Tải bản đầy đủ (.pdf) (128 trang)

Nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế GTGT các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn thành phố huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 128 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Thuế ra đời và phát triển gắn liền với sự hình thành và phát triển của Nhà
nước và là một đòi hỏi khách quan đối với sự tồn tại của Nhà nước đó. Do vậy, thuế
là một khoản đóng góp mang tính bắt buộc, cưỡng chế, pháp lý cao, là nguồn thu
chủ yếu cho ngân sách Nhà nước. Trong các đối tượng chịu thuế, kinh tế ngoài quốc
doanh là đối tượng có số thuế phải thu chiếm tỷ trọng cao trong ngân sách Nhà
nước, được xem là thành phần kinh tế phát triển mạnh mẽ và năng động nhất. Song
cũng là thành phần kinh tế đa dạng và phức tạp nhất. Trong 10 năm triển khai áp
dụng thuế giá trị gia tăng (GTGT) đối với thành phần kinh tế này đã nảy sinh không
ít những khó khăn, vướng mắc. Vậy, làm thế nào để luật thuế GTGT thực sự đi vào
cuộc sống, phát huy hết các vai trò, tác dụng và những ưu điểm nổi bật của nó. Vấn
đề quản lý thu thuế GTGT đối với khu vực kinh tế NQD như thế nào? Đó là một
câu hỏi cấp bách đặt ra cần có những giải pháp.
Thành phố Huế là trung tâm của tỉnh Thừa Thiên Huế, thu ngân sách hàng
năm của Thành phố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách của Tỉnh. Trong
đó, khoản thu thuế GTGT của doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một trong những
khoản thu chủ yếu, góp phần quan trọng quyết định hoàn thành nhiệm vụ thu ngân
sách của Thành phố, của Tỉnh.
Công tác quản lý thu thuế GTGT trong những năm qua của Thành phố đã đạt
được nhiều kết quả. Tuy nhiên, một số khâu trong công tác thu thuế GTGT vẫn còn
những điểm hạn chế. Số thu thuế GTGT luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch và có
tốc độ tăng cao, nhưng số thu đó vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của Thành
phố, nhiều nguồn thu chưa được khai thác. Đặc biệt, tình hình thất thu thuế vẫn
đang diễn ra ở một số lĩnh vực như: thương mại, ăn uống, khách sạn, dịch vụ. Tình
trạng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh nhưng không khai thuế, nộp thuế vẫn còn
nhưng chưa có giải pháp hữu hiệu để xử lý; tỷ lệ nợ thuế vẫn còn cao.
Vì thế, để phát huy vai trò quản lý vĩ mô nền kinh tế và huy động nguồn thu

1



cho ngân sách Nhà nước, chi cục Thuế Thành phố Huế cần phải có những giải pháp
hết sức thiết thực nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý về công tác thu thuế GTGT, tạo
điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động và đảm bảo công bằng giữa các
thành phần kinh tế. Xuất phát từ những vấn đề trên tác giả đã chọn đề tài: “Nâng
cao hiệu quả quản lý thu thuế GTGT các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên
địa bàn thành phố Huế” làm luận văn khoa học của mình.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Đề tài: “Nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế GTGT các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh trên địa bàn Thành phố Huế” thực hiện nhằm đạt được những mục đích sau đây:
2.1 Mục đích chung
Đánh giá thực trạng công tác quản lý thu thuế GTGT, đề xuất các giải pháp
nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế GTGT các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh (DN NQD) trên địa bàn Thành phố Huế
2.2 Mục đích cụ thể
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận về thuế GTGT và công tác quản lý thuế
GTGT các doanh nghiệp ngoài quốc doanh theo quy trình của Tổng cục Thuế.
- Phân tích đánh giá thực trạng công tác quản lý thu thuế GTGT các doanh
nghiệp NQD trên địa bàn Thành phố Huế.
- Đề xuất định hướng và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý
hoạt động thu thuế GTGT các doanh nghiệp ở Chi cục Thuế Thành phố trong thời
gian đến.
3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU

3.1 Nội dung nghiên cứu: Đánh giá công tác quản lý thu thuế GTGT các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn thành phố ở Chi cục Thuế thành phố Huế
3.1 Phạm vi không gian: Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn thành
phố Huế.
3.2 Phạm vi thời gian: Trong thời gian từ năm 2005-2008.
Trọng tâm của vấn đề nghiên cứu chủ yếu là thuế GTGT và các đối tượng

quản lý thu thuế trên địa bàn thành phố. Trên cơ sở phân tích kết quả thu thuế từng
năm chỉ ra ưu, nhược điểm và tác động của chính sách thuế đến số thu ngân sách và

2


phát triển kinh tế thực hiện công bằng xã hội giữa các thành phần kinh tế đồng thời
đề xuất những định hướng, giải pháp quản lý khả thi trong thời gian tới.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

4.1 Phương pháp chung
Luận văn vận dụng cách tiếp cận theo phương pháp duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử; vận dụng quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước trong quá trình
đổi mới kinh tế để phân tích thực trạng quản lý và thực hiện chính sách thuế ở địa
phương nghiên cứu. Từ đó rút ra một số nhận xét và kiến nghị đề xuất các giải pháp
để góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế GTGT đối với các DN
NQD tại Chi cục Thuế thành phố Huế.
Phương pháp tiếp cận: xem xét, nghiên cứu dưới góc độ các quy trình nghiệp
vụ, các văn bản hướng dẫn thực hiện của Nhà nước, trong đó tập trung vào các quy
trình quản lý thuế hiện hành như quy trình quản lý DN, quy trình thanh tra, kiểm
tra...để phân tích, đánh giá nhằm tìm ra những bất cập, mâu thuẫn hoặc những tồn
tại để nhằm đề xuất một số biện pháp có tính khả thi trong tương lai.
4.2 Phương pháp cụ thể
4.2.1 Phương pháp thu thập số liệu
+ Số liệu thứ cấp cần thiết cho đề tài được thu thập từ các nguồn: Cục Thống
kê, Phòng thống kê, các đội kiểm tra thuế, đội kê khai kế toán tin học. Đội cưỡng
chế quản lý và thu nợ thuế thuộc Chi cục Thuế thành phố Huế, niên giám thống kê
của thành phố, các tài liệu kinh tế - xã hội, Internet……. Ngoài ra, còn sử dụng các
số liệu từ báo cáo khoa học đã được công bố, các công trình nghiên cứu khoa học
của nhiều tác giả về lĩnh vực liên quan đến đề tài.

+ Số liệu sơ cấp: Được thu thập bằng cách khảo sát phỏng vấn các doanh
nghiệp dựa trên số lượng doanh nghiệp mà Chi cục Thuế đang quản lý và số lượng
cán bộ công chức thuế thuộc Chi cục Thuế thành phố. Cụ thể chọn ngẫu nhiên 73
DN sản xuất kinh doanh trên địa bàn, gồm: 18 công ty cổ phần, 20 công ty TNHH,

