Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước ngạch chuyên viên trách nhiệm của quản lý nhà nước đối với việc thu sai phí, lệ phí, ở trường tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (97.3 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Chính sách xã hội hoá giáo dục và những đổi mới trong phương thức quản lý
nhà nước về giáo dục; cung ứng dịch vụ giáo dục cho xã hội công dân trong những
năm qua đã đạt được những tiến bộ vượt bậc: Nhận được sự quan tâm đầu tư cho giáo
dục từ nhiều phía, nhằm xây dựng nguồn nhân lực tri thức có chất lượng cao đáp ứng
những đòi hỏi phát triển bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại những cơ hội và thách thức đối với hệ thống giáo
dục nước ta hiện nay. Trong đó, sự chậm đổi mới, thay đổi cách thức, biện pháp quản
lý nhà nước, nhất là về thể chế, cơ cấu tổ chức,... đã làm nảy sinh những nguy cơ về
sự tụt hậu của giáo dục, các căn bệnh thành tích; các tiêu cực và sự xuống cấp về
phẩm chất đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức ngành
giáo dục ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả và môi trường giáo dục.
Thực tiễn cho thấy, những vụ tai tiếng của ngành Giáo dục và đào tạo trong
thời gian qua khá phổ biến trên nhiều mặt, đặc biệt là các vi phạm liên quan đến chế
độ thu phí, lệ phí,... và sử dụng quỹ có liên quan đến tài chính ở các trường tiểu học
trong hệ thống giáo dục quốc dân, như: những vụ tiêu cực liên quan đến cán bộ quản
lý như vụ “chạy trường” ở trường THCS Lê Quý Đôn, thành phố Hồ Chí Minh; vụ
thu quỹ không đúng quy định, chi sai mục đích ở trường THCS Gò Vấp; các tố cáo
liên quan đến việc sử dụng và chi tiêu tiền không đúng quy định của Nhà nước, của
Bộ, ngành Giáo dục hay tình trạng lộn xộn trong việc thu tiền đầu năm học ở nhiều
trường học;... là những hiện tượng đang được dư luận và xã hội quan tâm. Điều này
chứng tỏ, sự thụ động trong quản lý dẫn đến buông lỏng quản lý, bỏ mặc hay bàng
quan,... trong quản lý nhà nước về giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng
ở nước ta. Mặt khác, tính song trùng trực thuộc đã tạo ra những mâu thuẫn, kẽ hở,...
trong việc xác định trách nhiệm quản lý và tính phải chịu trách nhiệm quản lý của
một nền công vụ không rõ ràng với những trở ngại trong việc việc thanh tra, kiểm tra,
xử lý những biểu hiện tiêu cực trên.
Để thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá giáo dục mà Đảng ta đã đề ra trong điều
kiện hội nhập quốc tế và nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước là một đòi hỏi



mang tính tất yếu khách quan, theo tinh thần Nghị quyết số 17/NQ-TW ngày
1/8/2007 Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về đẩy
mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước
trong những năm tới, cùng với những kiến thức lý luận khoa học về quản lý nhà nước
được học tập tại lớp chuyên viên chính và với khả năng thực tiễn công tác của bản
thân, tiểu luận xác định vấn đề: “Trách nhiệm của quản lý nhà nước đối với việc thu
sai phí, lệ phí,.... ở trường tiểu học” làm nội dung cơ bản để nghiên cứu.
I. TÌNH HUỐNG
1. Hoàn cảnh ra đời
Tình hình “lạm thu, loạn thu” năm học nào cũng tái diễn ở không ít các trường
phổ thông, trong đó có tiểu học, gây khó khăn cho nhiều gia đình học sinh và gây bất
bình trong dư luận. Năm học này, tình hình kinh tế khó khăn vì lạm phát, nhiều gia
đình phải vất vả lắm mới lo được cho con đi học. Song, nỗi lo về những “khoản” phải
đóng góp của các bậc phụ huynh khi đi đăng ký học cho con em họ, không phải là
không có căn cứ khi các Hiệu trưởng nhà trường vẫn mạnh tay “chặt chém” với nhiều
hình hình thức và thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn.
Câu chuyện xảy ra ngay trên địa bàn quận Thanh Xuân-Tp Hà Nội, khi cha mẹ
học sinh đến Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng để đăng ký học cho con. Sự xuất hiện
của hàng loạt những khoản thu về lệ phí, phí,... của các loại dịch vụ do Nhà trường
đưa ra và kèm theo đó là những vật chất bắt buộc phải mua với giá cao ngất ngưởng
so với giá thị trường, đã khiến nhiều phụ huynh không nén nổi sự bất bình của mình.
Đi tìm sự giải thích, họ cũng chỉ nhận được những lời giải thích chiếu lệ, qua loa của
Hiệu trưởng, thậm chí là loại khỏi danh sách lớp những học sinh khi cha mẹ không
đóng đủ các khoản, loại phí,... mà Nhà trường đặt ra. Vậy, vấn đề đặt ra là làm thế
nào để phụ huynh học sinh có thể xác định được đâu là những khoản đóng góp đúng
quy định ? và khi có biểu hiện vi phạm của Nhà trường thì ai, cơ quan nào sẽ có trách
nhiệm bảo vệ, bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của người học, cha mẹ học
sinh ?... là những câu hỏi đang đặt ra của các bậc phụ huynh học sinh Trường tiểu học
Đinh Tiên Hoàng.
2



