Tải bản đầy đủ (.docx) (82 trang)

KHÓA LUẬN tốt NGHIỆP HOẠT ĐỘNG SINH kế của NGƯỜI THÁI tại xã TAM THANH HUYỆN QUAN sơn TỈNH THANH hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.92 KB, 82 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC

KHOA KHOA XÃ HỘI HỌC

PHẠM VĂN BẰNG

HOẠT ĐỘNG SINH KẾ CỦA NGƯỜI THÁI TẠI XÃ
TAM THANH HUYỆN QUAN SƠN TỈNH THANH
HÓA

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Ngành đào tạo: XHH &CTXH

1


THANH HÓA, NĂM 2017

2


TRƯỜNG ĐẠI HỌC HỒNG ĐỨC

KHOA KHOA XÃ HỘI HỌC

PHẠM VĂN BẰNG

HOẠT ĐỘNG SINH KẾ CỦA NGƯỜI THÁI TẠI XÃ
TAM THANH HUYỆN QUAN SƠN TỈNH THANH
HÓA


KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Ngành đào tạo: XHH &CTXH

Người thực hiện:
Lớp:
Khoá:
Giảng viên hướng dẫn:

3

Phạm Văn Bằng
K16 ĐH Xã hội học
2013 - 2017
Lê Văn Tôn


THANH HÓA, NĂM 2017

4


LỜI CẢM ƠN


MỤC LỤC LÀM LẠI CHO CHÍNH XÁC VỚI ND ĐÃ SỬA


DANH MỤC HÌNH, BẢNG
Bảng 2.2. Nguồn vốn tự nhiên xã Tam Thanh



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

NỘI DUNG

1.

PTBV

Ý NGHĨA
Phát triển bền vững

2. HĐND

Hội đồng nhân dân

3. UBND

Uỷ ban nhân dân

4. UBMT

Uỷ ban mặt trận

5. NVCTXH

Nhân viên công tác xã hội


6. CTXH

Công tác xã hội

7. PTDTBT

Phổ thông dân tộc bán trú

8. THCS

Trung học cơ sở

9. NLS

Nông lâm sản

10. SX

Sản xuất

11. PTNT

Phát triển nông thôn

12. HTX

Hợp tác xã

13. DTTS


Dân tộc thiểu số



NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ
CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
.................................................................................................................................
Thanh Hóa, ngày … tháng … năm 2017
Giáo viên hướng dẫn

Lê Văn Tôn




MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sinh kế bề vững đang là một mối quan tâm đặt lên hàng đầu hiện nay của con
người. Nó là điều kiện cần thiết cho quá trình phát triển, nâng cao đời sống của con
người nhưng vẫn đáp ứng được đòi hỏi về chất lượng môi trường tự nhiên. Trên thực tế
đã có nhiều chương trình, tổ chức dự án hỗ trợ cho cộng đồng để hướng đến mục tiêu
phát triển ổn định và bền vững. Thực tế cho thấy, việc lựa chọn những hoạt động sinh kế
của người dân chịu ảnh hưởng rất lớn từ nhiều yếu tố như: điều kiện tự nhiên, xã hội,
con người, vật chất, cơ sở hạ tầng… Việc đánh giá hiệu quả các hoạt động sinh kế giúp
cho chúng ta đánh giá được những phương thức sản xuất nào phù hợp với các điều kiên
mà địa phương đang có, làm sao việc sự dụng các nguồn tài nguyên đó một cách có hiệu
quả, đánh giá tiềm năng đang có của địa phương, hoạt động đó có bền vững lâu dài và
có tính ổn định không. [5].
Nước ta là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân số sống ở nông thôn và gần
70% lao động hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Khu vực nông thôn khoảng 13
triệu hộ, trong đó có khoảng hơn 11 triệu hộ chuyên sản xuất nông nghiệp. Với trình
độ dân trí và tập quán canh tác còn hạn chế nên năng suất lao động chưa cao, thu nhập
còn thấp, tình trạng đói nghèo vẫn diễn ra rộng khắp các khu vực. Xây dựng các chiến
lược sinh kế bền vững và xóa đói giảm nghèo là những chính sách hỗ trợ cơ bản
hướng vào phát triển con người, nhất là người nghèo, tạo cơ hội cho họ tham gia vào
quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, để cho người nghèo có cơ hội và điều
kiện tiếp cận các nguồn lực để phát triển sản xuất tự vươn lên thoát khỏi đói nghèo,
có một cuộc sống ổn định hơn. Tuy nhiên, thực tế hiện nay, người dân còn gặp nhiều
khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn lực để phát triển kinh tế. Họ ít có khả năng tiếp
cận với các nguồn lực như tài chính, thông tin, cơ sở vật chất để phát triển. [5].
Nông thôn là nơi sinh sống của một bộ phận dân cư chủ yếu làm việc trong lĩnh
vực nông nghiệp. Nước ta hiện nay vẫn là một nước nông nghiệp với hơn 70% dân cư
đang sống ở nông thôn. Phát triển nông nghiệp nông thôn đã, đang và sẽ còn là mối

