Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Tiểu luận tình huống quản lý nhà nướcMột số vấn đề nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về văn hoá ở địa phương qua tình huống vi phạm quyền nhân thân của nghệ sĩ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.78 KB, 14 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Bảo vệ quyền nhân thân, thông tin, hình ảnh cá nhân, tổ chức nhất là những
người của công chúng, chính trị gia,... trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề quan trọng đòi hỏi các
cấp, các ngành, các địa phương và mọi người dân phải nghiêm chỉnh chấp hành và
tuân thủ triệt để các quy định của pháp luật nhằm một mặt bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của cá nhân, tổ chức; mặt khác, góp phần củng cố, tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Bên cạnh, những nỗ lực to lớn của Trung
ương và địa phương trong cải cách hành chính, kiện toàn tổ chức bộ máy hành
pháp,... nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về mọi mặt, thì vẫn còn
không ít những yếu, kém khuyết điểm về năng lực, phẩm chất, thái độ, ý thức trách
nhiệm của cán bộ, công chức, nhất là cán bộ, công chức trong lĩnh vực quản lý nhà
nước về văn hoá,Thể thao và Du lịch ở địa phương, ảnh hưởng đến uy tín của cơ
quan nhà nước và quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân hoặc tổ chức.
Thực trạng về tình trạng “buông lỏng quản lý”, “thiếu và khó kiểm soát” hay
thậm chí là “tắc trách” của cơ quan quản lý nhà nước, người có thẩm quyền trong
hoạt động văn hoá,Thể thao và Du lịch đã có những tác động tiêu cực đến mọi mặt,
như: Ở một số địa phương vẫn còn nhiều hình ảnh chưa văn hoá ở những nơi rất văn
hoá; sự phát triển của hoạt động kinh doanh dịch vụ trái phép trong lĩnh vực văn hoá
như danh lam, thắng cảnh, di tích, lịch sử, sách, báo, băng, hình, karaoke,...; việc giới
báo chí, truyền thông tự do khai thác đời tư cá nhân một cách quá mức, tự ý thổi
phồng sự thật nhằm thu hút sự chú ý của độc giả, công luận đã tạo ra những luồng dư
luận không tốt về đời tư, hình ảnh của một cá nhân hay một tố chức;... đã làm xấu đi
và ảnh hưởng đến tư tưởng, lối sống buông thả, xa hoa,... của một bộ phận không nhỏ
các lứa tuổi trong xã hội hiện nay. Những vấn đề này, đòi hỏi phải được quản lý và
quản lý có hiệu quả trong tình hình mới.
Trước thực trạng trên, cùng với những yêu cầu về nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý nhà nước ở địa phương theo tinh thần của Nghị quyết số 17-NQ/TW Hội nghị
lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X ngày 1/8/2007 về đẩy mạnh cải
cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước; những



yêu cầu về đổi mới cơ cấu tổ chức, phân cấp quản lý trong lĩnh vực văn hoá, Thể thao
và Du lịch; với kinh nghiệm và kiến thức được trang bị tại Trường Chính trị Hoàng
Đình Giong tỉnh Cao Bằng ngạch chuyên viên khoá 38 về khoa học quản lý và khả
năng có hạn của một công chức đang công tác tại Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch
tỉnh Cao Bằng tôi lựa chọn đề tài : “Một số vấn đề nâng cao hiệu quả quản lý nhà
nước về văn hoá ở địa phương qua tình huống vi phạm quyền nhân thân của nghệ
sĩ” làm nội dung cơ bản để nghiên cứu và viết bài tiểu luận cuối khoá.
I. Mô tả tình huống
Vấn đề quản lý nhà nước về văn hoá, Thể thao và Du lịch nói chung, và ở địa
phương nói riêng là vấn đề phức tạp, có phạm vi rộng,... Song, với những diễn biến
của dư luận xã hội về tình trạng hàng loạt các tờ báo điện tử được “khai sinh” không
có “phép” hay sự tự do của các báo chí, phóng viên trong việc xây dựng nội dung và
cung cấp thông tin thời gian qua đã làm cho dư luận rất “bất bình” về tính phản cảm
hay thiếu văn hoá của nó. Tôi xin nêu lên một trường hợp của cô Nguyễn Thị C, là ca
sĩ trong Đoàn văn công tỉnh B, tình huống xảy ra như sau:
Nguyễn Thị C tốt nghiệp trường Đại học Văn hoá Quân đội, khoa Thanh Nhạc
năm 2006, sau 5 tháng ở lại Thành phố H, Nguyễn Thị C vẫn không xin được việc
làm và cũng không trụ được ở các Phòng tra ca nhạc như các ca sĩ khác vì cô không
phải là “sao”. Tháng 02 năm 2007, cô quyết định trở về tỉnh nhà (tỉnh B) và công tác
tại Đoàn văn công tỉnh. Trong suốt hai năm cần mẫn đi hát cho Đoàn văn công của
tỉnh phục vụ các bà con ở các huyện, các xã vùng sâu, C không mua nổi cho mình
một bộ đồ “hàng hiệu” vì ngoài đồng lương ít ỏi mà Đoàn trả, C không có tiền cát xê.
Nhiều đêm, C trăn trở và suy nghĩ: “Với giọng hát như mình nếu so với một số ngôi
sao trong làng ca nhạc thì cũng chẳng kém,... Vậy sao mình lại không thể như
họ,... ?”. Rồi C cũng quyết định lựa chọn phương án “lăng xê” theo cách mà nhiều ca
sĩ vẫn làm để gây dựng “danh tiếng”. C tìm đến nhà báo Nguyễn Minh Q người cùng
tỉnh nhờ anh tạo dựng các vụ “xì căng đan” cho mình. Ban đầu chỉ là những bài báo
được đăng trên báo tỉnh ở mục tin tức với các nội dung như: “Cô ca sĩ Nguyễn Thị C
ở Đoàn văn công tỉnh B,... bị đánh ghen,...” Với những tin tức nóng nổi cùng với tấm