2. Diễn biến tình huống
Kể từ khi đạt chuẩn quốc gia (năm 1998), các khoản thu của trường tiểu học thị
Đinh Tiên Hoàng, quận Thanh Xuân, Tp Hà Nội cứ tăng dần. Năm học này, phụ
huynh đã hết chịu nổi vì Trường thu đến 12 loại phí, quỹ khác nhau. Trong đó, nhiều
khoản thu quá ư “lem nhem” khiến phụ huynh kêu trời. Như mọi năm, trước khi khai
giảng năm học mới, chị Lê Mỹ Ngọc (Khu tập thể Thanh Xuân Bắc) đã chuẩn bị vải
may đồng phục cho con trai Trần Hoài Nam. Nhưng khi đến trường thì tá hỏa vì năm
nay nhà trường có thông báo mới: tất cả học sinh phải mặc đồng phục có mác “Trường
đạt chuẩn quốc gia”.
Chị Ngọc bức xúc: “Loại hàng này Hiệu trưởng đã chuẩn bị rồi, mua bên ngoài
không có. Báo hại tôi phải bỏ hết số vải đã mua, còn phải mua lại đồng phục mới cho
con với giá trên trời”. Bất bình, chị Ngọc quyết định không mua, giáo viên phụ trách
bán đồng phục không ghi tên con chị. Chị tức giận, phản đối trực diện với Ban giám
hiệu ngay cuộc họp phụ huynh đầu năm. Sau cuộc họp, Nhà trường bán chịu cho chị
một bộ đồng phục, ghi tên cho con chị được học. Đến nay chị vẫn chưa chịu nộp tiền
vì cho rằng Trường đã làm bậy.
Chị T., mẹ của học sinh Hồ Như Thủy, bức xúc nhưng vì con mình học ở
trường nên cũng không muốn làm rùm beng. Chị đem biên nhận của nhà trường đến
nộp cho cơ quan chức năng “để xem họ giải quyết thế nào”. Biên nhận chị đưa ra có
ghi số tiền đã nộp lên đến 419.000 đồng, trong đó khoản mua đồng phục chiếm
65.000 đồng, trong khi con chị chỉ mới vào học lớp 1. Hàng trăm phụ huynh khác
cũng bất bình về chuyện đồng phục.
Một số phụ huynh hành nghề bán vải, thợ may khẳng định Trường đã bán ép
đồng phục với giá cao gấp đôi so với giá thực tế trên thị trường. Chị Ngọc đưa ra xấp
vải mà mình đã mua với giá 12.000 đồng/m2 để so sánh với vải áo Nhà trường bán.
Quả nhiên, vải của chị mua có màu trắng hơn, sớ mịn hơn và mặt vải bóng hơn. “Hàng
của Nhà trường bán tối đa cũng chỉ cỡ 30.000 đồng, kể cả tiền công. Vậy mà trường nỡ
bán cho con em chúng tôi với giá 65.000 đồng/bộ. Rõ ràng là rút ruột phụ huynh”, chị

Ngọc bức xúc nói.
3


Trả lời xung quanh chuyện bán đồng phục, ông Huỳnh Văn Đức, Phó phòng
Giáo dục quận Thanh Xuân, nói giá chỉ chênh lệch so với ngoài thị trường 1.000
đồng/bộ thôi, nhưng căn cứ để khẳng định như vậy cũng chỉ là “giải trình của Hiệu
trưởng”. Trong khi đó, theo tìm hiểu, tất cả đồng phục đều do Hiệu trưởng tổ chức
may tại nhà riêng của mình, hội phụ huynh không hay biết, phòng giáo dục cũng mù
tịt.
Đầu năm học 2008-2009, Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng đã có thông báo về
các khoản thu trong năm. Theo đó, có tất cả 12 loại phí, quỹ, bao gồm: quỹ xây dựng
(30.000 đồng/năm), quỹ hội phí (20.000 đồng/năm), kế hoạch nhỏ (10.000
đồng/năm), thuê quét lớp (36.000 đồng/năm), bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn (cộng
chung 75.000 đồng/năm), học phí hai buổi/ngày (10.000 đồng/tháng), phiếu liên lạc
(2.000 đồng/tháng), hồ sơ lớp 1 (3.000 đồng), ghế ngồi sinh hoạt dưới cờ nhân các
ngày lễ (10.000 đồng), đồ thể dục (26.000 đồng/bộ), đồng phục (65.000 đồng/bộ).
Với số lượng 585 học sinh, trừ các đối tượng miễn giảm, Nhà trường sẽ thu
được số tiền lên đến khoảng: 18 triệu đồng tiền quỹ dùng để quét lớp; 9 triệu đồng
tiền “bán” phiếu liên lạc;... Nhiều phụ huynh bức xúc về các khoản thu này nhưng
nhà trường cũng giải thích trót lọt.
Giải thích về các khoản thu trên, ông Châu Văn Tính, Hiệu trưởng, cho biết:
“Ngoài hai khoản thu bắt buộc là quỹ xây dựng và tiền quỹ học thêm hai buổi/ngày
như bộ và Sở Giáo dục và Đào tạo Tp. Hà Nội cho phép, còn lại là các khoản thu tự
nguyện, không bắt buộc, trường cũng đã có xin phép Uỷ ban nhân dân quận Thanh
Xuân và phụ huynh cũng đồng tình.
Nhiều phụ huynh bức xúc nói: "Không biết tự nguyện kiểu nào mà hai trẻ mồ
côi Nguyễn Thiện Tâm, Nguyễn Thiện Niệm suýt chút đã không được vào lớp học vì
không đủ tiền đóng phí. Ông nội nuôi của hai cháu phải ba lần dắt hai cháu đến hội
khuyến học huyện nhờ can thiệp mới xong. Chúng tôi không đồng tình kiểu loạn thu

