Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tiểu luận triết học sự thống nhất và đấu tranh giữa các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.15 KB, 15 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
----------

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI
SỰ THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH
GIỮA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
Giảng viên phụ trách: TS. Bùi Văn Mưa
Khóa : 26
Lớp: Tài chính 246
Nhóm học viên thực hiện:
1. Nguyễn Linh Kim Huệ (nhóm trưởng)
2. Tạ Công Quỳnh Như
3. Nguyễn Trung Thành
4. Hoàng Lê Huy Thành

TP. Hồ Chí Minh, ngày 05 tháng 01 năm 2017


BIÊN BẢN SINH HOẠT NHÓM
STT
1

2

3

4

Thời gian



Nội dung
Thống nhất đề tài nghiên cứu & xây dựng đề cương
nghiên cứu
10/11 - 23/11/2016
Đề ra kế hoạch thực hiện cho bài tiểu luận
Phân chia công việc cho từng thành viên

24/11/2016

Phần mở đầu & cơ sở lý luận
Tính tất yếu khách quan của sự tồn tại nền kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta hiện nay và mặt
thống nhất
Mặt đấu tranh
Thực trạng các thành phần kinh tế hiện nay, phương
hướng, triển vọng và kết luận

Chỉnh sửa phần cơ sở lý luận
25/11 - 18/12/2016 Chỉnh sửa phần mở đầu, kết luận
Tổng hợp bài tiểu luận
19/12/2016 –
05/01/2017

Đọc hoàn thiện bài và kiểm tra lỗi chính tả

Thành viên
Cả nhóm
Cả nhóm
Tạ Công Quỳnh Như

Hoàng Lê Huy Thành
Tạ Công Quỳnh Như
Nguyễn Linh Kim Huệ
Nguyễn Trung Thành
Tạ Công Quỳnh Như
Nguyễn Linh Kim Huệ
Nguyễn Linh Kim Huệ
Tạ Công Quỳnh Như
Nguyễn Trung Thành

Ký tên


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẤU ............................................................................................................ 1
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN...................................................................................................... 2
1. Khái niệm mâu thuẫn và quy luật thống nhất, đấu tranh của các mặt đối lập .. 2
2. Quá trình vận động của mâu thuẫn ........................................................................ 2
3. Ý nghĩa phƣơng pháp luận ....................................................................................... 3
II. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA SỰ TỒN TẠI NỀN KINH TẾ HÀNG
HOÁ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ......................................... 4
III. MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ ................................... 5
1. Mặt thống nhất .......................................................................................................... 5
2. Mặt đấu tranh ............................................................................................................ 6
IV. THỰC TRẠNG CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ NƢỚC TA HIỆN NAY ....... 7
V. PHƢƠNG HƢỚNG, TRIỂN VỌNG ...................................................................... 9
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 10
TÀI LIỆU THAM KHẢO



GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Tiểu luận triết học
PHẦN MỞ ĐẤU

Như chúng ta đã biết, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được Đảng ta đề ra
và lãnh đạo từ năm 1986. Mục tiêu của công cuộc đổi mới là phải nhanh chóng đưa đất
nước thoát khỏi tình trạng trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội, đồng thời thúc đẩy quá
trình đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Muốn vậy, một trong những nhiệm vụ đặt ra là
phải kết hợp giữa kinh tế xã hội chủ nghĩa và kinh tế phi xã hội chủ nghĩa nhằm xây
dựng nền kinh tế quá độ với một chế độ sở hữu đa dạng gồm nhiều thành phần kinh tế
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Thực tế thì vấn đề này đã được V.I.Lênin trình bày trong “Chính sách kinh tế
mới”(NEP). Tuy nhiên, trước thời kỳ đổi mới thì Đảng ta chưa nhận thức đúng vai trò
của các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, của quy luật cung – cầu,... Trong
nhận thức chủ quan, Đảng coi những vấn đề của nền kinh tế thị trường như: Thị trường
hàng hóa, kinh tế nhiều thành phần,.. là hoàn toàn xa lạ, đối lập với chủ nghĩa xã hội
và cần phải cải tạo, xóa bỏ. Vì vậy, sau những nhận thức sai lầm kèm theo những
khủng hoảng trầm trọng trước thời kỳ đổi mới thì từ Đại hội Đảng VI, Đảng đã vạch ra
đường lối đổi mới toàn diện và triệt để mà trọng tâm là đổi mới kinh tế, đường lối này
được tiếp tục phát triển và hoàn thiện trong suốt 6 kỳ đại hội tiếp theo (Đại hội VII đến
Đại hội XII). Trong đó sự tồn tại của nền kinh tế quá độ với một chế độ sở hữu đa
dạng gồm nhiều thành phần kinh tế được xác định là chiến lược phát triển lâu dài trong
công cuộc xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Sự tồn tại giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế ở nước ta hiện nay có sự
đan xen, tác động gay gắt lẫn nhau. Về mặt triết học, cần nhìn nhận rõ mặt thống nhất
và mặt đấu tranh giữa các thành phần kinh tế trong nền kinh tế Việt Nam thời kỳ quá
độ lên xã hội chủ nghĩa. Phân tích để từ đó đưa ra phương hướng giải quyết phù hợp
cho vấn đề này.
Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề trên, nhóm em đã chọn thực hiện đề tài:

