Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Huy động vốn và sử dụng vốn và sử dụng vốn có hiệu quả đối với các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.99 KB, 67 trang )

Lời nói đầu
Trong cơ chế thị trường cạnh tranh gay gắt hiện nay, các doanh nghiệp muốn đứng
vững thì việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là điều quan trọng. Các doanh
nghiệp phải bước đi từng bước vững chắc trong mọi hoạt động, phải tạo ra sự tăng
trưởng hiện tại và tạo những tiền đề vững chắc cho tương lai. Xong để tiến hành bất
kỳ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào cần phải có đủ vốn để đảm bảo các xây
dựng cần thiết, máy móc và thiết bị, mua nguyên vật liệu, đáp ứng những chi phí
quảng cáo và tiêu thụ, chi trả nhân công và trang trải vô số những chi phí khác phát
sinh. Như vậy có thể nói rằng vốn là máu của một doanh nghiệp, là điều kiện cần
thiết và không thể thiếu được. Nhưng vấn đề là ở chỗ vốn được huy động ở đâu và
sử dụng như thế nào cho có hiệu quả mà các doanh nghiệp cần quan tâm.
Thực tế hiện nay ở Việt Nam, các doanh nghiệp Nhà nước hầu hết đang ở trong tình
trạng kinh doanh không hiệu quả mà một trong những nguyên nhân gây nên là thực
trạng không hiệu quả ở khai thác và sử dụng nguồn vốn. Vì thế việc tìm ra những
giải pháp kịp thời để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính là cần thiết.
Xuất phát từ tính cấp thiết đó và qua thời gian nghiên cứu, thực tập tại Công ty
Bánh kẹo Hải Hà, em xin trình bày một số vấn đề về “Một số giải pháp cho vấn đề
huy động và sử dụng vốn san xuất có hiệu quả tại Công ty bánh kẹo Hải Hà” làm
Luận văn tốt nghiệp.
Kết cấu của chuyên đề như sau:
- Lời nói đầu
- Phần I: Lý luận chung về huy động và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh trong
doanh nghiệp.
- Phần II: Thực trạng nguồn vốn và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh ở Công ty
bánh kẹo Hải Hà.
- Phần III: Một số giải pháp để tạo vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh
doanh ở Công ty bánh kẹo Hải Hà.
Phần I: Lý luận chung về huy động và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh trong doanh
nghiệp
I. Vốn và tầm quan trọng của vốn
1. Khái niệm


Trong nền kinh tế thị trường cũng như trong bất kỳ một hình thái kinh tế xã hội nào
khác, các doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh đều với mục đích là
sản xuất ra hàng hoá và dịch vụ để trao đổi với các đơn vị kinh tế khác nhằm mục
đích tối đa hoá lợi nhuận. Nhưng để tiến hành sản xuất kinh doanh thì cần thiết phải
có vốn.
“Vốn kinh doanh là giá trị của các tài sản hiện có của doanh nghiệp được biểu hiện
bằng tiền”. (1)
Dưới giác độ vật chất mà xem xét thì phân thành hai loại vốn là: Vốn thực (công cụ
lao động, đối tượng lao động) và vốn tài chính (tiền giấy, tiền kim loại, chứng
khoán và các giấy tờ có giá trị như tiền). Theo hình thái biểu hiện chia ra: Vốn hữu
hình (công cụ lao động, đối tượng lao động, tiền giấy, tiền kim loại, chứng khoán )
và vốn vô hình (lợi thế trong kinh doanh, bằng phát minh sáng chế, chi phí thành
lập doanh nghiệp ). Căn cứ vào phương thức luân chuyển chia ra: Vốn cố định và
vốn lưu động.
Nguồn hình thành vốn của doanh nghiệp, gồm hai nguồn cơ bản đó là: nguồn vốn
chủ sở hữu và nguồn vốn vay. Nguồn vốn chủ sở hữu thuộc sở hữu của chủ doanh
nghiệp và các thành viên trong công ty liên doanh hoặc cổ ddông trong công ty cổ
phần. Nguồn vốn bao gồm: tín dụng ngân hàng, phát hành trái phiếu, tín dụng
thương mại.
Vốn là một phạm trù kinh tế trong lĩnh vực tài chính, nó gắn liền với sản xuất hàng
hoá.
2. Đặc điểm
Như ta đã biết vốn sản xuất kinh doanh là toàn bộ tài sản của doanh nghiệp được
biểu hiện bằng tiền (công cụ sản xuất, đối tượng lao động, tiền mặt, các chứng từ có
giá trị khác ) gắn với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vậy nên
vốn sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp có những đặc điểm sau:
- Vốn là phương tiện để đạt mục đích phát triển kinh tế và nâng cao đời sống vật
chất tinh thần cho người lao động.
- Vốn có giá trị và giá trị sử dụng: tức là vốn có thể được mua, được bán, được trao
đổi trên thị trường cũng như có thể được sử dụng vào một khâu hay toàn bộ quá