của trường. Ngay sau khi khai giảng năm học mới, các phụ huynh đã to nhỏ với nhau,
rồi còn mang biên nhận đã nộp tiền đến các cơ quan chức năng của huyện nộp, yêu
cầu xem xét"[1].
4


II. PHÂN TÍCH, XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. Mục tiêu giải quyết tình huống
Quả thật, tình huống trên cho thấy những vấn đề mà lâu nay nhiều gia đình khá
giả thường hay bỏ qua và ít quan tâm. Song, với số lượng học sinh lớn đã tạo ra một
nguồn lợi khổng lồ cho những cá nhân có liên quan ở Trường tiểu học Đinh Tiên
Hoàng. Mặt khác, không phải gia đình nào cũng đó đủ điều kiện kinh tế khá giả để
đáp ứng nhanh các yêu cầu “ngoài luồng” từ phía nhà trường hay giáo viên nên đã
dẫn tới sự phản ứng và bất bình trong số các phụ huynh học sinh có con em theo học
tại Trường tiểu học ở những năm qua học.
Vấn đề mà tình huống đặt ra phải chăng là sự thanh tra, kiểm tra,... của các cơ
quan chức năng không phát hiện được những sai phạm trong thu quỹ hay có mối dây
liên hệ nào khác để dễ dàng có thể “bỏ qua” những vi phạm này; hay những vấn đề
này không thuộc phạm vi, nội dung quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước chỉ
mang tính chất quản lý nội bộ của trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng ? Nếu có thì
trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước ở đâu ?;.... là hàng loạt những câu hỏi
được đặt ra không chỉ của những phụ huynh học sinh mà còn là vấn đề đáng quan
tâm của cộng đồng dư luận xã hội cần phải được làm sáng tỏ. Mục tiêu mà tình huống
đặt ra là phải “giải toả” được những thắc mắc, triệt tiêu những tiêu cực,... nhằm góp
phần xây dựng môi trường học đường lành mạnh, trong sạch nâng cao hiệu lực, hiệu
quả quản lý nhà nước ở địa phương, đặc biệt là trách nhiệm trước nhân dân về những
vấn đề thuộc quản lý nhà nước. Đồng thời, tìm ra những phương hướng xử lý có hiệu
quả, tạo ra sự đồng bộ trong các biện pháp tác động của quản lý Nhà nước trên nhiều
mặt của hoạt động giáo dục ở địa phương hiện nay.
2. Cơ sở lý luận

Tiến trình đổi mới giáo dục Việt Nam trong hơn hai mươi năm qua mang hai
đặc trưng chủ yếu sau đây: một là,chuyển từ giáo dục phục vụ kinh tế kế hoạch hoá
tập trung sang giáo dục vận hành trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; hai là,chuyển từ giáo dục khép kín sang giáo dục mở cửa, chủ động hội
5


nhập quốc tế. Vì vậy, tổ chức và hoạt động giáo dục đã có sự thay đổi căn bản, hướng
tới sự đa dạng hoá, chuẩn hoá, hiện đại hoá và xã hội hoá. Việt Nam cũng đã có
những bước đi chủ động trong hội nhập giáo dục, tiếp nhận giáo dục xuyên biên giới
theo cả hai cơ chế: không lợi nhuận và có lợi nhuận. Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ
đạo trong việc cung ứng giáo dục, nhưng sự bao cấp toàn bộ trước đây đã được thay
thế bằng cơ chế chia sẻ chi phí với việc đóng góp bằng học phí của người học. Các
nhà cung ứng mới trong giáo dục cũng đã xuất hiện: đó là các tổ chức, cá nhân trong
nước đứng ra thành lập các trường bán công, dân lập, tư thục; các tổ chức, cá nhân
ngoài nước đứng ra thành lập các cơ sở giáo dục nước ngoài.
Như thế, giáo dục Việt Nam đã chuyển từ mô hình độc quyền Nhà nước sang mô hình
chuẩn độc quyền. Tình thế cạnh tranh chưa được thiết lập trong khu vực giáo dục
công lập. Nó cũng không được khuyến khích và không xuất hiện như nhau ở các cấp
học và trình độ đào tạo của giáo dục ngoài công lập. Đối với giáo dục trung học phổ
thông và giáo dục đại học, về cơ bản chưa có cạnh tranh do cung không đáp ứng cầu;
các cơ sở giáo dục ngoài công lập chỉ có tác dụng tạo thêm cơ hội cho người học
trong việc tiếp tục học lên. Ở các cấp học còn lại, đặc biệt đối với giáo dục phổ cập
(tiểu học và trung học cơ sở), đã dần dần hình thành tình thế người học được lựa
chọn trường học, vì vậy đã có sự cạnh tranh rõ nét giữa các trường ngoài công lập
trong việc thu hút người học. Như vậy, có thể nói, trước khi vào WTO, trong bối cảnh
chung của chuẩn độc quyền giáo dục Việt Nam, đã có sự hình thành chuẩn thị trường
giáo dục ở một số cấp học, tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị.
Với tư cách là nước đi sau trong việc gia nhập WTO, Việt Nam phải chịu sức
ép lớn hơn về cam kết trong lĩnh vực giáo dục. Trên thực tế, khi đưa ra bản chào dịch

