Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước ngạch chuyên viên nâng cao tính trách nhiệm và hiệu quả quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp sản xuất có nguy cơ gây ảnh hưởng đến môi trường trên địa bàn thành phố cần thơ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.96 KB, 21 trang )

MỞ ĐẦU
Thời gian như “bóng câu qua cửa”, đến lúc sắp phải nói lời chia tay tôi mới cảm
nhận được hết những tình cảm, những điều quí giá mà tôi có được từ lớp bồi dưỡng kiến
thức quản lý Nhà nước ngạch chuyên viên chính.
Thực hiện chủ trương cải cách của Thủ tướng Chính phủ, quyết định số
161/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ban hành ngày 04/8/2003 và Quyết
định số 13/2006/QĐ-BNV của Bộ Nội vụ ngày 06/10/2006 Ban hành quy định các
chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước đối với cán
bộ, công chức (giai đoạn 2006 – 2010), Ủy ban nhân dân Thành phố Cần Thơ phối
hợp với Học viện Hành chính Quốc gia tổ chức lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà
nước ngạch chuyên viên chính tại trường Chính trị Thành phố Cần Thơ từ tháng 6
đến tháng 8 năm 2009.
3 tháng qua, tôi và các học viên của lớp học được truyền đạt 3 khối kiến thức
lớn: Nhà nước và pháp luật, hành chính Nhà nước và công nghệ hành chính, quản lý
Nhà nước đối với ngành, lĩnh vực. Gồm có 27 chuyên đề: Những vấn đề cơ bản về hệ
thống cơ quan Nhà nước, pháp luật và pháp chế XHCN, kỹ năng giao tiếp trong quản
lý hành chính Nhà nước, tin học hóa hành chính, quản lý Nhà nước về kinh tế, quản
lý Nhà nước về đô thị, tổng quan về các vấn đề xã hội…Những kiến thức, thông tin
của thầy cô và các học viên cùng lớp đã giúp tôi cập nhật, nắm chắc hơn kiến thức cơ
bản về quản lý Nhà nước, cũng như những kỹ năng, kinh nghiệm thực tiễn trong từng
lĩnh vực để từ đó ứng xử và xử lý công việc nhanh, hiệu quả, đúng theo chủ trương,
đường lối của Đảng và nhà nước, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
Những năm gần đây, thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, chiến lược, thể
chế của Nhà nước về phân cấp quản lý, tổ chức và quản lý có hiệu quả công tác bảo
đảm vệ sinh môi trường, nhất là ở khu đô thị, nơi tập trung dân cư đông đúc, thành phố
Cần Thơ đã xây dựng và tổ chức thực hiện thành công nhiều dự án, quy hoạch, kế
hoạch nhằm cải thiện và bảo vệ môi trường trên địa bàn Thành phố. Chẳng hạn như:
dự án Cần thơ xanh, dự án xử lý nước thải, dự án nâng cấp đô thị. Nhiều hoạt động có
ý nghĩa khác được thực hiện thường xuyên như ngày chủ nhật xanh, thứ bảy tình
nguyện, thi đua xây dựng khu dân cư xanh- sạch- đẹp,…
1




Song, nhìn chung công tác bảo vệ môi trường vẫn còn tồn tại nhiều bất cập cả về
phạm vi và lĩnh vực quản lý được phân công, phân cấp. Chẳng hạn như, công tác thu
gom rác thải ở các huyện nông thôn còn chưa được quan tâm; công tác xử lý rác thải
chưa theo đúng tiêu chuẩn và quy trình; hoạt động quản lý nhà nước đối với các cơ sở
sản xuất, kinh doanh còn buông lỏng, trình độ quản lý của đội ngũ cán bộ, công chức
còn chưa “xứng tầm”,... đã tạo ra những ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển bền vững
kinh tế, trật tự an toàn xã hội và đời sống, sức khỏe của nhân dân. Thực trạng, về số
lượng lớn những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trên địa bàn Thành phố có báo cáo đánh
giá tác động môi trường nhưng không thực hiện, hoặc thực hiện không triệt để đã làm
cho tình hình ô nhiễm môi trường trên các con sông, rạch,... luôn ở tình trạng báo động
về ô nhiễm nặng các hóa chất, tạp chất và mùi hôi, thậm chí ảnh hưởng trực tiếp đến
nguồn nước sinh hoạt và môi trường sống của các hộ dân cư.
Đứng trước thực trạng trên, với những hạn chế nhất định của bản thân, tiểu luận
lựa chọn đề tài: “Nâng cao tính trách nhiệm và hiệu quả quản lý nhà nước đối với
các doanh nghiệp sản xuất có nguy cơ gây ảnh hưởng đến môi trường trên địa
bàn Thành phố Cần Thơ” làm nội dung cơ bản để viết bài tiểu luận cuối khóa. Với
mục tiêu làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản của quản lý nhà nước về môi trường ở địa
phương cả về lý luận và thực tiễn, từ đó góp phần xây dựng phương án xử lý, giải pháp
ngăn chặn, phòng ngừa kịp thời những hành vi vi phạm về môi trường của các doang
nghiệp trên địa bàn. Đồng thời, hướng đến hoàn thành mục tiêu xây dựng một thành
Thành phố “xanh”, phát triển bền vững trong những năm tới.
Do hạn chế về thời gian và nhận thức nên những vấn đề tiểu luận nêu lên sẽ
không tránh khỏi những sai sót, phiếm khuyết, rất mong thầy cô và bạn đọc góp ý.
PHẦN NỘI DUNG
I. GIỚI THIỆU TÌNH HUỐNG
Câu chuyện xảy ra khi nhiều hộ dân sống dọc theo các triền sông, rạch ở
phường Thới Thuận, quận đầu nguồn Thốt Nốt thành phố Cần Thơ kéo đến trụ sở Ủy
ban nhân phường, rồi phòng Tài nguyên và Môi trường quận cùng các cơ quan có

thẩm quyền của thành phố trình báo, yêu cầu có biện pháp xử lý nhà máy của công ty
TNHH Đ thuộc tập đoàn NV hoạt động sản xuất xả thải trực tiếp ra sông, rạch gây ô
2


