhân tố kinh tế đối với sự vận động của xã hội nói
chung và đạo đức nói riêng. Do vậy, đạo đức với tính cách là một lĩnh vực hoạt
động đặc thù của con người, của xã hội được nhìn nhận một cách tách rời cơ sở
kinh tế - xã hội sinh ra và quy định nó. Các nhà triết học, đạo đức trước Mác đã
tìm nguồn gốc, bản chất của đạo đức hoặc ở ngay chính bản tính của con người,
hoặc ở một bản thể siêu nhiên bên ngoài con người, bên ngoài xã hội. Nét chung
của các lý thuyết này là không coi đạo đức phản ánh cơ sở xã hội, hiện thực
khách quan.
Các nhà triết học - thần học coi con người và xã hội chẳng qua chỉ là
những hình thái biểu hiện cụ thể khác nhau của một đấng siêu nhiên nào đó.
Những chuẩn mực đạo đức là những do thần thánh tạo ra để răn dạy con người.
Mọi biểu hiện đạo đức của con người do vậy đều là sự thể hiện cái thiện tối cao
từ đấng siêu nhiên và tiêu chuẩn tối cao để thẩm định thiện - ác chính là sự phán
xét của đấng siêu nhiên đó.
Những nhà duy tâm khách quan tiêu biểu như Platon, sau là Hêghen tuy
không mượn tới thần linh, nhưng lại nhờ tới “ý niệm” hoặc “ý niệm tuyệt đối lý
giải nguồn gốc và bản chất đạo đức suy cho cùng, cũng tương tự như vậy.
Những nhà duy tâm chủ quan nhìn nhận đạo đức như là những năng lực “tiên
thiên” của lý trí con người. Ý chí đạo đức hay là “thiện ý” theo cách gọi của
Cantơ, là một năng lực có tính nhất thành bất biến, có trước kinh nghiệm, nghĩa
là có trước và độc lập với những hoạt động với những hoạt động mang tính xã
hội của con người.
6
Những nhà duy vật trước Mác, mà tiêu biểu là L. Phôi bách đã nhìn thấy
đạo đức trong quan hệ con người, người với người. Nhưng với ông, con người
chỉ là một thực thể trừu tượng, bất biến, nghĩa là con người ở bên ngoài lịch sử,
đứng trên giai cấp, dân tộc và thời đại.
Những người theo quan điểm Đác Uyn xã hội đã tầm thường hóa chủ nghĩa
duy vật bằng cách cho rằng những phẩm chất đạo đức của con người là đồng nhất
với những bản năng bầy đàn của động vật. Đối với họ, đạo đức về thực chất cũng
chỉ là những năng lực được đem lại từ bên ngoài con người, từ xã hội.
1.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lê Nin về đạo đức
1.1.2.1. Khái niệm đạo đức
Với tư cách là một bộ phận của tri thức triết học, những tư tưởng đạo đức
học đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy
Lạp cổ đại. Danh từ “đạo đức” bắt nguồn từ tiếng La tinh là mos (moris) - lề
thói, (moralis nghĩa là có liên quan đến lề thói, đạo nghĩa). Còn “luân lí” thường
xem như đồng nghĩa với “đạo đức” thì gốc ở chữ Hy Lạp là Êthicos nghĩa là lề
thói, tập tục. Hai danh từ đó chứng tỏ rằng, khi ta nói đến đạo đức, tức là nói đến
những lề thói tập tục và biểu hiện mối quan hệ nhất định giữa người và người
trong sự giao tiếp với nhau hàng ngày. Sau này người ta thường phân biệt hai
khái niệm, moral là đạo đức, còn Ethicos là đạo đức học. Ở phương đông, các
học thuyết về đạo đức của người Trung Quốc cổ đại bắt nguồn từ cách hiểu về
đạo và đức của họ. Đạo là một trong những phạm trù quan trọng nhất của triết
học trung Quốc cổ đại. Đạo có nghĩa là con đường, đường đi, về sau khái niệm
đạo được vận dụng trong triết học để chỉ con đường của tự nhiên. Đạo còn có
nghĩa là con đường sống của con người trong xã hội. Khái niệm đạo đức đầu
tiên xuất hiện trong kinh văn đời nhà Chu và từ đó trở đi nó được người Trung
Quốc cổ đại sử dụng nhiều. Đức dùng để nói đến nhân đức, đức tính và nhìn
chung đức là biểu hiện của đạo, là đạo nghĩa, là nguyên tắc luân lý. Như vậy có
thể nói đạo đức của người Trung Quốc cổ đại chính là những yêu cầu, những
nguyên tắc do cuộc sống đặt ra mà mỗi người phải tuân theo.