vụ đa phương, mức cam kết của Việt Nam về dịch vụ giáo dục là khá sâu và rộng, về
cơ bản không khác nhiều so với Hiệp định thương mại song phương BTA đã ký với
Hoa Kỳ. Theo đó, ta mở cửa đối với hầu hết các lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ
thuật, nghiên cứu và quản lý doanh nghiệp, kinh tế, kế toán, ngôn ngữ và luật quốc tế.
Tuy nhiên, việc mở cửa là khác nhau giữa các cấp học và các phương thức cung ứng
giáo dục. Giáo dục tiểu học không có cam kết gì. Giáo dục trung học chỉ có cam kết
6


"không hạn chế" đối với phương thức tiêu thụ ngoài nước. Đối với giáo dục đại học,
giáo dục người lớn và các dịch vụ giáo dục khác, chúng ta chưa cam kết về phương
thức 1 (cung ứng xuyên biên giới), cam kết "không hạn chế" với phương thức 2 (tiêu
thụ ngoài nước) và phương thức 3 (hiện diện thương mại), chưa cam kết, trừ các cam
kết chung, với phương thức 4 (hiện diện thể nhân).
Nhờ sự quan tâm của Đảng, của nhân dân nền giáo dục nước ta đã đạt được
những thành quả đáng kể trong thời gian qua. Những thành tựu đó là: Sự phát triển
vượt bậc về quy mô ở tất cả các cấp học và đã góp phần nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, tăng trưởng kinh tế. Giáo dục, đào tạo đã đào tạo được một lực lượng lao
động có chuyên môn, kỹ thuật, khoảng 8 triệu người chiếm 18,3% trong tổng số 43,8
triệu lao động hiện nay; hệ thống giáo dục nghề nghiệp được phát triển từ thấp đến
cao; dạy nghề sau phổ thông cơ sở, Trung học chuyên nghiệp. Một xã hội học tập
đang hình thành và mở rộng ở khắp tất cả các địa phương. Quy mô học sinh, sinh
viên tăng nhanh, số cơ sở giáo dục đào tạo cũng được mở rộng.
Tuy nguồn ngân sách hạn hẹp, ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục đào tạo ngày
một tăng, năm 1998 chi cho giáo dục là 13,6% ngân sách, năm 2000 là 15%, năm 2009 dự
toán phân bổ là 47,1%[2]. Ngoài ngân sách thường xuyên, Nhà nước đã tăng cường
đầu tư cho giáo dục đào tạo bằng các chương trình mục tiêu quốc gia, huy động trái
phiếu và chủ động vay tiền nước ngoài đầu tư cho giáo dục, đào tạo. Nhiều nước đã
viện trợ không hoàn lại cho giáo dục, đào tạo Việt Nam. Nhân dân đóng góp cho giáo
dục, đào tạo bằng học phí, xây dựng trường sở cũng rất đáng kể. Nhờ huy động đầu

tư cho giáo dục, đào tạo từ nhiều nguồn, cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy
học một số trường đã được sửa chữa, tu bổ, mở rộng xây dựng mới.
Những vấn đề giáo dục trên chỉ phát huy được hiệu quả, có môi trường phát
triển và động lực tích cực khi cơ chế quản lý và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức
có năng lực và phẩm chất đạo đức “xứng tầm” với những yêu cầu mà giáo dục đặt ra.
Quản lý mà không nắm chắc các quy luật thì quản lý sẽ trở thành lực cản. Cũng như
trồng cây cũng vậy. Cây mọc giữa rừng, chả ai chăm sóc nếu gặp mưa thuận gió hòa,
nó sẽ phát triển tươi tốt theo các quy luật sinh lý, sinh thái của nó. Cây mọc trong
7