trình tái sản xuất. Như vậy vốn cũng là một loại hàng hoá.
- Vốn có khả năng sinh lời: hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có
hiệu quả sẽ làm cho đồng vốn của doanh nghiệp sinh sôi nảy nở.
- Khia tham gia vào sản xuất kinh doanh, vốn luôn biến động và chuyển hoá hình
thái vật chất theo thời gian và không gian. Toàn bộ sự vận động của vốn khi tham
gia quá trình sản xuất đợc thể hiện ở sơ đồ sau:
TLSX
T - H - SX - H - T
SLĐ
Sự vận động của vốn trong doanh nghiệp thương mại có thể chỉ là: T -H- T’ và
trong doanh nghiệp ngân hàng là: T - T’
Qua sơ đồ ta thấy: quá trình vận động của vốn trải qua ba giai đoạn chủ yếu sau
đây:
Giai đoạn một: vốn hoạt động trong phạm vi lưu thông, lúc đầu là vốn tiền tệ (T)
tích luỹ được đem ra thị trường (đó là thị trường các yếu tố đầu vào) mua hàng hoá
bao gồm TLSX và sức lao động. Trong giai đoạn này vốn thay đổi từ hình thái vốn
tiền sang vốn sản xuất.
TLSX
T - H
SLĐ
Giai đoạn hai: Vốn rời khỏi lĩnh vực lưu thông bước vào hoạt động trong khau sản
xuất. ở đây các yếu tố sản xuất hay còn gọi là các yếu tố hàng hoá dịch vụ được sản
xuất ra trong đó có phần giá trị mới (do giá trị sức lao động con người tạo ra).
TLSX
H’
SLĐ
Giai đoạn ba: Sau giai đoạn sản xuất tạo ra H’ thì vốn lại trở lại hoạt động trên lĩnh
vực lưu thông dưới hình thái hàng hoá. Kết thúc giai đoạn này (hàng hoá được tiêu
thụ) thì vốn dưới hình thái hàng hoá chuyển thành hình thái vốn tiền tệ ban đầu
nhưng về mặt số lượng có thể là khác nhau.

H’ _______________ T’ (T’ - T)
Từ sự phân tích sự vận động của vốn thông qua “vòng tuần hoàn vốn” ta thấy rằng:
tiền có khả năng chuyển hoá thành vốn chỉ khi tiền được đưa vào quá trình sản xuất
kinh doanh thông qua hoạt động đầu tư nhằm mục đích sinh lời mới được gọi là
vốn. Với tư cách đầu tư thì mục đích cuối cùng là tạo được T’ phải lớn hơn T.
3. Vai trò của vốn kinh doanh
Nhu cầu về vốn xét trên giác độ mỗi doanh nghiệp là điều kiện để duy trì sản xuất,
đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng
việc làm và thu nhập cho người lao động, đóng góp cho xã hội Như vậy:
Vốn kinh doanh là công cụ quan trọng để thực hiện các nhiệm vụ kinh doanh của
doanh nghiệp.
Vốn kinh doanh phản ánh các quan hệ về lợi ích kinh tế giữa doanh nghiệp với
doanh nghiệp trong vấn đề đầu tư.
Vón kinh doanh cho phép khả năng lựa chọn của doanh nghiệp trong sự phân tích
nhu cầu thị trường là: quyết định sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? và sản xuất
cho ai? sao cho đạt hiệu quả cao nhất.
4. Cơ cấu vốn sản xuất kinh doanh
Có nhiều cách phân loại xong nếu căn cứ vào quá trình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp và sự luân chuyển vốn trong doanh nghiệp, vào mục đích sử dụng số
tiền vốn mà doanh nghiệp có thì được chia làm hai loại đó là vốn cố định (VCĐ) và
vốn lưu động (VLĐ). Sự khác nhau cơ bản đó là: nếu nhưu VCĐ tham gia vào quá
trình sản xuất như tư liệu lao động thì VLĐ là đối tượng lao động. Nếu như vốn lao
động tạo ra thực thể của sản phẩm hàng hoá thì VCĐ là phương thức để dịch
chuyển VLĐ thành sản phẩm hàng hoá.
Mặt khác nếu như VLĐ được kết chuyển một lần vào giá trị của sản phẩm hàng hoá
và thu hồi được ngay sau khi doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá còn vốn cố định
tham gia nhiều vào quá trình sản xuất kinh doanh và kết chuyển vào giá trị sản
phẩm hàng hoá dưới hình thức khấu hao.
4.1. Vốn cố định
* Khái niệm: Vốn cố định của doanh nghiệp là một bộ phận của vốn đầu tư, ứng

trước về tài sản cố định, mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần từng phần trong
nhiều chu kỳ sản xuất và hoàn thành vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử
dụng.
Theo quy định của nhà nước chỉ các tư liệu sản xuất có đủ hai điều kiện: có giá trị
lớn (trên năm triệu đồng) và thời gian sử dụng ít nhất là một năm.
Trong các doanh nghiệp, vốn cố định giữ một vai trò rất quan trọng trong quá trình
sản xuất. Nó quyết định đổi mới kỹ thuật, đổi mới công nghệ sản xuất, quyết định
việc trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật, quyết định việc sử dụng các thành tựu công
nghệ mới, là nhân tố quan trọng bảo đảm tái sản xuất mở rộng và việc không ngừng
nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân. Vì vậy việc sử dụng vốn cố định là một
vấn đề quan trọng cả về mặt hiện vật và giá trị.
Về mặt hiện vật VCĐ bao gồm toàn bộ những TSCĐ đang phát huy tác dụng trong
quá trình sản xuất: nhà xưởng, máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải Vốn cố định
tham gia toàn bộ vào quá trình sản xuất kinh doanh. Sau mỗi chu kỳ sản xuất thì
hình thái hiện vật của VCĐ không thay đổi nhưng giá trị của nó giảm dần và chuyển
vào giá trị sản phẩm hàng hoá dưới hình thức khấu hao.
* Cơ cấu của vốn cố định:
Là tỷ trọng của từng loại VCĐ so với tổng toàn bộ VCĐ của doanh nghiệp trong
một thời kỳ nhất định. Cần lưu ý rằng quan hệ tỷ lệ trong cơ cấu vốn là một chỉ tiêu
động mang tính biện chứng và phụ thuộc nhiều nhan tố như: khả năng tiêu thụ sản
phẩm trên thị trường, khả năng thu hút vốn đầu tư, phương hướng mục tiêu sản xuất
kinh doanh, trình độ tang bị kỹ thuật, quy mô sản xuất. Việc nghiên cứu cơ cấu vốn
cố định có ý nghĩa quan trọng trong việc huy động và sử dụng vốn. Khi nghiên cứu
vốn cố định phải nghiên cứu trên hai góc độ là: nội dung kế hoạch và quan hệ mỗi
bộ phận so với toàn bộ. Vấn đề đặt ra là phải xây dựng được một cơ cấu hợp lý phù
hợp với đặc điểm kinh tế kỹ thuật của doanh nghiệp và với trình độ phát triển khoa
học- kỹ thuật.
Có nhiều cách phân loại, xong chúng ta có thể dựa vào tính chất cụ thể của nó để
phân loại:
- Tài sản cố định dùng cho mục đích kinh doanh gồm:

+ Nhà cửa, vật kiến trúc
+ Máy móc, thiết bị
+ Phương tiện vận tải, thiết bị truyền dẫn
+ Thiết bị, dụng cụ quản lý
+ Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc cho sản phẩm
+ Các tài sản cố định khác
Còn các tài sản cố định vô hình gồm có: bằng phát minh, sáng chế, bản quyền tác
giả, lợi thế vị trí
- Tài sản cố định doanh nghiệp dùng chi mục đích phúc lợi, sự nghiệp an ninh quốc
phòng (cũng được phân loại như trên).
- TSCĐ doanh nghiệp bảo quản, giữ hộ cho đơn vị khác hoăc giữ hộ Nhà nước theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
4.2. Vốn lưu động
* Khái niệm: Vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu
động và tài sản lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất và tái sản xuất của
doanh nghiệp tiến hành bình thường.
Vốn lưu động bao gồm giá trị tài sản lưu động như: nguyên vật liệu chính, nửa
thành phẩm mua ngoài, vật liệu phụ, bao bì và vật liệu bao bì, nhiên liệu, phụ tùng
thay thế, sản phẩm dở dang và vốn lưu động và vốn lưu thông như: thành phẩm,
hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm, vật tư mua ngoài chế biến, vốn
tiền mặt
Khác với VCĐ, VLĐ chuyển toàn bộ giá trị vào sản phẩm sau mỗi chu kỳ sản xuất.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh VLĐ được luân chuyển không ngừng qua ba
giai đoạn: dự trữ, sản xuất và tiêu thụ. Trong mỗi giai đoạn đó VLĐ được biểu hiện
dưới nhiều hình thái khác nhau, có thể là hình thái hiện vật hay hình thái giá trị.
Có thể thấy rằng VLĐ là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái
sản xuất. Nếu doanh nghiệp không đủ vốn thì việc tổ chức sử dụng vốn sẽ gặp nhiều
khó khăn và do đó quá trình sản xuất cũng bị trở ngại hay gián đoạn.
* Cơ cấu vốn lưu động
Là quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần vốn lưu động chiếm trong tổng số vốn lưu

động. ở những doanh nghiệp khác nhau, kết cấu vốn lưu động không giống nhau.
Xác định được cơ cấu vốn lưu động hợp lý sẽ góp phần sử dụng tiết kiệm và có hiệu
quả vốn lưu động.
Để quản lý và sử dụng có hiệu quả vốn lưu động thì cần thiết phải tiến hành phân
loại vốn khác nhau.
- Căn cứ vào quá trình tuần hoàn và luân chuyển vốn lưu động người ta chia vốn là
ba loại:
+ Vốn dự trữ: là một bộ phận dùng để mua nguyên liệu, phụ tùng thay thế dự trữ
và đưa vào sản xuất.
+ Vốn trong sản xuất: là bộ phận vốn trực tiếp phục vụ cho giai đoạn sản xuất lưu
thông như thành phẩm vốn tiền mặt.
- Căn cứ vào phương pháp xác định vốn người ta chia vốn làm hai loại:
+ Vốn lưu động định mức: là số vốn lưu động cần thiết tối thiểu thường xuyên trong
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bao gồm: vốn dự trữ, vốn trong
sản xuất và thành phẩm, hàng hoá mua ngoài dùng cho tiêu thụ sản phẩm, vật tư
thuê ngoài chế biến.
+ Vốn lưu động không định mức: là số vốn lưu động có thể phát sinh trong quá
trình sản xuất kinh doanh nhưng không có căn cứ để tính định mức được.
- Căn cứ vào nguồn hình thành:
+ Vốn lưu động tự có: là số vốn doanh nghiệp được Nhà nước cấp, vốn lưu động từ
bổ sung lợi nhuận, các khoản phải trả nhưng chưa đến kỳ hạn
+ Vốn lưu động đi vay: đây là nguồn vốn quan trọng mà doanh nghiệp có thể sử
dụng để đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động thường xuyên cần thiết trong kinh doanh.
Có thể vay vốn ngân hàng, của các tổ chức tín dụng hoặc có thể vay vốn của các
đơn vị, tổ chức và các cá nhân khác trong và ngoài nước.
Mỗi doanh nghiệp cần xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý và có hiệu quả.
II. Một số vấn đề huy động vốn của doanh nghiệp
1. Những vấn đề cơ sở
Để có được vốn hoạt động thì doanh nghiệp phải thực hiện huy động vốn từ nhiều
nguồn khác nhau. Huy động vốn là hoạt động nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn của