3


25 doanh nghiệp tư nhân, 10 Hợp tác xã và 55 cán bộ công chức (CBCC) thuế để
tiến hành điều tra.
Phương pháp điều tra bằng cách phát phiếu khảo sát đã được thiết kế sẵn, nhằm
đánh giá các quy định về việc kê khai đăng ký thuế, kế toán thuế, mức độ hài lòng của
người nộp thuế và cán bộ công chức thuế về công tác hướng dẫn tuyên truyền hỗ trợ
người nộp thuế, công tác hoàn thuế, kiểm tra thuế tại DN của cơ quan thuế.
Mục đích của việc điều tra là để nắm bắt được những khó khăn, vướng mắc,
những kiến nghị đề xuất của DN cũng như cán bộ công chức thuế trong việc thực
hiện cơ chế tự khai, tự nộp thuế theo Luật quản lý thuế. Bảng hỏi được thiết kế bám
sát theo các nội dung của quy trình quản lý thuế hiện tại và theo đề cương nghiên
cứu, bảng hỏi chủ yếu sử dụng các câu hỏi chọn lựa mà người được phỏng vấn cho
là đúng nhất, có đặt một số câu hỏi đóng và một số câu hỏi mở phục vụ cho việc lấy
ý kiến đề xuất của DN.
Phỏng vấn khảo sát cán bộ công chức thuế thuộc Chi cục thuế thành phố Huế
nhằm thu thập các dữ liệu quan trọng về tính hiệu quả của hệ thống quản lý thuế nói
chung và các chức năng quản lý thuế nói riêng.
Số liệu sơ cấp và số liệu thứ cấp được thu thập và xử lý trên các phần mềm
thông dụng như Micrsoft Excel, SPSS.
4.2.2 Phương pháp phân tích kinh tế
Phương pháp tổng hợp và phân tích thống kê là phương pháp chủ yếu được sử
dụng trong đề tài, cụ thể gồm phân tích các chỉ tiêu tương đối, tuyệt đối và số bình
quân để đánh giá sự biến động của các chỉ tiêu phân tích khi có sự thống nhất về

thời gian, không gian theo một số tiêu thức nhất định..
4.2.3 Phương pháp phân tích ANOVA
Phương pháp phân tích phương sai ANOVA được dùng để kiểm định sự khác
nhau về trị trung bình các ý kiến đánh giá của các loại hình doanh nghiệp với nhau (của
các cán bộ công chức thuế) về công tác quản lý thu thuế GTGT và giữa các loại hình
doanh nghiệp (các cán bộ công chức thuế) với trung bình chung của tổng thể điều tra.

4


Giả thiết được sử dụng để kiểm định:
H0 :µ1 = µ2 = µ3 = µ4

- Không có sự khác biệt trong cách đánh giá về công tác
quản lý thu thuế GTGT trong mỗi loại hình DN và từng
loại hình DN với trung bình chung của tổng thể nghiên
cứu.
- Không có sự khác biệt trong cách đánh giá về công tác
quản lý thu thuế GTGT trong mỗi nhóm cán bộ công chức
và giữa các nhóm với trung bình chung của tổng thể
nghiên cứu.

H1 :µ1 ≠ µ2 ≠ µ3 ≠ µ4

- Có sự khác biệt trong cách đánh giá về công tác quản lý
thu thuế GTGT trong mỗi loại hình DN và từng loại hình
DN với trung bình chung của tổng thể nghiên cứu.
- Có sự khác biệt trong cách đánh giá về công tác quản lý
thu thuế GTGT trong mỗi loại nhóm cán bộ công chức và
giữa các nhóm với trung bình chung của tổng thể nghiên

cứu.

4.2.4 Phương pháp sơ đồ để mô tả quy trình quản lý thu thuế giá trị gia tăng.

5


PHẦN NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ QUẢN LÝ THU THUẾ
GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1.1 TỔNG QUAN VỀ THUẾ
1.1.1 Khái niệm về thuế
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra đời là
một tất yếu khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước.
Để duy trì sự tồn tại của mình, Nhà nước cần có những nguồn tài chính để chi tiêu,
trước hết là chi cho việc duy trì và củng cố bộ máy cai trị từ Trung ương đến địa
phương thuộc phạm vi lãnh thổ mà Nhà nước đó đang cai quản; chi cho các công
việc thuộc chức năng của Nhà nước như: quốc phòng, an ninh, chi cho xây dựng và
phát triển các cơ sở hạ tầng; chi cho các vấn đề về phúc lợi công cộng, về sự
nghiệp, về xã hội trước mắt và lâu dài[30,20].
Để có nguồn tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu thường xuyên, Nhà nước dùng
quyền lực chính trị buộc dân phải đóng góp một phần thu nhập của mình cho Ngân
sách Nhà nước. Đây chính là hình thức cơ bản nhất để huy động tập trung nguồn tài
chính cho Nhà nước. Hình thức đóng góp đó chính là Thuế [30,20].
Như vậy, Thuế luôn luôn gắn chặt với sự ra đời và phát triển của Nhà nước.
Bản chất của Nhà nước quy định bản chất giai cấp của thuế.
Một khái niệm khác về thuế tương đối hoàn chỉnh được nêu lên trong cuốn
“Economics” của hai nhà kinh tế Mỹ K.P.Makkohhell và C.L.Bryu như sau: “Thuế
là một khoản chuyển giao bắt buộc bằng tiền (hoặc là chuyển giao bằng hàng hoá,
dịch vụ) của các công ty và các hộ gia đình cho Chính phủ, mà trong sự trao đổi đó

họ không nhận được một cách trực tiếp hàng hoá hoặc dịch vụ nào cả, khoản nộp đó
không phải là tiền phạt mà toà án tuyên phạt do hành vi vi phạm pháp luật”[30,21].
Gần đây trong một số công trình nghiên cứu về thuế các nhà kinh tế cho rằng,
để vạch rõ bản chất của thuế thì trong định nghĩa đó phải nêu bật các khía cạnh sau
đây: nội dung kinh tế của thuế được đặc trưng bởi các quan hệ tiền tệ giữa Nhà

6


nước với các pháp nhân và các thể nhân; những mối quan hệ dưới dạng tiền tệ này
được nảy sinh một cách khách quan và có ý nghĩa xã hội đặc biệt việc chuyển giao
thu nhập có tính chất bắt buộc theo mệnh lệnh của Nhà nước xét theo khía cạnh luật
pháp, thuế là một khoản nộp cho Nhà nước được pháp luật quy định theo mức thu
và thời hạn nhất định.
Kết hợp những hạt nhân hợp lý của các quan niệm về thuế kể trên, có thể nêu
lên khái niệm tổng quát về thuế như sau:
Thuế là một khoản chuyển giao thu nhập bắt buộc từ các thể nhân và pháp
nhân cho Nhà nước theo mức độ và pháp luật quy định. Khoản chuyển giao thu
nhập dưới hình thức thuế để phục vụ cho mục tiêu công cộng. Nguồn thu về thuế
không được sử dụng cho mục tiêu cá nhân[19].
Trong thực tế, ở nước ta hiện nay khi hình thành quỹ tiền tệ tập trung, Nhà
nước thực hiện các chức năng của mình trong đó có chức năng quản lý và xây dựng
kinh tế thông qua việc kiến thiết, xây dựng, phát triển cơ sở hạ tầng và các công
trình phúc lợi xã hội khác thì người nộp thuế thông qua đó đựơc hưởng một phần
kết quả nộp thuế của mình [4]. Như vậy thuế ở nước ta luôn luôn là một khoản thu
bắt buộc, không được hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế nhưng họ được gián
tiếp hưởng lợi do chính sách đầu tư, phát triển của Nhà nước cho các công trình
phúc lợi xã hội khác nhau [30].
1.1.2 Đặc điểm của thuế
Thứ nhất, tính cưỡng chế và tính pháp lý cao

Đặc điểm này được thể chế hóa trong hiến pháp của mỗi quốc gia.Trong các
quốc gia, việc đóng thuế cho Nhà nước được coi là một trong những nghĩa vụ bắt
buộc của các tổ chức kinh tế và công dân cho Nhà nước. Các tổ chức kinh tế và
công dân thực hiện nghĩa vụ thuế theo các Luật thuế cụ thể được cơ quan quyền lực
tối cao ở quốc gia đó quy định phù hợp với các hoạt động và thu nhập của từng tổ
chức kinh tế và công dân. Tổ chức hoặc cá nhân nào không thực hiện nghĩa vụ thuế
của mình, tức là họ đã vi phạm Luật pháp của quốc gia đó[19].