vườn, nếu giao cho người không hiểu sinh lý, sinh thái của nó chăm sóc thì ông ta có
thể làm cho nó còi cọc, thậm chí chết yểu. Trong đó, cơ cấu tổ chức và phân cấp chức
năng, nhiệm vụ đòi hỏi phải phù hợp và rõ ràng về trách nhiệm và chịu trách nhiệm
trên nền tảng của hoạt động công vụ. Nếu sự phân cấp trách nhiệm, chức năng không
đồng bộ, phù hợp với cơ cấu tổ chức và năng lực sẽ là những rào cản cho việc nâng
cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục ở địa phương.
Như vậy, tính tất yếu biện chứng khách quan giữa cơ chế, phương thức, cách
thức biện pháp tác động của quản lý nhà nước với chất lượng giáo dục là một nhu cầu
không thể thiếu và nằm trong một chỉnh thể thống nhất với các điều kiện kinh tế thị
trường và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Nếu, lựa chọn đúng phương thức,
biện pháp quản lý nhà nước sẽ là điều kiện để thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển,
xây dựng được nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho sự phát triển kinh tế bền
vững và ngược lại nếu các hình thức, biện pháp không phù hợp với những biến đổi
khách quan của giáo dục sẽ tạo ra những hậu quả khôn lường đối với cả hệ thống giáo
dục nói chung.
3. Phân tích tình huống
Hàng loạt các hành vi mà tình huống nêu lên, cần phải được đánh giá theo
những quy định hiện hành của Nhà nước và tình hình thực tiễn của quận Thanh Xuân,
Tp.Hà Nội. Về cơ bản có thể thấy những biểu hiện sau:

Một là, sự mâu thuẫn và chồng chéo trong phân cấp chức năng quản lý nhà
nước về giáo dục trên địa bàn Tp. Hà Nội. Theo quy định hiện hành tại Điều 88, 104
và 109 Luật tổ chức Hội đồng nhân và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003 và khoản 7,
Điều 7 Nghị định số 14/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/02/2008 quy định về tổ
chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh xác định việc phân cấp quản lý giáo dục được tiến hành theo cấp học-tức
Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Phòng Giáo dục quản lý các trường trung học cơ sở, tiểu
học trên địa bàn và cấp xã quản lý bậc mầm non. Như vậy, việc phân cấp này vô hình
dung đã tạo ra khoảng cách và sự cản trở trong quản lý, kiểm tra những sai phạm của
các trường tiểu học trên địa bàn quản lý của chính quyền phường. Nếu, việc phân cấp
8


được tiến hành trên cơ sở phân loại các hoạt động quản lý (hoạt động công vụ) thì
những hiện tượng “vô trách nhiệm”, “buông lỏng quản lý”,... sẽ không xảy ra. Thực
tiễn tình huống trên cho thấy, Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng tự đặt ra và thu quá
mức các loại phí, lệ phí,... nhưng không được các cấp có thẩm quyền tiến hành ngăn
chặn, xử lý kịp thời. Điều này chứng tỏ, chính quyền cơ sở không được phân cấp
quản lý nên “không có thẩm quyền” để can thiệp, đình chỉ việc thu trái pháp luật để
chờ cơ quan có thẩm quyền quyết định. Đây là tình trạng chung trong việc phân cấp
quản lý không khoa học, theo lối mòn “cấp dưới làm ít, cấp trên làm nhiều”,...
Hai là, hành vi thu phí, bán đồng phục trái pháp luật của Trường tiểu học
Đinh Tiên Hoàng. Tình huống nêu 12 loại phí với các mức đóng góp khác nhau, trong
đó có cả việc may đồng phục không theo đơn đặt hàng (tự may) theo quy định nên
dẫn đến tình trạng tự định giá bán cho các mẫu đồng phục của Ban giám hiệu Nhà
trường. Mặc dù, pháp luật đã có những chế tài đủ mạnh như: Điều 105 Luật Giáo dục
2005 qui định: “Ngoài học phí và lệ phí tuyển sinh, người học hoặc gia đình người
học không phải đóng góp khoản tiền nào khác”. Như vậy, 12 khoản thu kia Sở Giáo
dục và Đào tạo Thành phố căn cứ vào đâu để cho phép trường tiểu học thu. Vì vậy,
mọi khoản thu bắt buộc khác trong nhà trường đều là vi phạm pháp luật (hiện một số

địa phương vẫn cho phép thu tiền xây dựng trường). Trong 02/12 khoản thu mà tình
huống nêu là tiền xây dựng trường và tiền học thêm 02 buổi/tuần đối với trường đạt
chuẩn quốc gia mà Sở Giáo dục-Đào tạo Tp.Hà Nội cho phép các trường tiến hành là
những quy định riêng của địa phương là phù hợp với quy định của pháp luật. Nhưng
liệu những khoản thu do Sở đặt ra như thu học thêm đối với lớp chọn, trường chuẩn
đã phù hợp với đạo lý và pháp luật hiện hành của Việt Nam. Điều khó lý giải là tại
sao lớp chọn, trường chuẩn phải bắt buộc học thêm 02/tuần và 08 buổi/tháng, ? Hiện
Sở Giáo dục cũng không lý giải nổi tại sao đi kèm với danh hiệu trường chuẩn, lớp
chọn học sinh phải học thêm, và điều quan trọng hơn là mức thu của Nhà trường sẽ
như thế nào trong tình hình loạn thu, lạm chi như trên. Đối với 10/12 khoản thu khác
do Ban giám hiệu Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng tự đặt ra và với những lý do hết
sức đơn giản: “chỉ để phục vụ các em là chính”. Từ những phân tích này cho thấy,
9