doanh nghiệp.
Huy động vốn chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố khác nhau hay nói cách khác là
các ràng buộc khác nhau như:
+ Hình thức pháp lý của doanh nghiệp: một doanh nghiệp nhà nước khi huy động
vốn phải chịu sự ràng buộc của các văn bản quản lý Nhà nước về tỷ lệ huy động tối
đa có thể (Luật DNNN).
+ Sự vững mạnh về tình hình tài chính nói chung và có khả năng thanh toán nói
riêng sẽ là những đieèu kiện mà chủ nguồn tài chính chú ý khi xem xét bỏ vốn cho
doanh nghiệp.
+ Chiến lược kinh doanh quyết định cầu về vốn và từ đó ảnh hưởng đến lượng vốn
càn thiết huy động của doanh nghiệp.
Xuất phát điểm của chiến lược kinh doanh là cơ sở để huy động vốn. Để thực hiện
huy động vốn thì ta cần phải xác định cầu về vốn của doanh nghiệp.
Để dự đoán cầu về vốn của doanh nghiệp ta có thể sử dụng hai phương pháp:
+ Phương pháp tỷ lệ % trên doanh thu
+ Phương pháp sử dụng các chỉ tiêu tài chính đặc trưng của ngành là cơ sở để làm
xuất phát điểm cho mình. Phương pháp này hay được sử dụng cho những doanh
nghiệp mới thành lập hay những doanh nghiệp đã hoạt động nhưng cần thiết lập lại
cơ cấu vốn.
2. Các hình thức huy động vốn
Có nhiều cách phân loại nguồn cung ứng vón cho doanh nghiệp. Nếu căn cứ vào nơi
cung ứng có thể phân loại nguồn cung ứng ở dạng khái quát nhất thành nguồn cung
ứng từ nội bộ và nguồn cung ứng vốn từ bên ngoài. Trên cơ sở đó người ta lại tiếp
tục phân loại cụ thể hơn.
2.1. Tự cung ứng
- Khấu hao tài sản cố định: việc xác định mức khấu hao cụ thể phụ thuộc vào thực
tiễn sử dụng tài sản cố định cũng như ý muốn chủ quan của con người. Đối với
doanh nghiệp nhà nước trong chừng mực nhất định phải phụ thuộc ý đồ của Nhà
nước, các doanh nghiệp khác có thể tự lựa chọn thời hạn sử dụng và phương pháp
tính khấu hao cụ thể. Trong chính sách tài chính của mình, doanh nghiệp có thể lựa

chọn và điều chỉnh khấu hao tài sản cố định và coi đây là một nguồn cung ứng vốn
bên trong của mình.
- Tích luỹ tái đầu tư: phụ thuộc vào hai nhân tố cụ thể và tổng số lợi nhuận thu được
trong từng thời kỳ kinh doanh và chính sách phân phối lợi nhuận sau thuế của
doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp Nhà nước toàn bộ lợi nhuận thu được sẽ phải
sử dụng cho các khoản.
+ Nộp tiền sử dụng vốn ngân sách nhà nước theo quy định
+ Trả các khoản phải quy định
+ Lập các quỹ đặc biệt
- Điều chỉnh cơ cấu tài sản: Phương thức này tuy không làm tăng tổng số vốn sản
xuất - kinh doanh nhưng lại có tác dụng rất lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt
động cần thiết trên cơ sở giảm vốn ở những nơi không cần thiết.
2.2. Phương thức cung ứng từ bên ngoài
* Cung ứng từ ngân sách nhà nước
Với hình thức này doanh nghiệp sẽ nhận được lượng vốn xác định từ ngân sách nhà
nước cấp. Thông thường hình thức này không đòi hỏi nhiều điều kiện ngặt nghèo
đối với doanh nghiệp được cấp vốn như các hình thức huy động vốn khác. Tuy
nhiên, càng ngày hình thức này càng bị thu hẹp cả về quy mô vốn và phạm vi được
cấp. Hiện nay đối tượng được hưởng hình thức này là các DNNN xác định duy trì
để đóng vai trò công cụ điều tiết kinh tế; các dự án đầu tư ở những lĩnh vực sản xuất
hàng hoá công cộng, hoạt động công ích mà tư nhân không muốn hoặc không có
khả năng.
* Gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu
Là hình thức do doanh nghiệp được cung ứng vốn trực tiếp từ thị trường chứng
khoán, Khi có cầu về vốn và lựa chọn hình thức này, doanh nghiệp tính toán và phát
hành cổ phiếu bán trên thị trường chứng khoán. Đặc trưng cơ bản là tăng vốn nhưng
không tăng nợ của doanh nghiệp bởi lẽ những người sở hữu cổ phiếu trở thành cổ
đông của doanh nghiệp. Vì lẽ đó nhiều nhà quản trị học coi hình thức này là nguồn
cung ứng nội bộ.
Tuy nhiên chỉ có công ty cổ phần, doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn mới được

phát hành. Và doanh nghiệp phải có nghĩa vụ công khai hoá thông tin tài chính theo
Luật doanh nghiệp.
* Vay tiền bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn:
Đây là hình thức cung ứng vốn trực tiếp từ công chúng. Doanh nghiệp phát hành
lượng vốn cần thiết dưới hình thức trái phiếu thường có kỳ hạn xác định và bán cho
công chúng. Đặc trưng cơ bản là tăng vốn gắn với tăng nợ của doanh nghiệp. Cũng
có những ưu điểm và hạn chế nhất định.
- Ưu điểm chủ yếu: có thể huy động được một lượng vốn cần thiết, chi phí kinh
doanh sử dụng vốn thấp hơn so với vay ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm
soát chặt chẽ như vay ngân hàng và doanh nghiệp.
- Hạn chế: đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm chắc kỹ thuật tài chính để tránh áp lực nợ
đến hạn và vẫn có lợi nhuận đặc biệt khi kinh tế suy thoái lạm phát cao. Chi phí
kinh doanh phát hành trái phiếu khá cao vì doanh nghiệp cần có sự trợ giúp của
ngân hàng thương mại. Doanh nghiệp phải tính toán thoả mãn hai điều kiện: tài sản
cố định phải hỏ hơn tổng số vốn và nợ dài hạn của doanh nghiệp. Những doanh
nghiệp nào thoả mãn các điều kiện theo luật định mới được phép phát hành trái
phiếu.
* Vay vốn của các ngân hàng thương mại
Vay vốn từ các ngân hàng thương mại là hình thức doanh nghiệp vay vốn dưới các
hình thức cụ thể ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn từ các ngân hàng thương mại.
Đây là mối quan hệ tín dụng giữa một bên đi vay và một bên cho vay. Với hình thức
này doanh nghiệp có thể huy động được một lượng vốn lớn, đúng hạn và có thể mời
các doanh nghiệp cùng thamg gia thẩm định dự án nếu có cầu vay đầu tư lớn. Yêu
cầu doanh nghiệp phải có uy tín lớn, kiên trì đàm phán, chấp nhận các thủ tục thẩm
định ngặt nghèo. Nếu doanh nghiệp vay tiền của ngân hàng có thể bị ngân hàng
thương mại kiểm soát các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong thời gian
cho vay.
* Tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp:
Trong hoạt động kinh doanh, quan hệ mua bán trao đổi giữa các doanh nghiệp
thông thường không kết thúc tại một điểm, tức là xuất hiện sự chênh lệch về mặt