7


Đặc điểm này phân biệt sự khác nhau giữa thuế với các khoản đóng góp mang
tính tự nguyện cho NSNN và thuế đối với các khoản vay mượn của Chính phủ.
Tuy nhiên, cũng càn phải hiểu rằng thuế là biện pháp tài chính mang tính chất
bắt buộc của Nhà nước, nhưng sự bắt buộc đó luôn được xác lập dựa trên nền tảng
của các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và quan hệ kinh tế thế giới.
Thứ hai, thuế là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực tiếp
Khác với các khoản vay, Nhà nước thu thuế từ các tổ chức kinh tế và các cá
nhân nhưng không phải hoàn trả lại trực tiếp cho người nộp thuế sau một khoảng
thời gian với một khoản tiền mà họ đã nộp vào NSNN. Số tiền thuế thu được, Nhà
nước sẽ sử dụng cho các chi tiêu công cộng, phục vụ cho nhu cầu của Nhà nước và
mỗicá nhân trong xã hội. Mọi cá nhân, người nộp thuế cho Nhà nước cũng như
người không nộp thuế, người nộp nhiều cũng như người nộp ít, đều bình đẳng trong
việc nhận được các phúc lợi công cộng từ phía Nhà nước, được tính toán không dựa
trên khối lượng lợi ích công cộng họ nhận được mà dựa trên những hoạt động cụ thể
và thu nhập của họ. Đặc điểm này cũng phân biệt giữa thuế với phí và lệ phí[19].
1.1.3 Vai trò của thuế trong nền kinh tế thị trường
1.1.3.1 Thuế là công cụ tập trung chủ yếu nguồn thu cho Ngân sách Nhà Nước
Một nền tài chính quốc gia lành mạnh phải dựa chủ yếu vào nguồn thu từ nội
bộ nền kinh tế quốc dân. Thuế là công cụ quan trọng nhất để phân phối lại các thu

nhập theo đường lối xây dựng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đặc biệt trong tình hình
hiện nay, nguồn thu từ nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chịu sức ép của
quan hệ “mua bán sòng phẳng”,“có vay, có trả”, thuế phải là công cụ quan trọng
góp phần tích cực giảm bội chi Ngân sách, giảm lạm phát, ổn định kinh tế - xã hội,
chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển đất nước lâu dài. Thuế phải trở
thành nguồn thu chủ yếu, bộ phận cơ bản của nền tài chính quốc gia lành mạnh. Với
nền kinh tế nhiều thành phần, hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các thành
phần kinh tế. Thuế phải bao quát được hầu hết các hoạt động kinh doanh, các nguồn
thu nhập trong xã hội …[9].
Mục tiêu của Quốc hội đề ra trong những năm tới là động viên về thuế chiếm

8


khoảng 20 đến 25% GDP và ổn định mức đóng góp về thuế. Mức động viên trên
đây là phù hợp với khả năng kinh tế, phù hợp với sức đóng góp của nhân dân, bảo
đảm phần lớn các nhu cầu chi tiêu của Ngân sách nhà nước, nguồn vốn để xây dựng
cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế theo hướng có lợi cho đất nước. Nhà nước ta luôn
coi thuế là nguồn thu chủ yếu và quan trọng nhất của Ngân sách nhà nước[1].
1.1.3.2 Thuế tham gia vào việc điều tiết kinh tế vĩ mô
Thông qua việc xây dựng đúng đắn cơ cấu và mối quan hệ giữa các sắc thuế,
việc xác định hợp lý người nộp thuế, đối tượng đánh thuế, thuế suất, chế độ miễn
giảm, phương pháp quản lý thu thuế dựa trên cơ sở hạch toán kế toán đầy đủ, chính
xác, thuế là công cụ điều tiết đối với thu nhập của các tầng lớp xã hội thể hiện trên
hai mặt: khuyến khích, nâng đỡ những hoạt động kinh doanh cần thiết làm ăn có
hiệu quả; đồng thời thu hẹp, kìm hãm những ngành nghề, mặt hàng cần hạn chế sản
xuất, hạn chế tiêu dùng theo hướng tiết kiệm, chống lãng phí. Thuế còn khuyến
khích việc bỏ vốn đầu tư phát triển sản xuất, khuyến khích các cơ sở kinh doanh
thuộc mọi thành phần kinh tế cạnh tranh bình đẳng trước pháp luật. Thuế góp phần
khuyến khích khai thác nguyên liệu, vật tư trong việc tranh thủ vốn hợp tác của

nước ngoài để phát triển kinh tế hàng hoá, không ngừng nâng cao khả năng tích luỹ,
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước. Thuế thúc đẩy
mở rộng thị trường một cách lành mạnh, vừa khuyến khích giao lưu hàng hoá, vừa
đấu tranh hạn chế mua bán lòng vòng qua nhiều khâu trung gian, đầu cơ tích trữ để
hưởng chênh lệch giá[19].
1.1.3.3 Thuế là công cụ để điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong
phân phối
Hệ thống thuế được áp dụng thống nhất giữa các ngành nghề, các thành phần
kinh tế, các tầng lớp dân cư theo nguyên tắc đảm bảo công bằng và bình đẳng trong
làm nghĩa vụ và quyền lợi. Sự bình đẳng và công bằng được thể hiện thông qua
chính sách động viên giống nhau (thuế suất) giữa các tổ chức và cá nhân thuộc mọi
thành phần kinh tế cùng hoạt động trong một lĩnh vực, bảo đảm sự công bằng và
bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ với mọi công dân, không có những đặc quyền,
đặc lợi cho bất cứ đối tượng nào. Thuế kích thích mọi công dân, doanh nghiệp cải

9


tiến kỹ thuật, đầu tư vốn, đầu tư chất xám, làm ăn giỏi và có thu nhập cao một cách
chính đáng [4].
1.1.3.4 Thuế còn là công cụ để kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh
Vai trò này được xuất hiện chính do quá trình tổ chức thực hiện thuế trong
thực tế. Để thu được thuế và thực hiện đúng các Luật thuế đã được ban hành, cơ
quan thuế và các cơ quan liên quan phải bằng mọi biện pháp nắm vững số lượng,
quy mô các cơ sở sản xuất kinh doanh, ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh, mặt
hàng họ được phép kinh doanh. Từ công tác thu thuế mà cơ quan thuế sẽ phát hiện
những việc làm sai trái, vi phạm Luật của các cá nhân, các đơn vị sản xuất kinh
doanh, hoặc phát hiện ra những khó khăn mà họ gặp phải để giúp đỡ họ tìm biện
pháp tháo gỡ. Như vậy, do công tác quản lý thu thuế mà có thể kết hợp kiểm tra,
kiểm soát toàn diện các mặt hàng, hoạt động của các cơ sở kinh tế đảm bảo thực

hiện tốt quản lý Nhà nước về mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội[19].
1.1.4 Bản chất, chức năng của thuế
1.1.4.1 Bản chất của thuế
Thuế là một phạm trù kinh tế đồng thời cũng là một phạm trù lịch sử, thuế
luôn luôn gắn chặt với sự ra đời, tồn tại và phát triển của Nhà nước.
Thuế là một công cụ tài chính của Nhà nước, được sử dụng để hình thành nên
quỹ tiền tệ tập trung nhằm sử dụng cho mục đích công cộng.
Bản chất của thuế được thể hiện bởi các thuộc tính bên trong, vốn có của thuế.
Những đặc điểm đó là :
Thuế luôn luôn gắn liền với quyền lực Nhà nước. Thuế là nghĩa vụ cơ bản của
công dân đã được quy định trong Hiến Pháp; thuế là một phần thu nhập của các
tầng lớp dân cư bắt buộc phải nộp cho Nhà nước; thuế là một hình thức chuyển giao
thu nhập không mang tính chất hoàn trả trực tiếp [1].
Bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Nhà nước
thu thuế cũng là nhằm tạo ra một nguồn lực tập trung để chi phát triển cơ sở hạ
tầng, chi phúc lợi công cộng, chi văn hóa, giáo dục y tế, xã hội, an ninh, quốc
phòng… Hiến pháp nước ta năm 1992, Điều 80 đã ghi rõ: “Công dân có nghĩa vụ

10


đóng thuế và lao động công ích theo qui định pháp luật”. Tuy nhiên, Nhà nước cần
phải thu đúng thu đủ để đảm bảo chi cho các mục tiêu trên, còn người nộp thuế
thường muốn nộp thuế càng ít càng tốt. Do đó khi ý thức tự giác chấp hành pháp
luật thuế của người dân chưa cao thì tình trạng trốn thuế, nợ thuế là điều không thể
tránh khỏi, dẫn đến công tác thuế luôn gặp những khó khăn nhất định [4].
1.1.4.2 Chức năng của thuế
Thuế là một phạm trù tài chính, nó biểu hiện những thuộc tính chung vốn có
của các quan hệ tài chính. Tuy nhiên thuế cũng có những đặc trưng, hình thức vận
động và các chức năng riêng bắt nguồn từ tổng thể các mối quan hệ tài chính.