năng lực về cụ thể hoá Luật giáo dục và triển khai tổ chức thực hiện của Sở Giáo dục
còn yếu và có nhiều hạn chế nên đã tạo ra những điều kiện tốt cho cấp dưới “tự tung,
tự tác”... Mặt khác, sự hám lợi đã làm cho tính chất vi phạm pháp luật của hành vi
ngày càng lớn hơn.
Điều 5 Nghị định của Chính phủ số 57/2002/NĐ-CP ngày 03 tháng 6 năm 2002
“Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí” qui định chỉ có Chính phủ, Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Bộ Tài chính là có thẩm
quyền qui định mức phí và lệ phí. Thế nhưng hiệu trưởng nhiều trường đã rất “hồn
nhiên” khi “lộng quyền” tự đặt ra các khoản thu thêm như: phí giữ xe đạp, phí bảo vệ,
phí điện nước… trong khu vực trường. Sự lộng quyền của Hiệu trưởng còn được thể
hiện rõ trong hành vi tự cung cấp đồng phục cho học sinh (do gia đình Hiệu trưởng
may) và tự định giá bán. Đối với hành vi vi phạm về thu phí, lệ phí trái pháp luật đã
có chế tài quy định xử lý, theo Điều 9, Nghị định 106/2003/NĐ-CP của Chính phủ:
“Vi phạm quy định về thẩm quyền quy định về phí, lệ phí”: sẽ bị “Phạt tiền từ
20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi không có thẩm quyền mà tự

đặt ra quy định về: danh mục phí, lệ phí; mức thu phí, lệ phí; quản lý, sử dụng tiền
phí, lệ phí; miễn, giảm phí, lệ phí”. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân vi phạm còn phải
bị áp dụng các hình phạt bổ sung, khắc phục hậu quả… Song, chế tài thì đã có, chức
năng phân cấp quản lý đã được xác định, nhưng Phòng Giáo dục và đào tạo quận
Thanh Xuân cũng không có động thái gì trước những tố cáo của phụ huynh học sinh.
Phải chăng, đã có sự “ngầm hiểu” trong mối quan hệ có liên quan giữa cấp quản lý và
Ban giám hiệu trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng ? Hay, sự né tránh xử lý của Phòng
Giáo dục đối với các hiện tượng tiêu cực của Nhà trường là do thiếu cán bộ, công
chức, địa bàn quản lý rộng không đủ sức để tiến hành thanh tra đột xuất,... ? Đây là
những biểu hiện thường thấy về tính thụ động của các cơ quan quản lý nhà nước trong
việc quản lý các lĩnh vực được giao. Nếu Phòng Giáo dục kiên quyết, cán bộ, công
chức công tâm thì đâu đến mức để xảy ra tình trạng nhiều năm liền các phụ huynh học
sinh bị một số cán bộ, công chức, viên chức “rút ruột” những đồng tiền chính đáng của
họ.
10


Ba là, xét và đạo đức của hành vi lợi dụng sự phụ thuộc của phụ huynh học
sinh để thực hiện hành vi rút tiền của cha mẹ học sinh. Trong khi toàn Đảng, toàn dân
đang sôi nổi thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”. Nguyên lý của nền giáo dục chúng ta là nhân đạo, vì thế hệ tương lai của
đất nước. Nhà trường cũng đã treo những câu khẩu hiệu thể hiện điều đó: “Tất cả vì
học sinh thân yêu”, “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, “Dân chủ, kỉ cương, tình
thương, trách nhiệm” và hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đang phát động xây dựng
mô hình “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” với hạt nhân là lí tưởng nhân văn
vì thế hệ tương lai của dân tộc. Môi trường giáo dục là môi trường văn hóa, nhân văn,
hình tượng nhà giáo là mẫu mực về đạo đức, lối sống cho học sinh noi theo.Vì vậy,
việc tổ chức “loạn thu, lạm thu” của Nhà trường khiến cho mọi lời rao giảng về đạo
đức, lẽ công bằng của thầy cô trở nên vô nghĩa, là hành vi hoàn toàn trái với đạo lý.
Làm vậy, vô hình trung chúng ta đang tàn phá môi trường giáo dục, cái gốc để giáo

dục nhân cách, lối sống cho học sinh và tương lai xã hội sẽ phải trả một giá đắt. Học
sinh và nhân dân sẽ mất niềm tin vào nhà trường, thầy cô và những điều tốt đẹp trong
cuộc sống. Liệu tương lai các em sẽ suy nghĩ gì trước cách ứng xử thiếu trung thực,
“nói một đàng, làm một nẻo”, vi phạm pháp luật của thầy cô.

Bên cạnh đó, những nguyên nhân từ phía chủ quan phụ huynh học sinh cũng đã
góp phần tạo điều kiện để cho những hành vi trái pháp luật trên phát triển. Bởi lẽ, sự
lựa chọn về môi trường giáo dục giữa trường công và trường tư trên địa bàn là không
có. Mặt khác, các gia đình khá giả thì thường bỏ qua những khoản thu không đáng là
gì so với 01 học sinh/năm; hay sự lệ thuộc quá lớn của học sinh với cô giáo, Ban
giám hiệu Nhà trường;.... là những vỏ bọc lý tưởng để các hành vi trên tự hoành
hành, tự tác,...
4. Giải quyết tình huống
Như vậy, vấn đề “lạm thu, loạn thu” của Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng là
quá rõ ràng, song vấn đề xử lý, giải quyết các hiện tượng trên như thế nào nhằm một
mặt vừa xử lý được hành vi vi phạm, vừa bảo đảm quyền, lợi ích và môi trường giáo
11


