Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Hình tượng con hổ trong văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.24 MB, 52 trang )

Hình tượng con hổ trong văn hóa
Trong nhiều nền văn hóa trên thế giới, hình tượng con
hổ hay Chúa sơn lâm đã xuất hiện từ lâu đời và gắn
bó với lịch sử của loài người. Trong nhiều nền văn hóa
khác nhau thế giới, hình ảnh con hổ gợi lên những liên
tưởng về sức mạnh, sự thanh thế, oai linh, vẽ đẹp rực
rỡ nhưng đầy bí hiểm, sự uyển chuyển với cơ thể vằn
vện thấp thoáng lượn sóng cũng tính hung hãn, thú
tính của một động vật săn mồi hàng đầu và là một biểu
tượng của đẳng cấp chiến binh* [1] cũng như toát lên vẽ
đẹp hùng vĩ và sức mạnh* [2]* [3] Về bản chất tự nhiên,
hổ là dã thú có sức mạnh, to khỏe, nhanh nhẹn, thuần
thục về kỹ thuật chiến đấu, thành thạo về kỹ năng săn
mồi, loài vật này còn đặc trưng bởi tính hung dữ, táo
bạo, liều lĩnh, dám tấn công hay đối địch nhiều thú to
khỏe khác cùng với tiếng gầm rống rung chuyển núi
rừng gây khiếp đảm cho muôn loài và còn là động vật
tinh khôn từ đó hổ được người ta tôn lên vị trí Chúa tể
của rừng núi và coi hổ là con vật linh thiêng.* [4]* [5]

mạnh quân sự, cho các vị võ tướng và thường được thêu
trên áo các võ quan hàng tứ phẩm* [10] ở một khía cạnh
khác, người ta thường kể nhiều chuyện dân gian, sự đồi
thổi, vẽ tranh, tạc tượng về con hổ rất nhiều và khiến
cho nó trở thành những nhân vật trung tâm của nhiều
tác phẩm văn học nghệ thuật đại chúng.* [11]
Trong ngôn ngữ, nghệ thuật, người ta vẫn dùng đến
hình ảnh con hổ với nhiều tác phẩm có sự hiện diện của
loài hổ. Trong một số lĩnh vực khác đặc biệt là lĩnh vực
quân sự thời hiện đại lại có sự hiện diện rất lớn của hình
ảnh con hổ với biểu tượng về sức mạnh của các đơn vị


vũ trang, các loại vũ khí. Ngày nay, trong văn hóa đại
chúng trên nhiều lĩnh vực như thể thao, kinh tế, quảng
cáo đặc biệt là dùng để chỉ về tiềm lực hùng mạnh cũng
như sự trỗi dậy của nền kinh tế ở các quốc gia đặc biệt
là ở châu Á như Bốn con hổ châu Á, bốn con hổ con kinh
tế (Tiger Cub Economies), Những con hổ kinh tế mới
*
[12] Những con Hổ kinh tế (Tiger economies) là cách
nói hình tượng dành cho những nền kinh tế với tốc độ
phát triển rất nhanh và mạnh, thường gắn liền với sự
cải thiện, nâng cao chất lượng cuộc sống.* [13] Người ta
cũng sử dụng hình tượng, biểu tượng, biểu trưng, phù
hiệu, nhãn hiệu có thể hiện hình ảnh con hổ.

Đối với nhiều nước châu Á là Châu lục mà loài hổ phấn
bố thì hổ còn là biểu tượng của sức mạnh, uy quyền
và tâm linh. Tại đây, hổ được coi là có vị trí thống
trị trong giới động vật nên nhân dân ở một số nước
phương Đông đã thần thánh hóa loài này với tập tục
thờ hổ hay thờ thần hổ đã đi vào tín ngưỡng dân gian
của nhiều dân tộc, cộng đồng* [6]* [7] nhất là ở những
chốn rừng núi sâu thẳm thì hổ luôn được thờ phụng,* [8]
một số dân tộc khác còn tôn thờ hổ như thần giám hộ,
nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng hình ảnh con hổ
là biểu tượng của đất nước, là vật tổ của dân tộc mình.
Hình ảnh con hổ đã đi sâu vào văn hóa, lịch sử, nghệ
thuật như Trung ốc, Hàn ốc, Việt Nam, Ấn Độ,
Nhật Bản, các nước Đông Nam Á…. Ở một số nơi khác,
hổ cũng tượng trưng cho quyền uy, sức mạnh uy mãnh
và ở một khía cạnh nào đó là biểu hiện cho nhiều phẩm

chất của con người như phẩm chất kiên trì theo một số
quan niệm do với tập tính của nó, con hổ còn thể hiện
phẩm chất kiên nhẫn và dũng cảm vì bản năng các con
hổ biết khi nào nên nằm yên phục kích con mồi nhưng
cũng biết vồ lấy cơ hội khi con mồi mất cảnh giác.

Trong thời hiện đại, hình tượng con hổ đã trở nên ngộ
nghĩnh, đáng yêu hơn rất nhiều so với hình ảnh của
một loài ác thú trước đó nhằm đề cao ý thức bảo vệ,
bảo tồn loài hổ khi loài này đã trở thành một động vật
quý hiếm và có nguy cơ bị tuyệt chủng. Một cuộc thăm
dò dư luận của kênh truyền hình Animal Planet cho kết
quả hổ là con vật được yêu thích nhất trên thế giới với
kết quả điều tra đối với hơn 50.000 người xem đến từ 73
quốc gia, theo kết quả bỏ phiếu thì hổ nhận được 21%
số phiếu bầu và đứng hạng nhất, tiếp theo là chó với số
phiếu sát sao 20%, cá heo đạt 13%, ngựa đạt 10%, sư tử
chỉ đạt 9%, rắn được 8%, tiếp theo là voi, tinh tinh, đười
ươi và cá voi* [14]* [15]* [16] Ngày nay, cả thế giới đã
dành riêng một ngày để kỷ niệm về loài hổ đó là Ngày
quốc tế về bảo tồn hổ (nhằm ngày 29 tháng 7 hàng
năm)* [17]* [18]* [19] lần đầu tiên, ngày này đã diễn ra
Các triều đại phong kiến ở các nước Phương Đông coi tại Việt Nam vào năm 2011, tại công viên ống Nhất
hổ cùng với rồng là biểu trưng cho vương quyền, trong diễn ra mít tinh và hội thảo về tăng cường công tác bảo
quân sự, võ học và cho những thành đạt trong khoa tồn hổ nhân Ngày quốc tế về Bảo tồn hổ nhằm nâng
cử, chính vì vậy mà hình ảnh con hổ xuất hiện khá phổ cao nhận thức của cộng đồng đối với vấn đề bảo tồn
biến trong cung cấm, doanh trại và trong trường thi* [9] loài hổ.* [20]
Đứng hàng thứ ba trong thập nhị địa chi, hổ là vị vua
mang nhiều ẩn dụ nhất trong các loài dã thú. Trong
dân gian Việt Nam, hình ảnh con hổ phổ biến trong 1 Khái yếu