Căn cứ vào nội dung cùng với quá trình ra đời, tồn tại và phát triển của thuế,
chúng ta thấy rằng thuế thực hiện các chức năng sau đây:
- Chức năng phân phối và phân phối lại: là chức năng cơ bản, đặc thù của thuế
Ngay từ lúc ra đời thuế là phương tiện dùng để động viên nguồn tài chính
vào Ngân sách Nhà nước (có ở tất cả các kiểu Nhà nước). Về mặt lịch sử, chức năng
huy động nguồn tài chính là chức năng đầu tiên, phản ánh nguyên nhân nảy sinh ra
thuế. Thông qua chức năng này, các quỷ tiền tệ tập trung của Nhà nước được hình
thành để đảm bảo cơ sở vật chất cho sự hoạt động thường xuyên và tồn tại của Nhà
nước. Bằng chính chức năng này, Nhà nước tiến hành tham gia phân phối và phân
phối lại tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong xã hội. Chức năng phân
phối và phân phối lại thu nhập của tiền là sự huy động một bộ phận thu nhập quốc
dân dưới hình thức tiền tệ vào Ngân sách Nhà nước. Phần lớn thuế đánh trên hàng
hoá và thu nhập. Người có thu nhập cao và sử dụng nhiều hàng hoá, dịch vụ là
người nộp thuế nhiều hơn. Số tiền này sau đó lại được Nhà nước chi nhằm thực hiện
chính sách kinh tế-xã hội, tạo ra tính công bằng tương đối cho xã hội. Trong một
chừng mực nhất định, chức năng phân phối và phân phối lại đã tạo điều kiện cho sự
ra đời và phát huy tác dụng chức năng điều tiết của thuế. Chức năng phân phối và
phân phối lại có vị trí ngày càng quan trọng. Ðiều này được giải thích bởi sự phát
triển, mở rộng các chức năng của Nhà nước và việc thực hiện nhiều chính sách khác
nhau, trong đó có việc can thiệp của Nhà nước vào các quá trình kinh tế[4].
- Chức năng điều tiết đối với nền kinh tế.

11


Chức năng điều tiết của thuế được nhận thức và sử dụng rộng rãi từ những
năm đầu của thế kỷ XX và gắn liền với vai trò điều chỉnh của Nhà nước đối với nền
kinh tế. Việc tăng cường vai trò kinh tế - xã hội của Nhà nước dẫn đến tốc độ chi
tiêu của Nhà nước ngày càng tăng lên và hậu quả tất yếu là đòi hỏi Nhà nước phải
mở rộng quỹ tài chính Nhà nước, hình thành chủ yếu từ việc thu thuế. Nhu cầu về

nguồn tài chính càng lớn thì Nhà nước cần phải tăng cường các chức năng của thuế
để tác động một cách có hiệu quả đến nền kinh tế quốc dân. Chính trong quá trình
đó chức năng phân phối và phân phối lại và chức năng điều chỉnh của thuế đã được
sử dụng một cách hiện thực. Ðiều đó có nghĩa là nội dung điều tiết theo một mục
tiêu nào đó đã được dự liệu trước vào trong quá trình huy động tập trung nguồn tài
chính. Bằng cách sử dụng nó để kích thích hoặc kìm hãm tốc độ tăng trưởng, tăng
cường hoặc làm yếu đi sự tích luỹ tiết kiệm, mở rộng hoặc thu hẹp nhu cầu có khả
năng thanh toán của dân cư, đẩy nhanh hoặc làm chậm lại chu kỳ khủng hoảng kinh
tế, Nhà nước đã thực hiện điều tiết các hoạt động kinh tế - xã hội trong phạm vi
quốc gia[19].
Thực hiện chức năng điều chỉnh của thuế thông qua việc quy định các hình
thức thu thuế khác nhau, xác định đúng đắn đối tượng chịu thuế và đối tượng nộp
thuế; xây dựng chính xác, hợp lý các mức thuế phải nộp có tính đến khả năng của
người nộp thuế. Trên cơ sở đó Nhà nước kích thích các hoạt động kinh tế đi vào quỹ
đạo chung của nền kinh tế quốc dân, phù hợp với lợi ích của toàn xã hội. Trong điều
kiện chuyển sang cơ chế thị trường, vai trò kích thích kinh tế thông qua thuế ngày
càng được nâng cao. Nhà nước sử dụng thuế để tác động lên lợi ích kinh tế của các
chủ thể vì lợi ích của nền kinh tế quốc dân. Với công cụ thuế, sự can thiệp của Nhà
nước không mang tính chất mệnh lệnh, bắt buộc các chủ thể phải kinh doanh hay
không kinh doanh mà chủ yếu tạo ra sự lựa chọn đối với các chủ thể kinh doanh[4].
Giữa hai chức năng trên của thuế có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau.
Chức năng phân phối và phân phối lại của thuế là nguyên nhân ảnh hưởng đến sự
vận động và phát triển của chức năng điều tiết. Nhưng chức năng điều tiết của thuế
cũng có tác động ngược lại đến chức năng phân phối và phân phối lại thu nhập.

12


Nguồn tài chính mà Nhà nước tập trung được dưới dạng thuế là tiền đề của sự can
thiệp của Nhà nước trên diện rộng và theo chiều sâu tới quá trình sản xuất kinh

doanh của các doanh nghiệp. Ngược lại, việc điều tiết, sắp xếp sản xuất của Nhà
nước nhằm vào việc thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện để
tăng thu nhập của các tầng lớp nhân dân và đây chính là cơ sở quan trọng để mở
rộng phạm vi tác động của chức năng phân phối và phân phối lại[4].
Sự thống nhất nội tại của các chức năng hoàn toàn không loại trừ các mâu
thuẫn nội tại trong mỗi chức năng và giữa hai chức năng. Sự tăng cường chức năng
phân phối và phân phối lại làm cho nguồn thu của Nhà nước tăng lên. Ðiều đó có
nghĩa là mở rộng khả năng của Nhà nước trong việc thực hiện các chương trình
kinh tế xã hội. Mặt khác, việc tăng cường chức năng phân phối và phân phối lại một
cách quá mức làm tăng gánh nặng thuế và hậu quả là làm giảm động lực phát triển
kinh tế, trong nhiều trường hợp làm hạn chế vai trò của chức năng điều tiết. Ðó là
tính hai mặt của thuế, nó có khả năng làm ảnh hưởng đến nền kinh tế một cách tích
cực, nhưng cũng có thể ảnh hưởng một cách tiêu cực. Tính hai mặt của sự tác động
đó cần phải được xem xét nghiêm túc kỹ lưỡng trong tiến trình hoạch định, xây
dựng, ban hành các chính sách pháp luật về thuế của Nhà nước trong từng giai đoạn
phát triển kinh tế- xã hội nhất định [4].
1.1.5 Chính sách thuế và phân loại thuế
1.1.5.1 Khái niệm
Chính sách thuế là tổng hòa phương hướng của Nhà nước trong lĩnh vực thuế
và các biện pháp để đạt được những mục tiêu đã định [35].
Chính sách thuế thể hiện đường lối và phương hướng động viên thu nhập dưới
hình thức thuế trong nền kinh tế quốc dân. Chính sách thuế được thực hiện bằng
cách thiết lập các văn bản pháp luật trong lĩnh vực nộp thuế, ban hành các loại thuế
và các ưu đãi về thuế trong từng giai đoạn phát triển nhất định. Điều dó có nghĩa là
chính sách thuế được thực hiện bằng cách thiết lập hệ thống thuế, cải cách thuế và
ủung cố hệ thống thuế.
Hệ thống thuế là tổng hợp các hình thức thuế khác nhau mà giữa chúng có
mối quan hệ mật thiết với nhau để thực hiện các nhiệm vụ nhất định của Nhà nước
trong từng thời kỳ[35].