nhiễm môi trường nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước, sức khỏe của
các hộ gia đình nơi đây. Qua khảo sát, có thể thấy diễn biến vụ việc như sau:
Tập đoàn NV là đơn vị đứng đầu trong làng thủy sản Việt Nam, Nhà máy của
công ty TNHH Đ thuộc tập đoàn NV chuyên chế biến sản phẩm tra xuất khẩu, thức
ăn gia súc, dầu cá, bột cá… đi vào hoạt động từ tháng 2 năm 2006 tại khu công
nghiệp - tiểu thủ công Thốt Nốt. Ngày nhà máy được khánh thành, không chỉ lãnh
đạo chính quyền sở tại mà hầu hết người dân ở địa phương đều rất vui mừng. Người
lao động có thêm việc làm, những hộ nuôi cá tra ở địa phương cảm thấy nhẹ lo vì đã
có đầu ra… Đầu năm 2007, tập đoàn NV tiếp tục đầu tư xây dựng khu nhà xưởng
mới, công suất 700 tấn cá nguyên liệu/ngày. Đến tháng 7 năm 2008 nhà máy của
Công ty D & A bắt đầu hoạt động. Chưa hết mừng, nỗi lo sầm sập đến, ngủ một đêm
thức dậy ra sông lấy nước, bà con không khỏi giật mình. Nước bị đổi màu, mặt nước
toàn mỡ cá, bốc mùi tanh nồng. Mùi hôi thối từ khu sản xuất lan rộng gây buồn nôn,
khó chịu. Bà con phản ánh nhưng công ty vẫn thải nước thải trực tiếp ra vàm rạch
Rạp và sông Hậu. Nhà ở cách xa nơi sản xuất hàng cây số vẫn thấy hôi. Người dân ở
Thới Thuận đành phải làm đơn trình báo vụ việc với cơ quan quản lý Nhà nước ở địa
phương. Chính quyền và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở quận cử cán bộ đến
làm việc với lãnh đạo của công ty, nhưng người đại diện của đơn vị viện lý do không
tiếp. Tuần sau, đoàn kiểm tra của địa phương do Chánh thanh tra Sở Tài nguyên &
Môi trường thành phố làm trưởng đoàn đến công ty TNHH Đ kiểm tra toàn bộ khu
sản xuất và nơi tiếp giáp với bờ sông. Kết quả kiểm tra cho thấy những điều bà con
phản ánh là có thật. Đoàn kiểm tra còn phát hiện đơn vị này chưa có báo đánh gia tác
động môi trường và trong khu vực sản xuất rộng lớn hàng chục ngàn mét vuông
không có hệ thống xử lý nước thải dù là đơn giản nhất. Toàn bộ nước thải chưa qua
xử lý theo rãnh nước xả thẳng ra sông, rạch. Tại khu nhà xưởng chế biến cũng không

có hệ thống xử lý khí thải, vì vậy mùi hôi thối khuyếch tán trong môi trường diện
rộng, chủ yếu là do công đoạn sấy xương cá, làm theo phương pháp thủ công nên rất
hôi. Đoàn thanh tra kết luận, Công ty D & A đã vi pham pháp luật Bảo vệ môi trường,
ở điều 18 Luật Bảo vệ môi trường. Đoàn lập biên bản vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường và báo cáo vụ việc với lãnh đạo Ủy ban nhân dân thành phố.
3


Theo sự chỉ đạo của thường trực Ủy ban nhân dân thành phố, Chánh thanh tra Sở Tài
nguyên và Môi trường ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính với hình thức xử
phạt chính là 20 triệu đồng; buộc đơn vị phải lập báo cáo đánh giá tác động môi
trường, khắc phục ô nhiễm, xây dựng hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi
trường Việt Nam. Công ty Đ chấp hành nộp phạt, đầu tư làm hệ thống xử lý khí thải
và khu xử lý nước thải công suất 3.500m3/ ngày, nhanh chóng đưa vào vận hành.
Nhưng không bao lâu người dân ở Thốt Nốt tiếp tục khiếu nại. Cơ quan chức năng
đến kiểm tra và lấy mẫu nước xét nghiệm. Kết quả các chỉ tiêu đều vượt rất cao so
với tiêu chuẩn cho phép. Công ty Đ cũng chưa thực hiện báo cáo giám sát định kỳ
cho phòng quản lý Tài nguyên và Môi trường quận Thốt Nốt. Tháng giêng năm 2008,
đơn vị tiếp tục bị lập biên bản vi phạm hành chính. Tổng số tiền bị xử phạt là
12.500.000 đồng cùng các biện pháp khắc phục. Lãnh đạo công ty cam kết khắc phục
trong thời gian sớm nhất.
Thế nhưng khi khu sản xuất thứ hai tại của tập đoàn NV tại thốt Nốt hoạt động,
tình trạng ô nhiễm nguồn nước còn nghiêm trọng hơn, nhất là đoạn tiếp giáp với
nguồn nước thải và các con rạch: Bò Ót, Trại Mai và rạch Rạp. Phần lớn những hộ
dân sống ở đây đều nghèo khó. Có đến 70% trong số khoảng 500 hộ dân ở rạch Rạp
hàng ngày sử dụng nguồn nước này để nấu ăn, tắm giặt…Giờ nước không còn dùng
được, mùi hôi thối ngày càng nồng nặc, cá, tôm chết nổi lều phều cặp mé rạch, tắm
hoặc rửa tay là bị ngứa, da nổi dầy những mục nước đỏ li ti. Đến mùa nước nổi, nước
tràn vào nhà, bà con phải lội bì bõm trong dòng nước ô nhiễm. Trong khoảng thời
gian chưa đầy một tháng, chỉ riêng ở rạch Rạp đã có khoảng 20 người dân, hầu hết là

trẻ em phải nhập viện do bị sốt, tiêu chảy và mắc các bệnh về đường hô hấp.
Tại kỳ họp HĐND thành phố Cần Thơ lần thứ 9, cử tri và các đại biểu
HĐND liên tục đề đạt ý kiến, chất vấn lãnh đạo UBND và Sở Tài nguyên & Môi
trường thành phố. Đoàn giám sát của HĐND thành phố, Chánh thanh tra Sở Tài
nguyên & Môi trường đã đến giám sát, yêu cầu lãnh đạo công ty thực hiện đúng
những cam kết bảo vệ môi trường như đã nêu trong báo cáo đánh giá tác động môi
trường. Báo, đài liên tục phản ánh nguy cơ môi trường sống ở các khu dân cư gần
khu công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp Thốt Nốt đang dần bị hủy diệt do nguồn nước
4


thải từ nhà máy của 2 công ty TNHH Đ và A, vi phạm nghiêm trọng các quy định về
bảo vệ môi trường.
Mỗi ngày, hai khu nhà xưởng này sản xuất hơn 1.000 tấn cá nguyên liệu, thải
ra khoảng 7.500m3 nước thải. Nếu hoạt động hết công suất khu xử lý nước thải tại
đây cũng chỉ xử lý được 3.500m3/ngày đêm. Như vậy, vẫn còn một khối lượng lớn
nước thải chưa qua xử lý thải trực tiếp xuống sông, rạch.Và theo phản ánh của người
dân địa phương, hệ thống xử lý nước thải của công ty TNHH Đ vận hành không liên
tục vì nhiều lúc các đường nước xả thải đều đầy máu và mỡ cá. Theo ước tính của
giới chuyên môn thì chi phí điện và hóa chất cho xử lý nước thải khá tốn kém,
khoảng 30 triệu đồng/ ngày đêm....
Như vậy, tình huống trên chỉ ra một thực trạng về sự cố tình vi phạm, mặc dù
đã bị xử lý vi phạm hành chính nhiều lần của các doanh nghiệp nói chung, của Công
ty D & A nói riêng và thiếu những động thái khắc phục có hiệu quả. Nhìn chung, có
thể lý giải hiện tượng này theo các nguyên nhân cơ bản như sau:
Thứ nhất, những nguyên nhân khách quan quyết định hoặc ảnh hưởng trực
tiếp, gián tiếp đến tình trạng vi phạm của Công ty D & A và tình trạng quản lý thiếu
hiệu quả của cơ quan quản lý nhà nước ở quận Thốt Nốt. Biểu hiện như:
Một là, xuất phát từ nền kinh tế thị trường và điều kiện kinh tế ỏ địa phương là
nguyên nhân cơ bản quyết định đến tình trạng trên. Nếu nền kinh tế thị trường tạo ra