các kiến trúc đình, miếu, dưới chế độ quân chủ của triều
đình phong kiến, hình ảnh Hổ được biểu tượng cho sức

1


2

1 KHÁI YẾU
vượt trội như phi nhảy, chạy, bơi, tính nhạy cảm, hổ trở
thành đối tượng nghiên cứu hữu ích cho các nhà khoa
học trong nhiều lĩnh vực, rất nhiều vườn thú lớn trên
thế giới ngày nay đều nuôi hổ phục vụ nhu cầu tham
quan, chiêm ngưỡng của người xem.

Hổ là động vật biểu tượng cho sức mạnh và sự hung hãn trong
nhiều nền văn hóa và được mệnh danh là Chúa tể của rừng núi
hay Chúa sơn lâm

Với việc gắn bó tương đối sâu sắc và từ lâu đời với các
dân tộc ở châu Á, với sức mạnh, sự uy quyền, vẽ đẹp bí
ẩn đồng thời với sự phá hoại, tinh ranh đã để lại hình
ảnh sâu đậm trong văn hóa của các dân tộc châu Á nhất
là các dân tộc Phương Đông. Sự giao thoa giữa các nền
văn hóa, các nên văn minh với nhau tạo điều kiện cho
hình ảnh con hổ được tiếp cận với văn hóa Tây Phương
theo cách nhìn nhận của người phương Tây, và ngày
nay hình ảnh hổ được phổ biến rộng rãi trên thế giới.
Cái nhìn về hổ trong văn hóa đại chúng của các dân tộc
khác nhau trên thế giới hình ảnh con hổ trong thế giới

này nay tuy muôn vẻ và đa dạng nhưng có những điểm
chung đó là vừa sùng bái, ngưỡng mộ trước sức mạnh,
sự hung hãn vẽ đẹp bí ẩn nhưng vừa sợ hãi, khinh ghét,
hắt hủi, cũng như cách nhìn của thế giới hiện đại ngày
nay hổ đã trở nên ngộ nghĩ, đáng yêu hơn.
Ngày nay, không gian sinh tồn của hổ ngày càng trở
nên thu hẹp, và số lượng hổ ngày càng giảm dần do
nạn săn bắt trái phép. Hổ đã không còn là mối hiểm
họa của con người nữa, ngược lại chúng đã và đang bị
con người đưa đến thảm họa tuyệt chủng trên phạm vi
toàn cầu và đã có tên trong sách đỏ.* [22] Từ một biểu
tượng cho sức mạnh thiêng liêng, huyền bí của rừng
xanh, hổ đã trở thành biểu tượng cho lời kêu gọi bảo
vệ đa dạng sinh học, cân bằng sinh thái.* [23] Ngày 28
tháng 7 năm 2009 tại thủ đô New Delhi của Ấn Độ hơn
2.000 sinh viên đã vẽ mặt mình như hổ, tuần hành và
xếp thành hình hổ để kêu gọi mọi người bảo vệ loài
động vật quý đang bị giảm sút nhanh ở quốc gia này
đồng thời lập kỷ lục số người hóa trang thành hổ đông
nhất.* [24]

Một con hổ đang thư giãn

Loài hổ phân bố chủ yếu ở vùng châu Á với nhiều nòi
khác nhau trong đó có năm phân loài còn tồn tại đến
ngày nay. Hổ là đối tượng phổ biến của các loại hình
văn hóa nghệ thuật truyền thống và hiện đại, là đối
tượng trung tâm của nhiều truyền thuyết, huyền thoại
kỳ vĩ, được tạo dựng và tồn tại sâu đậm trong tâm trí
con người qua hàng ngàn năm. Với vẻ đẹp nổi bật rực

rỡ bởi bộ da, thân hình lượn sóng, vằn vện và khỏe,
uyển chuyển và kiêu hùng của hổ là đề tài hấp dẫn xưa
nay của nhiều ngành mỹ thuật, hội họa, đúc nặn, điêu
khắc, nhiếp ảnh. Chuyển động, hình dáng, thần thái
của hổ (gọi là thế hổ ) được thể hiện trong hội họa, điêu
khắc, phong thủy, võ thuật và là một thế cơ bản trong
thư pháp (nghệ thuật viết chữ đẹp) của người phương
Đông. Hổ có dáng đi đặc trưng được gọi là hổ bộ, bốn
chân khi đi rất khoan thai, nhưng chắc chắn, mỗi bước
chân đặt xuống đất thì các xương cốt, cơ bắp trên phần
thân thể đều lộ ra* [21]. Là động vật có những khả năng