13


1.1.5.2 Phân loại thuế
Tuỳ theo điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước mà hệ thống pháp luật
thuế bao gồm nhiều loại thuế khác nhau. Ðể định hướng xây dựng và quản lý hệ
thống thuế, việc sắp xếp các Luật thuế có cùng tính chất thành những nhóm khác
nhau, gọi là phân loại thuế.
Phân loại thuế là việc sắp xếp các loại thuế trong hệ thống pháp luật thuế
thành những nhóm khác nhau theo những tiêu thức nhất định. Tuỳ thuộc vào mục
tiêu, yêu cầu của từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội mà cơ cấu và nội dung
các Luật thuế có khác nhau. Cũng tuỳ thuộc vào cơ sở, mục đích phân định, thông
thường thuế được phân loại theo các tiêu thức sau:
+ Căn cứ vào tính chất của nguồn tài chính động viên vào Ngân sách Nhà
nước, thuế được phân làm 2 loại: thuế trực thu và thuế gián thu.
Thuế gián thu là loại thuế mà Nhà nước sử dụng nhằm động viên một phần
thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá, sử dụng dịch vụ thông qua việc thu thuế đối
với người sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Tính chất gián thu thể hiện ở chỗ
người nộp thuế và người chịu thuế không đồng nhất với nhau. Thuế gián thu là một
bộ phận cấu thành trong giá cả hàng hoá, dịch vụ do chủ thể hoạt động sản xuất,
kinh doanh nộp cho Nhà nước nhưng người tiêu dùng lại là người phải chịu thuế. Ở
nước ta thuộc loại thuế này bao gồm: Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất khẩu, thuế
nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt... [30].
Thuế trực thu là loại thuế mà Nhà nước thu trực tiếp vào phần thu nhập của
các pháp nhân hoặc thể nhân. Tính chất trực thu thể hiện ở chỗ người nộp thuế theo
quy định của pháp luật đồng thời là người chịu thuế. Thuế trực thu trực tiếp động
viên, điều tiết thu nhập của người chịu thuế. Ở nước ta thuộc loại thuế này gồm:
thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế
chuyển quyền sử dụng đất, thuế sử dụng đất nông nghiệp... [30].
Sự phân loại thuế thành thuế trực thu và thuế gián thu có ý nghĩa quan trọng

trong việc xây dựng chính sách pháp luật thuế.
+ Căn cứ vào đối tượng đánh thuế. Theo cách phân loại này thuế được chia

14


thành: Thuế đánh vào hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ như thuế giá trị gia
tăng, thuế đánh vào sản phẩm hàng hoá như thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc
biệt. Thuế đánh vào thu nhập như thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập đối
với người có thu nhập cao. Thuế đánh vào tài sản như thuế nhà đất, thuế đánh vào
việc khai thác hoặc sử dụng một số tài sản quốc gia như thuế tài nguyên, thuế sử
dụng đất, sử dụng vốn của Ngân sách Nhà nước, thuế khác và lệ phí, phí.
Các loại thuế trên được áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau để vừa phát
huy tác dụng riêng của từng loại thuế, vừa hỗ trợ, bổ sung cho nhau nhằm thực hiện
một cách tổng hợp các mục tiêu và vai trò của hệ thống pháp luật thuế [30].
1.2 NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của thuế giá trị gia tăng
Thuế giá trị gia tăng(GTGT) là thuế tính trên khoản giá trị tăng thêm của
hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng
(Điều 1- Luật thuế GTGT số 02/1997/QH9).
Giá trị gia tăng = Tổng giá trị hàng hoá, dịch vụ bán ra – Giá trị hàng hoá,
dịch vụ mua vào tương ứng.
* Thuế giá trị gia tăng có đặc điểm sau
Thuế GTGT là một loại thuế gián thu đánh vào đối tượng tiêu dùng hàng
hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT, là một yếu tố cấu thành trong giá cả hàng hoá và dịch
vụ, là khoản thu được cộng thêm vào giá bán của người cung cấp.
Thuế GTGT đánh vào GTGT của hàng hoá, dịch vụ phát sinh ở các giai đoạn
từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ đó. Tổng số thuế GTGT thu
được ở tất cả các giai đoạn sẽ bằng số thuế GTGT tính trên giá bán cho người tiêu
dùng cuối cùng [11].

Như vậy, về nguyên tắc chỉ cần thu thuế ở khâu bán hàng cuối cùng. Tuy
nhiên, trên thực tế khó xác định được đâu là khâu bán hàng cuối cùng, đâu là khâu
bán hàng trung gian. Do vậy cứ có hành vi mua hàng là phải tính thuế. Tổng số thuế
người tiêu dùng cuối cùng phải trả bằng tổng số thuế phát sinh qua từng giai đoạn
của quá trình sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ. Đặc điểm này cho thấy thuế

15


GTGT có ính ưu việt hơn so với các loại thuế gián thu khác, khắc phục được nhược
điểm thuế doanh thu là “thuế chồng lên thuế” [11].
* Thuế giá trị gia tăng có vai trò rất quan trọng vì:
Thuế GTGT là một loại thuế có tính trung lập cao. Tính trung lập biểu hiện ở
hai khía cạnh: Thứ nhất, thuế GTGT không chịu ảnh hưởng bởi kết quả kinh doanh
của người nộp thuế, do người nộp thuế chỉ là người “thay mặt” người tiêu dùng nộp
hộ khoản thuế này vào NSNN; Thứ hai, thuế GTGT không bị ảnh hưởng bởi quá
trình tổ chức và phân chia quá trình sản xuất kinh doanh, bởi tổng số thuế ở tất cả
các giai đoạn luôn bằng số thuế tính trên giá bán ở giai đoạn cuối cùng bất kể số
giai đoạn nhiều hay ít.
Về phạm vi đánh thuế: Thuế GTGT chỉ đánh vào hoạt động tiêu dùng diễn ra
trong phạm vi lãnh thổ, không đánh vào hành vi tiêu dùng ngoài lãnh thổ.
- Thuế là công cụ rất quan trọng để Nhà nước thực hiện chức năng quản lý vĩ
mô đối với nền kinh tế. Thuế GTGT là khoản thu quan trọng của Ngân sách nhà
nước. Thuế giá trị gia tăng tạo được nguồn thu lớn và tương đối ổn định cho ngân
sách nhà nước.
Thuế GTGT có tác dụng điều tiết thu nhập của tổ chức, cá nhân tiêu dùng
hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT.
Thuế GTGT không trùng lắp, do thuế GTGT chỉ tính vào giá trị tăng thêm
của hàng hoá, dịch vụ qua các khâu sản xuất, lưu thông, tiêu dùng, không tính vào
phần giá trị đã chịu thuế GTGT ở các khâu trước, thuế đã nộp ở các khâu trước

được tính khấu trừ ở khâu sau nên khuyến khích các tổ chức, cá nhân bỏ vốn đầu tư
phát triển sản xuất, kinh doanh, khuyến khích chuyên môn hoá, hợp tác hoá sản
xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, phù hợp với phát triển kinh tế thị trường[11].
Khuyến khích xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ thông qua áp dụng thuế suất 0%,
DN xuất khẩu hàng hoá, dịch vụ không những không phải chịu thuế GTGT ở khâu
xuất khẩu mà còn được hoàn toàn bộ số thuế đầu vào đã thu ở khâu trước .
Thúc đẩy thực hiện chế độ hạch toán kế toán; sử dụng hoá đơn, chứng từ và
thanh toán qua ngân hàng
Tóm lại: Thuế GTGT là một sắc thuế tiên tiến; việc áp dụng thuế GTGT