tính độc lập, sáng tạo của các chủ thể kinh doanh trong môi trường cạnh tranh lành
mạnh và định hướng của Nhà nước thì nó cũng đồng thời là nguyên nhân làm nảy
sinh các tiêu cực của Công ty D & A. Bởi lẽ, hoạch toán kinh doanh và hạ giá thành
sản phẩm là chiến lược mà bất kỳ một doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh nào
cũng tính đến. Điều này tạo ra việc tính toán giữa chi phí và lợi nhuận để có thể tiến
hành sản xuất, kinh doanh hay không ? Do đó, Công ty D & A, mặc dù bị xử phạt vi
phạm hành chính nhiều lần nhưng vẫn chấp nhận phạt theo quy định mà không cố
gắng khắc phục hay thực hiện những giải pháp đã xây dựng của báo cáo đánh giá và
xử lý nguồn nước thải và khí thải. Mặt khác, chính nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội
địa phương, cơ hội việc làm,... mà chính quyền quận Thốt Nốt cũng không thể có
5


biện pháp nào cứng rắn hơn việc xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp
luật hiện hành.
Hai là, trình độ phát triển của khoa học-công nghệ, nhất là khoa học-công nghệ
phân tích, xử lý chất thải hay công nghệ sạch trong sản xuất ở nước ta nói chung và ở
Thành phố Cần Thơ nói riêng còn nhiều vấn đề cần phải xem xét và quan tâm. Những
hạn chế về trình độ nghiên cứu khoa học vi sinh trong nước, công nghệ máy móc
nhập khẩu để chế biến thực phẩm cá ba sa ở mức độ trung bình chưa nói đến là sự
thải loại của nền kinh tế thị trường phát triển lâu đời ở các nước phương Tây; trình độ
lao động, sản xuất chủ yếu là lao động phổ thông;... đã làm cho việc hạn chế đến mức
tối đa-tức đạt thông số an toàn môi trường cho phép theo tiêu chuẩn quốc tế ở Việt
Nam nói chung và ở Công ty D & A là một vấn đề khó. Nếu thay đổi toàn bộ công
nghệ sản xuất tiên tiến để đảm bảo tiêu chuẩn môi trường cho phép thì khả năng và
năng lực của Công ty D & A hiện hành là khó có thể trong khi đó các doanh nghiệp
sản xuất cùng loại sản phẩm ở nước ngoài được hưởng lợi từ những công trình nghiên
cứu khoa học về xử lý chất thải công nghiệp lâu đời của Nhà nước ở nước ngoài.
Thứ hai, những nguyên nhân chủ quan tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến
tình trạng vi phạm và hạn chế của quản lý nhà nước trên địa bàn quận Thốt Nốt. Xét

trong điều kiện hiện nay, có thể thấy:
Một là, sự hạn chế của chính sách phát triển khoa học-công nghệ và môi
trường ở nước ta nói chung và ở Thành phố Cần Thơ nói riêng. Có thể nói chính sách
và môi trường đầu tư cho nghiên cứu khoa học, nhất là khoa học công nghệ cao phục
vụ cho phát triển sản xuất ở nước ta hiện vẫn thực hiện theo cơ chế “cũ”. Do vậy,
kinh phí mất nhiều nhưng hiệu quả thực tế lại không cao. Chẳng hạn, viện nghiên cứu
kinh tế-xã hội thành phố khi thực hiện nghiên cứu các đề án do Chính phủ giao hay
của Thành phố đều chỉ tồn tại trên “giấy” mà chưa có thể áp dụng và áp dụng có hiệu
quả cao. Bởi, chính sách trả thù lao cho đội ngũ cán bộ, viên chức ở Viện vẫn chủ yếu
dựa vào “thâm niên công tác” và không đáng kể so với sự chi trả của các doanh
nghiệp tư nhân. Mặt khác, các công trình nghiên cứu khoa học-công nghệ vẫn chỉ
dừng lại ở một vài sáng kiến nhỏ à chưa phải là những công trình điển hình quốc gia.
6


Đây là những nguyên nhân cơ bản làm cho nền sản xuất trong nước với công nghệ lạc
hậu, máy móc, thiết bị quá cũ và chậm đổi mới.
Hai là, những hạn chế về mặt thể chế pháp luật về quản lý và bảo vệ môi
trường ở Việt Nam hiện nay. Trước hết, phải nói đến sự mâu thuẫn, chống chéo trong
phân cấp chức năng và phân cấp lãnh thổ hiện nay đã bộc lộ những khuyết tật cơ bản
của nó như: tính thụ động, trông chờ, ỷ lại; bệnh quan liêu, độc đoán, tham nhũng,
lãng phí hay các thủ tục hành chính rườm rà đã làm giảm hiệu quả và hiệu lực của
quản lý nhà nước, nhất là ở chính quyền địa phương hiện nay. Sau đó phải kể đến sự
hạn chế về năng lực, trình độ và kỹ năng của cán bộ, công chức, thanh tra viên, kiểm
tra viên, kỹ thuật viên ở Thành phố và quận Thốt Nốt trong việc thực thi hoạt động
công vụ ở địa phương. Sự cấp phép thành lập và hoạt động kinh doanh cho Công ty D
& A khi không đảm đảm điều kiện về thực tế theo báo cáo đánh giá tác động môi
trường mà Công ty gửi cơ quan chức năng xem xét trước khi thành lập và tiến hành
hoạt động sản xuất đã chứng minh khả năng xem xét, đánh giá của đội ngũ cán bộ,
công chức còn nhiều hạn chế. Mặt khác, chính những quy định về trình tự thủ tục