7
Ngày nay, đạo đức được định nghĩa như sau: Đạo đức là một hình thái ý
thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc, chuẩn mực xã hội, nhằm điều
chỉnh cách đánh giá và cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau và
quan hệ với xã hội, chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi sức mạnh
của truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
Theo Mác và Ăngghen, trước khi sáng lập các thứ lý luận và nguyên tắc
bao gồm cả triết học và luân lí học, con người đã hoạt động, tức là đã sản xuất ra
các tư liệu vật chất cần thiết cho đời sống. Ý thức xã hội của con người là phản
ánh tồn tại xã hội của con người. Các hình thái ý thức xã hội khác nhau tuỳ theo
phương thức phản ánh tồn tại xã hội và tác động riêng biệt đối với đời sống xã
hội. Đạo đức cũng vậy, nó là hình thái ý thức xã hội phản ánh một lĩnh vực riêng
biệt trong tồn tại xã hội của con người. Và cũng như các quan điểm triết học,
chính trị, nghệ thuật, tôn giáo, đạo đức cũng mang tính chất của kiến trúc thượng
tầng. Chế độ kinh tế xã hội là nguồn gốc của quan điểm này thay đổi theo cơ sở
đã đẻ ra nó. Bất kỳ trong thời đại lịch sử nào, người ta cũng đều được đánh giá
như vậy. Các khái niệm: thiện ác, khuôn khép và qui tắc hành vi của con người
thay đổi từ thế kỷ này sang thế kỷ khác, từ dân tộc này sang dân tộc khác. Và
trong xã hội có giai cấp thì bao giờ cũng biểu hiện lợi ích của một giai cấp nhất
định. Những khuôn khép (chuẩn mực) và qui tắc đạo đức là yêu cầu của xã hội
hoặc của một giai cấp nhất định đề ra cho hành vi mỗi cá nhân. Nó bao gồm
hành vi của cá nhân đối với xã hội (đối với tổ quốc, nhà nước, giai cấp mình và
giai cấp đối địch…) và đối với người khác. Những chuẩn mực và quy tắc đạo
đức nhất định được công luận của xã hội, hay một giai cấp, dân tộc thừa nhận.
Ví dụ: Thích ứng với chế độ phong kiến, dựa trên cơ sở bóc lột những người
nông nô bị cột chặt vào ruộng đất là đạo đức chế độ nông nô. Thích ứng với chế
độ tư bản, dựa trên cơ sở bóc lột người công nhân làm thuê là đạo đức tư sản.
Chế độ xã hội chủ nghĩa tạo ra một nền đạo đức biểu hiện mối quan hệ hợp tác
trên tình đồng chí và quan hệ tương trợ xã hội chủ nghĩa của những người lao
động đã được giải phóng khỏi ách bóc lột. Như vậy, sự phát sinh và phát triển
8
của đạo đức, xét đến cùng là một quá trình do sự phát triển của phương thức sản
xuất quyết định.
Đạo đức là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Loài
người đã sáng tạo ra nhiều phương thức điều chỉnh hành vi con người: phong
tục, tập quán, tôn giáo, pháp luật, đạo đức…Đối với đạo đức, sự đánh giá hành
vi con người theo khuôn khép chuẩn mực và qui tắc đạo đức biểu hiện thành
những khái niệm về thiện và ác, vinh và nhục, chính nghĩa và phi nghĩa. Bất kỳ
trong thời đại lịch sử nào, người ta cũng đều được đánh giá như vậy. Các khái
niệm thiện ác, khuôn khép và qui tắc hành vi của con người thay đổi từ thế kỷ
này sang thế kỷ khác, từ dân tộc này sang dân tộc khác. Và trong xã hội có giai
cấp thì bao giờ cũng biểu hiện lợi ích của một giai cấp nhất định. Những khuôn
khép (chuẩn mực) và qui tắc đạo đức là yêu cầu của xã hội hoặc của một giai
cấp nhất định đề ra cho hành vi mỗi cá nhân. Nó bao gồm hành vi của cá nhân
đối với xã hội (đối với tổ quốc, nhà nước, giai cấp mình và giai cấp đối địch…)
và đối với người khác. Những chuẩn mực và quy tắc đạo đức nhất định được
công luận của xã hội, hay một giai cấp, dân tộc thừa nhận. Ở đây quan niệm của
cá nhân về nghĩa vụ của mình đối với xã hội và đối với người khác (khuôn khép
hành vi) là tiền đề của hành vi đạo đức của cá nhân. Đã là một thành viên của xã
hội, con người phải chịu sự giáo dục nhất định về ý thức đạo đức, một sự đánh
giá đối với hành vi của mình và trong hoàn cảnh nào đó còn chịu sự khiển trách
của lương tâm…Cá nhân phải chuyển hóa những đòi hỏi của xã hội và những
biểu hiện của chúng thành nhu cầu, mục đích và hứng thú trong hoạt động của
mình. Biểu hiện của sự chuyển hóa này là hành vi cá nhân tuân thủ những ngăn
cấm, những khuyến khích, những chuẩn mực phù hợp với những đòi hỏi của xã
hội…Do vậy sự điều chỉnh đạo đức mang tính tự nguyện, và xét về bản chất,
đạo đức là sự lựa chọn của con người.