thời gian giữa dòng tài chính và dòng vật chất. Thực chất luôn diễn ra đồng thời quá
trình doanh nghiệp nợ khách hàng tiền và chiếm dụng tiền của khách hàng. Nếu tiền
doanh nghiệp chiếm dụng của khách hàng nhiều hơn số tiền doanh nghiệp bị chiếm
dụng thì số tiền dôi ra sẽ mang bản chất tín dụng thương mại hay tín dụng nhà cung
cấp. Ngoài tín dụng thương mại còn gồm cả khoản đặt cọc trước của khách hàng.
Đây là một hình thức tín dụng ngắn hạn quan trọng (thường phải thanh toán trong
vòng 30-90 ngày) đặc biệt là đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp
đang trong thời kỳ tăng trưởng.
* Tín dụng thuê mua:
Trong cơ chế thị trường hình thức này được thực hiện giữa một doanh nghiệp có
cầu sử dụng máy móc, thiết bị với một doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua
diễn ra khá phổ biến. Hình thức này có ưu điểm rất cơ bản là giúp cho doanh nghiệp
sử dụng vốn đúng mục đích, khi nào doanh nghiệp có cầu về sử dụng máy móc,
thiết bị cụ thể mới đặt vấn đề thuê mua. Doanh nghiệp không chỉ được nhận máy
móc thiết bị mà còn được nhận tư vấn đào tạo.
Tuy nhiên cũng có những hạn chế như: chi phí kinh doanh cho việc sử dụng máy
móc thiết bị cao và hợp đồng tương đối phức tạp.
* Vốn liên doanh, liên kết
Với phương thức này doanh nghiệp liên doanh, liên kết với một hoặc một số doanh
nghiệp khác nhằm tạo vốn cho hoạt động liên doanh nào đó.
- Ưu điểm: với hình thức này doanh nghiệp sẽ có một lượng vốn cần thiết cho một
hoặc một số hoạt động nào đó mà không tăng nọ.
- Nhược điểm: các bên liên doanh cùng tham gia liên doanh và cùng chia sẽ lợi
nhuận thu được.
* Nguồn vốn ODA:
Đối tác mà doanh nghiệp có thể tìm kiếm và nhận được nguồn vốn này là các
chương trình hợp tác của chính phủ, các tổ chức phi chính phủ hoặc các tổ chức
quốc tế khác.
Hình thức cấp vốn ODA có thể là hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc cho vay
với điều kiện ưu đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán. Hình thức này có chi phí

kinh doanh thấp (sử dụng vốn). Tuy nhiên để nhận được nguồn vốn này các doanh
nghiệp phải chấp nhận thủ tục chặt chẽ. Đồng thời doanh nghiệp phải có điều kiện
làm việc với các cơ quan Chính phủ và chuyên gia nước ngoài.
* Nguồn vốn nước ngoài đầu tư trực tiếp FDI:
Với phương thức này doanh nghiệp không chỉ nhận được vốn mà còn nhận được cả
kỹ thuật - công nghệ cũng như phương thức quản trị tiên tiến và cũng được chia sẻ
thị trường xuất khẩu. Tuy nhiên huy động vốn theo hình thức này phải chịu sự kiểm
soát điều hành của doanh nghiệp (tổ chức kinh tế) nước ngoài phụ thuộc vào tỷ lệ
góp vốn.
3. Các nguồn hình thành vốn của doanh nghiệp nhà nước
3.1. Vốn chủ sở hữu
- Vốn do ngân sách nhà nước cấp
Các doanh nghiệp nhà nước ngay từ khi mới thành lập đã được Nhà nước cấp cho
một lượng vốn nhất định. Đây là lượng vốn quan trọng để đầu tư xây dựng ban đầu
và mở rộng sản xuất. Khi sử dụng vốn này các DNNN phải nộp thuế sử dụng vốn
NSNN. Từ 01/01/1997, theo Nghị định số 59/NĐ-CP của Chính phủ và Thông
tư/TC-CSTC của Bộ Tài chính thì chỉ có các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có
lãi thì mới phải nộp thuế sử dụng vốn NSNN và được tính từ lợi nhuận sau thuế.
- Vốn hình thành do lợi nhuận để lại:
Đây là nguồn vốn do doanh nghiệp tạo ra trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- Vốn liên doanh liên kết:
Đây là một hình thức phổ biến ở Việt Nam hiện nay, là vốn do các doanh nghiệp
khác trong và ngoài nước đóng góp để cùng thực hiện quá trình sản xuất kinh
doanh. Nguyên tắc trong liên doanh, liên kết và các bên tham gia liên doanh, liên
kết phải bình đẳng với nhau, cùng chia sẻ lợi nhuận và rủi ro trong phạm vi tỷ lệ
vốn góp. Tuy nhiên trong trường hợp liên doanh, liên kết với nước ngoài, do trình
độ yếu kém nên bên Việt Nam thường chịu nhiều thiệt thòi, lượng vốn góp của Việt
Nam còn thấp (thường ở mức 30-35%) nên các quyết định của bên Việt Nam còn
thiếu trọng lượng.
Ngoài ra còn có thể huy động từ cán bộ công nhân viên chức của doanh nghiệp.