thanh tra, điều tra, xử lý vi phạm hiện hành chưa bảo đảm để có thể phát hiện kịp thời
và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm về môi trường đã dẫn đến tình trạng Công
ty D & A gây ô nhiễm nặng, và sự báo cáo của người dân, dư luận lên tiếng cảnh báo
mới được tiến hành xử lý. Phải chăng, nếu như người dân không phản ánh, dư luận
không lên tiếng thì những vi phạm trên sẽ chẳng bao giờ bị xử lý và môi trường cứ
ngày càng bị ô nhiễm. Thực tế này cho thấy, trách nhiệm của quản lý nhà nước còn
chưa gắn liền với trách nhiệm với dân cư, nhất là bảo đảm môi trường sống, lao động
và học tập của người dân địa phương.
Ba là, những hạn chế về nhận thức của Công ty D & A. Tình huống trên nêu
lên một thực tế là Công ty D & A luôn luôn đặt mục tiêu lợi ích kinh doanh lên trên
lợi ích Nhà nước, lợi ích người dân. Liên tiếp các hành vi vi phạm và sự thờ ơ vô
trách nhiệm của Ban lãnh đạo Công ty không phải vì không biết đến những ảnh
hưởng từ chất thải của Công ty cho người dân địa phương ? càng không phải không
biết đến các quy định của pháp luật Việt Nam về nghiêm cấm gây ô nhiễm môi
trường dưới mọi hình thức ? mà điều này chứng tỏ sự hám lợi và sự bất chất để đạt
7


được lợi nhuận cao trong sản xuất của lãnh đạo Công ty là có lý do chính đáng của
nó.
Từ những hạn chế về khách quan và chủ quan dẫn đến những hậu quả trực tiếp
và gián tiếp mà người dân, xã hội và Nhà nước phải gánh chịu. Nhìn chung, có thể
thấy những tác hại của nó như: Người dân trực tiếp chịu ảnh hưởng bởi hành vi vi
phạm của Công ty D & A về dịch bệnh, sức khỏe, chi phí cải thiện sức khỏe và môi
trường sống trước mắt và lâu dài. Trong đó, Nhà nước gia tăng gánh nặng xã hội về
chăm sóc y tế, vệ sinh phòng dịch,... Đặc biệt, là hệ lụy mang tính dây truyền về tình
trạng sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp trên địa bàn Thành phố, thậm chí cả
hoạt động quản lý nhà nước. Chính những hạn chế của công tác quản lý đã tạo ra sự
mất cơ hội và giảm lòng tin của người dân, doanh nghiệp đối với chính quyền địa
phương.

Như vậy, việc phát triển kinh tế-xã hội địa phương và trách nhiệm bảo đảm đời
sống mọi mặt cho người dân là tách rời nhau ? hay chính quyền Thành phố và doanh
nghiệp không còn cách xử lý, giải quyết nào khác mà chỉ được phép lựa chọn 1 trong
2 vấn đề trên ? là những câu hỏi mà tình huống đặt ra cần phải được làm sáng tỏ
nhằm một mặt bảo đảm sự phát triển ổn định kinh tế-xã hội nhưng mặt khác phải bảo
vệ được môi trường sống trong sạch cho người dân địa phương ở quận Thốt Nốt.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
Những hành vi từ phía Công ty D & A và chính quyền Thành phố Cần Thơ mà
tình huống nêu lên có thể được phân tích, đánh giá dưới nhiều góc độ với những mục
đích khác nhau. Chẳng hạn, dưới góc độ pháp lý cơ quan có thẩm quyền tiến hành
các thủ tục cần thiết nhằm xác định vi phạm và xác định trách nhiệm pháp lý đối với
từng vi phạm cụ thể của Công ty D & A; hay dưới góc độ quản lý nhà nước cũng có
thể phân tích dưới góc độ hoạt động chuyên môn của từng loại cơ quan quản lý nhà
nước như: dưới góc độ quản lý nhà nước về y tế; quản lý nhà nước về tài nguyên và
môi trường; quản lý nhà nước về công thương; quản lý nhà nước về nông, lâm nghiệp
và thủy sản;….
Với mục tiêu mà tình huống đặt ra là nhằm xác định trách nhiệm của cơ quan
quản lý nhà nước; của doanh nghiệp đối với tình trạng ô nhiễm nguồn nước trên con
8


rạch dài 1,5 km và xây dựng biện pháp cụ thể để khắc phục các hậu quả đó. Tiểu luận
phân tích tình huống dưới góc độ quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường
nhằm góp phần tìm ra phương hướng, cách thức giải quyết phù hợp với những yêu
cầu và mục tiêu mà tình huống đặt ra. Nhìn chung, tiểu luận phân tích theo các nội
dung cơ bản sau:
Thứ nhất, xác định mức độ và tính chất của hành vi gây ô nhiễm môi trường
của Công ty D & A. Theo quy định tại Điều 27 mục 1, nghị định 175 của Chính phủ
quy định: “Mọi cơ sở sản xuất, kinh doanh, khách sạn, nhà hàng…có các chất thải ở
dạng rắn, khí, lỏng cần phải tổ chức xử lý đạt tiêu chuẩn môi trường trước khi thải ra

ngoài phạm vi quản lý của cơ sở mình, công nghệ xử lý các loại chất thải trên phải
được các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền xét duyệt”. Công ty của tập đoàn
NV chưa có báo cáo đánh giá tác động môi trường và báo cáo môi trường đã tiến
hành xây dựng nhà xưởng, đưa nhà máy vào hoạt động sản xuất là vi phạm vào các
quy định của Luật Bảo vệ môi trường ngày 29/11/2005; Quyết định số 22/2006/QĐBTNMT của Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường ngày 18/12/2006 về việc bắt
buộc áp dụng Tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường. Thực tế, mỗi ngày, 2 nhà máy của
công ty Đ & A xả ra 7.500m 3 nước thải, trong khi hệ thống xử lý nước thải công xuất
hoạt động tối đa là 3.500m3/ngày đêm mà theo Báo cáo kết quả phân tích và xét
nghiệm mẫu nước lấy tại đầu ra của cống Công ty D & A như sau:
- PH
Nằm trong tiêu chuẩn cho phép
- SS : chất cặn bã (mg/l)
Vượt 87,25 lần tiêu chuẩn cho phép
- COD : Nhu cầu oxy hóa học Vượt 87,25 lần tiêu chuẩn cho phép
(mg/l)
- BOD5 nhu cầu oxy sinh hóa (mg/l) Vượt 116,66 lần tiêu chuẩn cho phép.
- Amoniac (N-NH3) (mg/l)
Vượt 41,6 lần tiêu chuẩn cho phép
- Tổng Nitơ (mg/l)
Vượt 10,82 lần tiêu chuẩn cho phép
- Phốt pho (mg/l)
Vượt 8,36 lần tiêu chuẩn cho phép
- Sunfua (mg/l)
Vượt 6,96 lần tiêu chuẩn cho phép
Mặt khác, căn cứ vào các quy định của các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành
có thể thấy: Việc không lập báo cáo đánh giá tác động môi trường của Công ty D &A
mà đã xây dựng và đưa nhà máy và hoạt động sản xuất là vi phạm khoản 3 điều 9
Nghị định 81/2006/NĐ-CP, ban hành ngày 9/8/2006 của Chính phủ về xử phạt vi
9