Đạo đức là một hệ thống các giá trị. Giá trị là đối tượng của giá trị học
(giá trị học phân loại các hiện tượng giá trị theo quan niệm đã được xây dựng
nên một cách truyền thống về các lĩnh vực của đời sống xã hội, các giá trị vật
chất và tinh thần, các giá trị sản xuất, tiêu dùng, các giá trị xã hội – chính trị,
9
nhận thức, đạo đức, thẩm mỹ, tôn giáo). Đạo đức là một hiện tượng xã hội,
mang tính chuẩn mực: mệnh lệnh, đánh giá rõ rệt. Các hiện tượng đạo đức
thường biểu hiện dưới hình thức khẳng định, hoặc là phủ định một hình thức
chính đáng, hoặc không chính đáng nào đó. Nghĩa là nó bài tỏ sự tán thành hay
phản đối trước thái độ hoặc hành vi ứng xử của các cá nhân, giữa cá nhân với
cộng đồng trong một xã hội nhất định. Vì vậy, đạo đức là một nội dung hợp lệ
thống trị xã hội. Sự hình thành phát triển và hoàn thiện hệ thống trị đạo đức
không tách rời sự phát triển và hoàn thiện của ý thức đạo đức và sự điều chỉnh
đạo đức. Nếu hệ thống giá trị đạo đức phù hợp với sự phát triển, tiến bộ, thì hệ
thống ấy có tính tích cực, mang tính nhân đạo. Ngược lại, thì hệ thống ấy mang
tính tiêu cực, phản động, phản nhân đạo.
1.1.2.2. Cấu trúc của đạo đức
Đạo đức vận hành như là một hệ thống tương đối độc lập của xã hội. Cơ
chế vận hành của nó được hình thành trên cơ sở liên hệ và tác động lẫn nhau của
những yếu tố hợp thành đạo đức. Khi phân tích cấu trúc của đạo đức người ta
xem xét nó dưới nhiều góc độ. Mỗi góc độ cho phép chúng ta nhìn ra một lớp
cấu trúc xác định. Chẳng hạn: xét đạo đức theo mối quan hệ giữa ý thức và hoạt
động thì hệ thống đạo đức hợp thành từ hai yếu tố ý thức đạo đức và thực tiễn
đạo đức. Nếu xét nó trong mối quan hệ giữa người và người thì người ta nhìn ra
quan hệ đạo đức. Nếu xét theo quan điểm về mối quan hệ giữa cái chung và cái
riêng, cái phổ biến cái đặc thù với cái đơn chất thì đạo đức được tạo nên từ đạo
đức xã hội và đạo đức cá nhân.
Đạo đức là sự thống nhất biện chứng giữa ý thức về hệ thống những
nguyên tắc, chuẩn mực, hành vi phù hợp với những quan hệ đạo đức đều có
những ranh giới của hành vi và những quan hệ đạo đức đang tồn tại. Mặt khác,
nó còn bao trùm cả những cảm xúc, những tình cảm đạo đức con người. Trong
quan hệ giữa người và người về mặt đạo đức đều có những ranh giới của hành vi
và giá trị đạo đức. Đó là ranh giới giữa cái thiện và cái ác, giữa chủ nghĩa cá
nhân ích kỷ và tinh thần tập thể. Về mặt giá trị của hành vi đạo đức cũng có ranh
giới: lao động là hành vi thiện. Ăn bám bóc lột là vô nhân đạo. Ngay cả trong
10
một hành vi thiện mức độ giá trị của nó không phải lúc nào cũng ngang nhau,
mà có những thang bậc nhất định (cao cả, tốt, được). Ý thức đạo đức là sự thể
hiện thái độ nhận thức của con người trước hành vi của mình trong sự đối chiếu
với hệ thống chuẩn mực hành vi và những qui tắc đạo đức xã hội đặt ra; nó giúp
con người tự giác điều chỉnh hành vi và hoàn thành một cách tự giác, tự nguyện
những nghĩa vụ đạo đức. Trong ý thức đạo đức còn bao hàm cảm xúc, tình cảm
đạo đức của con người. Tóm lại, ý thức đạo đức (về mặt cấu trúc) gồm tri thức
đạo đức, tình cảm đạo đức và ý chí đạo đức. Thực tiễn đạo đức là hoạt động của
con người do ảnh hưởng của niềm tin, ý thức đạo đức, là quá trình hiện thực hoá ý
thức đạo đức trong cuộc sống. Ý thức và thực tiễn đạo đức luôn có quan hệ biện
chứng với nhau, bổ sung cho nhau tạo nên bản chất đạo đức con người, của một
giai cấp, của một chế độ xã hội và của một thời đại lịch sử. Ý thức đạo đức phải
được thể hiện bằng hành động thì mới đem lại những lợi ích xã hội và ngăn ngừa
cái ác. Nếu không có thực tiễn đạo đức thì ý thức đạo đức không đạt tới giá trị, sẽ
rơi vào trừu tượng theo kiểu các giáo lý của tôn giáo.Thực tiễn đạo đức được biểu
hiện như sự tương trợ, giúp đỡ, cử chỉ nghĩa hiệp, hành động nghĩa vụ…Thực tiễn
đạo đức là hệ thống các hành vi đạo đức của con người được nảy sinh trên cơ sở
của ý thức đạo đức.