quan tâm hàng đầu, có vai trò quyết định đối với việc ổn định kinh tế xã hội đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định mục tiêu xây
dựng nông thôn mới là: “Xây dựng nông thôn mới ngày càng giàu đẹp, dân chủ, công
bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng
12


kinh tế - xã hội phát triển ngày càng hiện đại”. Theo đó chủ trương của Đảng và Nhà
nước về phát triển kinh tế theo quan điểm phát triển nông thôn mới chủ yếu dựa vào
nguồn lực tại chỗ.
Tại xã Tam Thanh trong những năm qua tuy đạt được một số thành tựu về kinh
tế nhất định, nhưng vấn còn nhiều tiềm năng để phát triển đặc biệt nhiều nguồn vốn
như: vốn con người, vốn xã hội, vốn tự nhiên, vốn tài chính, vốn vật chất các nguồn
vốn chưa được người dân trong xã phát huy và tận dụng nên kinh tế vẫn chưa thể phát
xứng với triển tiềm năng của địa phương, nhất là người dân chưa tận dụng, biết vận
dụng các hoạt động sinh kế để phát triển kinh tế. [1]
Xuất phát từ thực tế đó, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Hoạt động sinh kế của
người Thái tại xã Tam Thanh, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa”
2. Mục đích, mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về hoạt động sinh kế của người Thái tại xã Tam Thanh, huyện
Quan Sơn, tỉnh Thanh hóa.
2.2. Mục tiêu nghiên cứu
1) Tìm hiểu về hoạt động sinh kế của người Thái tại xã Tam Thanh, huyện Quan

Sơn, tỉnh Thanh hóa.
2) Phân tích những thuận lợi và khó khăn về việc phát triển các hoạt động sinh kế

tại địa bàn nghiên cứu.
3) Phân tích các nguồn lực như: kinh tế, xã hội, vị trí địa lí, giao thông, con người,


tài chính… tác động đến hoạt động sinh kế của người dân.
4) Tìm hiểu nguồn lực người dân chưa khai thác, hoặc khai thác còn hạn chế,

những tiềm năng này có thể tận dụng được để phục vụ vào hoạt động sinh kế
giúp người dân phát triển hơn nữa.
5) Đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy người dân phát huy hơn nữa nội lực

sẵn có, làm phong phú nguồn sinh kế, cải thiện đời sống kinh tế.
3. Đối tượng, khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động sinh kế của người Thái tại xã Tam Thanh, huyện Quan Sơn, tỉnh
Thanh hóa.

13


3.2. Khách thể nghiên cứu
Người dân và cán bộ ở xã Tam Thanh, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
4. Câu hỏi nghiên cứu

1) Người nghèo đang bị hạn chế trong tiếp cận các nguồn lực sinh kế như thế nào
(như đã được thể hiện trong khung sinh kế)?

2) Những nhân tố thuận lợi và cản trở hộ nghèo tiếp cận các nguồn vốn sinh kế để
giảm nghèo? Nhân tố nào đóng góp lớn nhất vào việc giảm nghèo trong ngắn
hạn, nhân tố nào đóng góp lớn nhất đối với việc giảm nghèo trong trung hạn và
dài hạn?

3) Có những nguồn lực nào người dân chưa khai thác hoặc khai thác kém hiệu quả

so với tiềm năng thực sự?

4) Nên điều chỉnh hay cải tiến những gì trong các chính sách của Chính phủ có thể
giúp người nghèo tiếp cận tốt hơn các nguồn lực sinh kế?
5. Giả thiết nghiên cứu


Hiện nay người nghèo dân tộc Thái đang bị hạn chế trong việc tiếp cận các
nguồn lực sinh kế.



Ảnh hưởng của những nhân tố thuận lợi và những nhân tố cản trở những hộ
nghèo tiếp cận các nguồn vốn sinh kế để giảm nghèo bao gồm các nhân tố bên
trong và nhân tố bên ngoài.



Còn nhiều nguồn lực còn ở dạng tiềm năng tại cộng đồng chưa được người dân
khai thác, dẫn đến nguồn sinh kế của người dân chưa phong phú, nguồn thu về
kinh tế còn hạn hẹp.



Phát huy nội lực của cộng đồng là một cách thức làm phong phú nguồn sinh kế
để người nghèo tiếp cận tốt hơn các nguồn vốn sinh kế và nâng cao hiệu quả
phát triển kinh tế dựa vào nguồn lực tại chỗ.