hình được chỉnh sửa qua kỹ thuật số để mọi người biết đến cô ca sĩ này vừa đẹp lại
2


vừa hát hay nhưng không may mắn bị “đánh nhầm”. Một thời gian sau, thấy cách
“lăng xê” kiểu này không hiệu quả, nhà báo Q quyết định tìm đến C để “lăng xê”
rộng rãi hơn. Khi nhà báo Q tìm đến nhà ca sĩ C, tình cờ bắt gặp cô ca sĩ này “đang
thân mật” với Trưởng đoàn văn công tỉnh B, nhà báo Q liền dùng máy di động để
quay toàn bộ “cảnh nóng” mà cô ca sĩ này thể hiện và về nhà sắp xếp lại, bố trí nội
dung để tung lên mạng. Sự việc đã được cư dân trên mạng “ủng hộ” nhiệt tình bằng
cách phát tán ở nhiều trang thảo luận, trang web cá nhân, blog,... với những hình ảnh
phản cảm mang nội dung “đồi truỵ” về cảnh nóng này. Chỉ khi người yêu C là Đào
Văn T đến nhà và tuyên bố khước từ hôn ước mà hai gia đình đã định ngày cưới,.. thì
C mới té ngửa mọi chuyện... Nguyễn Thị C, tìm đến nhà báo Q để đòi bồi thường về
danh dự của mình,...
II. Xác định mục tiêu xử lý tình huống
Mục tiêu xử lý tình huống tiết lộ BMĐT và phát tán hình ảnh xấu độc khi chưa
được sự đồng ý của nghệ sĩ là yêu cầu quan trọng đặt ra trong tình huống này. Về cơ
bản có thể thấy, tình huống đặt ra những đòi hỏi cần phải giải quyết như:
Thứ nhất, xử lý nghiêm khắc những vi phạm của nhà báo khi tự ý tung tin về
đời tư của ca sĩ C và vi phạm các quy định về tuyên truyền văn hoá phẩm độc hại làm
bài học để “răn đe” những hành vi vi phạm khác tương tự trong lĩnh vực này ở mọi
kênh thông tin hiện nay là rất cần thiết.
Thứ hai, cần tổ chức kiểm điểm nghiêm túc đối với bộ phận được giao trách
nhiệm quản lý của các cơ quan như Thông tin và truyền thông với Văn hoá, Thể thao
và Du lịch để từ đó tìm ra tiếng nói chung trong việc phối hợp cùng quản lý có hiệu
quả hoạt động tràn lan của các loại hình báo chí, thông tin không văn hoá, văn hoá
xấu độc,... ở mọi loại hình, mọi kênh thông tin.
Thứ ba, làm thế nào để cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá, Thể thao và Du
lịch quản lý có hiệu quả các kênh thông tin một cách có định hướng, có trọng tâm

nhằm xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam trong tình
hình mới.
Thứ tư, thông qua giải quyết tình huống này và trên cơ sở khoa học quản lý
nhà nước về văn hoá mỗi địa phương cần xây dựng và đề xuất những giải pháp và
3