Quan hệ đạo đức là hệ thống những quan hệ xác định giữa con người và
con người, giữa cá nhân và xã hội về mặt đạo đức. Quan hệ đạo đức là một dạng
quan hệ xã hội, là yếu tố tạo nên tín hiệu thực của bản chất xã hội của con
người. Các quan hệ đạo đức không chỉ hình thành nên giữa các cá nhân, mà còn
giữa cá nhân với xã hội, với những mặt riêng biệt của xã hội (chẳng hạn: với lao
động, với văn hoá tinh thần) trong chừng mực những mặt này liên quan đến các
lợi ích chứa đựng trong các mối quan hệ này. Quan hệ đạo đức được hình thành
và phát triển như những qui luật tất yếu của xã hội, nó xác định những nhu cầu
khách quan của xã hội, nó “tiềm ẩn” trong các quan hệ xã hội. Quan hệ đạo đức
tồn tại một cách khách quan và luôn luôn biến đổi qua các thời đại lịch sử và
chính nó là một trong nhữg cơ sở để hình thành nên ý thức đạo đức.
11
Ở góc độ xã hội : đạo đức là một hình thái ý thức xã hội đặc biệt được
phản ánh dưới dạng những nguyên tắc , yêu cầ u, chuẩ n mực điề u chỉnh (hoă ̣c chi
phố i) hành vi của con người trong các mối quan hệ giữa con người với tự nhiên
với xã hô ̣i, giữa con người với nhau và với chiń h bản thân miǹ h . Đạo đức xã hội
là sự phản ánh tồn tại xã hội của cộng đồng người xác định, và là phương thức
điều chỉnh hành vi của các cá nhân thuộc cộng đồng nhằm hình thành; phát triển
hoàn thiện tồn tại xã hội ấy. Đạo đức xã hội được hình thành trên cơ sở cộng
đồng về lợi ích và hoạt động của cá nhân thuộc cộng đồng. Nó tồn tại như là một
hệ thống kinh nghiệm xã hội mang tính phổ biến của đời sống đạo đức của cộng
đồng. Đạo đức cá nhân là đạo đức của những cá nhân riêng lẻ của cộng đồng,
phản ảnh và khẳng định tồn tại xã hội của các cá nhân ấy như là thể hiện riêng lẻ
của tồn tại xã hội của cộng đồng về lợi ích và hoạt động của các cá nhân.
Ở góc độ cá nhân : đạo đức chính là những phẩm chất , nhân cách của con
người, phản ánh ý thức , tình cảm, ý chí, hành vi, thói quen và cách ứng xử của
họ trong các mố i quan hê ̣ giữa con người với tự nhiên , với xã hô ̣i, giữa bản thân
họ với người khác và trong đời sống xã hội , đòi hỏi tất yếu mỗi người phải ý
thức được ý nghĩa, mục đích hoạt động của mình trong quá khứ, hiện tại và
tương lai. Những hoạt động đó bao giờ cũng có sự chi phối của những quan hệ
giữa các cá nhân, cá nhân và xã hội. Những mối quan hệ đó qui định giới hạn
nhất định nhằm đảm bảo lợi ích của cộng đồng và xã hội. Những qui định này tự
giác tạo thành động lực cho phát triển xã hội. Đó là các qui tắc, chuẩn mực hoàn
toàn tự giác trong hành động của mỗi cá nhân trong tất cả các quan hệ xã hội.