1.1 Văn hóa Phương Đông
Trong văn hóa châu Á, hổ là một linh vật trong 12 con
giáp và tượng trưng cho sức mạnh* [25] và trở thành
một biểu tượng trong nền văn hóa cổ phương Đông, có
rất huyền thoại, sự huyền bí về hổ.* [26] Trong tâm thức
người dân phương Đông thì hổ vẫn là một ác thú, nó
hung hãn nhất trong 12 con giáp dù rằng về sự khôn
ngoan, nó không thể sánh với khỉ và chuột, sự kiên trì,
có thể không sánh với trâu, nhanh không bằng ngựa,
uy vũ không so sánh bằng Rồng, luồn lách và hiển
độc không thể bằng rắn nhưng, trong 12 con thú, hổ
hội đủ các đặc chất như dũng mãnh, can trường, hiên
ngang, dám tấn công cả những con thú to khỏe hơn
nó. Nhờ những đặc chất ấy mà cọp là một trong những
loài trở thành biểu tượng của sự hùng cường và sức
mạnh vô song, vì thế nó được con người thần thánh
hóa bởi nhiều nước đưa hổ vào đời sống xã hội, văn
hóa, và nghệ thuật.* [27] Đặc biệt là trong rừng, không

có một con vật nào sao chép được sự uy dũng của Hổ,


1.1

Văn hóa Phương Đông

đó chính là Hổ xú hùng tâm tại tức là, khi con Hổ về
già xấu xí nằm yên một chỗ nhưng hùng tâm của Hổ
vẫn còn, chẳng một con vật nào dám qua mặt. Đây là ý
dân gian muốn ca ngợi những vị anh hùng tuy tuổi đã
cao, nhưng khí phách hào khí vẫn không bị mất đi, vì
thế chẳng một ai dám xem thường…* [28]

3
sống xã hội với thiết chế xã hội như làm bạn với vua
như đùa với hổ…* [33]

Hổ còn được tôn thờ và là hình tượng phổ biến đầy
ấn tượng trong đời sống dân gian của người Việt với
tục thờ hổ hay thờ thần hổ ở nhiều vùng miền. Hình
tượng hổ bên cạnh mang sự quyền uy còn đáng nể cùng
với nhận thức về công năng y tế và mỹ thuật khiến hổ
sở hữu một những phẩm chất để có thể trở thành một
linh vật của tôn giáo. Hổ chiếm toàn bộ vũ trụ, ngự
5 phương, được gọi là ngũ hổ, ngũ dinh. Đạo mẫu đã
lấy con hổ làm biểu tượng cho quyền uy. Ngũ hổ là
chủ thể quyền uy 5 phương, có một sức mạnh lớn và
nhờ sức mạnh có tính chi phối đó, vạn vật có trật tự.
Về mặt quan hệ xã hội, 5 phương chính là cộng đồng

và đây chính là điểm đưa hổ lên tầm của sự đại đồng
và bảo hộ (ví dụ như ở Hàn ốc, hổ đóng vai trò là
ần bảo hộ). Ở Việt Nam, sau khi triết học Trung Hoa
thâm nhập vào Việt Nam, tinh thần của loại triết thuyết
này với ngũ sắc đã kết hợp với đạo Mẫu thuần Việt tạo
nên ngũ hổ với 5 màu sắc. Biểu tượng này của tôn giáo
lan sang nghệ thuật dân gian, tạo nên bức tranh 5 ông
Hổ Amur giữa tuyết mùa đông
hổ quay quần quanh một điện thờ hương khói vấn vít,
chầu vào trung ương để che chở bảo hộ. Trong phong
Với người phương Bắc thì hổ còn là biểu tượng cho thủy, hổ là con vật tượng trưng cho sự quyền uy, mạnh
quyền uy, sự dũng mãnh nơi chiến địa* [29] và Hổ trắng mẽ, nhanh nhẹn và bản lĩnh.* [33]
là hình ảnh của đấng minh quân* [30] đồng thời tượng
trưng cho sức mạnh, uy quyền của vị tướng quân dũng Cũng trong văn hóa, đặc biệt là văn hóa Trung Hoa, hổ
mãnh, can trường.* [31] Chính vì thế hổ thường là đại là động vật có thật và gần như là duy nhất được người
diện và biểu trưng cho các vị tướng lĩnh, quân đội, các ta sánh đôi với rồng – một loài vật hư cấu tượng trưng
lực lượng quân sư, những vũ khí chiến tranh. Ở Việt cho quyền năng của tự nhiên. Nhiều bức hội họa, thư
Nam có truyền thuyết, vị tướng họ Hùng có công đánh pháp, tranh thủy mặc ở Trung ốc, Việt Nam, Hàn
đuổi giặc Ân do bà mẹ hổ sinh ra (ngày nay đền Trình ốc, Nhật Bản… có vẻ cảnh hổ và rồng đang ở tư thế
ở thắng cảnh Hương Sơn thuộc Mĩ Đức, Hà Nội còn gầm ghè chuẩn bị giao chiến và điều này cũng thể hiện
thờ vị thần hổ này và được hương khói khắp bốn mùa). trên những bức tượng, phù điêu khác. Người Hàn ốc
Truyện Tam quốc có Ngũ hổ tướng, trong Truyện Kiều quan niệm rằng khi trời mưa to là lúc rồng và hổ đang
có nhắc nhiều về hổ và liên quan đến Từ Hải. Hoàng giao chiến kịch liệt. Nhiều câu thành ngữ, vần vè cũng
Hoa ám được mệnh danh là Hùm thiêng Yên ế. có sự sánh đôi giữa rồng và hổ Có thể kể đến như:
Các võ tướng ngày xưa có phù hiệu, ấn tín khắc hình
• Long tranh, hổ đấu (tiếng Hán: 龙争虎斗) hoặc
đầu hổ, gọi là hổ phù. Các đình chùa, miếu mạo thường
Long hổ giao đấu hay Long hổ tranh hùng dùng
chạm khắc hình hổ, thể hiện sự linh thiêng, bất khả xâm
*