phạm hành chính trong lĩnh vực bảo vệ môi trường. Hành vi xả thải vượt tiêu chuẩn
cho phép vi phạm quy định tại khoản 2 điều 10, nghị định 81/2006/NĐ-CP. Đồng
thời, khí thải như: mùi hôi thối, mùi khó chịu trực tiếp vào môi trường, không qua
thiết bị hạn chế môi trường, đã vi phạm khoản 11 điều 3, Điều 11 nghị định
81/2006/NĐ-CP. Cuối cùng là hành vi không thực hiện báo cáo giám sát định kỳ và
các tài liệu liên quan khác cho cơ quan lưu trữ tài liệu thông tin về môi trường theo
quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, vi phạm khoản 1 điều 9, nghị định
81/2008/NĐ-CP.
Như vậy, có thấy các hành vi vi phạm của Công ty D & A về các hành vi như:
Xả thải ra rạch, khí thải ra không; không làm báo cáo đánh giá tác động môi trường;
… như trên phân tích cần phải bị xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành.
Thứ hai, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương. Trách nhiệm
quản lý nhà nước ở Thành phố Cần Thơ mà tình huống nêu lên có thể xác định theo:
Một là, trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước của chính quyền ở Thành
phố Cần Thơ. Việc để cho Công ty Đ chưa lập báo cáo đánh giá tác động môi trường
nhưng vẫn được cơ quan quản lý Nhà nước cấp phép xây dựng và đi vào hoạt động,
dẫn đến sự cố đáng tiếc đã phản ánh tính trách nhiệm và chịu trách nhiệm của Sở Tài
nguyên và Môi trường khi thẩm định, đánh giá báo cáo tác động môi trường theo quy
định của Công ty D. Mặt khác, khi không có báo cáo, liệu Công ty D có đủ điều kiện
theo quy định của pháp luật hiện hành để được cấp phép thành lập, xây dựng và tiến
hành sản xuất ? Như vậy, có thể khẳng định rằng sự phối hợp giữa các cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố còn nhiều bất cập dẫn đến tình trạng
UBND ban hành quyết định sai. Đồng thời, tính thiếu trách nhiệm còn được thể hiện
trong việc để xảy ra vụ việc kéo dài, xử lý vi phạm hành chính nhiều lần nhưng
không có biện pháp khắc phục triệt để tình trạng vi phạm pháp luật của Công ty D.
Hai là, trách nhiệm của cơ quan thanh tra, kiểm tra xử lý vi phạm về môi
trường của Công ty D & A. Có thể khẳng định rằng, công tác thanh tra, kiểm tra của
cơ quan quản lý nhà nước về tài nguyên và môi trường Thành phố Cần Thơ chưa
được tiến hành theo quy định như: thanh tra, kiểm tra định kỳ, đột xuất;… Chưa có

sự phân công thanh tra viên, điều tra viên ở quận bám sát theo từng địa bàn cụ thể,
10


đối tượng cụ thể để quản lý về môi trường;… nên đa để xảy ra tình trạng, nhân dân
khi không thể chịu nổi những tác hại của nguồn nước và không khí bị ô nhiễm đến
sức khỏe của mình mới tiến hành báo cáo cơ quan chức năng, khiếu kiện vụ việc
hành chính,…
Mặc dù, cơ quan Thanh tra, kiểm tra thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường đã
tiến hành các thủ tục cần thiết nhằm xác định mức độ vi phạm để xử lý vi phạm hành
chính theo quy định tại Nghị định 81/2006/NĐ-CP và yêu cầu Công ty D đưa ra các
giải pháp để khắc phục sự cố môi trường hiện tại và tương lai nhưng việc thanh tra,
kiểm tra để những cam kết của Công ty D đưa ra thì lại bị bỏ ngỏ, thiếu giám sát và
đôn đốc thực hiện. Do đó, làm nảy sinh tình trạng vi phạm tái diễn của Công ty D và
sự khiếu kiện của nhân dân về ô nhiễm môi trường tại địa phương.
Vi phạm về môi trường của các doanh nghiệp, điển hình là các nhà máy của
công ty cổ phần NV đã làm suy giảm chất lượng môi trường nghiêm trọng, ảnh
hưởng đến cuộc sống sinh hoạt và sức khỏe của hơn 1.000 hộ dân ở các khu dân cư
lân cận. Tại các buổi tiếp xúc giữa đại biểu HĐND các cấp và cử tri địa phương, bà
con đã nhiều lần đề đạt mong chính quyền và các cơ quan chuyên môn của thành phố
thực hiện tốt hơn công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực môi trường, xử lý đến nơi
đến chốn những đơn vị vi phạm.
Thiết nghĩ, việc đẩy mạnh bảo vệ môi trường lên ngang bằng với phát triển
kinh tế - xã hội nhằm tạo sự cân bằng , bền vững trong quá trình phát triển là rất cần
thiết. Với phương châm phòng ngừa là chính, các cơ quan quả lý nhà nước ở địa
phương cần tích cực tuyên truyền, tạo điều kiện để doanh nghiệp duy trì phát triển
sản xuất, kinh doanh, đồng thời tự giác chấp hành tốt các quy định về bảo vệ môi
trường. Song cũng cần có biện pháp xử lý nghiêm đối với những trường hợp cố tình
vi phạm, gây hậu quả nghiêm trọng.
III. XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG

Qua những phân tích trên, cho phép đưa ra những cách giải quyết và xử lý
khác nhau hoặc có cùng cách xử lý nhưng lựa chọn các giải tối ưu. Trên cơ sở đánh
giá và mục tiêu của tình huống và tiểu luận đặt ra, bản thân tôi mạnh dạn nêu lên một
số phương án xử lý cụ thể như sau:
11


a/ Phương án 1: Tiến hành xử lý vi phạm theo quy định của pháp luật và
buộc đơn vị phải xử lý môi trường đạt tiêu chuẩn Việt Nam cho phép
-Mục tiêu của tình huống: Nhằm đảm bảo trật tự pháp chế xã hội chủ nghĩa
thông qua việc xử lý vi phạm hành chính theo quy định hiện hành và khắc phục sự cố
môi trường.
- Nội dung tiến hành:
+ Tiến hành kiểm tra để xác định mức độ chấp hành của 2 công ty, lập biên bản
vi phạm hành chính làm cơ sở ra quyết định xử phạt hành chính đối với hành vi trực
tiếp xả các chất độc hại ra sông, rạch.
+ Buộc đơn vị trong thời hạn 180 ngày, kể từ ngày nhận quyết định xử phạt vi
phạm hành chính, phải xử lý môi trường đạt tiêu chuẩn Việt Nam cho phép.
+ Làm hệ thống ao, chia thành nhiều ô để nước thải tự phân hủy. Đây là
phương pháp xử lý sinh học có thể áp dụng cho các cơ quan chế biến thủy sản có
diện tích rộng.
+ Buộc thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả tình trạng ô nhiễm môi
trường do vi phạm hành chính (bao gồm cả việc đền bù thiệt hại về kinh tế và môi
trường đối với các tổ chức, cá nhân bị thiệt hại do vi phạm của đơn vị gây ra). Đồng
thời phải thực hiện đúng các nội dung trong báo cáo đánh giá tác động môi trường.
-Nguồn lực thực hiện phương án: Cơ quan tiến hành, UBND giao cho Sở Tài
nguyên và Môi trường tiến hành làm các thủ tục để kiểm tra, đề xuất mức xử lý và
các giải pháp xử lý của Công ty D và có trách nhiệm tiến hành theo dõi thực hiện cam
kết, báo cáo kết quả thường xuyên cho UBND Thành phố. Kinh phí thực hiện phương
án, đối với thủ tục kiểm tra xác định vi phạm do ngân sách thường xuyên của Thành