Nói cách khác, đó chính là đạo đức của con người trong xã hội. Trong hoạt động
thực tiễn và nhận thức của mình, các cá nhân thu nhận đạo đức xã hội như là hệ
thống kinh nghiệm xã hội, những lí tưởng, chuẩn mực, tư tưởng, đánh giá đạo
đức đã được hình thành nên trong lịch sử cộng đồng, biến kinh nghiệm xã hội
thành kinh nghiệm bản thân… Trước mắt cá nhân đạo đức xã hội tồn tại một
cách khách quan mà trong cuộc sống của mình, cá nhân tất yếu phải nhận thức,
tiếp thu và thực hiện.
12
Đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân là sự thống nhất biện chứng giữa cái
chung và cái riêng, giữa cái phổ biến, cái đặc thù và cái đơn nhất. Đạo đức cá
nhân là sự biểu hiện độc đáo của đạo đức xã hội, nhưng không bao hàm hết thảy
mọi nội dung, đặc điểm của đạo đức xã hội. Mỗi cá nhân tiếp thu lĩnh hội đạo
đức xã hội khác nhau và ảnh hưởng đến đạo đức xã hội cũng khác nhau. Đạo
đức xã hội không thể là số cộng của đạo đức cá nhân mà nó tổng hợp những nhu
cầu phổ biến được đúc kết thành những tinh hoa của đạo đức cá nhân. Nó trở
thành cái chung của một giai cấp, một cộng đồng xã hội, một thời đại nhất định,
nó được duy trì và cũng cố bằng những phong tục, tập quán, truyền thống,
những di sản văn hóa vật chất và tinh thần, được biến đổi phát triển thông qua
hoạt động sản xuất tinh thần và giao tiếp xã hội. Quan hệ đạo đức xã hội và đạo
đức cá nhân là quan hệ giữa những chuẩn mực chung mang tính phát triển đặc
thù trong từng xã hội với những phẩm chất hành vi những yêu cầu cụ thể hàng
ngày, quan hệ giữa lý tưởng xã hội và hiện thực của cá nhân, giữa trí tuệ, tri thức
xã hội với tình cảm, ý chí và năng lực hoạt động đạo đức cụ thể của cá nhân.
Tóm lại cấu trúc của đạo đức bao gồm các yếu tố: ý thức và thực tiễn đạo
đức, quan hệ đạo đức và đạo đức xã hội và đạo đức cá nhân. Mỗi yếu tố không
tồn tại độc lập, mà liên hệ tác động nhau, tạo nên sự vận động, phát triển và
chuyển hóa bên trong của hệ thống đạo đức.
1.1.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức
1.1.3.1. Hồ Chí Minh, lãnh tụ có nhiều cống hiến về tư tưởng đạo đức cách
mạng
Hồ Chí Minh bắt đầu sự nghiệp cứu nước bằng cách giáo dục lý tưởng và
đạo đức cách mạng cho mọi người. Đồng thời, Người còn là hiện thân của đạo
đức cách mạng, nêu gương sáng cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, có một đạo đức học Hồ Chí Minh. Đó là
một bộ phận lớn của triết lý Hồ Chí Minh. Theo Giáo sư Trần Văn Giàu, trong
tất cả các lãnh tụ cách mạng thế giới ở thế kỷ XX, Cụ Hồ là người nhấn mạnh
nhiều nhất đến đạo đức. Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng chỉ giác ngộ
chính trị chưa đủ, còn phải thấm nhuần đạo đức cách mạng, đạo đức dân tộc. Có
13
nhà lãnh tụ nói: tổ chức tăng sức mạnh 10 lần; Cụ Hồ dạy: đạo đức tăng sức
mạnh gấp bội.
Ở Hồ Chí Minh có sự thống nhất hoà quyện giữa chính trị, đạo đức, văn
hoá, nhân văn: một nền chính trị rất đạo đức, rất văn hoá và đạo đức, văn hoá lại
rất chính trị. Tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết là tư tưởng chính trị, định hướng
chính trị nhưng dễ dàng tìm thấy một đạo đức trong sáng, một chủ nghĩa nhân
văn hoàn thiện, một nền văn hoá của tương lai. Vấn đề này nằm trong vấn đề
kia, gắn bó với nhau, nâng lên, gộp lại thành chất “người” hay trình độ “người”
như cách nói của Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp. Tư tưởng đạo đức “nước
lấy dân làm gốc” lại nhằm phục vụ cho sự nghiệp chính trị vì nước, vì dân. Hoặc
“trung với nước, hiếu với dân” là một tư tưởng chính trị đồng thời cũng là một
phẩm chất cơ bản của tư tưởng đạo đức. Sự thống nhất trong tư tưởng đạo đức
Hồ Chí Minh còn là sự thống nhất giữa tư tưởng và hành động, nói đi đôi với
làm; giữa đức và tài; giữa đạo đức cách mạng và đạo đức đời thường.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh xem xét một cách toàn diện đối với
mọi giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động, đặc biệt là cán bộ, đảng viên. Người
yêu cầu rèn luyện đạo đức trong các môi trường gia đình, công sở, xã hội. Tấm
gương và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh có giá trị to lớn, lâu dài trong phạm vi
dân tộc và quốc tế. Người đề cập đạo đức trong nhiều mối quan hệ khác nhau,
nhưng chủ yếu là các mối quan hệ với mình, với người và với việc.