để chỉ về một trận đấu ác liệt ngang sức ngang
phạm. [31]
tài giữa hai kỳ phùng địch thủ vì cuộc đối đầu
Trong tâm thức của nhiều dân tộc, hổ được coi là quái
giữa rồng và hổ luôn chỉ đến những cuộc tranh
vật của bóng tối và tuần trăng mới, hổ cũng là một
đấu giữa các thế lực mạnh * [34] hoặc những trận
trong những hình tượng của thượng giới và thế giới
đấu có tính chất quyết liệt.* [35] Đây cũng là tựa
được đồng nhất với mặt trăng tái hiện. Hổ còn là ông
đề của một bộ phim võ thuật của điện ảnh Hồng
tổ của một số thị tộc.* [32] Hình ảnh con hổ trong đời
Kông có tên: Long tranh, hổ đấu (tựa tiếng Anh:
sống người châu Á đã ăn sâu trong tâm thức, những
Enter e Dragon) với sự tham gia của diễn viên
đặc tính của hổ được so sánh với những gì được cho
Lý Tiểu Long.
là tốt, mạnh mẽ trong đời sống hàng ngày như: hổ dữ
• Rồng cuộn, hổ ngồi (Hán Việt: Long bàn, hổ cứ,
không ăn thịt con (chỉ về đạo lý làm người, tình cảm
chữ Hán: 藏龙卧虎) hay Hay hổ phục rồng chầu
mẫu tử), cọp chết để da, người ta chết để tiếng (nói về
có nghĩa là chỗ đất hiểm yếu hay một địa điểm
danh dự), nam thực như hổ (chỉ về ăn khỏe), mình hổ,
chiến lược. ành ngữ này được nhắc đến trong
tay vượn, bụng beo, lưng sói (chỉ về sự hoàn thiện của
Chiếu dời đô của Lý ái Tổ khi đề cập đến địa
một cơ thể đầy sức mạnh) hổ bộ, hổ bôn (dáng đi như
thế của Đại La và chọn đây là kinh đô của nước
hổ), rồng cuộn hổ ngồi (chỉ về địa thế đẹp), hổ phụ sinh

Việt. Câu nói này cũng là cảm hứng cho tựa đề của
hổ tử (chỉ sự tự hào khi có thế hệ tiếp nối), long tranh
bộ phim của Đài Loan của đạo diễn Lý An có tựa
hổ đấu (chỉ về đối thủ ngang tài ngang sức) hoặc còn
đề Ngọa hổ, tàng long (tựa tiếng Anh: Crouching
nói khá nhiều trên bình diện quan trọng trong một đời


4

1 KHÁI YẾU
tiger, hidden dragon) có nghĩa là một nơi có vẻ vô vật khác chẳng hạn như sói lửa (hồ), gấu, cá sấu, đại
hại nhưng lại có những lực lượng rất mạnh ẩn nấp. bàng hoặc những trận chiến với trâu nhà thông qua
những câu chuyện kể lại của những người dân. Bên
• Tả anh Long, Hữu Bạch Hổ: Rồng xanh bên trái, cạnh đó còn có những câu chuyện về những cuộc chiến
hổ trắng bên phải
đấu giữa hổ và người, những người có sức khỏe phi
• Long đàm hổ huyệt (chữ Hán: 龙塘虎穴) hay Ao thường, tay không đánh hổ như Võ Tòng trong ủy
Hử, Phùng Hưng, Nguyễn Huệ, Lê Văn Khôi, Võ sư
rồng, hang hổ : Chỉ về một nơi nguy hiểm.
Nhật Bản Gogen Yamaguchi,…* [38]
• Long đằng hổ dược (chữ Hán: 龙腾虎跃) nghĩa
tiếng Việt là: Rồng nhảy, hổ vọt
• Vân tùng long, phong tùng hổ tức mây theo rồng,
gió theo hổ








Sự khôn khéo của con người trong cách đối xử với hổ
còn mang lại lợi ích về mặt sức khỏe theo quan niệm
Long sinh quyển, hổ sinh phong tức Rồng sinh ra của Đông y, đó là một trong những lý do quan trọng
mây, hổ sinh ra gió
khiến cư dân Nam Á trân trọng hổ. Đặc biệt là trong
quan niệm đời sống, người ta đánh giá rất cao công
Rồng bơi vũng cạn bị tôm cợt/hổ xuống đồng bằng
dụng của xương hổ và loại thuốc trứ danh Cao hổ cốt,
bị chó kinh: Câu thành ngữ chỉ về sự thất thế
theo đó Cao hổ cốt có thể làm thay đổi chất lượng sức
Long hổ tương phùng, hàng long phục hổ hay câu khỏe con người, cứu bệnh hiểm nghèo, giúp bệnh ung
khẩu quyết trong võ học: Đao tựa mãnh hổ thương thư, cứu người hậu sản… Bên cạnh đó, theo quan niệm
tựa giao long ngoài ra còn có: Long hổ hội, một điệu của nhiều người thì hổ. loài vật đã đi vào huyền thoại
múa trong cung đình Huế* [36] hay Long hổ môn: về sức mạnh tình dục với biểu tượng là chiếc pín hổ
Một cánh cửa khó khắc hình con rồng và con hổ (tức dương vật của con hổ) mặc dù trên thực thế khả
*
và cũng là tựa của một bộ phim võ thuật-xã hội năng sinh dục của hổ cũng chỉ ở mức bình thường. [39]
đen của Hồng Kong (Dragon Tiger Gate) với sự Nhiều người Việt Nam hay người Trung ốc vẫn rất
tham gia của các diễn viên: Chung Tử Đơn, Lâm tin vào công dụng của những sản phẩm làm từ động
vật hoang dã, ăn gì bổ nấy, con gì càng khỏe, càng quý
Phong…
hiếm thì càng tốt và do hổ là con vật khỏe hàng đầu
Miệng hùm chớ sợ, vảy rồng chớ ghê: Câu ngạn ngữ nên cao hổ, móng hổ, da hổ, nanh hổ và cả pín hổ vẫn
ở Việt Nam
được săn lùng ráo riết. Tuy nhiên việc cho phép đem
chúa sơn lâm linh thiêng ra giết mổ như… bò, lợn, gà
Trấn ải kim thương như Bạch Hổ/ủ quan ngân vịt thì rất chi là phản tâm linh, sản phẩm của hổ như
kiếm tựa anh Long, dịch nghĩa: Trấn ải, thương da làm thảm, răng và vuốt để làm trang sức, các trang

vàng như cọp trắng/Giữ quan, kiếm bạc tựa thanh trại nuôi hổ ở Trung ốc rất lớn, với hàng ngàn con
long lời tựa trong bài Hùng kê quyền
hổ bị nhốt, nuôi lấy giống và giết thịt giống như nuôi
gà.* [40]* [41]