6. Phạm vi nghiên cứu
-


Về mặt thời gian: thời gian tiến hành từ tháng 12/2016 – 04/2017
Về mặt không gian: nghiên cứu tại ở xã Tam Thanh, huyện Quan Sơn, tỉnh
Thanh Hóa.
Về mặt nội dung:
+ Hoạt động sinh kế
+ Nguồn sinh kế của người dân tộc Thái
+ Nhân tố thuận lợi và khó khăn.
14


+ Giải pháp phát triển kinh tế dựa vào nguồn lực tại chỗ.
7. Phương pháp nghiên cứu
Thu thập số liệu:

1) Thu thập tài liệu thứ cấp: Tài liệu về khung sinh kế bền vững, văn kiện Chương
trình, báo cáo đánh giá của các tổ chức/nhà khoa học về XĐGN.

2) Phương pháp chuyên gia: Nghiên cứu sẽ sử dụng phương pháp phỏng vấn trực
tiếp các chuyên gia, các nhà quản lý đang triển khai các hoạt động trên địa bàn
huyện Quan Sơn.

3) Phỏng vấn cấu trúc: Hệ thống câu hỏi phỏng vấn được soạn thảo và điều tra thử
để kiểm tra mức độ thu thập thông tin có thể và kiểm tra tính chính xác của
thông tin thu thập. Các câu hỏi in sẵn tập trung vào việc thu thập các tư liệu số
liệu phục vụ nghiên cứu thực trạng, đánh giá nhu cầu nâng cao năng lực tiếp
cận nguồn vốn sinh kế của người nghèo và những đề nghị của người nghèo về
cơ chế, chính sách giúp họ trong việc tiếp cận nguồn lực sinh kế.

4) Phương pháp RRA, PRA: Nghiên cứu sử dụng các công cụ RRA, PRA để thu

thập thông tin trong quá trình nghiên cứu như: Thăm thôn bản, thăm đồng
ruộng, thảo luận nhóm, phỏng vấn bán cấu trúc, bản đồ thôn bản, sa bàn thực
tiễn có sự tham gia của người dân.

5) Cơ cấu mẫu trong nghiên cứu
Kế
hoạch

Thực
hiện

Chênh
lệch

50

60

+ 10

Tăng thêm độ tin cậy của
mẫu

Cán bộ
Phỏng vấn sâu định tính
Hộ nghèo

10

10


6

10

+4

Tăng thêm độ tin cậy của
thông tin

Cán bộ
Thu thập thông tin có
sự tham gia của người
dân theo phương pháp
PRA

15
9

15
15

+6

Thêm thông tin đa dạng
từ các ban ngành đoàn
thể trong cộng đồng

TT


Công việc

1

Điều tra dùng bảng hỏi
Hộ nghèo

2

3

Ghi chú

Phân tích số liệu

15




Phương pháp thống kê mô tả (SPSS): Phương pháp này được vận dụng để mô tả
bức tranh tổng quát về thực trạng về hoạt động sinh kế của người dân địa
phương. Bằng phương pháp này chúng ta có thể mô tả được những nhân tố thuận
lợi và cản trở sự tiếp cận các nguồn vốn sinh kế đối với người nghèo.



Phương pháp phân tích định tính: Dựa vào nguồn số liệu PRA, phóng vấn sâu,
để phân tích định tính các vấn đề liên quan đến nghèo đói, những khó khăn trở
ngại, các nhân tố hỗ trợ người dân tiếp cận các nguồn vốn sinh kế để giảm nghèo

bền vững.



Phân tích những khó khăn, tồn tại, cơ hội và thách thức (SWOT).

8. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, taì liệu tham khảo, phụ lục, đề tài được chia thành
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
Chương 2: Thực trạng về hoạt động sinh kế của người Thái tại xã Tam Thanh,
huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Giải pháp phát triển hoạt động sinh kế của người Thái tại xã Tam
Thanh, huyện Quan Sơn, tỉnh Thanh Hoá.

16


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Khái niệm, công cụ liên quan
1.1.1. Khái niệm nguồn lực
"Nguồn lực con người" hay "nguồn nhân lực”, là khái niệm được hình thành
trong quá trình nghiên cứu, xem xét con người với tư cách là một nguồn lực, là động
lực của sự phát triển: Các công trình nghiên cứu trên thế giới và trong nước gần đây đề
cập đến khái niệm nguồn nhân lực với các góc độ khác nhau. [10].
Theo định nghĩa của Liên Hợp Quốc: "Nguồn nhân lực là trình độ lành nghề, là
kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm năng
để phát triển kinh tế - xã hội trong một cộng đồng". [10].
Việc quản lý và sử dụng nguồn lực con người khó khăn phức tạp hơn nhiều so