1.1.3.2. Bản chất, đặc điểm tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức mới, đạo đức cách mạng, tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh trong sáng, suốt đời tận trung với nước, tận hiếu với dân, suốt
đời tranh đấu cho Đảng, cho cách mạng. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh luôn
đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích của cá
nhân mình. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết hợp đạo đức truyền thống
của dân tộc với tinh hoa đạo đức của nhân loại, giữa phương Đông với phương
Tây, được hình thành và phát triển từ yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc
Việt Nam.
14
Hồ Chí Minh đánh giá cao đạo đức truyền thống dân tộc, đó là những đức
tính sống có tình có nghĩa, có thủy có chung, có nhân có đức, có trước có sau,
biết trung, biết hiếu. Hồ Chí Minh nhấn mạnh những yếu tố tích cực của đạo đức
Nho giáo như: dân là gốc của nước; dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh.
Người nhắc đến những mệnh đề “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, tứ hải giai huynh
đệ” và đề cao thuyết “đại đồng” của Nho giáo. Người cho rằng, “đạo đức của
Khổng tử là hoàn hảo”; “người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về
mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử, và về mặt cách mạng
thì cần đọc các tác phẩm của Lênin”. Theo Người, Khổng giáo là một thứ khoa
học về kinh nghiệm đạo đức và phép ứng xử. Khổng tử có ưu điểm là tu dưỡng
đạo đức cá nhân. Vì vậy, tuy Khổng tử là phong kiến, song những điều hay
trong đó thì ta nên học lấy. Mặt khác, Người chỉ ra nhiều tiêu cực như Khổng
giáo căn bản là sự bình yên trong xã hội, không bao giờ thay đổi. Học thuyết đạo
đức Nho giáo nhằm phụng sự quyền lợi cho giai cấp phong kiến, đi ngược lại lẽ
tiến hoá của lịch sử và lợi ích của nhân dân. Rõ ràng là giữa Hồ Chí Minh và
đạo đức Nho giáo có nhiều khác biệt. Nhận thức đúng đắn vấn đề này để thấy
rằng, Người nhấn mạnh tác dụng to lớn của đạo đức cách mạng, tiếp thu, trân
trọng mặt tích cực, phê phán mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo.
Ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin thực sự đem đến cho Hồ
Chí Minh một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Người nâng cao đạo
đức truyền thống của dân tộc, chắt lọc tinh hoa đạo đức phương Đông, phương
Tây để xây dựng một nền đạo đức mới Việt Nam, tạo ra sức mạnh tinh thần to
lớn, kết hợp với sức mạnh vật chất đưa dân tộc Việt Nam đi tới những thắng lợi
vẻ vang.
1.2. Nội dung cuộc vận động và học tập làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ
Chí Minh
1.2.1. Nhận thức chung về cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh”
Tư tưởng và đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những truyền thống tốt
đẹp của dân tộc ta và tinh hoa văn hóa của nhân loại, là tài sản tinh thần vô giá
15
của Đảng và nhân dân ta; là tấm gương sáng để mọi người Việt Nam học tập và
noi theo. Nhằm làm cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta thấm nhuần và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Bộ Chính trị Ban Chấp Hành Trung
ương Đảng (khóa X) đã có chỉ thị số 06-CT/TW về tổ chức cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Đạo đức mới, đạo đức cách mạng do Chủ tịch Hồ Chí Minh đề xướng và
cùng với Đảng dày công xây dựng, bồi đắp là đạo đức mang bản chất của giai
cấp công nhân, kết hợp với những truyền thống tốt đẹp của dân tộc và những
tinh hoa đạo đức của nhân loại. Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người
cách mạng, cũng giống như gốc của cây, ngọn nguồn của sông, của suối. Người
vẫn thường nói, đối với con người, sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được
xa; người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng. Vì vậy, chăm lo xây dựng cái gốc, cái nguồn, cái nền tảng của người
cách mạng là đạo đức cách mạng phải trở thành công việc thường xuyên của
toàn Đảng, toàn dân, của mỗi gia đình và mỗi người trong xã hội ta.