kiến nghị phù hợp với sự phát triển của kinh tế-xã hội ở các địa phương trong tình
hình hiện nay.
Các nội dung trên, vừa là yêu cầu đặt ra trong quản lý nhà nước về văn hoá ở
địa phương hiện nay vừa là mục tiêu quan trọng nhằm giải quyết triệt để tình trạng vi
phạm hình ảnh, đời tư của nghệ sĩ để trục lợi của một số báo chí hiện nay.
III. Phân tích nguyên nhân và hậu quả
1. Phân tích nguyên nhân
Tình huống trên có thể phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau, nhằm tìm ra
những nguyên nhân căn bản của nó. Chẳng hạn như, dưới góc độ quản lý nhà nước về
truyền thông thì hành vi phát tán thông tin trái phép lên mạng là bất hợp pháp đòi hỏi
nhà quản lý phải tính đến để quản lý các trang web, blog,... Nếu phân tích dưới góc
độ khoa học pháp lý thì tuỳ thuộc vào hành vi của các chủ thể mà có thể xử lý theo
các trách nhiệm pháp lý khác nhau. Dưới góc độ, quản lý nhà nước về văn hoá, thì
những “cảnh nóng” bị nhà báo Q tung lên internet vừa nhằm mục đích xâm phạm
quyền nhân thân về hình ảnh, vừa thể hiện tính phi văn hoá hay tuyên truyền văn hoá
phẩm xấu độc trên mạng,... có thể được đánh giá theo những nguyên nhân khách
quan và chủ quan sau:
a) Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, các thể chế pháp lý hiện nay chưa xác định rõ phạm vi các thông tin
như thế nào thuộc về bí mật đời tư (BMĐT) của một cá nhân nói chung và của các
nghệ sĩ – những người của công chúng nói riêng.
Cho đến nay, pháp luật Việt Nam chưa có quy định rõ ràng về BMĐT là gì,
phạm vi của BMĐT là như thế nào, mà chỉ có một số quy định như trong Bộ luật Dân

sự (Ðiều 38), Luật Giao dịch điện tử (khoản 2 Điều 46) quy định quyền BMĐT của
cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ; việc thu thập, công bố thông tin, tư
liệu về đời tư cá nhân phải được người đó đồng ý, trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác; thư từ, điện thoại, điện tín, các hình thức thông tin điện tử khác của cá nhân
được bảo đảm an toàn, bí mật và việc kiểm soát các loại này được thực hiện khi pháp
luật có quy định và phải có quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
4


Điều 10 Nghị định của Chính phủ số 56/2006/NĐ-CP ngày 06/6/2006 về xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hoá thông tin quy định phạt tiền từ 1
triệu đồng đến 2 triệu đồng đối với hành vi tiết lộ BMĐT khi chưa được sự đồng ý
của người đó hoặc thân nhân của người đó trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác, nhưng Thông tư của Bộ Văn hoá và thông tin (nay gọi là Bộ Văn hoá, Thể Thao
và Du lịch) số 12/2007/TT-BVHTT ngày 29/5/2007 hướng dẫn thực hiện Nghị định
của Chính phủ số 56/2006/NĐ-CP ngày 06/6/2006 về xử phạt vi phạm hành chính
trong hoạt động văn hoá thông tin không hề có giải thích nào về thuật ngữ “BMĐT”
và như thế nào được coi là “tiết lộ BMĐT”.
Riêng Bộ luật Hình sự (Điều 125) có quy định: Người nào có hành vi trái pháp
luật xâm phạm bí mật hoặc an toàn thư tín, điện thoại, điện tín của người khác đã bị xử
lý kỷ luật hoặc xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì tùy trường hợp
sẽ bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 1 triệu đồng đến 5 triệu đồng hoặc phạt cải tạo không
giam giữ đến một năm, phạt tù đến hai năm.
Những khiếm khuyết nói trên đã dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau trong
việc xác định BMĐT của cá nhân và phạm vi của nó. Do đó, việc đưa thông tin và
nội dung của thông tin không cần sự đồng ý của cá nhân, nhất là nghệ sĩ và sự kiểm
duyệt của cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá. Tình huống trên chỉ rõ, việc ca sĩ C
muốn “lăng xê” mình cũng bằng cách tự bôi nhọ vào danh dự của mình thông qua
nhà báo Q hay việc nhà báo Q làm vẫn tưởng mình đang “lăng xê” cho ca sĩ C nên cứ
những cái gì “hót nhất”, “nóng nhất” nhằm thu hút được độc giả là tiến hành làm mà