phố; còn đối với kinh phí xử lý hậu quả, khắc phục hệ thống xử lý chất thải do Công
ty D phải chịu trách nhiệm.
b/ Phương án 2 : UBND thành phố ra quyết định tạm đình chỉ hoạt động sản
xuất của đơn vị cho đến khi hoàn thiện biện pháp xử lý chất thải theo quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia

12


- Mục tiêu của tình huống: Nhằm ngăn chặn chất thải do hoạt động sản xuất
của Nhà máy ra môi trường và tiến hành xây dựng các giải pháp để khắc phục hậu
quả đã xảy ra.
- Nội dung cơ bản của phương án: Phương án cần tiến hành:
+ Tiến hành thanh tra, kiểm tra hệ thống xử lý nước thải và lập biên bản vi
phạm hành chính. UBND TP ra quyết định tạm đình chỉ hoạt động; tước giấy phép
môi trường từ 80 – 90 ngày làm việc – điều tra, xác định khu vực môi trường bị ô
nhiễm và buộc đơn vị thực hiện các biện pháp khắc phục ô nhiễm, phục hồi môi
trường theo yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước về môi trường.
+ Buộc đơn vị bồi thường thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường và thực
hiện đúng các nội dung trong báo cáo đánh giá tác động môi trường.
- Nguồn lực thực hiện phương án: Về cơ quan tiến hành, UBND Thành phố
giao trách nhiệm cho Sở Tài nguyên và Môi trường; Thanh tra môi trường tiến hành
các thủ tục cần thiết và giám sát việc chấp hành của Công ty D; báo cáo UBND
Thành phố. Kinh phí, phần tiến hành thanh tra do kinh phí của UBND, còn khắc phục
sự cố, bồi thường thiệt hại,… do Công ty D phải chịu trách nhiệm.
c/ Phương án 3: Tiến hành xác định trách nhiệm và tính phải chịu trách
nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước, người có thẩm quyền và biện pháp khắc
phục những thiếu sót
- Mục tiêu của phương án: Nhằm đảm bảo cho hoạt động công vụ của cơ quan
nhà nước, người có thẩm quyền gắn liền với chức năng, nhiệm vụ được phân công,

phân cấp và đặc biệt là bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của dân cư, tổ chức thuộc
phạm vi quản lý.
- Nội dung thực hiện phương án:
Bước 1: Thanh tra UBND Thành phố tiến hành xác định
+ UBND Thành phố giao cho Thanh tra của UBND chủ trì, phối hợp với các Sở,
Phòng thuộc Sở,… tiến hành xác định trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan khi để xảy ra
tình trạng Công ty D không có báo cáo đánh giá tác động môi trường nhưng vẫn được
cấp phép xây dựng và hoạt động.
+ Thanh tra tiến hành các thủ thanh tra hành chính theo quy định.
13


+ Dự kiến mức xử lý trách nhiệm kỷ luật trình UBND Thành phố theo kế
hoạch được phân công.
Bước 2: Sở Tài nguyên và Môi trường tiền hành xây dựng kế hoạch xử lý ô
nhiễm môi trường trên địa bàn
+ Tiến hành thanh tra, kiểm tra xác định mức độ ô nhiễm để trình UBND
Thành phố quyết định mức xử phạt vi phạm hành chính, biện pháp cưỡng chế buộc
Công ty A phải tiến hành.
+ Tiến hành xây dựng các giải pháp xử lý và giám sát xử lý như tình huống 1
và 2.
+ Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tổng hợp báo cáo kết quả cho
UBND Thành phố.
- Nguồn lực thực hiện phương án: Về cơ quan tiến hành cụ thể theo các bước
trên. Kinh phí cho các thủ tục hành chính do ngân sách Thành phố; còn kinh phí khắc
phục do Công ty D chi phí.
IV. LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Xuất phát từ mục tiêu cụ thể của mỗi phương án, cho phép chúng ta lựa chọn
các giải pháp khác nhau tùy thuộc vào từng điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nhất định.
Nếu lựa chọn phương án 1 hay 2 thì nhằm giải quyết được hành vi vi phạm và khắc

phục sự cố về môi trường của Công ty D nhưng không xác định được trách nhiệm
trong hoạt động công vụ của cơ quan quản lý nhà nước. Có thể thấy, những ưu điểm,
hạn chế của mỗi phương án thông qua sự so sánh như sau:
PHƯƠNG

ƯU ĐIỂM

HẠN CHẾ

ÁN
Phương án + Doanh nghiệp vẫn hoạt+ Trong thời gian đơn vị xây
1

động sản xuất. Do đó, mỗidựng hệ thống xử lý, nguồn
ngày tiêu thụ số lượng lớn cánước thải độc hại vẫn trực tiếp
da trơn và các loại thủy, hảiđổ ra sông rạch- hủy diệt môi
sản khác; tạo việc làm thườngtrường, ảnh hưởng đến sinh
xuyên cho 3000 lao động;hoạt và đời sống của cư dân,
tăng nguồn thu cho ngân sáchdẫn đến hậu quả khó lường,
14


nhà nước;

việc khắc phục mất nhiều thời

+ Bù đắp phần nào thiệt hạigian và tốn kém;
về kinh tế, môi trường và sức+ Do nguồn nước thải có nhiều
khỏe cho cá nhân và cộngchất độc hại, khối lượng lớn
đồng;


nên trong quá trình xử lý khó

+ Phương án xử lý nước thảicó thể khử hết mùi hôi thối. Và
ít tốn kém, có thể thực hiệnmuốn bảo đảm khả năng tự làm
trong thời gian ngắn, chỉ cầnsạch triệt để cần diện tích đất
cải tạo một phần công suấtrộng và trồng cây xung quanh.
thiết bị. Khi đưa vào sử dụng
không tốn chi phí vận hành,
do đây là phương pháp tự làm
sạch, giúp doanh nghiệp hạ
giá thành sản phẩm, tăng khả
năng cạnh tranh trên thương
trường.
Phương án + Thể hiện tính nghiêm minh+ Sản xuất đình trệ, việc tiêu
2

của pháp luật, nhanh chóngthụ nguyên liệu thủy sản gặp
khắc phục ô nhiễm và phụcnhiều khó khăn; hàng ngàn lao
hồi môi trường;