với các nguồn lực khác bởi con người là một thực thể sinh vật - xã hội, rất nhạy cảm
với những tác động qua lại của mọi mối quan hệ tự nhiên, kinh tế, xã hội diễn ra trong
môi trường sống của họ.
Theo David Begg: “Nguồn nhân lực là toàn bộ quá trình chuyên môn mà con
người tích luỹ được, nó được đánh giá cao vì tiềm năng đem lại thu nhập trong tương
lai. Cũng giống như nguồn lực vật chất, nguồn nhân lực là kết quả đầu tư trong quá
khứ với mục đích đem lại thu nhập trong tương lai”.
Theo GS.TS Phạm Minh Hạc: “Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao
động của một nước hoặc một địa phương, tức nguồn lao động được chuẩn bị (ở các
mức độ khác nhau) sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó, tức là những
người lao động có kỹ năng (hay khả năng nói chung), bằng con đường đáp ứng được
yêu cầu của cơ chế chuyển đổi cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,
HĐH”.
Theo TS. Nguyễn Hữu Dũng: “Nguồn nhân lực được xem xét dưới hai góc độ
năng lực xã hội và tính năng động xã hội. Ở góc độ thứ nhất, nguồn nhân lực là nguồn
cung cấp sức lao động cho xã hội, là bộ phận quan trọng nhất của dân số, có khả năng
tạo ra giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội. Xem xét nguồn nhân lực dưới dạng tiềm
năng giúp định hướng phát triển nguồn nhân lực để đảm bảo không ngừng nâng cao
năng lực xã hội của nguồn nhân lực thông qua giáo dục đào tạo, chăm sóc sức khoẻ.
17


Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở dạng tiềm năng thì chưa đủ. Muốn phát huy tiềm năng đó
phải chuyển nguồn nhân lực sang trạng thái động thành vốn nhân lực, tức là nâng cao
tính năng động xã hội của con người thông qua các chính sách, thể chế và giải phóng
triệt để tiềm năng con người. Con người với tiềm năng vô tận nếu được tự do phát
triển, tự do sáng tạo và cống hiến, được trả đúng giá trị lao động thì tiềm năng vô tận
đó được khai thác phát huy trở thành nguồn vốn vô cùng to lớn.
Nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng lao động của một tổ chức, một địa
phương, một quốc gia trong thể thống nhất hữu cơ năng lực xã hội (Thể lực, trí lực,

nhân cách) và tính năng động xã hội của con người thuộc các nhóm đó, nhờ tính thống
nhất mà nguồn lực con người biến thành nguồn vốn con người đáp ứng yêu cầu phát
triển.
Nguồn nhân lực, theo cách tiếp cận mới, có nội hàm rộng rãi bao gồm các yếu
tố cấu thành về số lượng, tri thức, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tính năng
động xã hội, sức sáng tạo, truyền thống lịch sử và văn hoá.
Như vậy, các khái niệm trên cho thấy nguồn lực con người không chỉ đơn thuần
là lực lượng lao động đã có và sẽ có, mà còn bao gồm sức mạnh của thể chất, trí tuệ,
tinh thần của các cá nhân trong một cộng đồng, một quốc gia được đem ra hoặc có khả
năng đem ra sử dụng vào quá trình phát triển xã hội.
Khái niệm "nguồn nhân lực" (Human Resoures) được hiểu như khái niệm
"nguồn lực con người". Khi được sử dụng như một công cụ điều hành, thực thi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nguồn nhân lực bao gồm bộ phận dân số trong độ tuổi
lao động, có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao động có tham gia lao
động - hay còn được gọi là nguồn lao động. Bộ phận của nguồn lao động gồm toàn bộ
những người từ độ tuổi lao động trở lên có khả năng và nhu cầu lao động được gọi là
lực lượng lao động.
Như vậy, xem xét dưới các góc độ khác nhau có thể có những khái niệm khác
nhau về nguồn nhân lực nhưng những khái niệm này đều thống nhất nội dung cơ bản:
nguồn nhân lực là nguồn cung cấp sức lao động cho xã hội. Con người với tư cách là
yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất giữ vị trí hàng đầu, là nguồn lực cơ bản và nguồn
lực vô tận của sự phát triển không thể chỉ được xem xét đơn thuần ở góc độ số lượng
hay chất lượng mà là sự tổng hợp của cả số lượng và chất lượng; không chỉ là bộ phận