- Vốn do cổ phần hoá DNNN mang lại:
Đây là nguồn vốn huy động từ việc DNNN phát hành cổ phiếu. Vốn cổ phần cổ
đông đóng góp thông qua việc mua cổ phiếu do doanh nghiệp phát hành. Mức lãi
của cổ phiếu phụ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (nếu lỗ
thì không phải trả).
3.2. Vốn vay:
- Vốn vay ngân hàng:
Ngày 31/5/1997, Ngân hàng trung ương đã có Công văn số 471 về điều kiện cho
các DNNN vay vốn mà không phải thế chấp, bảo lãnh, tín chấp, không giới hạn
theo vốn điều lệ mà căn cứ vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
- Vốn vay của các tổ chức tài chính trung gian:
Đây là một nguồn cũng rất quan trọng trong tương lai khi hệ thống thị trường tài
chính chứng khoán nước ta đi vào hoạt động. Đó là:
+ Vay các tổ chức tín dụng.
+ Thuê mua, thuê tài chính, thuê hoạt động
- Phát hành trái phiếu
- Mua bán chịu (chiếm dụng vốn) của các doanh nghiệp khác.
- Vay từ nội bộ công nhân viên.
Trong bất kỳ doanh nghiệp nào cũng có một số quỹ như: qũy đầu tư xây dựng cơ
bản, quỹ pht sản xuất kinh doanh, quỹ dự phòng tài chính, quỹ khen thưởng, quỹ
phúc lợi mà doanh nghiệp có thể huy động tạm thời vào sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp có thể trả chậm lương cho cán bộ công nhân viên, nộp thuế chậm lại.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác huy động vốn của doanh nghiệp
4.1. Thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp
Trước hết cần xem xét lại tình trạng bức tranh tài chính của doanh nghiệp tại thời
điểm cần huy động bằng việc tính toán các chỉ tiêu tài chính căn bản như: khả năng
thanh toán, chỉ số nợ, chỉ số hoạt động, chỉ số doanh lợi. Đồng thời tính toán lại các
chỉ tiêu theo phương án huy động khác nhau. Trên cơ sở đó khẳng định mục tiêu,
phương án huy động cụ thể.
4.2. Phân tích luận chứng kinh tế kỹ thuật:

Phân tích nghiên cứu kỹ càng luận chứng kinh tế kỹ thuật đối với khoản tài chính
cần huy động, tính đến các rủi ro liên quan như: rủi ro về mệnh giá, tỷ suất, hối
đoái.
4.3. Chính sách tài trợ:
Phân tích và lựa chọn sử dụng chính sách tài trợ thích hợp, có nghĩa là nguồn huy
động được lựa chọn tài trợ cho bộ phận tài sản nào, chúng sẽ ảnh hưởng như thế nào
đến chính sách tài trợ hiện tại và so sánh với kỳ kinh doanh cũng như đối thủ cạnh
tranh chủ yếu.
4.4. Chủ các nguồn tài chính:
Nghiên cứu tỷ mỷ các nguồn tài chính (chủ nợ) cũng là một sự cân nhắc tuyệt đối
quan trọng. Nếu đó là các ngân hàng, các tổ chức tài chính thì tiềm lực sức mạnh
kinh doanh của họ là một bảo đảm cần thiết trong trường hợp doanh nghiệp cần kéo
dài thời hạn các khoản nợ vì một lý do nào đó. Hơn nữa cùng cần xem xét động cơ
tham gia vào nguồn tài chính doanh nghiệp của họ.
4.5. Quyết định huy động nguồn vốn
Quyết định huy động các nguồn tài chính luôn là vấn đề sống còn đối với doanh
nghiệp, do vậy trước hết cần tập trung nghiên cứu và khai thác triệt để các biện
pháp quản trị khả thi đối với nguồn huy động. Điều này có ý nghĩa to lớn đối với
doanh nghiệp đang trong tình trạng tài chính khó khăn, khả năng thanh toán thấp.
4.6. Kế hoạch huy động tài chính cho chi trả
Nguồn tài chính huy động hôm nay sẽ phải thanh toán chi trả khi đáo hạn (đối với
những khoản vay) do đó doanh nghiệp cần phải có kế hoạch huy động thanh toán,
chi trả.
5. Các chỉ tiêu liên quan đến huy động vốn:
Khi doanh nghiệp thực hiện huy động vốn từ các nguồn thì các chủ tài chính như
ngân hàng, các chủ đầu tư thường cân nhắc và xem xét các chỉ tiêu về khả năng
thanh toán, cơ cấu tài chính và các chỉ tiêu về khả năng sinh lợi vốn của doanh
nghiệp.
- Các chỉ số về khả năng thanh toán:
Tuỳ thuộc vào từng ngành nghề kinh doanh và từng thời kỳ kinh doanh song chủ nợ