động không có việc làm, nhà

+ Bù đắp được phần nàonước thất thu, tăng trưởng GDP
thiệt hại cho các tổ chức và cábị ảnh hưởng;
nhân bị ảnh hưởng;

+ Phương án đề xuất xử lý môi

+ Phương án đề xuất xử lý trường tuy có nhiều ưu điểm

nước thải khống chế được ôsong chi phí đầu tư lớn, thời
nhiễm, đáp ứng nhu cầu bảogian xây dựng kéo dài. Do đó
vệ môi trường trong khu vựclàm chậm thời gian hoạt động
sản xuất, cũng như các đơn vịtrở lại. Khi hoạt động tốn thêm
và khu dân cư lân cận.

chi phí vận hành.
15


Phương án + Phát huy được các ưu điểm+ Thời gian tiến hành lâu;
3

của phương án 1 và 2. + Nâng + Đòi hỏi sự công tâm và thái
cao được trách nhiệm củađộ cương quyết của chính
hoạt động quản lý nhà nướcquyền Thành phố Cần Thơ.
đối với lĩnh vực được phân
công, phân cấp.
Từ các so sánh trên, bản thân tôi lựa chọn phương án 3 là phương án tối ưu để giải

quyết các mục tiêu mà tình huống và bài tiểu luận đặt ra. Bởi lẽ, việc xác đinh trách
nhiệm và tính phải chịu trách nhiệm trong hoạt động quản lý nhà nước là quy chế xác
định cơ chế mới nhằm khắc phục các nhược điểm của cơ chế “mệnh lệnh hành chính”
hiện hành để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước. Đồng thời, phương án 3 vẫn đảm bảo
xử lý và giải quyết được các vấn đề ô nhiễm môi trường mà tình huống đặt ra.
V. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
1.Một số giải pháp cơ bản
1/ - Phòng Môi trường – Sở Tài nguyên và Môi trường và đội Cảnh sát môi
trường – công an thành phố Cần Thơ tiến hành kiểm tra thường xuyên và đột xuất về
tình hình xả nước thải ra môi trường.

Thu mẫu nước thải :

+ Từ hệ thống xử lý ra sông Hậu.
+ Đường thoát nước thải chưa qua xử lý.
+ Nguồn nước gần nơi xả nước thải;
ð Để kiểm nghiệm về mức độ gây ô

nhiễm của đơn vị.
2/ - UBND TPCT thành lập đoàn kiểm tra liên ngành :
. Kiểm tra toàn diện việc chấp hành các quy định hiện hành về môi trường của
2 công ty Đ & A.
. Đề nghị 2 công ty Đ & A nộp bản thiết kế xây dựng nhà máy cũng như hệ
thống xử lý nước thải cho đoàn kiểm tra liên ngành.
. Tiến hành kiểm tra hệ thống xả nước thải nổi và ngầm của hai đơn vị.
. Lập biên bản vi phạm hành chính.
16


. Thanh tra Sở Tài nguyên và Môi trường ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính về bảo vệ môi trường và phối hợp với lực lượng cảnh sát môi trường giám sát
việc thực hiện quyết định.
3/ - Sau 10 ngày, kể từ ngày giao quyết định xử phạt – nếu không có khiếu nại,
khởi kiện đối với quyết định xử phạt công ty Đ & A phải nghiêm chỉnh chấp hành.
Nếu cố tình không chấp hành thì bị cưỡng chế.
4/ Sau khi ban hành quyết định xử phạt, UBND TP giao cho phòng Môi trường
– Sở Tài nguyên Môi trường, Sở khoa học và công nghệ thành phố phối hợp với
chính quyền và các cơ quan chức năng huyện T và xã Thới Thạnh điều tra, xác định
phạm vi, mức độ ô nhiễm. Trên cơ sở đó, đưa ra phương án giúp 2 công ty Đ & A
khắc phục, phục hồi môi trường kịp thời và hiệu quả; đồng thời tiến hành việc bồi
thường thiệt hại về kinh tế và môi trường cho các tổ chức và cá nhân ; hỗ trợ về mặt

kỹ thuật, nghiệp vụ chuyên môn giúp đơn vị nhanh chóng thực hiện đúng các nội
dung trong báo cáo đánh giá tác động môi trường đã được phê duyệt, cũng như việc
xây dựng hệ thống xử lý nước thải đạt tiêu chuẩn môi trường Việt nam cho phép.
5/ Chính quyền và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thường xuyên kiểm tra
định kỳ, đột xuất; khuyến khích vận động cán bộ, nhân dân địa phương tích cực cùng
tham gia việc chấp hành các quy định về môi trường khắc phục hậu quả của 2 công ty
này.
6/ Sở tài nguyên & Môi trường thành phố theo dõi, giám sát quá trình thực hiện
và báo cáo kết quả cho UBND thành phố.
7/ Trường hợp, đơn vị cố tình không chấp hành, đặc biệt là việc cam kết chấm
dứt xả nước thải chưa qua xử lý ra môi trường thì Sở Tài nguyên và Môi trường thành
phố làm văn bản, đề nghị UBND thành phố ra quyết định đình chỉ hoạt động sản xuất
theo điều 49 Luật Bảo vệ môi trường – nhằm răn đe, chấn chỉnh tình hình vi phạm
môi trường đang diễn ra rất phức tạo trên địa bàn thành phố.
2.Một số kiến nghị
- Đối với địa phương và doanh nghiệp :
+ Tăng cường năng lực, bao gồm cả con người và bộ máy, phục vụ tốt hơn
công tác bảo vệ môi trường bằng các biện pháp cụ thể. Trong đó công tác truyền
17


thông cần được quan tâm, thực hiện thường xuyên nhằm nâng cao nhận thức, giảm
đến mức thấp nhất số vụ việc vi phạm.
+ Sở kế họach & Đầu tư Thành phố Cần Thơ cần phối hợp chặt chẽ với Sở
Tài nguyên & môi trường và cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền. Khi tiến hành
cấp phép đầu tư cho các đơn vị sản xuất kinh doanh cần chú trọng đến vấn đề môi
trường.
+ Việc kêu gọi đầu tư nên có sự sàng lọc, quyết định ưu tiên chọn những dự án
đầu tư “thân thiện” với môi trường, có quy trình công nghệ hiện đại vừa nâng cao
năng suất, chất lượng sản phẩm, vừa giảm thiểu các chất độc hại thải ra môi trường .