18


dân số trong độ tuổi lao động mà là các thế hệ con người với những tiềm năng, sức
mạnh trong cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội.
Vì vậy, có thể định nghĩa: Nguồn nhân lực là tổng thể số lượng và chất lượng
con người với tổng hoà các tiêu chí về trí lực, thể lực và những phẩm chất đạo đức tinh thần tạo nên năng lực mà bản thân con người và xã hội đã, đang và sẽ huy động

vào quá trình lao động sáng tạo vì sự phát triển và tiến bộ xã hội. [10].
1.1.2. Khái niệm sinh kế
Thuật ngữ “sinh kế bền vững” được sử dụng đầu tiên như là một khái niệm phát
triển vào những năm đầu 1990. Tác giả Chambers và Conway (1992) định nghĩa về
sinh kế bền vững như sau: Sinh kế bền vững bao gồm con người, năng lực và kế sinh
nhai, gồm có lương thực, thu nhập và tài sản của họ. Ba khía cạnh tài sản là tài
nguyên, dự trữ, và tài sản vô hình như dư nợ và cơ hội. Sinh kế bền vững khi nó bao
gồm hoặc mở rộng tài sản địa phương và toàn cầu mà chúng phụ thuộc vào và lợi ích
ròng tác động đến sinh kế khác. Sinh kế bền vững về mặt xã hội khi nó có thể chống
chịu hoặc hồi sinh từ những thay đổi lớn và có thể cung cấp cho thế hệ tương lai. [8].
1.1.3. Khái niệm hộ nghèo
Bắt đầu từ năm 2015, việc đánh giá các hộ nghèo sẽ được thực hiện dựa trên
chuẩn nghèo được xây dựng theo hướng tiếp cận đa chiều. Bài tham luận này nhằm
giới thiệu nội dung chuẩn nghèo mới theo hướng tiếp cận đa chiều.
Từ năm 2015, chuẩn nghèo mới dự kiến sẽ xem xét dựa trên 5 chiều bao gồm:
(1) y tế, (2) giáo dục, (3) điều kiện sống, (4) việc làm và (5) tiếp cận thông tin. Năm
chiều này sẽ được phân tích thành các chỉ số thiếu hụt.
Nghèo đa chiều được hiểu là tình trạng con người không được đáp ứng một số
nhu cầu cơ bản trong cuộc sống. Chuẩn nghèo sẽ quy định nếu ở mức độ nào đó không
được đáp ứng một số nhu cầu xã hội cơ bản thì một hộ gia đình sẽ bị coi là nghèo đa
chiều. Các nhu cầu cơ bản trong cuộc sống được quy định trong Hiến pháp 2013, Nghị
quyết 15-NQ/TW, và Nghị quyết 76/2014/QH13 bao gồm nhu cầu y tế, giáo dục, việc
làm, nhà ở và thông tin, an sinh xã hội. Một hộ gia đình được coi là hộ nghèo đa chiều
nghiêm trọng nếu thiếu từ 1/2 tổng số nhu cầu cơ bản trở lên. Nếu hộ gia đình thiếu từ
1/3 đến 1/2 tổng số nhu cầu cơ bản sẽ là hộ nghèo đa chiều.
Nguyên tắc chung để xây dựng phương pháp tiếp cận đo lường nghèo đa chiều

19



tại Việt nam đó là chuẩn nghèo đa chiều phải đảm bảo hai yêu cầu là mức sống tối
thiểu và khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, đồng thời trong quá trình chuyển
đổi phương pháp tiếp cận đo lường nghèo từ đơn chiều sang đa chiều, chuẩn nghèo đa
chiều và chuẩn nghèo thu nhập sẽ được sử dụng song song. Ngoài ra, tiếp cận nghèo
đa chiều phân tích rõ ràng 3 công việc: đo lường và giám sát, xác đinh hộ nghèo và
xác định đối tượng thụ hưởng chính sách.
Phương pháp đo lường nghèo đa chiều ở Việt Nam nhằm đạt được ba mục tiêu
cơ bản sau:
Đo lường quy mô và mức độ nghèo: Trên cơ sở đó nhằm theo dõi tiến trình giảm
nghèo và đánh giá tác động của các chương trình, chính sách giảm nghèo và phát triển xã
hội qua thời gian, giữa các vùng, các nhóm dân cư, đặc biệt là theo các chiều nghèo, đồng
thời phục vụ cho hoạch định chương trình, chính sách phù hợp.
Xác định đối tượng hộ nghèo: Đặc biệt là những hộ nghèo nhất và các thiếu
hụt của họ để đặt mục tiêu, thiết lập ưu tiên, xây dựng và thực hiện các chương trình,
chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội hiệu quả, phù hợp với các đối tượng và nhu
cầu khác nhau.
Xác định đối tượng thụ hưởng chính sách: Thông tin về tình trạng nghèo và
đối tượng nghèo kết hợp với các tiêu chí bổ sung khác sẽ giúp từng chương trình,
chính sách giảm nghèo và an sinh xã hội xác định được các đối tượng phù hợp nhất
cho các hỗ trợ của mình.
Các chiều kích được sử dụng để đánh giá hộ nghèo bao gồm: (1) y tế, (2) giáo
dục, (3) điều kiện sống, (4) việc làm và (5) tiếp cận thông tin.
Các chỉ số được dùng để đo lường mỗi chiều được xác định theo những nguyên
tắc sau:

- Các chỉ số cần phản ảnh được việc được đáp ứng hay không được đáp ứng các
nhu cầu cơ bản.
- Các chỉ số cụ thể, đo đếm được, đặc biệt khi thu thập số liệu ở quy mô lớn.
- Ưu tiên lựa chọn chỉ số phản ánh kết quả, hoặc các chỉ số đo lường mức độ tiếp
cận và khả năng chi trả các dịch vụ cơ bản.