Trong thời gian qua, đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân giữ vững phẩm
chất đạo đức cách mạng, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh cho độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng
viên, công chức,… suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống.
Điều đó đã làm giảm sút lòng tin của nhân dân ta, là một trong những nguy cơ
lớn đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta. Vì vậy, Bộ Chính trị ban hành
Chỉ thị số 06-CT/TW tổ chức cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh” có ý nghĩa hết sức đặc biệt.
Chính vì vậy, cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh” do Đảng ta phát động nhân dịp kỷ niệm 77 năm thành lập Đảng
(03/2/2007) có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Đây là cuộc vận động lớn được phát
động không phải chỉ trong Đảng mà còn trong cả hệ thống chính trị và trong
toàn xã hội. Cuộc vận động kéo dài trong 4 năm cho đến Đại hội XI của Đảng,
nhằm tạo ra một sự chuyển biến thực sự trong đạo đức của Đảng viên, cán bộ,
công chức và các tầng lớp nhân dân. Cuộc vận động đề cập đến cả hai mặt học
16
và làm, chủ yếu là mặt làm, mặt thực hành đạo đức. Phải lấy việc chuyển biến
đạo đức trong hệ thống chính trị làm và toàn xã hội làm, phải thực hiện cho
được một sự chuyển biến căn bản trong việc phòng và chống tham nhũng, lãng
phí, làm khâu đột phá trong việc triển khai cuộc vận động.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là học tập và làm
theo những phẩm chất đạo đức cao đẹp được thể hiện trong suốt cuộc đời Hồ
Chí Minh đã hiến dâng cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải
phóng con người. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống đạo
đức của dân tộc Việt Nam đã được hình thành, phát triển trong suốt quá trình
đấu tranh dựng nước và giữ nước; là sự vận dụng và phát triển sang tạo tư tưởng
đạo đức cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là sự tiếp thu có chọn lọc và
phát triển những tinh hoa văn hóa, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và
phương Tây, mà Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng
đầy gian lao, thử thách và vô cùng phong phú vì mục tiêu giải phóng dân tộc,
giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Những phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh được thể hiện qua những bài nói,
bài viết và đặc biệt là qua những hoạt động thực tiễn của Người. Bản thân Người
thực hiện trước nhất và nhiều nhất những tư tưởng đạo đức ấy, nhiều hơn cả
những điều Người đã viết, đã nói về đạo đức. Bất cứ người Việt Nam nào, đã
học nhiều hay học ít, cũng có thể hiểu và cảm nhận được những phẩm chất ấy vì
những điều Bác Hồ nói và làm về đạo đức không có gì cao siêu, khó hiểu mà rất
đơn giản và gần gũi với mọi người.
Gắn tính tự giác học tập, rèn luyện của mỗi cá nhân với sự đôn đốc, kiểm
tra, giám sát của tổ chức Đảng và nhân dân. Nội dung cuộc vận động gồm: tổ
chức nghiên cứu, học tập và làm theo tư tưởng đạo đức trong các tác phẩm Nâng
cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Di chúc và tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh; tập trung vào các phẩm chất “cần, kiệm, liêm, chính, chí công
vô tư”, ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân; đấu
tranh chống chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Mỗi người tự
17
liên hệ, tự phê bình, kiểm điểm cá nhân; tổ chức để quần chúng ở nơi công tác
và nơi cư trú góp ý cho cán bộ, đảng viên.
1.2.2. Những nội dung chủ yếu của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ
Chí Minh
Những nội dung chủ yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh
Theo Nghị quyết Đại hội IX, hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh gồm các nội
dung chủ yếu sau: tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người; tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; tư tưởng về sức mạnh của nhân
dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân,
xây dựng Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; tư tưởng về quốc phòng
toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; tư tưởng về phát triển kinh tế
và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân;
tư tưởng về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tư tưởng
về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; tư tưởng về xây dựng Đảng
trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân.
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện rõ nét qua những nội dung chủ
yếu sau:
* Tư tưởng Hồ Chí Minh soi sáng con đường giải phóng và phát triển của
dân tộc
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động của cách mạng Việt Nam; là sản phẩm của dân tộc và thời đại, trường
tồn, bất diệt, là tài sản vô giá của dân tộc ta. Tư tưởng của Người không chỉ tiếp
thu, kế thừa những giá trị, tinh hoa văn hóa của loài người, trong đó chủ yếu là
chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn giải đáp nhiều vấn đề của thời đại, của sự nghiệp
cách mạng Việt Nam và thế giới. Trong suốt chặng đường hơn một nửa thế kỷ,
tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành ngọn cờ dẫn dắt cách mạng nước ta đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác.