1.2 Quan niệm Phương Tây

Một bức tranh của Nhật Bản vẽ về cảnh rồng và hổ

Ngoài việc so sánh với loài rồng, với bản năng chiến
đấu hung dữ của mình, hổ cùng là loài động vật được
người ta chọn làm một bên trong các cuộc giao chiến
giữa các loài muông thú mà điển hình là cặp đấu hổ
với sư tử luôn là đề tài được quan tâm của nhiều người
trong suốt lịch sử. Bên cạnh đó, một cặp đấu đáng chú
ý khác là cuộc chiến giữa hổ và voi, đặc biệt ở Việt Nam
người ta trong lịch sử người ta thường tổ chức những
cuộc quyết đấu giữa các con voi chiến và các con hổ
ở đấu trường với một cuộc chiến khá bất công dành
cho hổ,* [37] ngoài ra hổ còn là đối thủ của nhiều động

eo cách nhìn phương Tây thì trong văn hóa châu Á,
hổ chỉ đóng vai trò thay thế sư tử để trở thành vua của
muôn thú (King of the Beasts) khi sư tử luôn là biểu
tượng của hoàng gia, biểu tượng của sức mạnh* [42]
Trong đời sống và văn hóa phương Tây có mô tả về
hình ảnh của hổ nhưng đặt trong sự so sánh và một
cuộc chiến với sư tử, điều này được tái hiện trong tranh
vẽ của Eugène Delacroix, George Stubbs, và James
Ward vào thế kỷ thứ 18 và 19,* [43] cũng trong Văn học

Anh đã so sánh sức mạnh chiến đấu của hổ và sư tử, và
các nhà thơ Edmund Spenser, Allan Ramsey, và Robert
Southey hay mô tả chiến thắng của sư tử.* [44] Oliver
Goldsmith cho rằng hổ là hiện thân như một kẻ hay gây
hấn, hung dữ và tính tình tàn bạo không cần thiết.* [45]
Charles Knight cũng khẳng định sự tàn khốc vô cớ, sự
tàn ác không cần thiết, và sự hèn nhát của hổ trong
sự tương quán với lòng quảng đại và sự oai vệ của sư
tử.* [46]


2.1

Tên gọi

Trên những huy hiệu của các quốc gia phương Tây, hổ
được khắc họa là một con quái vật huyền ảo với một
cơ thể thon gọn của một con con chó sói, có bờm, râu
và chỏm lông ở đuôi giống sư tử cùng một cái mõm
nhọn* [47] điều này phản ánh việc nhiều nghệ sĩ châu
Âu thời Trung cổ chưa từng bao giờ nhìn thấy một con
hổ thực sự, cộng với một truyền thuyết về một con hổ
mẹ dữ dằn, sẵn sàng quyết liệt bảo vệ con cái của họ
trước những thế lực muốn bắt con của nó và nếu nó
đứng trước một tấm gương thì con hổ cái sẽ bị thôi miên
bởi chính hình ảnh của mình do đó một số huy hiệu có
mô tả cảnh hổ nhìn chằm chằm vào gương. Cũng theo
cách nhìn của phương Tây thì trong văn hóa dân gian
châu Á thì hổ cũng là con vật thay thế chó sói để hóa
thành thành những loài yêu quái hay yêu tinh chuyên

biến hóa, hại người, hổ với hình dạng là những con mèo
ma, yêu quái mèo (werecat) thay thế cho ma sói hay
người sói.* [48]* [49]

2

Trong tín ngưỡng

Hổ là con vật được nhắc đến rất nhiều trong tín ngưỡng dân
gian

Trong tín ngưỡng dân gian của nhiều dân tộc, vùng
miền hổ là loài vật được tôn thờ và sùng bái thông qua
tập tục thờ hổ, hổ còn đóng vai trò là thần giám hộ của
quốc gia, sự ngưỡng mộ loài hổ còn thể hiện thông qua
danh xưng, đặt tên, làm linh vật, biểu tượng. Trong tiềm
thức dân gian Việt Nam, hổ hay ông ba mươi là tên gọi
đầy uy linh, quyền kính trong những gian thờ, đình,
chùa, miếu mạo. Tục thờ hổ bắt nguồn từ cuộc sống
nguyên thủy, khi con người còn sống trong điều kiện
săn bắt, hái lượm hoặc giai đoạn đầu của cuộc sống
nông nghiệp thì lúc này hổ chính là sức mạnh thiên
nhiên vừa gần gũi và là tai họa đối với con người, chính
vì vậy mà con người thờ hổ.

5
Trong hệ ngôn ngữ châu Âu, từ hổ bắt nguồn bằng từ
tigre vốn được vay mượn từ tiếng Hy Lạp tigris, bản
thân từ này lại vay mượn từ tiếng Ba Tư* [50] trong
từ Anh-Mỹ thì hổ cái (tigress) lần đầu tiên được ghi