“Sự thống nhất và đấu tranh giữa các thành phần kinh tế ở nƣớc ta hiện nay”.

1


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

I.

CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.

Khái niệm mâu thuẫn và quy luật thống nhất, đấu tranh của các mặt đối lập
Trong tư tưởng biện chứng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, nguồn gốc và

động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển chính là sự tác động
của mâu thuẫn lên bản thân mọi sự vật, hiện tượng, không những mang tính khách
quan và phổ biến, mà còn có tính đa dạng, phong phú. Các mâu thuẫn biện chứng khác
nhau tác động không giống nhau đến quá trình vận động, phát triển của sự vật.
Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là các mặt đối lập, các mặt này nằm trong sự liên
hệ, tác động qua lại lẫn nhau theo hướng trái ngược nhau, xung đột lẫn nhau nhưng
đồng thời lại là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau để tạo thành mâu thuẫn biện chứng.
Trong phép biện chứng, khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu
tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự
vật, hiện tượng với nhau. Chính sự đấu tranh giữa các mặt đối lập đã dẫn đến việc mâu
thuẫn bên trong của sự vật được diễn ra liên tục, mang tính khách quan và quan trọng
hơn là dẫn tới việc giải quyết mâu thuẫn từ đó làm cho sự vật phát triển.

2.

Quá trình vận động của mâu thuẫn
Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh lẫn nhau.

Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc, không
tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề
tồn tại, sự thay đổi trong mặt đối lập này tất yếu sẽ kéo theo sự thay đổi trong mặt đối
kia và ngược lại. Khái niệm đấu tranh của các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hưóng
tác động qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. Hình thức đấu tranh của
các mặt đối lập rất phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ và điều
kiện cụ thể của sự vật, hiện tượng. Quá trình thống nhất và đấu tranh của các mặt đối
lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng. Sự chuyển hóa giữa các mặt đối lập
diễn ra hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập cũng
như tùy thuộc vào những điều kiện lịch sử, cụ thể.
Khi đánh giá về tác động sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập trong
quá trình vận động, phát triển, mặc dù gắn bó chặt chẽ với nhau, song tác động của
2


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

chúng ở đây không phải lúc nào cũng như nhau, cân bằng với nhau. Theo V.I.Lênin:
“Sự thống nhất (phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau) của các mặt đối lập là có
điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh của các mặt đối lập bài trừ lẫn
nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, sự vận động là tuyệt đối”. Cụ thể là, trong
mối quan hệ giữa các mặt đối lập của mâu thuẫn khách quan, giữa chúng luôn có sự
đấu tranh với nhau. Tuy nhiên, ở từng phương diện cụ thể, từng phạm vi không gian