không cần phải quan tâm đến pháp luật và dư luận. Do đó, hình ảnh phản cảm về
violip “mát mẻ” của cô ca sĩ C được nhà báo tung lên internet mà không một chút do
dự hay ngần ngại. Chính những trở ngại của thể chế pháp luật hiện hành trong việc
phân định trách nhiệm giữa cơ quan quản lý nhà nước về thông tin và truyền thông
với cơ quan quản lý nhà nước về văn hoá-thể thao và du lịch hoặc không có quy định
nào xác định về thẩm quyền và trình tự xử lý hành vi vi phạm trên,... nên dẫn đến tình
trạng “bỏ ngỏ” quản lý nhà nước về vấn đề mà tình huống nêu. Điều này khẳng định,
tính thụ động trong hoạt động quản lý nhà nước về văn hoá và cơ chế mệnh lệnh hành
chính một chiều của nền hành chính công truyền thống đã trở thành rào cản trong
5


hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Theo quy định tại Nghị định số 13/2008/NĐ-CP
của Chính phủ, ngày 02/4/2008 về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, thì Sở văn hoá-Thể thao và Du lịch
chỉ là cơ quan tham mưu cho UBND trong lĩnh vực được giao. Mặt khác, Sở Văn
hoá-Thể thao và Du lịch còn phụ thuộc vào cơ quan chuyên môn cấp trên (Bộ Văn
hoá-Thể thao và Du lịch). Cách quy định này vô hình chung đã tạo ra tính trực thuộc
hai đầu, song trùng trực thuộc và làm cho Sở luôn bị động, trông chờ và ỷ lại mà
thiếu đi tính năng động cần thiết trong hoạt động công vụ được giao.
Thứ hai, tính khách quan của mối quan hệ hữu cơ giữa nhà báo và ca sĩ trong
thời kinh tế thị trường.
Để trở thành người của công chúng thì bất kỳ một ca sĩ nào cũng đều có mối
quan hệ với các nhà báo để đăng tải những tin tức có lợi cho mình trước công chúng
– những người nuôi sống họ, còn các nhà báo thì khai thác các thông tin, hình ảnh
của nghệ sĩ nhằm mục đích kinh doanh. Vì vậy, đây được coi là mối quan hệ hữu cơ
có tính cộng sinh nhưng không phải lúc nào cũng được giải quyết một cách tốt đẹp,
bởi bên có lợi thế là các nhà báo. Quyền lực của báo chí luôn trong xã hội thông tin là
rất lớn khiến giới nghệ sĩ gần như chịu sự lệ thuộc vào họ. Các nhà báo dường như có
thể mặc sức khai thác các thông tin nhiều chiều từ phía các nghệ sĩ để tung ra những

nhận định mang tính chủ quan tuỳ thuộc vào cảm nhận của họ (yêu, ghét, đồng tình
hay không đồng tình) mà để bảo vệ hình ảnh của mình trong điều kiện thiếu cơ chế
bảo vệ như hiện nay thì im lặng chịu đựng là cách lựa chọn tốt nhất hoặc thông qua
một tờ báo khác để phản hồi lại các thông tin đó, dẫn đến báo này nói thế này, báo kia
lại nói thế khác về cùng một nghệ sĩ đã không còn hiếm thấy nữa. Mục đích của hành
động này có rất nhiều nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn là để thu lợi cho cá nhân và toà
báo của mình, bất chấp hậu quả của các thông tin được tung ra đối với cá nhân người
nghệ sĩ và với công chúng.
Thứ ba, xuất phát sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ thông tin.
Trong điều kiện bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay, nếu quản lý không tốt sẽ
bị nhiều đối tượng lợi dụng để truyền bá, tuyên truyền lối sống, hành vi xấu độc vào
môi trường xã hội Việt Nam. Việc lợi dụng công nghệ thông tin là phương tiện để
6


quảng bá, tuyền truyền về hình ảnh như trường hợp của cô ca sĩ C và nhà báo Q là
trường hợp không phải là điển hình, hưu hữu mà nó rất phổ biến trong điều kiện ở
Việt Nam hiện nay. Tình huống trên cho thấy: chỉ cần một chiếc điện thoại di động có
thể lưa giữ hình ảnh hay quay một đoạn vioclip và chỉ một “click” có thể đưa thông
điệp “mát mẻ” của cô ca sĩ C đến với xã hội và thậm chí có thể bị phát tán ra ngoài
phạm vi quốc gia. Do vậy, công nghệ thông tin phát triển chính là con dao hai lưỡi
cần phải có biện pháp để quản lý về thông tin, nhất là nội dung của các thông tin đó.
b) Nguyên nhân chủ quan
Tình huống trên, có thể đánh giá thông qua một số nguyên nhân chủ quan (phụ
thuộc vào ý chí chủ quan của con người) như sau:
Thứ nhất, hạn chế về nhận thức của cô ca sĩ C và nhà báo Q. Nhận thức về
quyền nhân thân, quyền về hình ảnh của ca sĩ C và nhà báo Q còn yếu hay thậm chí là
không có hiểu biết đã dẫn đến việc quyết định lựa chọn cách “tự bôi xấu” mình, “nói
xấu người khác” để gây sự chú ý của dư luận. Điều này thật đáng trách nhưng cũng
cần phải xử lý nghiêm khắc. Nếu như, cô ca sĩ C có sự hiểu biết thì không đến nỗi