18
Trong bối cảnh của thế giới ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh giúp chúng
ta nhận thức đúng những vấn đề lớn có liên quan đến việc bảo vệ nền độc lập dân
tộc, phát triển xã hội và bảo đảm quyền con người; độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội vì lợi ích con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng vững chắc để
Đảng ta vạch ra đường lối cách mạng đúng đắn, là sợi chỉ đỏ dẫn đường cho toàn
Đảng, toàn quân, toàn dân ta, thực hiện có hiệu quả những nhiệm vụ đối với mỗi
thời kỳ cách mạng.
Thứ hai, tư tưởng Hồ Chí Minh là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc Việt
Nam. Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh là ở chỗ trung thành với những nguyên
lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin và vận dụng những nguyên lý đó vào
điều kiện cụ thể của nước ta, đề xuất những vấn đề mới do thực tiễn đặt ra và
giải quyết một cách linh hoạt, khoa học, hiệu quả, theo nguyên tắc "lý luận
không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn
cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động"
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh ở chỗ đã được kiểm nghiệm trong thực
tiễn. Ngày nay, tư tưởng đó, bao gồm một hệ thống những quan điểm lý luận, tư
tưởng về chiến lược, sách lược cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta, về sự cải biến cách mạng đối với thế giới, về đạo đức,
phong cách, phương pháp Hồ Chí Minh, về việc hiện thực hóa các tư tưởng ấy
trong đời sống xã hội... vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp đấu tranh
giải phóng trong thời đại cách mạng vô sản, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít
giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng
con người. Tư tưởng Hồ Chí Minh mãi mãi sống với chúng ta, vì đã thấm sâu vào
quần chúng nhân dân, được kiểm nghiệm qua thực tiễn cách mạng, ngày càng tỏa
sáng, chiếm lĩnh trái tim, khối óc của hàng triệu, hàng triệu con người.
* Tư tưởng Hồ Chí Minh đối với sự phát triển của thế giới
Thứ nhất, tư tưởng Hồ Chí Minh phản ánh khát vọng thời đại. C. Mác đã
khái quát: "Mỗi thời đại xã hội đều cần có những con người vĩ đại"
Ngay trong thập niên 1920, với quá trình hình thành về cơ bản tư tưởng
của mình, Hồ Chí Minh đã có những cống hiến xuất sắc về lý luận cách mạng
19
giải phóng dân tộc thuộc địa dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Đó là:
giành độc lập dân tộc để tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Người đã có những
nhận thức sâu sắc và độc đáo về mối quan hệ chặt chẽ giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng
vô sản. Đồng thời, Người chỉ rõ tầm quan trọng đặc biệt của độc lập dân tộc
trong tiến trình đi lên chủ nghĩa xã hội, về tính tự thân vận động của công cuộc
đấu tranh giải phóng của nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc, về mối
quan hệ giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa với cách mạng vô sản ở
chính quốc và về khả năng cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa nổ ra và
thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Từ nghiên cứu lý luận, áp dụng vào những điều kiện cụ thể, Hồ Chí Minh
đã hình thành một hệ thống các luận điểm chính xác và đúng đắn về vấn đề dân
tộc và cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, góp phần làm phong phú thêm
kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Việc xác định đúng đắn những vấn
đề cơ bản của cách mạng Việt Nam trong tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có cả
các vấn đề về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội, về hòa bình, hợp
tác, hữu nghị giữa các dân tộc... có giá trị to lớn về mặt lý luận và đang trở thành
hiện thực trong giải quyết nhiều vấn đề quốc tế ngày nay.
Thứ hai, tìm ra các giải pháp đấu tranh giải phóng loài người. Đóng góp
lớn nhất của Hồ Chí Minh đối với thời đại là từ việc xác định con đường cứu
nước đúng đắn cho dân tộc mình, đã chỉ ra một con đường cách mạng, một
hướng đi và tiếp theo đó là phương pháp "đại đoàn kết", "đại hòa hợp" để thức
tỉnh hàng trăm triệu người bị áp bức trong các nước thuộc địa và phụ thuộc.
Giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh đối với thế giới còn thể hiện ở chỗ,
ngay từ rất sớm, Người đã nhận thức đúng sự biến chuyển của thời đại, đặt cách
mạng giải phóng dân tộc thuộc địa vào phạm trù cách mạng vô sản và hoạt động
không mệt mỏi cho phong trào cách mạng thế giới. Người kiên quyết bảo vệ và
phát triển quan điểm của V.I. Lênin về khả năng to lớn và vai trò chiến lược của
cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa đối với cách mạng vô sản; khẳng định
bài học chung của các dân tộc. Người nhấn mạnh, trong thời đại đế quốc chủ
20