thời gian cụ thể, giữa các mặt đối lập vẫn có biểu hiện thống nhất với nhau. Điều đó
quy định tính tương đối của sự thống nhất của chúng với nhau.
Rõ ràng, vai trò của sự thống nhất các mặt đối lập biểu hiện như là điều kiện cần
để có thể thực hiện được cuộc đấu tranh giữa chúng và qua đó mới có thể thực hiện
được sự phát triển của bản thân sự vật. Đấu tranh là nội dung bên trong của thống nhất,
còn thống nhất là hình thức chuyển tải đấu tranh. Chỉ trên cơ sở gắn bó hữu cơ giữa
thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập thì mâu thuẫn mới có điều kiện được giải
quyết. Sự tác động qua lại dẫn đến chuyển hóa giữa các mặt đối lập là một quá trình.
Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt và phát triển thành các mặt đối
lập. Khi các mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và khi điều kiện đã
chín muồi thì chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn được giải quyết. Mâu thuẫn cũ
mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành và quá trình tác động, chuyển hóa giữa các
mặt đối lập lại tiếp diễn, làm cho sự vật, hiện tượng luôn luôn vận động và phát triển.
Bởi vậy, sự liên hệ, tác động và chuyển hóa giữa các mặt đối lập là nguồn gốc, động
lực của sự vận động và phát triển trong thế giới.
3.

Ý nghĩa phƣơng pháp luận
Vì mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và là nguồn gốc, động lực của sự

vận động, phát triển, do vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn trọng mâu
thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được bản chất,
nguồn gốc và khuynh hướng của sự vận động và phát triển. V.I.Lênin đã cho rằng: “Sự
phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận mâu thuẫn của nó... đó là
thực chất... của phép biện chứng”.
Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú, do vậy trong việc nhận thức và giải
quyết mâu thuẫn cần phải chú trọng quan điểm lịch sử - cụ thể. Tức là biết phân tích
3



Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

cụ thể từng loại mâu thuẫn và có phương pháp giải quyết phù hợp. Trong quá trình
hoạt động nhận thức và thực tiễn, cần phân biệt đúng vai trò, vị trí và những đặc điểm
của mâu thuẫn đó trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định để tìm ra phương pháp
giải quyết từng loại mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất.
II.

TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA SỰ TỒN TẠI NỀN KINH TẾ
HÀNG HOÁ NHIỀU THÀNH PHẦN Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
Quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế mới vẫn còn bị ảnh hưởng bởi

những khuyết tật của cơ chế cũ, cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp. Sự mâu
thuẫn giai cấp, mâu thuẫn về chế độ sở hữu tuy không gay gắt nhưng cũng có những
hạn chế nhất định đối với sự phát triển của xã hội. Từ Đại hội VI (1986), Đảng ta đã
đánh giá đúng đắn những tồn tại, đồng thời phân tích những sai lầm về chủ quan duy ý
chí trong những năm thực hiện cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp. Từ đó
Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới toàn diện mà trọng tâm là đổi mới kinh tế “Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu, vận hành
theo cơ chế thị trường, đi đôi với tăng cường quản lý của Nhà nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa”. Việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần xuất phát từ
các quan điểm của Đảng ta như sau:


Sự phát triển của lực lượng sản xuất còn ở trình độ thấp, nhiều trình độ khác

nhau, tương ứng với mỗi trình độ tất yếu có một kiểu quan hệ kinh tế. Do đó, nền kinh
tế xét về phương diện cơ cấu kinh tế - xã hội phải là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần
nhằm phù hợp với thực trạng của lực lượng sản xuất chưa đồng đều, khắc phục vấn đề

độc quyền.


Chỉ có khai thác và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chúng ta

mới có khả năng đẩy mạnh tăng trưởng kinh tế, huy động được mọi tiềm năng về vốn,
kỹ thuật và con người, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Có thể thấy
trong năm 2015, tốc độ tăng trưởng GDP nước ta đạt 6,68%, cao nhất kể từ năm 2008,
đồng thời lạm phát cũng chỉ tăng 2,05% trong năm 2015, tình hình sử dụng lao động
trong các doanh nghiệp trong năm cũng được cải thiện đáng kể.
Cho đến nay đã trải qua 30 năm đổi mới, thực tiễn đã chứng minh rằng, đây là
một luận điểm, một chính sách hoàn toàn phù hợp với yêu cầu khách quan, là quyết
4


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

sách chiến lược đúng đắn, sáng tạo, góp phần vào những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
lịch sử.
III.
1.

MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ
Mặt thống nhất
Cơ chế vận hành nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội

chủ nghĩa là cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch,
chính sách và các công cụ khác, dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể và sở

hữu tư nhân.
Các thành phần kinh tế nước ta có mối quan hệ chặt chẽ và thống nhất với nhau.
Chúng đều chịu sự tác động của những quy luật chung của nền kinh tế mang bản chất
xã hội chủ nghĩa, là bộ phận cấu thành của hệ thống nhân công lao động xã hội thống
nhất và cùng hướng đến mục tiêu cuối cùng là đáp ứng nhu cầu của xã hội, phát triển
nền kinh tế đất nước, đưa nước ta trở thành một nước có nền công nghiệp phát triển.
Hơn nữa, các thành phần kinh tế không biệt lập mà cùng tồn tại, sự phát triển của mỗi
thành phần đều góp phần vào sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Mỗi thành phần
kinh tế dựa trên một hình thức sở hữu nhất định về tư liệu sản xuất. Các hình thức sở
hữu về tư liệu sản xuất tuy có sự độc lập tương đối và có bản chất riêng, nhưng hoạt
động sản xuất, kinh doanh trong môi trường chung, cùng chịu tác động của các nhân
tố, các quy luật thị trường như quy luật cung – cầu. Đồng thời, các thành phần kinh tế
tác động lẫn nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh, cả tích cực và tiêu cực, sự biến
đổi của thành phần kinh tế này sẽ ảnh hưởng đến các thành phần kinh tế khác. Mặc dù
coi mỗi thành phần kinh tế ở nước ta đều có vị trí và vai trò nhất định, tuy nhiên trong
ba kỳ Đại hội Đảng gần nhất (X, XI, XII), Đảng đã khẳng định kinh tế Nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế, các chủ
thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật, thị
trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt động và
phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
Sự phát triển của các thành phần kinh tế là quá trình kết hợp về lợi ích kinh tế xã
hội, tập thể và người lao động ngày càng cao hơn, làm cho nền kinh tế nước ta phát

5


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa


triển năng động hơn và hướng tới mục tiêu chung đưa nền kinh tế Việt Nam phát triển
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2.

Mặt đấu tranh
Đứng trên quan điểm triết học duy vật biện chứng, cụ thể là quy luật mâu thuẫn

để phân tích sự đấu tranh giữa các thành phần kinh tế ở Việt Nam hiện nay.


Mâu thuẫn về hình thức sở hữu tư liệu sản xuất và các lợi ích kinh tế.
Các thành phần kinh tế mâu thuẫn với nhau vì mỗi thành phần kinh tế có đặc

điểm riêng về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất. Trên cơ sở đó, ở mỗi thành phần kinh tế
ngoài các quy luật kinh tế chung còn có các quy luật kinh tế đặc thù hoạt động, chi
phối mỗi thành phần. Mặt khác, đứng đằng sau mỗi thành phần kinh tế là các chủ thể
khác nhau. Xuất phát từ lợi ích khác nhau giữa các chủ thể mà thành phần kinh tế có
lợi ích khác nhau, chúng mâu thuẫn, cạnh tranh với nhau tạo thành động lực cho sự
phát triển. Như vậy, mỗi thành phần kinh tế mang bản chất kinh tế khác nhau, có các
lợi ích kinh tế khác nhau, thậm chí đối lập với nhau.


Mâu thuẫn giữa định hướng kinh tế xã hội chủ nghĩa và định hướng kinh tế
phi xã hội chủ nghĩa.
Hai định hướng này song song và thường xuyên tác động lẫn nhau, chi phối quá

trình phát triển nền kinh tế nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Tại Đại
hội Đảng lần thứ XII, Đảng khẳng định kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền
kinh tế. Tuy nhiên, sự phát triển của kinh tế tư nhân không đồng nghĩa với việc đi
ngược lại chủ trương xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bởi vì, việc xóa bỏ chế độ tư hữu

kiểu trước đây là trái với quy luật khách quan, vì thế sẽ không thúc đẩy mà trái lại làm
trở ngại cho sự phát triển của lực lượng sản xuất, mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh khó có thể thực hiện được. Tuy nhiên, đường lối này cũng đòi
hỏi thúc đẩy các thành phần kinh tế khác phát triển. Chỉ có như vậy mới làm cho các
thành phần kinh tế khác ngày càng mạnh lên, phát huy tốt vai trò chỉ đạo của kinh tế
Nhà nước.