phải lựa chọn cách “tự xâm hại danh dự” của mình để trở thành “sao” và nếu nhà báo
Q có lương tâm thì cũng không thể không hỏi qua ý kiến của cô ca sĩ trước khi tự
quyết định tung “cảnh nóng” lên internet,... ? Đây chính là nguyên nhân căn bản về
chủ quan dẫn đến những sai lầm trên.
Thứ hai, nhận thức của cộng đồng (cư dân trên internet) xã hội còn nhiều hạn
chế. Tình huống trên cho thấy, từ một vioclip nóng do nhà báo Q đưa lên mạng, chỉ
trong vài phút sau đã lan toả trên các trang Web chính thống và cá nhân; Blog và các
diễn đàn,... Không biết, những “cư dân mạng” có hiểu hành vi phát tán thông tin thiếu
văn hoá, không lành mạnh trên là vi phạm pháp luật ? hay họ biết nhưng họ vẫn làm ?
Điều này phản ánh ở một chừng mực nào đó, sự nhận thức của con người về tác hại
của do hành vi của mình gây ra còn hạn chế.
Thứ ba, năng lực, phẩm chất của đội ngũ nhà báo; của cán bộ, công chức
quản lý nhà nước trong lĩnh vực văn hoá.
Đối với các nhà báo, thường sử dụng thông tin, nhất là thông tin “nóng” để viết
bài mà họ ít để ý xem hành vi của mình có phù hợp với đạo lý, truyền thống tốt đẹp
7


của dân tộc hay không ? Nếu trong tình huống trên, các tờ báo có uy tín không “nhắc
lại” thông tin về sự kiện cô ca sĩ (mặc dù không đưa cảnh nóng lên) thì mức độ ảnh
hưởng của nó đối với xã hội cũng sẽ ít đi hay trường hợp của nhà báo Q, vì mục tiêu
thực hiện hợp đồng với cô ca sĩ C mà bất chấp mọi thủ đoạn để thêu dệt hay chớp cơ
hội để thực hiện. Mặt khác, sự kiểm soát nội dung thông tin của tờ báo tỉnh B, khi
đưa thông tin sai sự thật (lần đầu) về trường hợp cô ca sĩ C bị đánh ghen cho thấy tính
thiếu trách nhiệm và kiểm soát của Ban biên tập tờ báo nói chung và báo tỉnh B nói
riêng dẫn đến tình trạng nhà báo C đưa tin gì thì đăng thông tin đó mà không tính tới
hậu quả của việc thông tin sai.
Đối với cán bộ, công chức nhà nước về văn hoá, mặc dù họ biết những kênh
thông tin “thiếu văn hoá”, “lệch chuẩn”,... nhưng vẫn “bỏ mặc”, “thờ ơ”, hay “bàng
quan”,... Vì họ cho rằng không liên quan đến họ. Đa số những vụ việc có nội dung

gây bất bình dư luận, đi ngược lại với giá trị dân tộc, đạo đức người nghệ sĩ nhưng
vẫn “tặc lưỡi” cho qua.
2. Hậu quả
Việc báo chí đưa các thông tin về đời tư cá nhân của nghệ sĩ dẫn đến nhiều hậu
quả xấu cho cá nhân người nghệ sĩ cũng như cho xã hội và công tác quản lý nhà nước
về văn hoá. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, ảnh hưởng trực tiếp đến nhân thân của cá nhân ca sĩ C
Việc hình ảnh bị “bôi nhọ” qua đoạn vioclip là cái giá quá đắt cho sự mạo hiểm
thăng tiến của ca sĩ C. Những thiệt hại về danh dự, nhân phẩm mà bản thân cô ca sĩ
C, gia đình cô sẽ phải gánh chịu cùng với sự lên án của người thân, họ hàng, thôn
xóm và xã hội.
Thứ hai, về phía xã hội.
Đoạn vioclip có nội dung không lành mạnh trên, vô hình chung đã làm những
người biết nó, xem nó bị ảnh hưởng đến hành vi, ý thức và thái độ. Đây có thể coi là
hành động tuyên truyền văn hoá phẩm độc hại và mức độ ảnh hưởng có nó thì vô
cùng to lớn nhất là đối với tầng lớp thanh, thiếu niên trong việc học tập: từ cách lăng
xê,... đến những hành vi “đồi truỵ” mà đoạn phim tác động vào.
8