- Các chỉ số nên nhạy cảm với thay đổi chính sách, có lợi thế về nguồn lực và khả
năng thực thi, có tính định hướng chính sách.
Mỗi chỉ số như vậy sẽ có ngưỡng thiếu hụt. Ngưỡng này được xác định nhằm
20


phản ánh nhu cầu cơ bản tối thiểu của Việt Nam được thể hiện trong các mục tiêu của
các văn bản pháp luật hiện hành như: Luật lao động, Luật việc làm, Luật bảo hiểm xã
hội, Luật giáo dục đào tạo, Luật nhà ở, Luật bảo hiểm y tế, Luật khám chữa bệnh,
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam 2011-2020, Kế hoạch phát triển kinh
tế xã hội Việt Nam 2011-2015, và các chiến lược/kế hoạch phát triển ngành.
Các chiều thể hiện quyền được đáp ứng các nhóm nhu cầu cơ bản sẽ được cho
điểm bằng nhau. Điều này chứng tỏ các nhóm quyền có vai trò quan trọng ngang bằng
nhau. Ví dụ có tất cả 5 chiều, mỗi chiều được 20 điểm, như vậy tổng số điểm thiếu hụt
sẽ là 100 điểm.
Trong mỗi chiều, các chỉ số cũng được cho điểm bằng nhau. Ví dụ trong chiều
giáo dục có 2 chỉ số thì mỗi chỉ số sẽ được 10 điểm. Ở mỗi chỉ số trong chiều giáo dục
này, nếu hộ gia đình không thiếu hụt thì sẽ có điểm bằng 0, nếu thiếu hụt sẽ có điểm
bằng 10.
Tổng điểm của tất cả các chỉ số thiếu hụt sẽ cộng thành điểm thiếu hụt chung
của cả hộ. Nếu điểm thiếu hụt chung này nhiều hơn chuẩn nghèo thì hộ sẽ bị coi là
nghèo đa chiều.
1.1.4. Khái niệm phát triển bền vững
Phát triển bền vững là một khái niệm mới nhằm định nghĩa một sự phát triển về
mọi mặt trong xã hội hiện tại mà vẫn phải bảo đảm sự tiếp tục phát triển trong tương
lai xa. Khái niệm này hiện đang là mục tiêu hướng tới nhiều quốc gia trên thế giới,
mỗi quốc gia sẽ dựa theo đặc thù kinh tế, xã hội, chính trị, địa lý, văn hóa... riêng để
hoạch định chiến lược phù hợp nhất với quốc gia đó.
Theo Tổ chức ngân hàng phát triển châu Á (ADB): "Phát triển bền vững là một
loại hình phát triển mới, lồng ghép quá trình sản xuất với bảo tồn tài nguyên và nâng

cao chất lượng môi trường. Phát triển bền vững cần phải đáp ứng các nhu cầu của thế
hệ hiện tại mà không tổn hại đến khả năng của chúng ta đáp ứng các nhu cầu của thế
hệ trong tương lai". [8].

21


1.2. Các lý thuyết, quan điểm áp dụng trong đề tài
1.2.1. Lý thuyết khung sinh kế
Khung sinh kế là một trong những nội dung quan trọng của phát triển cộng
đồng, được đưa ra vào năm 1998 bởi Cơ quan Phát triển Quốc tế Vương quốc Anh, gọi
tắt là DFID. Khung sinh kế vừa được xem là một công cụ giúp phân tích sinh kế của
người dân tại cộng đồng nhưng đồng thời cũng được xem là nền tảng hướng dẫn cho
việc phát triển sinh kế bền vững cho cộng đồng, đặc biệt giúp các cộng đồng nghèo
tăng thu nhập hộ gia đình để thoát khỏi cảnh nghèo đói.
Theo định nghĩa của Wiktionary “Sinh” là sống, “kế” là tính toán, và sinh kế là
cách làm ăn để mưu sự sống. Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông của Nhà xuất bản
thành phố Hồ Chí Minh năm 2002 cho rằng “Sinh kế là việc làm để kiếm ăn, để sống,
ví dụ người dân tìm sinh kế và vất vả vì sinh kế”. Và ý tưởng về sinh kế vào giữa
những năm 80 của Robert (sau đó được phát triển hơn nữa bởi Chamber, Conway và
những người khác vào năm 90), từ đó có một số cơ quan đã sử dụng khái niệm này và
cố đưa vào trong thực tế.Một sinh kế được xem là bền vững khi nó phải phát huy được
tiềm năng con người để từ đó sản xuất và duy trì phương tiện kiếm sống của họ. Nó
phải có khả năng đương đầu và vượt áp lực cũng như các thay đổi bất ngờ. Sinh kế bền
vững không được khai thác hoặc gây bất lợi cho môi trường hoặc cho các sinh kế khác
ở hiện tại và tương lai – trên thực tế thì nó nên thúc đẩy sự hòa hợp giữa chúng và
mang lại những điều tốt đẹp cho các thế hệ thương lai. (Chambers and Conway 1992).