lại năm 1611 và thuật ngữ Mắt hổ (yellowish-brown
quartz) được ghi lại năm 1891. uật ngữ tiếng Anh
thông dụng chỉ về hổ là Tiger và chỉ về hổ cái là Tigeress,
trong tiếng Pháp thì hổ còn gọi là Tigris, tiếng Tây Ban
Nha thì hổ được gọi là El Tigre.
Ở châu Á, người Tungus một dân tộc ở vùng Tây Bá Lợi
Á gọi giống hổ Mãn Châu bằng tên gọi với ý nghĩa tôn
xưng là Ông hay Ông già, còn người Udege và người
Nanai ở vùng Viễn Đông Nga gọi hổ Mãn Châu bằng
tên gọi Amba* [51] với ý nghĩa sùng kính cùng với gấu
(Doonta), người Mãn Châu gọi tên hổ với ý nghĩa là Vua
(Hu Lin)* [52] Người Mông Cổ gọi hổ là Ba-lưa (Бар)
đây là từ gốc của danh hiệu Ba Đồ (Баатар) và Ba Đồ
Lỗ (Baturu) của người Mãn Châu. Ở Trung ốc, người
Trung ốc hay gọi hổ là Lão hổ. Ở Mã Lai, hổ Mã Lai
cũng được người Mã Lai đặt cho nhiều loại tên hiệu,
đáng chú ý có Pak Belang có nghĩa là Chú có sọc hay
Bác có sọc * [53] Ở Indonesia, người ta gọi hổ là Harimau,
người ái Lan gọi hổ là Seua. Người ái ở Việt Nam
gọi hổ là Tu xưa, Xưa cả, Xưa cản tao, người Mường thì
gọi là Tu khán, người M'Nông gọi hổ là Rơnong, người
Êđê gọi là Êman, người Hà Nhì ở Lai Châu gọi hổ là Khà
dừ,* [54] người Khơ Mú gọi hổ là Rvai, người La Hủ gọi
hổ là Hủ và tên của dân tộc này được đặt theo tên của
con hổ, người Tà Ôi gọi hổ là Avó.
Trong chữ Hán, chữ hổ (唬) nghĩa là dọa nạt, có bộ khẩu
đứng trước chữ hổ để tượng hình cho việc nghe tiếng
hổ gầm, tạo ra sự khủng khiếp và trong tiếng Việt từ
hùng hổ hay hùng hùng hổ hổ cũng có thể xuất phát từ
ý nghĩa này.* [23] Trong dân gian Việt Nam, với những

đẳng cấp và những giai cấp khác nhau, người ta còn gọi
hổ là: Cọp, Hùm, hoặc những danh xưng mang tên Ông
như ông Hổ, ông Cọp, ông Hùm, ông Kễnh, ông Hầm, ông
Ba Mươi, ông Khái, bà um… trong đó người ta thường
gọi con hổ với cách gọi rất trân trọng là ông Hổ, ông Ba
Mươi Trong các loài thú dữ, chưa có loại thú nào được
con người sợ hãi, thờ cúng, kỵ húy nhiều bằng con cọp,
quan điểm nhiều người không dám gọi thẳng tên,* [55]
một số người già không dám kêu đích danh con hổ mà
chỉ dám gọi chệch đi ông kễnh, ông ba mươi hay ông
hùm vì sợ Ngài giận.

Cái nhìn dân gian Việt về con cọp thể hiện trong cách
gọi tên, thể hiện qua những câu ca dao, tục ngữ, thành
ngữ, những câu chuyện cổ tích, ngụ ngôn. Ngoài tên
Cọp, là Hổ, tiếng Hán Việt là Dần, hổ còn có tên là Khái,
là Kễnh, Ba Cụt (cọp ba chân), Ba Ngoe (cọp ba móng),
Ông Chằng hay Ông Kẹ, Ông Dài, Ông ầy (cọp thành
tinh), Ông ba bị. Dựa vào tiếng gầm của, hổ còn có tên
gọi là Hầm, là Hùm, dựa vào sắc màu của da còn gọi
2.1 Tên gọi
là Gấm, là Mun. Ở Nam Bộ cò gọi cọp là Ông Cả vì sợ
Trong số các tên gọi tên được dùng phổ biến và tồn tại cọp quấy phá, lập miếu thờ, tôn cọp lên hàng Hương
trên văn bản, các vùng nhiều nhất là Hổ. Người phương Cả là chức cao nhất trong Ban Hội Tề của làng xã Nam
Đông gọi Hổ bằng nhiều tên hơn người Phương Tây. Bộ trước đó, người dân ở một số vùng thuộc ảng Trị


6

2


TRONG TÍN NGƯỠNG

cọp là Sơn ần, Sơn ân Chúa Sơn Lâm mà còn kỵ
húy, kiêng kỵ tên chính thức nên gọi tránh đi và bao
giờ cũng có chữ Ông, chữ Ngài đứng trước để tỏ ý tôn
trọng hay thành kính. Hoặc là hổ nhiều khi vồ cả người
cho nên người dân xưa, đặc biệt là dân vùng sơn cước
thường sợ, tôn sùng hổ, khi đi rừng không dám nhắc
đến hổ, hoặc nói trại tên đi.* [23] Ở vùng Sơn La, đồng
bào dân tộc ở đây họ rất sợ hổ và họ gọi là ông hổ, chứ
không dám gọi là con hổ.* [60]
Trong tiếng Việt, tuy có nhiều tên gọi nhưng tập trung
vào một số tên gọi chính với cách dùng trong những
trường hợp cụ thể là* [61]
• Hổ: Liên tưởng đến sự hùng hổ, mạnh mẽ, hung
ác, quyết thắng. Người ta cũng thường dùng từ hổ
dữ để mô tả về những con hổ chỉ về sự hung tợn,
dữ dằn hoặc tấn công làm hại người.
• Cọp: Liên tưởng đến động tác ngoạm, cắp rất dữ
dội, tham lam, ăn tươi, nuốt sống.
• Hùm: Liên tưởng đến tiếng gầm dữ dội, nhằm đe
dọa đối phương.

Hổ có rất nhiều tên gọi đặc biệt là trong tiếng Việt

(như làng ủy Ba) còn gọi hổ bằng tiếng địa phương là
coọc có nghĩa là cọp.* [56]* [57] Như vậy, người Việt gọi
là hổ, cọp, hùm, kễnh, khái (miền Trung), ầy, Hạm,
(miền Nam) và các tên ẩn dụ như chúa sơn lâm, Mãnh