Thứ ba, về phía quản lý nhà nước. Những hệ luỵ mang tính dây truyền trong
hoạt động quản lý nhà nước về văn hoá ở địa phương là mối đe doạ nguy hiểm nhất
đến hiệu quả quản lý nhà nước. Sự thờ ờ của Sở, của cán bộ, công chức trong Sở về
“buông lỏng” kiểm soát nội dung đối với hoạt động đưa tin của các phương tiện
thông tin đại chúng,... là điều kiện gặm nhấm đạo đức, phẩm chất và năng lực của cán
bộ, công chức trong thực thi công vụ của mình. Đồng thời, sự thiếu tin tưởng của
người dân (những người phản đối cách lăng xê trên) đối với cơ quan quản lý nhà
nước và cán bộ, công chức gây nên tình trạng thiếu hợp tác và đồng thuận trong quản
lý nhà nước về văn hoá ở địa phương.
IV. Xây dựng phương án, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình

huống
4.1. Xây dựng phương án xử lý tình huống
Để giải quyết tình huống nêu trên, tiểu luận đề ra một số phương án như sau:
* Phương án 1: Tiến hành rà soát các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trang
Web, blog,... để quản lý
-Mục tiêu của phương án: Nhằm quản lý chặt chẽ nguồn thông tin khi đưa ra
công luận.
-Nội dung chính thực hiện phương án:
+ Xây dựng văn bản để chỉ đạo Sở Văn hoá-Thể thao và Du lịch và các sở khác
có liên quan nhằm tiến hành rà soát và kiểm soát các kênh thông tin theo thẩm quyền
được phân cấp.
+ Lập danh sách và quản lý các trang Web, Blog,...
+ Tiến hành xử lý những cơ quan, tổ chức, cá nhân có vi phạm.
-Nguồn lực thực hiện phương án:
+ Chi phí cho hoạt động này rất ít vì đây chính là trách nhiệm của Sở, mặt
khác, có thể sử dụng ngân sách tỉnh để bồi dưỡng cho chuyên viên tiến hành hoạt
động này.
+ Cơ quan thực hiện: Chủ tịch UBND tỉnh B ra Chỉ thị, cơ quan Sở Văn hoá có
trách nhiệm tổ chức thực hiện.
+ Thời gian tiến hành: trong 3 tháng
9


* Phương án 2: Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý các hành
vi vi phạm trong lĩnh vực tuyên tuyền văn hoá xấu độc qua các kênh thông tin,
nhất là internet
-Mục tiêu của phương án: Nhằm kịp thời phát hiện những vi phạm ngăn chặn
và xử lý kịp thời tránh tình trạng gây tác động xấu đến cộng đồng dân cư và xã hội.
-Nội dung chính thức hiện phương án:
+ Chủ động, tích cực phát hiện thông qua sự vận động người dân

+ Thường xuyên thanh tra định kỳ và đột xuất có hiệu quả
-Nguồn lực thực hiện phương án:
+ Nguồn kinh phí thực hiện phương án không đáng kể vì đây là hoạt động
thường xuyên theo nhiệm vụ được phân công, phân cấp.
+ Cơ quan thực hiện: Chánh thanh tra Sở Văn hoá-Thể thao và Du lịch tiến
hành chỉ đạo, tổ chức các đợt thanh tra, kiểm tra theo kế hoạch và thanh tra viên và
các bộ phận có liên quan tiến hành theo nhiệm vụ được giao.
+ Thời gian thực hiện: định kỳ 2 năm một lần/cơ quan, tổ chức và một năm tiến
hành nhiều đợt thanh tra, kiểm tra đột xuất.
* Phương án 3: Tiến hành thanh tra và xử lý nghiêm vi phạm cơ quan báo
tỉnh B, nhà báo Q và ca sĩ C
-Mục tiêu của phương án: Nhằm xử lý những hành vi vi phạm trong việc phát
tán thông tin nó nội dung không lành mạnh, không đúng quy định của Nhà nước là
bài học để răn đe các trường hợp khác ở địa phương.
-Nội dung chính thực hiện phương án:
+ Tiến hành ban hành văn bản để thanh tra
+ Tiến hành thanh tra, xác định mức độ vi phạm và xử lý vi phạm
-Nguồn lực thực hiện phương án:
+ Nguồn kinh phí thực hiện phương án không đáng kể vì phải chi cho cộng tác
viên (kỹ thuật viên) trong trường hợp xác định hành vi vi phạm.
+ Cơ quan thực hiện: Chánh thanh tra, thanh tra viên, chính quyền cơ sở nơi
toà báo tỉnh B có trụ sở, nơi nhà báo và ca sĩ cư trú; và cộng tác viên.
+ Thời gian tiến hành: từ 20 đến 30 ngày.
10