dục cho con em họ. Đây là vấn đề khó, cần phải có thời gian tiến hành và sự tham gia
của nhiều cấp, ngành và đặc biệt của là nhân dân. Song, tiểu luận cũng nêu lên các xử
lý tình huống cụ thể như sau:
Trên cơ sở các phiếu thu mà Phòng Giáo dục và Đào tạo quận nhận được từ
phía phụ huynh học sinh, Trưởng phòng Giáo dục quận cần tiến hành:
Bước 1, tiến thanh tra đột xuất những sai phạm ở Trường tiểu học Đinh Tiên
Hoàng
Một là, tiến hành làm công văn báo cáo Uỷ ban nhân dân quận Thanh Xuân về
những loại phí, mức thu,... của Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng đã tiến hành thu của
phụ huynh học sinh. Trong Công văn cần chỉ rõ những sai phạm theo từng hành vi cụ
thể và đề nghị Uỷ ban nhân dân quận ra Quyết định thanh tra đột xuất về những vi

phạm ở Trường tiểu học.
Hai là, trên cơ sở Công Văn của Trưởng Phòng Giáo dục, Thường trực Uỷ ban
nhân dân quận họp và ra Quyết định thanh tra đột xuất. Trong quyết định thanh tra
đột xuất cần xác định thanh tra giáo dục (chủ trì), công an quận, người bị hại ( những
người nộp phiếu thu tố cáo) và trưng tập cộng tác viên chuyên môn nếu thấy cần
thiết; thời gian tiến hành thanh tra; nội dung thanh tra; và những điều kiện vật chất
bảo đảm cho thanh tra;....
Ba là, thanh tra giáo dục huyện tiến hành thanh tra theo quy định của Quyết
định. Khi thanh tra đột xuất cần làm rõ những sai phạm thông qua giấy tờ, sổ sách,
của nhà trường; đối chiếu với những phiếu chi mà phụ huynh học sinh cung cấp,...
thu, giữ những sổ sách, giấy tờ có liên quan đến những sai phạm. Buổi thanh tra có
thể tiến hành trong 01 ngày hoặc 02 ngày song, cuối mỗi buổi thanh tra đều có biên
bản ghi chép tiến hành thanh tra có sự chứng kiến của Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch
phường; công an; người bị hại (phụ huynh học sinh); Ban giám hiệu; Ban đại diện
học sinh;.... và biên bản thanh tra cuối cùng phải đưa ra những đề xuất cần thiết xử lý
cụ thể.

12


Bốn là, sau khi có biên bản thanh tra, Trưởng phòng Giáo dục quận căn cứ vào
những chứng cứ được xác định thông qua thanh tra đột xuất và mời Ban giám hiệu
đến để giải quyết vụ việc. Sau buổi làm việc có thê ban hành Quyết định kết luận
thanh tra. Trong kết luận thanh tra phải xác định rõ tính chất, mức độ sai phạm trong
từng khoản phí, lệ phí,... làm căn cứ để làm Báo cáo Uỷ ban nhân dân ra quyết định
xử phạt hành chính hoặc giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành truy cứu trách
nhiệm hình sự.
Nếu là xử phạt hành chính thì Uỷ ban nhân dân ra quyết định xử phạt hành
chính theo quy định của Nghị định số 106/2003/NĐ-CP và kèm theo là trách nhiệm
hoàn trả lại những số tiền mà Nhà trường đã thu trái quy định pháp luật trong những

năm qua.
Bước 2, tiến hành xác định trách nhiệm, xử lý kỷ luật giáo viên, thành viên
trong Ban giám hiệu
Căn cứ vào những sai phạm trong Quyết định thanh tra đột xuất, Hội đồng
trường tiến hành họp đột xuất xác định mức độ sai phạm của từng cá nhân và đề xuất
những kiến nghị xử lý lên Phòng Giáo dục và Đào tạo. Trên cơ sở đó, Phòng Giáo
dục và Đào tạo tiến hành họp đánh giá mức độ vi phạm của từng cá nhân làm cơ sở
để làm Tờ trình Uỷ ban nhân dân quận ra quyết định cách chức, sa thải, chuyển công
tác đối với những cá nhân cụ thể. Báo cáo Uỷ ban nhân dân Tp. Hà Nội về việc xử lý
vụ việc.
III. KIẾN NGHỊ
Xu hướng phát triển giáo dục và gia tăng trách nhiệm trong quá trình quản lý
và hoạt động giáo dục của Nhà trường, dưới sự quản lý, giám sát của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và nhân dân là một trong những yêu cầu quan trọng trong việc
nâng cao chất lượng, tính minh bạch, dân chủ,... trong mọi hoạt động của bậc tiểu
học. Do vậy, tiểu luận mạnh dạn nêu lên một số kiến nghị cơ bản như:
Thứ nhất, cần thiết trao quyền tự chủ cho các trường tiểu học. Bởi lẽ, tự chủ có
vai trò quan trọng trong công tác quản lý giáo dục để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ
13