chúa rừng xanh, chúa tể rừng xanh, ông cả cọp, ông ba
mươi, ông thầy * [58]…
Ở Miền Đông Nam Bộ, những danh xưng cao nhất được
dành cho hổ như Sơn quân chi thần, Sơn quân chúa xứ,
Sơn quân mãnh hổ, Sơn lâm chúa tể, Sơn lâm chúa xứ,
Sơn lâm đại tướng quân, Sơn quân chúa động, Chúa xứ
sơn lâm, Mãnh Hổ, ần Hổ, Ông, ông ầy, ông Cả,
Ngài, ông Ba Mươi, Hương quản. Ở các làng quê Nam
Bộ, thường có tập tục cử cọp giữ chức Hương cả của
làng, Có nơi như Bến Tre, dân làng gọi hổ với chức Đại
hương cả. Nguyên nhân do tương quan lực lượng giữa
con người và tự nhiên vào buổi đầu, nên dù có diệt cọp
nhưng những người dân đi khai phá vẫn phải tôn thờ
nó vì hổ tượng trưng cho sức mạnh của tự nhiên mà cư
dân buổi đầu phải đối đầu, điều đó giải thích một tập
tục thờ hổ phổ biến trong buổi đầu đi khai phá khi con
người phải thừa nhận những sức mạnh của tự nhiên,
mà cọp là một đại diện tiêu biểu.* [59]
Sở dĩ hổ thường gọi nhiều tên như thế vì con người rất
sợ loài thú hung dữ này khi họ phải lên rừng núi để
khai thác gỗ, đốn củi, đốt than, khai thác trầm kỳ, mây,
tre, cây thuốc, lấy mật ong… hay nhà ở gần núi, nên
thời xưa, không những con người lập miếu thờ cọp, gọi

• Ông Ba mươi: chỉ thọ 30 tuổi và hay rình dò kiếm
ăn vào đêm 30 Tết và kêu lên với sự tôn trọng,
hay Cọp đi ba mươi bước là quên hết mọi thù oán
hoặc Đêm ba mươicuối tháng âm lịch, trời tối đen
như mực, là thời gian thích hợp cho cọp dễ lộng
hành, tìm mồi. Truyền thuyết kể rằng, vua Gia

Long trong những ngày sống trong rừng, hết cả
lương thực may mắn có thịt thú rừng do hổ tiếp
tế. Biết ơn hổ, vua cho lập miếu thờ và ra lệnh ai
lỡ tay giết hổ bị phạt 30 trượng hoặc bắt sống thì
thưởng 30 quan tiền. Vì vậy mà con hổ còn được
gọi là ông ba mươi.
• Kễnh: Liên tưởng đến việc con cọp có thể chỉ cần
chạy bằng ba chân, khi một chân bị thọt, hoặc
vướng vì tha con mồi to hơn mình.
• an lớn tuần dinh, hoặc an 5 dinh: được thờ
cúng trong các đền, coi là bộ hạ của ần, ánh,
Mẫu…
• Ông Mãnh: Mạnh mẽ, tàn bạo, thù dai.
• Hạm: Trong miền Nam cũng có nghĩa là cọp
nhưng là những con cọp ác, hung dữ ăn thịt người
quấy phá cuộc sống của người dân, đối lập với cọp
bạch, tức là cọp tu, cọp hiền
• Hàm: cũng như Hùm, từ tượng thanh dùng làm
danh từ dựa vào tiếng gầm của hổ.
• Gấm, Mun: Tên gọi dựa vào màu sắc của hổ.
Về vị trí của hổ trong rừng, người ta còn gọi hổ bằng
Chúa sơn lâm, sau đó được nhấn mạnh thêm là Chúa
tể sơn lâm hoặc Chủ tể Sơn lâm* [62] hay Chúa tể rừng
xanh, Mãnh chúa rừng xanh, Chúa tể núi rừng, Sơn


2.2

Sùng kính và tôn thờ


ân, Sơn ần, Vua hổ, Vua cọp…, có thể nói, trong
họ hàng nhà mèo thì có lẽ hổ là con thú được nhắc đến
nhiều nhất với danh hiệu Chúa sơn lâm.* [63] Ở Ấn Độ
và người Phương Tây hay dùng thuật ngữ Hổ Hoàng
gia hay Chúa sơn lâm (Tigre Royale/Royal Tiger) để chỉ
về hổ Bengal. Hổ Mãn Châu còn được mệnh danh là
Chúa tể của rừng Taiga.* [64]* [65] Người ta cũng dùng
những thuật ngữ gọi về hổ như con hổ, con cọp nhưng
đây chỉ là những từ ngữ mang tính mô tả chứ không có
ý miệt thị như những thuật ngữ kiểu như (đồ) con chó,
(đồ) con lợn, (như) con bò, (như) trâu, (như) con dê già…
. Và cũng chính sự dữ tợn nguy hiểm của hổ mà nhiều
người gọi hổ bằng danh xưng Ông

2.2

Sùng kính và tôn thờ

Người Trung Hoa cho rằng những vệt vằn trên trán hổ có hình
chữ Vương (王), có nghĩa khi sinh ra hổ là vua của muôn
thú* [66]

Người Trung Hoa quan niệm rằng những vết sọc trên
trán của hổ liên tưởng đến chữ 王 (chữ Vương), theo
tiếng Trung ốc có nghĩa là vua do đó người dân nước
này tin rằng con hổ sinh ra vốn dĩ đã là vua, chữ vương
trên trán hổ được hội họa Trung Hoa cũng như Hàn
ốc khai thác rất nhiều. Bên cạnh đó, trong văn hóa
Trung Hoa, hổ là loài vật có thực được tôn lên ngang
hàng với rồng (long) một con vật trong tưởng tượng

biểu tượng cho sức mạnh của trời đất, người Trung Hoa
có câu mô tả sự sóng đôi giữa hai loài này. Ở Trung
ốc rồng là biểu tượng cho vua chúa, vương quyền,
phượng hoàng biểu tượng cho hoàng hậu thì hổ biểu
tượng cho các vị tướng và đại diện cho quân đội* [42]
Người Trung ốc coi hổ là biểu tượng của sự can đảm,
người Trung ốc cổ xưa tôn sùng đấu sĩ dữ tợn, không