4.2. Phân tích và lựa chọn phương án giải quyết
Ba phương án trên đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định. Song,
chúng đều có một mục đích chung là nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước trong lĩnh vực văn hoá. Tuy nhiên, tình huống trên đòi hỏi phải được giải quyết

triệt để và đúng mục đích đã đặt ra. Theo đó, có thể thấy:
Nếu lựa chọn phương án 1, có nhiều ưu điểm trong việc quản lý, quản lý có
hiệu quả và kiểm soát được các hoạt động tuyên truyền văn hoá hiện nay. Tuy nhiên,
thời gian tiến hành xây dựng kế hoạch, rà soát và chuẩn bị có thể mất nhiều. Mặt
khác, tình huống này giải quyết vấn đề cơ bản của quản lý hiện nay nên chỉ là giải
pháp chung mang tính quan trọng mà chưa thể là giải pháp tối ưu để giải quyết yêu
cầu mà tình huống đặt ra.
Nếu lựa chọn phương án 2, có ưu điểm trong việc khắc phục và ngăn chặn
được các biểu hiện tiêu cực về nội dung tuyên truyền, định hướng của các trang Web,
blog,... Song, thời gian và nguồn nhân lực đảm bảo cho công tác thanh tra triệt để là
rào cản đến hiệu quả của giải pháp này.
Nếu lựa chọn phương án 3, có ưu điểm là giải quyết trực tiếp vấn đề mà tình
huống đặt ra, cũng như là có biện pháp giáo dục, ngăn ngừa các hành vi tuyên truyền
nội dung không đúng, xấu độc,... ảnh hưởng đến nhân thân của cá nhân, nhất là người
của công chúng. Tuy nhiên, nó cũng có hạn chế nhất định liên quan đến thái độ, trách
nhiệm của người có thẩm quyền quản lý ở chính quyền tỉnh B.
Từ những phân tích trên, tiểu luận lựa chọn phương án 3 là phương án tối ưu
để giải quyết tình huồng này.
V. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã lựa chọn
Để tổ chức thực hiện phương án 3 (phương án tối ưu), tiểu luận nêu lên các
bước phải tiến hành cơ bản sau:
Bước 1: Chánh thanh tra Sở Văn Hoá-Thể thao và Du lịch tỉnh B ra quyết
định thanh tra đột xuất các cá nhân, tổ chức có liên quan
Ban hành quyết định cá biệt về thanh tra vi phạm là thủ tục quan trọng, là cơ sở
pháp lý để tiến hành xác định vi phạm, mức vi phạm và hình thức xử lý cụ thể. Quyết
11


định thanh tra cần được xây dựng về kế hoạch thanh tra, cán bộ thanh tra, cộng tác
viên thanh tra, đối tượng thanh tra,... Thời gian tiến hành 01 ngày làm việc.

Quyết định thanh tra được lưu và giử đến các cơ quan liên quan, 01 ngày làm
việc.
Bước 2: Tiến hành tổ chức thanh tra đột xuất theo kế hoạch
Đây là bước quan trọng nhằm xác định hành vi vi phạm của các đối tượng về
tuyên truyền nội dung không lành mạnh. Có thể tổ chức thanh tra tại 03 nơi trong 01
ngày hoặc cũng có thể tiến hành thanh tra thành 03 ngày, cụ thể như:
-Tiến hành thanh tra tờ báo tỉnh B
-Tiến hành thanh tra nhà báo Q
-Tiến hành thanh tra ca sĩ C
Nhằm làm sáng tỏ hành vi cố ý tung tin sai sự thật, tuyên truyền phim ảnh
không lành mạnh trên internet,... Mỗi cuộc thanh tra cần tiến hành lập biên bản, yêu
cầu người vi phạm ký và đề xuất mức độ xử lý.
Bước 3: Chánh thanh tra mời những người vi phạm (theo biên bản thanh
tra đột xuất) đến trụ sở để giải quyết
Khâu này một lần nữa nhằm xác định lại tính chân thực, khách quan về các vi
phạm mà thanh tra viên lập. Đồng thời, đưa ra quyết định xử lý cuối cùng. Việc mời
các cá nhân và tờ báo tỉnh B có thể viết giấy vào một buổi làm việc (trừ trường hợp
các chủ thể này không đến thì phải mời không quá 03 lần).
Bước 4: Ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính và tổ chức thực hiện
quyết định (tổ chức cưỡng chế nếu có)
Đây là bước cuối cùng trong hoạt động xử lý vi phạm hành chính do cơ quan
thanh tra tiến hành. Do vậy, căn cứ vào Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính và
thẩm quyền ban hành, Chánh thanh tra ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối
với đại diện hợp pháp tờ báo tỉnh B, nhà báo Q và ca sĩ C.
Tiến hành giao cho thanh tra viên tiến hành thực hiện quyết định xử phạt vi
phạm hành chính đã ban hành.
VI. Kiến nghị
12