6


Tiểu luận triết học


GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Mâu thuẫn về vai trò của các thành phần kinh tế và lợi ích bên trong mỗi
thành phần.
Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế: Trong nền kinh tế thị trường, tại Đại

hội lần thứ XII, Đảng xác định “các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng,
hợp tác và cạnh tranh theo pháp luật” nhưng mặt khác lại quy định kinh tế Nhà nước
vẫn giữ vai trò chủ đạo. Nếu như các thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng với
nhau thì liệu kinh tế Nhà nước có giữ được vai trò chủ đạo và ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân hay không? Do vậy, cần có các biện pháp
tích cực để kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, cũng như hướng bộ
phận sản xuất nhỏ, cá thể vào con đường làm ăn tập thể một cách phù hợp nhất.
Mâu thuẫn giữa các doanh nghiệp trong cùng một thành phần kinh tế: Mâu
thuẫn này bắt nguồn từ sự vi phạm hợp đồng, quan hệ thanh toán, chiếm dụng vốn,..
lẫn nhau. Thông thường, các doanh nghiệp có sự khác nhau trong mục tiêu chiến lược
và ưu thế cạnh tranh.

Ưu thế cạnh tranh: Những đặc tính, thông số của sản phẩm mà nhờ đó sản phẩm
nổi trội và ưu thế hơn so với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Đặc tính
này thể hiện ở: Ưu thế về chi phí và ưu thế về phân biệt hóa sản phẩm. Các ưu thế này
do doanh nghiệp áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, kiểm soát các loại chi phí như:
Chi phí quản lý, chi phí nguyên vật liệu,.. khả năng marketing, khảo sát thị trường tốt.
Mục tiêu chiến lược: Thể hiện ở ý định của doanh nghiệp trong việc khai thác ưu
thế cạnh tranh của mình trên phần lớn các phân khúc thị trường hay ở một số phân
khúc thị trường cụ thể.
THỰC TRẠNG CÁC THÀNH PHẦN KINH TẾ NƢỚC TA HIỆN NAY

IV.

Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần VI đến nay, công cuộc phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa đạt được một số kết quả sau đây:


Kinh tế Nhà nước
Hệ thống doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) ngày càng được củng cố, đạt được

nhiều thành tựu và góp phần vào quá trình đổi mới của đất nước.Tuy nhiên, vẫn còn
nhiều nhiệm vụ nêu ra chưa thực hiện hiệu quả.

7


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế Nhà nước chưa được phát huy. DNNN

đầu tư đa ngành, ít chú trọng đầu tư vào lĩnh vực chính của doanh nghiệp. Trình độ kỹ
thuật, công nghệ lạc hậu đã và đang là lực cản lớn đối với quá trình nâng cao năng
suất, chất lượng, sức cạnh tranh của DNNN. Một số DNNN hoạt động mang tính độc
quyền ảnh hưởng đến thị trường, hiệu quả sử dụng vốn nhà nước thấp, tỷ lệ nợ tăng.


Kinh tế tập thể
Trong 5 năm qua, khu vực kinh tế tập thể đóng góp vào GDP liên tục tăng từ 5%

(2012) lên 5,25% (2015). Năm 2015, giá trị sản xuất chiếm trên 6% GDP cả nước.
Khu vực kinh tế tập thể góp phần tái cấu trúc kinh tế, đặc biệt trong nông nghiệp và
xây dựng nông thôn mới... thu hút gần 30 triệu người lao động, tham gia sản xuất ở
hầu hết các lĩnh vực kinh tế.
Quy mô sản xuất các hợp tác xã còn nhỏ lẻ, tự cung, tự cấp, trang thiết bị công
nghệ còn lạc hậu, trình độ của đội ngũ quản lý còn nhiều hạn chế nên sức cạnh tranh
chưa cao...


Kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân đã phát triển rộng khắp trong cả nước; đóng góp quan trọng vào

phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm
việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn
định tình hình chính trị – xã hội của đất nước.
Đến cuối năm 2015, cả nước có hơn 500 nghìn doanh nghiệp tư nhân đang hoạt
động, đóng góp 30% ngân sách, 40% GDP. Tỷ trọng đóng góp vốn đầu tư của khu vực
kinh tế tư nhân tăng mạnh, chiếm hơn 2/3 tổng vốn đầu tư xã hội.Và tạo việc làm cho
4,72 triệu lao động, chiếm 57,1% tổng số việc làm của khu vực doanh nghiệp.



Kinh tế vốn đầu tư nước ngoài
Khu vực vốn đầu tư nước ngoài là nguồn ngoại lực quan trọng, đóng góp không

nhỏ đối với tăng trưởng và chuyển đổi cơ cấu nền kinh tế nước ta. Theo thống kê, tổng
vốn đầu tư xã hội của Việt Nam giai đoạn 2011 - 2015 đạt 31,8% GDP, trong đó FDI
đã bổ sung một nguồn vốn lớn cho tổng đầu tư xã hội. Vốn đầu tư nước ngoài đều giữ
mức tăng trưởng cao qua các thời kỳ và các năm gần đây.

8


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Và cũng là khu vực phát triển năng động nhất với tốc độ tăng trưởng GDP cao
hơn tốc độ tăng trưởng trong cả nước. Đóng góp của khu vực vốn đầu tư nước ngoài
vào GDP của Việt Nam so với mức trung bình của thế giới cao hơn 7,7% cho thấy ảnh
hưởng của FDI đối với nền kinh tế Việt Nam là rất lớn.
V. PHƢƠNG HƢỚNG, TRIỂN VỌNG
Từ lý luận và thực tiễn xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, định hướng chung để giải quyết mâu thuẫn
giữa các thành phần kinh tế là chúng ta cần tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát
triển các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp, cụ thể như sau:
Đối với kinh tế Nhà nước: Tập trung vào những lĩnh vực then chốt, thiết yếu;
những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư. Tách bạch nhiệm vụ sản xuất, kinh
doanh và nhiệm vụ chính trị, công ích, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước.
Tách chức năng chủ sở hữu tài sản, vốn của Nhà nước và chức năng quản lý nhà nước,
chức năng quản trị kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước. Kiện toàn đội ngũ cán bộ

lãnh đạo, quản lý và nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp Nhà nước phù hợp với
chuẩn mực quốc tế. Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra, kiểm soát bảo đảm công
khai, minh bạch về đầu tư, tài chính và các hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước.
Đối với kinh tế tập thể: Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động;
đẩy mạnh liên kết và hợp tác dựa trên quan hệ lợi ích, áp dụng phương thức quản lý
tiên tiến, phù hợp với cơ chế thị trường; nỗ lực phát triển kinh tế hợp tác xã trên cơ sở
phát triển và phát huy vai trò của kinh tế hộ.
Đối với kinh tế tư nhân: Tiếp tục đẩy mạnh đầu tư, phát triển, tăng cường khả
năng cạnh trạnh giữa các doanh nghiệp trong ngành và với các doanh nghiệp nước
ngoài trong giai đoạn tới; được khuyến khích phát triển ở hầu hết các ngành và lĩnh
vực kinh tế và trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế. Khuyến khích hình thành
các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế
nhà nước.