16


khắc phục nhược điểm của thuế doanh thu trước đây là “thuế chồng lên thuế”; thuế
GTGT có nhiều ưu điểm, tác dụng tích cực thúc đẩy tốc độ giao dịch, khuyến khích
sản xuất kinh doanh, xuất khẩu, tăng cường đầu tư, tăng thu cho NSNN [11].
1.2.2 Nội dung cơ bản Luật thuế giá trị gia tăng
Luật thuế GTGT gồm một số nội dung cơ bản như sau:
Phạm vi áp dụng thuế giá trị gia tăng
- Đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng
Đối tượng chịu thuế GTGT là hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh
doanh và tiêu dùng ở Việt Nam (bao gồm cả hàng hoá, dịch vụ mua của tổ chức, cá
nhân ở nước ngoài).
- Đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng
Các tổ chức, cá nhân có hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
chịu thuế GTGT ở Việt Nam, không phân biệt ngành nghề, hình thức, tổ chức kinh
doanh (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân khác có nhập khẩu hàng
hoá, mua dịch vụ từ nước ngoài chịu thuế GTGT (gọi chung là người nhập khẩu)
đều là đối tượng nộp thuế GTGT[31].
- Đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng

Gồm 26 loại hàng hoá dịch vụ không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT. Cơ sở kinh
doanh không được khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hoá, dịch
vụ sử dụng cho sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng không chịu
thuế giá trị gia tăng này mà phải tính vào nguyên giá tài sản cố định, giá trị nguyên
vật liệu hoặc chi phí kinh doanh[31].
Căn cứ tính thuế và phương pháp tính thuế
- Giá tính thuế giá trị gia tăng
+ Giá tính thuế là giá bán chưa có thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ mà
người mua đã thanh toán hay sẽ phải thanh toán cho người bán
+ Thời điểm để xác định giá tính thuế GTGT là thời điểm cơ sở kinh doanh
đã chuyển giao quyền sở hữu, quyền sử dụng hàng hoá, dịch vụ (đối với trường hợp
xây dựng, lắp đặt là thời điểm nghiệm thu, bàn giao công trình, hạng mục công
trình, khối lượng xây dựng, lắp đặt hoàn thành), không phân biệt đã thu được tiền
hay chưa thu được tiền[31].

17


- Thuế suất thuế giá trị gia tăng
Thuế suất hiện nay Việt nam đang áp dụng các mức 0%; 5%; 10%; 20%.
- Phương pháp tính thuế giá trị gia tăng
Luật thuế GTGT hiện hành quy định việc tính thuế GTGT phải nộp có thể
thực hiện bằng một trong 2 phương pháp: phương pháp khấu trừ và phương pháp
tính trực tiếp trên GTGT [31].
* Phương pháp khấu trừ thuế . Áp dụng cho các cơ sở SXKD thực hiện tốt chế độ
kế toán, hoá đơn chứng từ.
Số thuế GTGT

Thuế GTGT


=

phải nộp

đầu ra

Thuế GTGT đầu vào

-

được khấu trừ

Trong đó: + Thuế GTGT đầu ra bằng (=) Giá tính thuế của hàng hoá, dịch vụ
nhân (x) Thuế suất thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ đó
+ Thuế GTGT đầu vào bằng (=) tổng số thuế GTGT ghi trên hoá
đơn GTGT mua hàng dùng cho SXKD hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT, số thuế
GTGT ghi trên chứng từ nộp thuế của hàng hoá nhập khẩu.
** Phương pháp tính trực tiếp trên GTGT . Áp dụng cho các cơ sở SXKD chưa
đáp ứng được đầy đủ chế độ kế toán, hoá đơn chứng từ; Cơ sở kinh doanh mua, bán
vàng, bạc, đá quý.
Số thuế GTGT

GTGT của hàng hóa,
=

phải nộp

Thuế suất thuế GTGT của



dịch vụ chịu thuế

hàng hóa, dịch vụ đó

Có 3 cách xác định GTGT của hàng hoá, dịch vụ chịu thuế
- Đối với cơ sở kinh doanh đã thực hiện đầy đủ việc mua, bán hàng hoá, dịch vụ có
hoá đơn, chứng từ, ghi chép sổ sách kế toán:
GTGT của hàng hoá,
dịch vụ bán ra

=

Doanh số của hàng
hoá, dịch vụ bán ra

-

Giá vốn của hàng hoá,
dịch vụ bán ra

Trường hợp cơ sở SXKD không hạch toán được doanh số mua vào:
Giá vốn hàng
bán ra

=

Doanh số tồn
đầu kỳ

+


Doanh số mua
trong kỳ

-

Doanh số tồn
cuối kỳ

18


- Đối với CSKD đã thực hiện đầy đủ hoá đơn, chứng từ bán hàng hóa, dịch
vụ, xác định được đúng doanh số bán, không có đủ hoá đơn mua hàng:
GTGT của hàng hoá,

=

dịch vụ

Doanh số

Tỷ lệ (%) GTGT



tính trên doanh số

- Đối với cá nhân KD chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa đầy đủ hoá đơn
mua, bán hàng hoá, dịch vụ thì cơ quan thuế ấn định mức doanh số tính thuế:

GTGT của hàng
hoá, dịch vụ

=

Doanh số do cơ quan
thuế ấn định



Tỷ lệ (%) GTGT tính
trên doanh số

Hóa đơn chứng từ mua bán hàng hóa, dịch vụ
Cơ sở kinh doanh khi mua, bán hàng hoá, dịch vụ phải thực hiện chế độ hoá
đơn, chứng từ theo quy định của pháp luật.
- Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu
trừ thuế khi bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ chịu thuế GTGT phải sử dụng hoá đơn
GTGT (trừ trường hợp được dùng hoá đơn, chứng từ đặc thù ghi giá thanh toán là
giá đã có thuế GTGT).
- Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên GTGT khi bán
hàng hoá, dịch vụ phải sử dụng hoá đơn bán hàng.
- Khi lập hoá đơn, cơ sở kinh doanh phải ghi đầy đủ, đúng các yếu tố quy
định trên hoá đơn. Đối với hoá đơn GTGT phải ghi rõ giá bán chưa có thuế GTGT,
phụ thu và phí tính ngoài giá bán (nếu có), thuế GTGT, tổng giá thanh toán đã có
thuế; nếu không ghi tách riêng giá bán chưa có thuế và thuế GTGT, chỉ ghi chung
giá thanh toán thì thuế GTGT đầu ra phải tính trên giá thanh toán[31].
1.3. QUẢN LÝ THUẾ
1.3.1. Khái niệm Quản lý thuế là quá trình tổ chức, quản lý và kiểm tra việc thực
hiện những quy định trong Luật thuế nhằm huy động đầy đủ những khoản tiền thuế

vào ngân sách nhà nước theo luật định [35].
Dưới góc độ chính trị: quản lý được hiểu là hành chính, là cai trị; nhưng dưới
góc độ xã hội: quản lý là điều hành, điều khiển, chỉ huy. Dù dưới góc độ nào đi
chăng nữa, quản lý vẫn phải dựa những cơ sở, nguyên tắc đã được định sẵn và nhằm
đạt được hiệu quả của việc quản lý, tức là mục đích của quản lý.