ngắn hạn sẽ tin tưỏng hơn nếu chỉ số này lớn hơn 2.
Nếu chỉ số này 1 có nghĩa là doanh nghiệp không có nguy cơ bị rơi vào tình trạng
vỡ nợ và các chủ nợ ngắn hạn sẽ tin tưởng doanh nghiệp hơn.
- Các chỉ số mắc nợ:
Về mặt lý thuyết chỉ số này nằm trong khoảng > 0 và < 1 nhưng thông thường nó
dao động xung quanh giá trị 0,5. Bởi vì lẽ nó bị tự điều chỉnh từ hai phía: chủ nợ và
con nợ. Nếu chỉ số này càng cao, chủ nợ sẽ rất chặt chẽ khi quyết định cho vay
thêm. Mặt khác về phía con nợ, nếu vay nợ quá nhiều sẽ bị mất chủ quyền kiểm
soát nhiều bên đồng thời bị chia lợi nhuận quá nhieèu cho sự vay nợ của mình.
Chỉ số này được sử dụng làm giới hạn ràng buộc cấp tín dụng của ngân hàng đối với
các doanh nghiệp.
Đó là một số chỉ tiêu liên quan đến việc huy động vốn được quan tâm xem xét bởi
cả hai là doanh nghiệp đi vay và chủ cho vay.
III. Hiệu quả sử dụng vốn trong các doanh nghiệp
1. Quan niệm chung về hiệu quả
Có rất nhiều các quan điểm khác nhau về vấn đề hiệu quả nhưng tựu chung lại ta
thấy rằng hiệu của là công cụ để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Trong cơ chế
thị trường ở nước ta hiện nay, mọi doanh nghiệp hoạt động kinh doanh đều có mục
tiêu bao trùm lâu dài và tối đa hoá lợi nhuận.
Hiệu quả là một phạm trù được sử dụng rất rộng rãi trong cả các lĩnh vực kinh tế xã
hội và kỹ thuật. Xong ở đây chúng ta chỉ xem xét hiệu quả kinh tế của hoạt động
sản xuất kinh doanh. Hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh phản ánh
mặt chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh, phản ánh trình độ sử dụng các
nguồn lực (lao động, thiết bị, máy móc, nguyên nhiên vật liệu và tiền vốn) để đạt
mục tiêu cuối cùng là tối đa hoá lợi nhuận. Trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ có
thể đánh giá trong mối quan hệ với kết quả tạo ra để xem xét với mỗi sự hao phí
nguồn lực xác định có thể tạo ra kết quả ở mức độ nào. Vì vậy có thể mô tả bằng
công thức:
trong đó: K: là kết quả đạt được
C: hao phí nguồn lực cần thiết gắn với kết quả.

+ Suất hao phí:
Từ hai loại chỉ tiêu này ta sẽ đi xem xét với yếu tố đầu vào là vốn cố định và vốn
lưu động.
2. Mục đích của phân tích hiệu quả sử dụng vốn:
Làm thông tin giúp các nhà quản trị doanh nghiệp có các quyết định đúng đắn, kịp
thời.
- Xác lập được một cơ cấu vốn hợp lý
- Giúp cho các nhà quản trị đánh giá được tình hình thực tế về vấn đề sử dụng vốn.
- Từ đó tìm ra những mặt yếu kém, chưa có hiệu quả phát hiện ra những nguyên
nhân để tìm ra những biện pháp khắc phục. Tuy nhiên để công việc phan tích hiệu
quả sử dụng vốn là đúng, xác thực và phát huy được những mục đích trên thì cần
quán triệt một số nhiệm vụ sau:
+ Thông tin thu thập để phân tích được lấy từ các báo cáo tài chính, báo cáo thực
hiện kế hoạch, của doanh nghiệp và nguồn thông tin từ bên ngoài doanh nghiệp
như báo cáo về tình hình sử dụng vốn của doanh nghiệp khác đặc biệt cùng ngành.
+ Xây dựng một hệ thống các chỉ tiêu đánh giá thích hợp.
3. Quản lý vốn cố định và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng
3.1. Quản lý vốn cố định
* Hao mòn và khấu hao tài sản cố định:
Trong quá trình sử dụng tham gia vào sản xuất, do chịu sự tác động của nhiều nhân
tố khác nhau nên tài sản cố định bị hao mòn hữu hình và hao mòn vô hình.
- Hao mòn hữu hình: là sự giảm dần về giá trị sử dụng (tức là sự giảm về chất lượng
và sự giảm về tính năng kỹ thuật) và giá trị do chúng được sử dụng trong sản xuất
hoặc do tác động của yếu tố tự nhiên gây ra. Tài sản cố định bị hao mòn hữu hình
trước hết là nó trực tiếp hay gián tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh,
giá trị hao mòn được chuyển dần vào giá trị sản phẩm mới được sản xuất ra. Ngoài
nguyên nhân chủ yếu trên thì trong khi sử dụng và không sử dụng tài sản cố định bị
hao mòn hữu hình là do tác động của các yếu tố tự nhiên như độ ẩm, khí hậu, thời
tiết
- Hao mòn vô hình của tài sản cố định: là do sự giảm thuần tuý về mặt giá trị của tài