9


GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Tiểu luận triết học

Đối với kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài: Chú trọng chuyển giao công nghệ,
trình độ quản lý tiên tiến và thị trường tiêu thụ sản phẩm; chủ động lựa chọn và có
chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư nước ngoài có trình độ quản lý và công
nghệ hiện đại, có vị trí hiệu quả trong chuỗi giá trị toàn cầu, có liên kết với doanh
nghiệp trong nước.
KẾT LUẬN
Chủ trương kết hợp giữa tư hữu và công hữu trong một nền kinh tế đa dạng về
hình thức sở hữu với nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò
chủ đạo thực sự là một chủ trương đúng đắn mang tính chiến lược đối với sự phát triển

của nước ta. Chủ trương này vừa biết tính tới những thay đổi to lớn về kinh tế, chính
trị trên thế giới vừa phù hợp với thực trạng kinh tế - xã hội trong nước. Với chủ trương
này, đảm bảo không những khai thác được tốt tiềm năng, sức mạnh kinh tế trong cũng
như ngoài nước, ở mọi thành phần kinh tế bất kể là tư nhân hay Nhà nước mà còn đảm
bảo được định hướng xã hội chủ nghĩa trong công cuộc đổi mới. Điều này giải thích vì
sao sự tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần trong nền kinh tế nước ta hiện nay là tất
yếu và khách quan.
Việc phát triển kinh tế nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường với sự
định hướng, điều tiết của Nhà nước xã hội chủ nghĩa có sự thống nhất, đấu tranh giữa
các thành phần kinh tế. Các loại mâu thuẫn đó tồn tại, tác động lẫn nhau trong suốt
thời kỳ quá độ. Ở đây, sự thống nhất các thành phần kinh tế chỉ là điều kiện để cuộc
đấu tranh giữa chúng diễn ra được tốt hơn.
Để giải quyết những mâu thuẫn này tất yếu đòi hỏi phải có sự quản lý của Nhà
nước, làm tăng tính thống nhất giữa các thành phần kinh tế. Các yếu tố điều tiết của
các thành phần kinh tế khác nhau vận động và phát triển cùng chiều, cùng hướng với
yếu tố điều tiết cơ bản. Mấu chốt là sự kết hợp hài hoà các lợi ích kinh tế của các thành
kinh tế và cải cách hệ thống pháp luật phù hợp với nhu cầu phát triển, hỗ trợ hoạt động
cho các thành phần kinh tế.

10


GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

Tiểu luận triết học
TÀI LIỆU THAM KHẢO

Bộ giáo dục và đào tạo, 2009. Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa MácLênin. Hà Nội: NXB Chính trị quốc gia.
Đảng cộng sản Việt Nam, 1987. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI. Hà Nội:
NXB Sự thật.

Đảng cộng sản Việt Nam, 2006. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X. Hà
Nội: NXB Chính trị quốc gia.
Đảng cộng sản Việt Nam, 2011. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI. Hà Nội:
NXB Chính trị quốc gia.
Đảng cộng sản Việt Nam, 2016. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII. Hà
Nội: NXB Chính trị quốc gia.
Tạp chí Tài chính kỳ I tháng 1/2016 – Bộ Tài chính.
Tiểu ban Triết học, 2014. Triết học (dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành triết học). Lưu hành nội bộ Trường ĐH Kinh tế TP.HCM.
TS. Trần Nguyên Ký, 2008. Sự kết hợp giữa các mặt đối lập trong thời kỳ quá độ lên
xã hội ở Việt Nam - NXB Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
TS. Nguyễn Ngọc Thu và các cộng sự, 2004. Triết học và cuộc sống tập- NXB Chính
trị quốc gia.
Viện Mác – Lênin, 1990. Chủ nghĩa Mác Lênin và công cuộc đổi mới trong sự nghiệp
xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Hà Nội: NXB Thông tin lý luận.
Báo Nhân dân điện tử - Doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN.
< />
nen-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xhcn.html>. [Ngày truy cập: 31 tháng 07 năm
2016].
Báo Nhân dân điện tử - Đại hội đại biểu toàn quốc Liên minh HTX Việt năm lần thứ
V.


Tiểu luận triết học

GVHD: TS. Bùi Văn Mưa

< />
minh-htx-viet-nam-lan-thu-v.html>. [Ngày truy cập: 19 tháng 07 năm 2016].

Báo điện tử Nhân dân Việt – Quan điểm Đại hội XII của Đảng về phát triển kinh tế tư
nhân – một động lực quan trọng của nền kinh tế.
< />
kinh-te-tu-nhan-mot-dong-luc-quan-trong-cua-nen-kinh-te/>. [Ngày truy cập: 06 tháng
05 năm 2016].



×