19


Quản lý thuế là hoạt động chấp hành, điều hành của cơ quan thuế Nhà nước
các cấp trên cơ sở của luật và để thi hành luật nhằm thực hiện chức năng tổ chức,
quản lý, điều hành các hoạt động thu thuế của Nhà nước. Nói cách khác, quản lý
thuế chính là quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hành pháp - được thực hiện bởi ít
nhất một bên có thẩm quyền hành chính Nhà nước trong quan hệ chấp hành, điều
hành. Quản lý thuế là hoạt động đảm bảo thực thi chính sách thuế trong thực tế,
trong đó vai trò của cơ quan thuế rất quan trọng khi tác động lên ĐTNT để đảm bảo
tính hiệu lực – đáp ứng mục đích thu cho NSNN. Quản lý thuế chủ yếu được thực
hiện bởi hệ thống cơ quan thuế Nhà nước: Tổng cục Thuế ở Trung ương, Cục thuế,
Chi cục Thuế ở các địa phương[35].
1.3.2. Nội dung quản lý thuế
Để huy động các khoản thu vào NS, đáp ứng nhu cầu chi tiêu cần thiết, nhà
nước cần ban hành các chính sách thuế và để đưa được các chính sách thuế vào
cuộc sống thì phải có hệ thống quản lý thuế để tổ chức thực thi chính sách thuế.
Giữa hai nội dung này có mối quan hệ hữu cơ với nhau, hệ thống chính sách thuế là
cơ sở tiền đề để hình thành hệ thống quản lý thuế và ngược lại hệ thống QLT là nơi
tổ chức thực hiện chính cách thuế.
Theo Điều 3 Luật quản lý thuế được Quốc hội nước CHXHCNVN thông qua
tại kỳ họp thứ 10, khoá XI, nội dung quản lý thuế gồm :
- Đăng ký thuế, khai thuế, nộp thuế, ấn định thuế.
- Thủ tục hoàn thuế, miễn thuế, giảm thuế.

- Xoá nợ tiền thuế, tiền phạt.
- Quản lý thông tin về người nộp thuế.
- Kiểm tra thuế, thanh tra thuế.
- Cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
- Xử lý vi phạm pháp luật về thuế.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế.
Các quy định của Luật QLT đảm bảo tính pháp lý cho việc thực hiện cơ chế
QLT mới, cơ chế tự khai, tự tính, tự nộp thuế và tự chịu trách nhiệm trước pháp luật

20


của NNT. Cơ quan thuế chuyển sang thực hiện chức năng tuyên truyền, hổ trợ
người nộp thuế. Cơ quan thuế chuyển sang thực hiện chức năng tuyên truyền, hỗ trợ
người nộp thuế, kiểm tra thuế, thanh tra thuế [36].
Các nội dung trên được cụ thể hoá bằng các quy trình cụ thể để quản lý thu
thuế theo chức năng. Hiện nay ngành thuế đã triển khai thực hiện 5 quy trình quản
lý thuế : Đăng ký, kê khai thuế; Kiểm tra thanh tra; Miễn giảm thuế; Hoàn thuế;
Quản lý nợ thuế.
Việc quy định rõ vai trò, nhiệm vụ, chức năng của từng Đội thuế trong công
tác QLT thuế đối với các DN nhằm hạn chế các tiêu cực cũng như tạo điều kiện
thuận lợi nhất cho DN thực hiện đúng chính sách pháp luật thuế, tuy nhiên "Hệ
thống mẫu biểu, văn bản, các quy trình hướng dẫn chưa đồng nhất, chưa kịp thời
dẫn đến khó khăn trong việc hướng dẫn, hổ trợ NNT thực hiện tốt nghĩa vụ với
NSNN" [33].
1.3.2.1 Đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế
+ Đăng ký nộp thuế
- Cơ sở kinh doanh, kể cả các công ty, nhà máy, xí nghiệp, chi nhánh, cửa
hàng trực thuộc cơ sở kinh doanh chính phải đăng ký nộp thuế với Cục thuế hoặc
Chi cục thuế nếu là cá nhân kinh doanh về địa điểm kinh doanh, ngành nghề kinh

doanh, lao động, tiền vốn, nơi nộp thuế và các chỉ tiêu liên quan khác theo mẫu
đăng ký nộp thuế và hướng dẫn của cơ quan thuế[37].
Đối với cơ sở mới thành lập, thời gian đăng ký nộp thuế chậm nhất là 10 ngày
kể từ ngày cấp giấy phép đầu tư hoặc giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và cấp
con dấu; trường hợp cơ sở chưa được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
nhưng có hoạt động kinh doanh, cơ sở phải đăng ký nộp thuế trước khi kinh doanh.
Các cơ sở đã đăng ký nộp thuế nếu có thay đổi ngành nghề kinh doanh,
chuyển trụ sở kinh doanh sang các địa điểm khác, sáp nhập, giải thể, phá sản, hợp
nhất, chia, tách hay thành lập các Công ty, nhà máy, xí nghiệp, chi nhánh, cửa hàng
mới... phải đăng ký bổ sung với cơ quan thuế chậm nhất là 5 ngày trước khi có sự
thay đổi đó[37].

21


- Cơ sở hoạt động sản xuất, kinh doanh có trụ sở chính ở một địa phương
(tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) nhưng có cơ sở hạch toán phụ thuộc, như
Công ty, nhà máy, xí nghiệp, chi nhánh, cửa hàng trực tiếp bán hàng ở một địa
phương khác thì cơ sở kinh doanh phải đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế nơi đóng
trụ sở, các cơ sở hạch toán phụ thuộc cũng phải đăng ký nộp thuế GTGT với cơ
quan thuế địa phương nơi cơ sở phụ thuộc đóng trụ sở. Riêng các tổ chức, cá nhân
thực hiện dịch vụ tư vấn, khảo sát, thiết kế hoặc các hợp đồng tư vấn, dịch vụ đăng
ký, kê khai, nộp thuế với cơ quan thuế địa phương nơi đóng trụ sở[37].
- Cơ sở xây dựng, lắp đặt phải đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế địa phương
nơi đóng trụ sở. Trường hợp xây dựng, lắp đặt các công trình ở địa phương khác
(tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương) do các cơ sở phụ thuộc không có tư cách
pháp nhân như tổ, đội, ban quản lý công trình thực hiện... thì cơ sở xây dựng đồng
thời phải đăng ký, kê khai, nộp thuế với cơ quan thuế địa phương nơi xây dựng
công trình[37].
- Cơ sở thực hiện cơ chế khoán cho tập thể, cá nhân kinh doanh theo phương

thức tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh thì tập thể, cá nhân nhận khoán phải
trực tiếp đăng ký, kê khai, nộp thuế GTGT với cơ quan thuế nơi kinh doanh.
- Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng áp dụng phương pháp tính thuế trực tiếp
trên giá trị gia tăng, nếu thực hiện được đúng, đủ các điều kiện mua, bán hàng hoá,
dịch vụ có đầy đủ hoá đơn, chứng từ, ghi chép hạch toán sổ kế toán đúng chế độ, kê
khai, nộp thuế GTGT đúng chế độ và tự nguyện đăng ký thực hiện nộp thuế GTGT
theo phương pháp khấu trừ thuế thì được áp dụng tính thuế theo phương pháp khấu
trừ thuế. Cơ sở phải lập và gửi bản đăng ký nộp thuế cho cơ quan thuế nơi cơ sở
đăng ký nộp thuế. Cơ quan thuế khi nhận được đăng ký của cơ sở có trách nhiệm
kiểm tra, thông báo kịp thời cho cơ sở về việc được áp dụng hay không được áp
dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế GTGT (nêu rõ lý do không được áp
dụng) trong thời hạn chậm nhất là 30 ngày, kể từ ngày nhận được đề nghị của cơ sở.
Cơ sở chỉ được thực hiện nộp thuế theo phương pháp khấu trừ khi được cơ quan
thuế thông báo cho áp dụng[37].