+ Các khu công nghiệp phải được phân khu chức năng hợp lý, đảm bảo. Những
khu công nghiệp hiện đã có khoảng một nửa diện tích đất quy hoạch được khai thác,
sử dụng cần khẩn trương xây dựng hệ thống xử lý nước thải công nghiệp tập trung.
Đồng thời, yêu cầu tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong khu công nghiệp phải
hoàn tất các trạm xử lý nước thải cục bộ trước khi nối mạng vào hệ thống nước thải
của khu công nghiệp.Tiến hành chương trình báo cáo giám sát môi trường theo định
kỳ, để đánh giá diễn biến chất lượng môi trường.
+ Đối với các cơ sở, doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, cần phải tự giác chấp
hành tốt các quy định hiện hành về bảo vệ môi trường, tránh không để xảy ra những
sự cố đáng tiếc làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh và uy tín của đơn
vị; việc xử lý, khắc phục sự cố rất tốn thời gian, tiền của và công sức.
+ Chính quyền và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần tăng cường phối
hợp kiểm tra hệ thống xử lý chất thải của các doanh nghiệp nhằm kịp thời phát hiện
và có biện pháp xử lý hiệu quả các vụ việc vi phạm. Chú ý phát huy vai trò của cán
bộ Dân Vận, Mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội và toàn dân; tăng cường sự
giám sát của HĐND các cấp.
+ Bắt buộc mua bảo hiểm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về môi trường đối
với tổc chức, cá nhân có hoạt động tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại lớn cho môi trường
(theo điều 134 Luật bảo vệ môi trường).

18


+ Đối với những doanh nghiệp cố ý, vi phạm có tổ chức và kéo dài đã xử phạt
vi phạm hành chính nhiều lần mà chưa khắc phục, cần kiên quyết, có biện pháp xử lý
nghiêm hoặc cưỡng chế thi hành theo quy định của pháp luật.
- Đối với trung ương :
Tình trạng vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, đặc biệt là đối với các cơ
sở, đơn vị sản xuất kinh doanh ngày càng phổ biến với những thủ đoạn tinh vi. Nhiều
đơn vị làm hệ thống xử lý nước thải nhưng chỉ làm cho có hoặc để “ngó”, khi có đoàn

kiểm tra mới vận hành. Tuy nhiên, muốn xử phạt phải “bắt tận tay, day tận mặt”.
Đoàn muốn vào kiểm tra phải gởi công văn thông báo trước ngày, giờ đến kiểm tra
nên doanh nghiệp có sự chuẩn bị, tìm cách đối phó…trong khi hệ thống chính sách,
pháp luật còn thiếu đồng bộ, không đủ răn đe và chưa theo kịp công tác bảo vệ môi
trường. Đề nghị các Bộ, ngành liên quan đề xuất với Chính Phủ xem xét để trình
Quốc Hội sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường để
bảo đảm sự đồng bộ, hiệu lực, hiệu quả - phục vụ tốt hơn cho công tác quản lý nhà
nước về môi trường trong thờii gian tới.
C. KẾT LUẬN
Ngẫm lại toàn bộ sự việc không khỏi giật mình. Ban đầu khi lập và triển khai dự án
do doanh nghiệp và chính quyền sở tại không chú ý đến yếu tố cần thieetss về bảo vệ
môi trường và không lường hết sự nguy hại của nguồn nước thải, khí thải dẫn đến hậu
quả cả một vùng môi trường rộng lớn bị ô nhiễm nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp
đến sức khỏe và cuocj sống sinh hoạt của hàng ngàn hộ gia đình ở Phường Thới
Thạnh, quận Thốt Nốt. Nếu cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương không kịp thời
bắt tay vào cuộc, để kéo dài lâu hơn nữa, hậu quả không thể lường hết được.
Sự việc cũng giúp chúng ta thấy rõ hơn ý thức trách nhiệm của cộng đồng trong công
tác bảo vệ môi trường. Đay là một tín hiệu đáng mừng. Việc thực thi pháp luật tại địa
phương thời gian qua trong lĩnh vực này chưa kịp thời, kết quả chưa được như mong
muốn, có biểu hiện “cả nể”. Thông qua việc kiểm tra, xử lý vi phạm các cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền cũng nhận ra điểm còn yếu kém trong công tác quản lý Nhà
nước về môi trường, cập nhật thêm được những kinh nghiệm hay để từ đó có thể xử
19


lý công việc nhạy bén, hiệu quả, thấu lý – đạt tình, có thể ngăn ngừa, hạn chế được số
vụ việc vi phạm. Thành phố Cần Thơ là trung tâm của mảnh đất 9 Rồng, một đô thị trẻ
năng động khát khao trổi dậy, vươn xa – một thành phố xanh, văn minh, hiện đại. Do
đó, rất cần sự hỗ trợ, hợp tác đẻ có bức phát triển nhanh mạnh mẽ, toàn diện hơn.
Song phải là phát triển bền vững với GDP “xanh”, phát triển kinh tế - xã hội gắn liền

với yếu tố bảo vệ môi trường.
Vấn đề môi trường nếu nhận thức chậm chừng nào thì hạu quả khó lường chừng ấy.
Theo tính toán của Word Band, cứ 1% tăng trưởng GDP của mỗi nước mà không có
giả pháp bảo vệ môi trường thì chất lượng môi trường sẽ giảm đi 3 lần. Thành phố
Cần Thơ cần phải chủ động phát huy vai trò phối hợp giữa liên vùng, phối hợp giữa
các Bộ ngành trung ương với địa phương để xx]r lý tốt vấn đề này. Trước hết là “nói
không” với các ngành sản xuất gay ô nhiễm, đắc biệt là ô nhiễm môi trường nước và
không khí. Chỉ cấp giấy phép đầu tư khi doanh nghiệp đã lập báo cáo tác động môi
trường và được cơ quan quản lý Nhà nước về môi trường chấp thuận. Tăng cường
công tác thanh tra, kiểm tra và có phương án giả quyết, xử lý nghiêm đến nơi đến
chốn các doanh nghiệp vi phạm kéo dài, chậm khắc phục hậu quả. Nếu không, một
ngày không xa người dân sống ở vùng sông nước sẽ không có nước sạch để dùng.
Môi trường sống sẽ bị suy thoái, hủy diệt bởi chính chúng ta.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
01. Bộ trưởng Bộ Nội vụ, Quyết định số 13/2006/QĐ-BNV ngày
06/10/2006 Ban hành quy định các chương trình đào tạo, bồi
dưỡng kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước đối với cán bộ,
công chức.
02. Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường, Quyết định số
22/2006/QĐ-BTNMT ngày 18/12/2006 về việc bắt buộc áp
dụng Tiêu chuẩn Việt Nam về môi trường.
03. Chính phủ, Nghị định số 81/2006/NĐ-CP, ban hành ngày
9/8/2006 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong
20


lĩnh vực bảo vệ môi trường.
04. Quốc hội, Luật bảo vệ môi trường, ngày 29/11/2005.
05. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 161/2003/QĐ-TTg ban

hành ngày 04/8/2003.

21



×