22



Bối cảnh

Chính sách, tiến

Các chiến

trình và cơ cấu

lược SK

Các kết quả SK
-Thu nhập nhiều hơn

dễ tổn
-Ở các cấp khác

thương

nhau của Chính
phủ, luật pháp,

- Xu hướng

chính sách công,

- Thời vụ

các động lực, các


- Chấn động
(trong

tự

nhiên



qui tắc
-Chính sách và

môi trường,

thái độ đối với
Con người

Xã hội

Vật chất

khu vực tư nhân

-Các tác nhân
xã hội (nam,
nữ,

hộ

đình,


gia
cộng

đồng …)
-Các cơ sở tài
nguyên thiên
nhiên
-Cơ

sở

thị

-Cuộc sống đầy đủ
hơn
-Giảm khả năng tổn
thương
-An ninh lương thực
được cải thiện
-Công bằng xã hội
được cải thiện
-Tăng tính bền vững
của tài nguyên thiên

Tự nhiên

Tài chính

Hình 1.1: Khung sinh kế bền vững (Nguồn: DFID (2003)

Thứ nhất, nguồn lực về con người đại diện cho năng khiếu, kiến thức, khả năng,
và tài trí tồn tại ở mỗi thành viên trong cộng đồng. Nguồn lực con người là một loại
nguồn lực khó có thể cân đo đong đếm được, nhưng lại là loại nguồn lực quan trọng
nhất đối với mỗi cộng đồng. Con người khi có kiến thức, kỹ năng, thái độ, kinh
nghiệm, sự nhiệt tình, chịu học hỏi và nhận được sự giúp đỡ, họ sẽ phát huy được hết
năng lực của mình. Bên cạnh đó, cộng đồng cũng luôn có những người trẻ, khỏe có
vốn hiểu biết sâu về cộng đồng. Họ sẽ là những nguồn nhân lực quan trọng, chủ chốt
cho các hoạt động phát triển của cộng đồng.
Với mỗi cộng đồng, dù họ có nhiều nguồn nhân lực, nhưng nếu không biết tận
dụng và phát huy những nguồn nhân lực ấy đúng lúc, đúng chỗ thì sẽ làm lãng phí
nguồn nhân lực đó. Và chính vì có những cộng đồng còn có những hạn chế trong việc
tận dụng và phát huy nguồn nhân lực, nên chúng ta cần giúp họ nhận ra và phát huy

23


nguồn nhân lực đó, để họ cải thiện chất lượng cuộc sống tiến tới phát triển. Có nhiều
chương trình phát triển cộng đồng đã thực hiện thành công trong việc tạo cơ hội và
phát huy nguồn nhân lực của cộng đồng, họ đã tập huấn cho người dân làm một số
nghề thủ công như: đan lát, làm gốm, mây tre, chiếu… như vậy, ngoài thời gian làm
nông nghiệp, những thời gian nông nhàn còn lại người dân đều có thể tham gia làm
một số nghề thủ công ngay tại nhà và tăng thu nhập. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc
làm giảm đi số lượng thanh niên thất nghiệp và các nệ nạn xã hội.
Thứ hai, tài nguyên thiên nhiên của cộng đồng như: rừng, biển, sông suối, đất đai,
núi đá… Chính những nguồn tài nguyên là ưu thế của cộng đồng, nhưng họ lại chưa tận
dụng và phát huy tốt được những điều đó. Tác viên phát triển cộng đồng có thể là cầu nối
giúp họ tiếp cận với các lớp tập huấn về trồng, chăm sóc vật nuôi, cây trồng…; tác viên
cũng có thể dựa vào những nguồn lực này của cộng đồng và cùng họ xây dựng các dự án,
kế hoạch để tận dụng và phát huy các nguồn lực.
Thứ ba, các nguồn tài sản vật lý là các công trình được xây dựng phục vụ trực