của nền giáo dục Việt Nam nhằm đáp ứng được yêu cầu của hiện tại cũng như trong
tương lai. Cần trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các cơ sở giáo dục nói chung, trong
đó có bậc tiểu học nói riêng vì đây là một xu thế chung của thế giới trong việc phát
triển giáo dục và là con đường tối ưu để giải phóng nguồn lực của các cơ sở giáo dục
ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, trao quyền tự chủ về tài chính để Nhà trường chủ động
sử dụng nguồn tài chính phục vụ các hoạt động của nhà trường. Trong mỗi nhà trường,
đội ngũ giáo viên - công nhân viên và học sinh cũng cần thấy vai trò tự chủ của mình,
phải có ý thức làm chủ, có thói quen tôn trọng dân chủ, và biết tự khẳng định mình
trong tập thể thông qua chất lượng giảng dạy, giáo dục và các nhiệm vụ được giao. Mặt

khác, "tự chủ" không có nghĩa là buông lỏng mà vẫn cần có sự kiểm soát chặt chẽ. Vì
vậy, các cơ quan quản lý giáo dục phải đủ năng lực quản lý, phải thiết kế cơ chế kiểm
soát được quyền lực, kiểm soát được chất lượng và buộc các trường phải có trách
nhiệm đối với người học, đối với xã hội.
Thứ hai, thực hiện tốt quy chế dân chủ, nhất là sự tham gia giám sát, chất vấn
và đánh giá chất lượng của Hội đồng trường, Ban đại diện cha mẹ học sinh trường,
Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp. Dân chủ trong bàn bạc, thảo luận những vấn đề
liên quan đến xây dựng, mua sắm các trang thiết bị dạy học, xây dựng cơ sở vật chất,
sử dụng quỹ,... giữa Ban giám hiệu với Hội phụ huynh học sinh, Ban đại diện học
sinh là cơ sở để kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động của Nhà trường trong quá trình tổ
chức, thực hiện nhiệm vụ. Nếu không có sự bình đẳng, không có sự giám sát, đặc biệt
là sự giải trình của Ban giám hiệu trước những hội đại diện học sinh ở trường thì
những việc làm “mờ ám”, “khuất tất”,... sẽ có điều kiện và cơ hội để phát sinh trong
môi trường giáo dục tiểu học.
Thứ ba, cần tiến hành phân cấp nhiệm vụ quản lý các lĩnh vực liên quan đến
môi trường giáo dục; đạo đức, phẩm chất nhà giáo,... cho chính quyền cơ sở quản lý.
Vì, những nhiệm vụ này hoàn toàn phù hợp và có hiệu quả khi được Uỷ ban nhân dân
cấp xã phối hợp với các tổ chức chính trị-xã hội; các Ban đại diện học sinh để phát
hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm môi trường giáo dục, vi phạm đạo đức
nhà giáo,...
14


KẾT LUẬN
Tóm lại, hoạt động giáo dục và quản lý giáo dục luôn có mối quan hệ biện
chứng với nhau và thống nhất trong mục tiêu mà giáo dục đặt ra. Nếu, hoạt động
quản lý được tiến hành thường xuyên, công tâm và kiên quyết thì hoạt động giáo dục
sẽ đi vào nề nếp, trật tự và ổn định và mục tiêu của giáo dục sẽ đạt được với chất
lượng cao. Ngược lại, nếu hoạt động quản lý buông lỏng, thiếu trách nhiệm,... thì hoạt
động giáo dục sẽ nảy sinh những hiện tượng tiêu cực, vi phạm, tuỳ tiện,... làm cho

giáo dục không những không đạt được chỉ tiêu đặt ra mà còn làm cho môi trường
giáo dục bị “xấu đi” ảnh hưởng trực tiếp đến sản phẩm giáo dục, đến sự ổn định và
phát triển của kinh tế-xã hội. Do vậy, để giáo dục Việt Nam thích ứng nhanh với
những kinh nghiệm và đòi hỏi quá quá trình hội nhập quốc tế; nhu cầu phát triển
nguồn nhân lực có chất lượng cao-nhân lực tri thức góp phần phát triển ổn định và
bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thay thế cho nguồn
nhân công giá rẻ hiện nay,...thì điều quan trọng và trước hết cần thay đổi cơ chế quản
lý, thể chế pháp luật phù hợp và bố trí đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có năng
lực, có phẩm chất đạo đức tốt. Điều này có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn
hoạt động quản lý giáo dục; hoạt động giáo dục nhằm thực hiện thành công sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ở nước ta hiện nay.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1 Báo Tuổi trẻ online ngày 31/12/2008.
.
16


2 Luật tổ chức Hội đồng nhân và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003.
.
3 Luật Giáo dục 2005 số 38/2005/QH11 của Quốc hội ban hành ngày
. 14/07/2005.
4 Nghị quyết số 17/NQ-TW ngày 1/8/2007 Hội nghị lần thứ năm Ban
. chấp hành Trung ương Đảng khoá X về đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
5 Nghị định của Chính phủ số 57/2002/NĐ-CP ngày 03 tháng 6 năm

. 2002 “Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí”.
6 Nghị định 106/2003/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm
. hành chính trong lĩnh vực phí, lệ phí.
7 Nghị định số 14/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/02/2008 quy
. định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
8 Ngân hàng Thế giới: Phân cấp ở Đông Á-để chính quyền địa
. phương phát huy tác dụng, Nxb. Văn hoá-Thông tin, Hà Nội, 2005.

17



×