sản cố định do có những tài sản cố định cùng loại nhưng được sản xuất với giá rẻ
hơn hoặc hiện đại hơn.
Như vậy nguyên nhân của hao mòn vô hình là do kỹ thuật ngày càng tiến bộ, tổ
chức sản xuất ngày càng hoàn thiện.
- Khấu hao tài sản cố định:
Trong quá trình sử dụng và bảo quản, tài sản cố định bị hao mòn. Bộ phận giá trị
của tài sản cố định tương ứng với mức hao mòn mà nó được dịch chuyển dần vào
giá thành sản phẩm gọi là khấu hao tài sản cố định. Sau khi sản phẩm hàng hoá
được tiêu thụ, số tiền khấu hao được trích lại và tích luỹ thành quỹ khấu hao tài sản
cố định. Quỹ khấu hao tài sản cố định được coi là một nguồn tài chính quan trọng
để tái sản xuất mở rộng tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh của các doanh
nghiệp.
- Các phương pháp tính khấu hao tài sản cố định:
Việc tính khấu hao tài sản cố định chính xác kịp thời, đầy đủ và biện pháp để bảo
toàn vốn cố định, để phòng ngừa hao mòn vô hình của tài sản cố định và chống lại
hiện tượng “ăn vào vốn” - một thực tế khá phổ biến trong ác DNNN ở nước ta trong
thời gian qua. Cho nên việc lựa chọn phương pháp tính khấu hao là quan trọng.
+ Phương pháp tính khấu hao theo đường thẳng (phương pháp tính khấu hao cố
định):
Mk : mức khấu hao cố định hàng năm
NG: nguyên giá tài sản cố định
T: thời gian sử dụng định mức cả đời máy.
+ Phương pháp tính khấu hao gia tăng:
trong đó:
TK : tỷ lệ trích khấu hao năm
NGt : giá trị còn lại của tài sản cố định ở cuối năm thứ t
NG0 : nguyên giá tài sản cố định.
* Kế hoạch khấu hao tài sản cố định:
Là một biện pháp quan trọng để quản lý vốn cố định cả trên phương diện bảo toàn
và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định.

Kế hoạch khấu hao tài sản cố định phản ánh các chỉ tiêu giá trị về tài sản cố định
trong năm kế hoạch, tổng giá trị tài sản cố định ở đầu kỳ, xác định tổng giá trị tài
sản cố định bình quân cần tính khấu hao, mức khấu hao phải tính trong năm và tình
hìnhh phân phối sử dụng quỹ khấu hao.
- Tài sản cố định không phải tính khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn (như
đất đai).
- Tài sản cố định tăng thêm trong năm kế hoạch: nếu tăng vào một ngày nào đó của
tháng thì tháng sau mới tính khấu hao.
Giá trị bình quân tài sản;cố định tăng thêm;trong năm kế hoạch = Giá trị TSCĐ
tăng thêm trong năm x Số tháng sẽ sử dụng TSCĐ 12
- Tài sản cố định giảm bớt trong năm kế hoạch: nếu giảm trong mộtngày nào đó của
tháng thì tháng sau mới không phải tính khấu hao.
Giá trị bình quân tài sản;cố định giảm bớt;trong năm kế hoạch = Giá trị TSCĐ
giảm bớt trong năm x Số tháng sẽ không sử dụng TSCĐ 12
- Tổng giá trị bình quân tài sản cố định phải tính trrong năm kế hoạch được xác định
theo công thức:
Tổng giá trị bình; quân TSCĐ phải;tính khấu hao = Tổng giá trị;TSCĐ có;ở đầu
kỳ + Tổng giá trị;TSCĐ bình quân;tăng lên trong kỳ - Tổng giá trị bình;quân
TSCĐ giảm;bớt trong kỳ
Kế hoạch khấu hao tài sản cố định được coi là biện pháp quan trọng để quản lý vốn
cố định.
3.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
Hiệu quả sử dụng vốn cố định =
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn cố định, cho biết một đồng vốn cố
định bỏ vào sản xuất kinh doanh đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Khả năng sinh
lời của vốn cố định càng cao thì hiệu quả sử dụng vốn cố định càng cao.
4. Quản lý vốn lưu động và các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động
4.1. Quản lý vốn lưu động
* Xác định nhu cầu thường xuyên tối thiểu về vốn lưu động của doanh nghiệp.
Xác định nhu cầu này nhằm mục đích đảm bảo đủ vốn lưu động cần thiết tối thiểu

cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục, tránh ứ đọng vốn và
ngược lại nếu quá ít sẽ gây cho doanh nghiệp nhiều khó khăn tác động xấu đén hoạt
động thu mua vật tư, không đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh.
- Muốn xác định vốn lưu động định mức kỳ kế hoạch doanh nghiệp phải lần lượt
tính toán vốn lưu động định mức ở từng khâu (dự trữ, sản xuất, lưu thông) và đối
với từng loại nguyên vật liệu (chính, phụ) sau đó tổng hợp lại vốn lưu động định
mức kỳ kế hoạch. Tuy nhiên sử dụng phương pháp này tương đối phức tạp.
- Phương pháp gián tiếp xác định nhu cầu vốn lưu động: nội dung phương pháp này
dựa vào thống kê kinh nghiệm để xác định nhu cầu vốn, chia làm 2 trường hợp:
+ Thứ nhất: dựa vào kinh nghiệm thực tế của các doanh nghiệp cùng loại trong
ngành để xác định nhu cầu vốn lưu động cho doanh nghiệp.
+ Thứ hai: dựa vào tình hình thực tế sử dụng vốn lưu động ở thời kỳ trước của
doanh nghiệp để xác định nhu cầu vốn lưu động cho thời kỳ tiếp theo, đồng thời
xem xét với tình hình thay đổi quy mô sản xuất kinh doanh và sự cải tiến tổ chức sử
dụng vốn lưu động để xác định toàn bộ nhu cầu vốn lao động thường xuyên cần
thiết. Phương pháp này có ưu điểm là đơn giản.
* Bảo toàn vốn lưu động
Bảo toàn vốn lưu động là khâu quan trọng quyết định sự tồn tại và phát triển của
mỗi doanh nghiệp. Tuỳ theo đặc điểm cụ thể mà mỗi doanh nghiệp có phương pháp
bảo toàn vốn lưu động hợp lý. Các biện pháp đó là:
- Định kỳ tiến hành kiểm kê, kiểm soát, đánh giá lại toàn bộ vật tư hàng hoá, vốn
bằng tiền, vốn trong thanh toán, để xác định số vốn lưu động hiện có của doanh
nghiệp theo giá trị hiện tại.

×