22


Những cá nhân (hộ) kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp
tính trực tiếp trên GTGT đã được áp dụng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ
thuế, nếu trong quá trình thực hiện, cơ sở không thực hiện đúng các điều kiện quy
định thì cơ quan thuế áp dụng biện pháp ấn định thuế phải nộp và ra thông báo đình
chỉ việc nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế.
- Cấp mã số thuế cho đối tượng nộp thuế: Các cơ sở kinh doanh đã thực hiện
đăng ký nộp thuế với cơ quan thuế, cơ quan thuế có trách nhiệm cấp mã số thuế và
giấy chứng nhận đăng ký thuế cho cơ sở kinh doanh. Đối với các chủ dự án (hoặc
đại diện được uỷ quyền như ban quản lý công trình), nhà thầu chính nước ngoài là
đối tượng được hoàn thuế GTGT chưa có mã số thuế phải làm thủ tục với Cục thuế
nơi đóng trụ sở để được cấp mã số thuế[37].
+ Kê khai thuế giá trị gia tăng phải nộp ngân sách Nhà nước

Cơ sở sản xuất, kinh doanh và người nhập khẩu hàng hoá phải kê khai thuế
GTGT phải nộp theo quy định như sau:
Cơ sở kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế GTGT phải lập và gửi cho cơ
quan thuế tờ khai tính thuế GTGT từng tháng kèm theo bảng kê hàng hoá, dịch vụ
mua vào, bán ra theo mẫu quy định. Thời gian gửi tờ khai của tháng cho cơ quan
thuế chậm nhất là ngày 20 của tháng tiếp theo. Cơ sở phải kê khai đầy đủ, đúng mẫu
tờ khai thuế và chịu trách nhiệm về tính chính xác của việc kê khai. Trường hợp cơ
sở kinh doanh đã gửi tờ khai cho cơ quan thuế, sau đó phát hiện có sự sai sót về số
liệu kê khai trước thời hạn nộp thuế, cơ sở phải thông báo cho cơ quan thuế biết
đồng thời lập lại tờ khai thay cho tờ khai không đúng. Trường hợp phát hiện sai sót
sau thời hạn nộp thuế thì cơ sở điều chỉnh vào tờ khai của tháng tiếp sau[37].
+ Nộp thuế, quyết toán thuế giá trị gia tăng
Đối tượng nộp thuế GTGT có trách nhiệm nộp thuế GTGT đầy đủ, đúng hạn
vào Ngân sách Nhà nước (NSNN). Trình tự, thủ tục nộp thuế thực hiện như sau:
Cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp khấu trừ thuế sau khi nộp tờ
khai thuế giá trị gia tăng cho cơ quan Thuế phải nộp thuế giá trị gia tăng vào NSNN.
Thời hạn nộp thuế của tháng chậm nhất không quá ngày 20 của tháng tiếp theo.

23


Đối với cơ sở kinh doanh có mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng làm thủ
tục nộp thuế bằng giấy nộp tiền vào NSNN, thời gian nộp thuế vào NSNN được tính
từ ngày Ngân hàng nhận và làm thủ tục trích chuyển tiền từ tài khoản của cơ sở vào
NSNN, được Ngân hàng ghi trên giấy nộp tiền vào NSNN. Đối với cơ sở kinh
doanh nộp thuế bằng tiền mặt, thời gian nộp thuế vào NSNN là ngày cơ quan Kho
bạc hoặc cơ quan Thuế nhận tiền thuế[37].
Cơ sở kinh doanh có trách nhiệm nộp số thuế GTGT còn thiếu vào NSNN
sau 10 ngày kể từ ngày nộp báo cáo quyết toán thuế, nếu nộp thừa được trừ vào số
phải nộp của kỳ tiếp sau, hoặc được hoàn thuế nếu cơ sở thuộc trường hợp và đối

tượng được hoàn thuế.
1.3.2.2 Hoàn thuế giá trị gia tăng
Đối tượng và trường hợp được hoàn thuế giá trị gia tăng
- Cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu trừ
thuế được xét hoàn thuế trong các trường hợp sau:
+ Cơ sở kinh doanh trong 3 tháng liên tục trở lên (không phân biệt theo quý
của năm dương lịch cũng như niên độ kế toán) có số thuế đầu vào chưa được khấu
trừ hết. Số thuế được hoàn là số thuế đầu vào chưa được khấu trừ hết của thời gian
xin hoàn thuế. Trường hợp này áp dụng cho cả cơ sở kinh doanh có đầu tư mới, đầu
tư chiều sâu[37].
+ Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu nếu có số
thuế GTGT đầu vào của hàng hoá xuất khẩu phát sinh trong tháng chưa được khấu
trừ từ 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn thuế theo tháng. Cơ sở kinh doanh
trong tháng vừa có hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, vừa có hàng hoá, dịch vụ bán trong
nước, nếu số thuế GTGT đầu vào của hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu phát sinh trong
tháng chưa được khấu trừ từ 200 triệu đồng trở lên, nhưng sau khi bù trừ với số thuế
GTGT đầu ra của hàng hoá, dịch vụ bán trong nước, nếu số thuế GTGT đầu vào
chưa được khấu trừ trên tờ khai thuế GTGT của tháng phát sinh nhỏ hơn 200 triệu
đồng thì cơ sở kinh doanh không được xét hoàn thuế theo tháng, nếu số thuế GTGT
đầu vào chưa được khấu trừ trên tờ khai thuế GTGT của tháng phát sinh từ 200 triệu

24


đồng trở lên (thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết bao gồm cả thuế đầu vào
của hàng hoá, dịch vụ bán trong nước) thì cơ sở kinh doanh được hoàn thuế GTGT
theo tháng. Đối với trường hợp uỷ thác xuất khẩu, gia công chuyển tiếp, hàng hoá
xuất khẩu để thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài, đối tượng hoàn thuế là cơ sở có
hàng hoá uỷ thác xuất khẩu, gia công chuyển tiếp xuất khẩu, doanh nghiệp đầu tư ra
nước ngoài hoặc doanh nghiệp được uỷ thác xuất khẩu[37].

- Đối với cơ sở kinh doanh đầu tư mới đã đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp
thuế theo phương pháp khấu trừ thuế đang trong giai đoạn đầu tư, chưa đi vào hoạt
động, chưa phát sinh thuế đầu ra, và thời gian đầu tư từ một năm trở lên thì cơ sở
kinh doanh vẫn phải lập tờ khai thuế hàng tháng và được xét hoàn thuế đầu vào theo
từng năm dương lịch. Nếu số thuế GTGT đầu vào của tài sản đầu tư được hoàn có
giá trị lớn từ 200 triệu đồng trở lên thì được xét hoàn thuế theo quý (3 tháng liên tục
không phân biệt theo năm dương lịch) [37].
- Đối với cơ sở kinh doanh thuộc đối tượng nộp thuế theo phương pháp khấu
trừ thuế có dự án đầu tư của cơ sở sản xuất đang trong giai đoạn đầu tư, chưa đi vào
hoạt động, chưa đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế, cơ sở kinh doanh phải lập
tờ khai thuế mẫu số 01B/GTGT, lập hồ sơ hoàn thuế riêng cho dự án đầu tư theo
từng năm, nếu có số thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho dự án đầu tư từ
200 triệu đồng trở lên được xét hoàn thuế theo quý (3 tháng liên tục không phân biệt
theo năm dương lịch). Khi dự án đầu tư thành lập doanh nghiệp mới đã hoàn thành
và hoàn tất các thủ tục về đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế, cơ sở kinh doanh
là chủ dự án đầu tư phải tổng hợp số thuế GTGT phát sinh, số thuế GTGT đã hoàn,
số thuế GTGT chưa được hoàn của dự án để bàn giao cho doanh nghiệp mới thành
lập để doanh nghiệp mới thực hiện kê khai, nộp thuế và đề nghị hoàn thuế GTGT
theo quy định với cơ quan thuế quản lý trực tiếp[37].
- Cơ sở kinh doanh quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia tách, giải
thể, phá sản, chuyển đổi sở hữu; giao, bán, khoán, cho thuê doanh nghiệp Nhà nước
có thuế GTGT nộp thừa, số thuế GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết.
- Cơ sở kinh doanh được hoàn thuế theo quyết định của cơ quan có thẩm
quyền theo quy định của pháp luật.

25


×