tiếp hay gián tiếp cho đời sống người dân tại cộng đồng và các cộng đồng lân cận như:
công trình giao thông, hệ thống điện, trường học, bệnh viện, hệ thống thủy lợi… Nhiều
trường hợp cộng đồng được đầu tư trường học, trạm y tế rất khang trang, sạch sẽ, đầy
đủ tiện nghi, nhưng lại chưa biết tận dụng và sử dụng một cách hiệu quả. Một số người
dân không cho con em mình tới trường, thay vào đó trẻ em phải lao động để phụ giúp
gia đình như: khai thác đá, gỗ, vàng… Như vậy, để những nguồn tài sản vật lý không
bị lãng phí, các dự án phát triển cộng đồng có thể kết hợp với các tổ chức đoàn thể
trong cộng đồng, tổ chức tuyên truyền để họ hiểu được tầm quan trọng của việc giáo
dục và những nguy hiểm có thể gặp phải đối với con em của họ khi đi đào đãi vàng,
khai thác gỗ, đá trái phép. Bên cạnh đó, với hệ thống đường giao thông được xây dựng
hoàn chỉnh, cũng là mạch máu quan trọng để cộng đồng có thể phát triển thương mại,
phục vụ nông nghiệp, dịch vụ. Nhưng điều quan trọng là cộng đồng chưa nhận thức
được những cơ hội và thuận lợi của mình. Nhiệm vụ của tác viên phát triển cộng đồng
là cần sử dụng nhiều phương pháp, cách thức để họ thức tỉnh và nhận thức được điều
đó.
Thứ tư, các nguồn tài sản về xã hội là đại diện cho các mối quan hệ tồn tại giữa
các thành viên trong cộng đồng như: niềm tin, tôn giáo, sự đoàn kết, tương thân tương

24


ái… Để một dự án phát triển cộng đồng đi tới thành công, luôn cần tới nguồn tài sản
xã hội của mỗi cộng đồng. Sự chung sức, đoàn kết luôn là mấu chốt cho sự thành công
của mỗi cộng đồng. Chính vì lẽ đó, tác viên phát triển cộng đồng cần giúp người dân
nhận ra lợi thế, nguồn tài sản xã hội và giúp họ tận dụng và phát huy tốt hơn để cộng
đồng ngày càng phát triển.
Thứ năm, các nguồn tài sản về tài chính là các nguồn lực kinh tế tồn tại trong
cộng đồng như: hệ thống ngân hàng đang hoạt động trong vùng, khả năng kinh tế của
các thành viên trong cộng đồng… Đây cũng được coi là một nội lực, cơ hội cho cộng
đồng phát triển. Có những hộ gia đình muốn có vốn để sản xuất kinh tế, nhưng họ

không biết vay ở đâu, trong khi Ngân hàng Chính sách xã hội nằm ngay trong cộng
đồng. Vì vậy, tác viên phát triển cộng đồng sẽ là cầu nối giúp họ tìm tới Ngân hàng
Chính sách xã hội để vay vốn với lãi xuất thấp để làm kinh tế. Tuy nhiên, không chỉ có
Ngân hàng chính sách xã hội mà ngay trong chính cộng đồng cũng có các tổ chức về
vốn như: hội tín dụng, quỹ tín dụng giữa những nhóm phụ nữ, nông dân, các tổ chức
tài chính vi mô khác… Nguồn vốn này họ cũng có thể tận dụng, quay vòng phát huy
để phát triển kinh tế.
Thứ sáu, các nhóm, hội, đoàn thể luôn tồn tại trong mỗi cộng đồng. Vai trò của
các nhóm, hội, đoàn thể này có sự khác nhau, nhưng họ đều hướng tới mục đích chung
là cuộc sống ấm no, hạnh phúc và sự phát triển chung của cộng đồng. Vậy, để phát huy
hơn nữa vai trò của các nhóm, hội, đoàn thể trong cộng đồng, chúng ta cần liên kết các
nhóm lại để có thể chia sẻ trách nhiệm, sáng kiến và tạo nên sức mạnh tổng thể giúp
cộng đồng phát triển. Nhưng bản thân họ chưa nhận thức đầy đủ được tầm quan trọng
của mình cũng như vai trò liên kết giữa các nhóm, hội, đoàn thể trong cộng đồng. Tác
viên phát triển cộng đồng có thể là cầu nối để họ liên kết lại với nhau thông qua một số
hoạt động của các dự án phát triển cộng đồng như: nhóm cựu giáo chức trong cộng
đồng, tuy họ đã về hưu và nhiệm vụ của họ chỉ là chăm sóc con cháu, tham gia các
hoạt động của Hội Cựu giáo chức. Nhưng khi được tạo cơ hội và điều kiện để liên kết
với các nhóm như Hội Phụ nữ, Đoàn thanh niên… Hôi Cựu giáo chức có thể là những
người nòng cốt trong công tác tuyên truyền về chăm sóc sức khỏe sinh sản của cộng
đồng, về công tác vệ sinh môi trường hay vận động các hộ gia đình cho con em mình
tới trường.

25


×