Qua phân tích, đánh giá và xử lý tình huống trên, có thể thấy hoạt động quản lý
nhà nước nói chung, quản lý nhà nước về văn hoá ở địa phương nói riêng còn nhiều
vấn đề cần phải được khắc phục, kiện toàn trong những năm tới. Với năng lực và khả
năng có hạn, tiểu luận mạnh dạn nêu lên một số kiến nghị với chính quyền địa
phương tỉnh B như sau:
Thứ nhất, cần tập trung đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về
văn hoá và bảo vệ nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Được thực hiện tốt
vấn đề này, Sở Văn hoá-Thể thao và Du lịch tỉnh B cần chủ động nghiên cứu, xem xét
và tham mưu cho UBND tỉnh B những nội dung cần thiết, có trọng tâm, trọng điểm
để xây dựng văn bản chỉ đạo chính quyền địa phương cấp dưới, nhất là ở cơ sở chủ
động xây dựng hình thức, xác định nội dung tuyên truyền một cách có hiệu quả.
Thứ hai, xây dựng văn bản quy phạm pháp luật theo thẩm quyền nhằm tạo ra
quy chế phối hợp giữa các cơ quan chuyên môn, cơ quan chức năng thuộc UBND
tỉnh B. Sự phối hợp thống nhất trong quản lý các lĩnh vực là điều kiện quan trọng để
khắc phục những “kẽ hở” không đáng có trong quản lý ở địa phương hiện nay.
Thứ ba, UBND tỉnh B cần chủ động phân cấp, phân cấp chức năng gắn với
trách nhiệm thực hiện nhằm bảo đảm cho chính quyền cấp dưới và các cơ quan
chuyên môn chủ động hơn nữa trong việc quản lý các hoạt động về văn hoá, thể thao
và dụ lịch ở từng đơn vị hành chính trong tỉnh.
KẾT LUẬN
Trước những tác động trái chiều của các hành vi thiếu chuẩn mực, tình trạng
xuất bản những ấn phẩm có nội dung xấu, độc; buôn bán trái phép hình ảnh văn hoá
ngoài luồng; ... và những âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng văn hoá
để thực hiện âm mưu, thủ đoạn “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ trong tình hình
mới, vấn đề quyền nhân thân, nhất là nhân thân của nghệ sĩ phải được pháp luật ghi
nhận và bảo vệ. Song, trước hết mỗi cá nhân phải có ý thức bảo vệ lấy hình ảnh, nhân
thân của mình một cách lành mạnh và hợp pháp. Đồng thời, việc tăng cường quản lý
nhằm ngăn chặn mọi hành vi lợi dụng hình ảnh cá nhân, nhân thân để thoả mãn ý chí
cá nhân của mình là yêu cầu có ý nghĩa quan trọng cả về mặt lý luận và thực tiễn
trong điều kiện hiện nay.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Bộ Văn hoá và thông tin, Thông tư số 12/2007/TT-BVHTT ngày 29/5/2007 hướng
dẫn thực hiện Nghị định của Chính phủ số 56/2006/NĐ-CP ngày 06/6/2006 về xử
phạt vi phạm hành chính trong hoạt động văn hoá thông tin;

2.

Chính phủ, Nghị định số 56/2006/NĐ-CP ngày 06/6/2006 về xử phạt vi phạm hành
chính trong hoạt động văn hoá thông tin;

3.

Chính phủ, Nghị định số 51/2002/NĐ-CP ngày 26/4/2002 quy đinh chi tiết thi hành
Luật báo chí và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật báo chí

4.

Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật Dân sự năm 2005;

5.

Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bộ luật Hình sự năm 1999;

6.


Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật Báo chí năm 1989;

7.

Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật báo chí năm 1999;

8.

Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật khiếu nại, tố cáo năm
1998;

9.

Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật khiếu nại, tố cáo năm 2004;

10.

Uỷ ban thường vụ Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
ViệtNam, Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính ngày 02 tháng 7 năm 2002;

14



×