7
biết sợ hãi này và coi đây là biểu tượng chống lại ba đại
họa của một gia đình như hỏa hoạn, trộm cắp và ma
tà. Người Trung Hoa cũng suy tôn con vật linh Hổ gọi
là: ần ái Tuế cứu nhân độ thế: Hổ cứ Sơn Lâm phù
xã tắc, vật linh Hổ từ đó được lan truyền vào các ngôi
đình, đền, chùa, miếu, thể hiện thế lực, sức mạnh, áp
đảo.
Hổ thường dùng để chỉ những nhân vật xuất chúng,
những người mạnh mẽ, còn trẻ tuổi thường được gọi là
những chú hổ nhỏ (hổ nhi) để thể hiện sự kỳ vọng của
mọi người. Hổ là một mãnh thú dữ tợn và thường được
coi là nguy hiểm với con người, tuy nhiên, theo văn hóa
truyền thống Trung ốc, hổ cũng là biểu tượng của
sự may mắn. Hổ, cùng với những con vật mang lại may
mắn khác như Long (rồng) và Kỳ Lân có yếu tố bảo
vệ cho người Trung ốc. Trong khi hầu hết những
con vật may mắn trong văn hóa Trung ốc đều là giả
tưởng thì con hổ là con vật có thật trong cuộc sống.
eo truyền thống, người ta tin rằng trẻ em đội mũ, đi
giày có hình đầu hổ vào năm mới sẽ được bảo vệ khỏi
ma tà.* [67] Long Hổ Tông ở Trung ốc là một đạo

giáo lấy hổ cùng với rồng làm biểu tượng.
Trong lịch sử và văn hóa Hàn ốc, hổ vừa được dân
gian xứ Hàn tôn làm thần giám hộ, hổ vừa là biểu tượng
của uy dũng và quyền lực, giúp con người tránh được
vận hạn và đem đến cho họ nhiều phúc lộc, dân tộc
Hàn ốc đã có lịch sử lâu dài gắn bó với hình ảnh con
hổ* [68] tại đây con hổ là giống vật thiêng biểu tượng
cho điềm lành và là loài vật gần gũi theo như câu ngạn
ngữ Hổ thắp lửa mở lối trên chặng đường leo núi. eo
quan niệm dân gian Hàn ốc thì khi trời mua to đó
chính là lúc hổ đang đánh nhau quyết liệt với rồng* [69]
Hình hổ còn được in lên bùa. Tấm bùa thường mang
hình hổ vì đây là con vật biểu trưng của tinh thần dũng
mãnh tạo cho người ta niềm tin tâm linh về sự an lành,
được bảo vệ khỏi mọi điềm gở trong đời sống. Người
Hàn ốc xưa quan niệm rằng trong ngày vui hôn lễ,
để tránh cho cô dâu khỏi gặp họa vì lòng người đố kỵ
khó lường, nên phủ lên kiệu hoa một tấm da hổ hay
tấm chăn có họa tiết hình hổ. Nếu cô dâu ngồi kiệu
phủ trướng da hổ thì chú rể luôn phải giữ móng hổ bên
mình. Ngày xưa, người ta thường treo chuỗi xương hổ
trước cửa hay cổng nhà để xua đuổi khí xấu.
Cũng ở Hàn ốc, Khu lăng mộ của vua cũng là nơi
người ta nhận ra sự hiện hữu của hổ, linh vật hộ vệ,
che chở cho con người khỏi mọi tai ương. Tượng hổ tạc
bằng đá Nằm ngay phía trước mộ xuất phát từ quan
niệm xưa cho rằng hổ có thể bảo vệ lăng mộ, chốn yên
nghỉ cho linh hồn vua chúa, điều này cũng có nét tương
đồng với văn hóa Việt Nam. Tính chất linh thiêng của
hổ còn được thể hiện trong lễ cầu mưa. Sử liệu thời

Joseon ghi lại rằng vào thời Taejong (Triều Tiên ái
Tông), Sejong (Triều Tiên ế Tông), Munjong (Triều
Tiên Văn Tông) và Danjong (Triều Tiên Đoan Tông),
đầu hổ đã được dùng để cúng thần khi hành lễ cầu mưa
Seokcheokgiuje (Tích dịch kỳ vũ tế ) Hoạt động khởi sự
việc nhúng đầu hổ xuống nước, nơi rồng náu ẩn trước


8
bến cây liễu, cây phác.* [70]* [70] Trong nghi lễ cầu mưa
của hoàng gia, đầu hổ được ném xuống sông, nơi được
coi là chốn ngự trị của rồng bởi quan niệm chỉ có hổ
mới trị được Long thần, kẻ cai quản nguồn nước.
Ở Việt Nam, theo quan niệm thông tục, người ta cho
rằng, hổ là chúa tể của muôn loài muông thú, thậm
chí uy lực của hổ còn trấn ngự được cả những linh
hồn người đã chết do nó ăn thịt. Trong văn hóa, hổ
xếp hàng thứ ba trong mười hai chi, năm Dần mang
cầm tinh cọp, là một hình tượng đa nghĩa vừa phức tạp
trong tâm linh người Việt, vừa là ác thú, vừa là thần
hộ mệnh. Có hình hổ trấn giữ ở ngưỡng cửa là tà ma
không dám xâm nhập. Hổ là ác thú được người kinh
sợ đến độ lập đền thờ, hy sinh nhân mạng để tế lễ mỗi
cuối năm, như tục thờ ần Hổ, làng Ngọc Cục, huyện
Đường An, tỉnh Hải Dương mà Phạm đình Hổ (17681839) đã kể lại kỹ càng trong Vũ Trung tùy bút, đến
năm 1800, tục mới chấm dứt. Mặt khác, hổ lại là phúc
thần được vẽ tranh thờ để trừ tà yểm quái. Tranh Hổ
còn được bày nơi nhiều đền chùa, nhất là các đền thờ
ánh Mẫu, như tranh Bạch Hổ ần tượng đặt ở đền
an ánh, Hà Nội. Ngày nay, tại miền Bắc Việt Nam,

từ đồng bằng lên Mạn Ngược, nhiều nhà còn sùng tín
vào Tranh Hổ.

2

TRONG TÍN NGƯỠNG

vật này gắn với sự phát triển của Đạo Giáo vốn xuất
hiện ở Việt Nam chậm nhất là vào khoảng đầu công
nguyên.* [71] Từ rất lâu trong tín ngưỡng dân gian Việt,
hổ được coi là con vật linh thiêng, bởi thế mà danh xưng
của nó cũng được thần thánh hóa bằng những cái tên
như ngài, ông * [72]… Rất nhiều gia đình có tục thờ ông
ba mươi như một cách để cầu công danh, mang lại sự
may mắn. Tranh Ngũ hổ của dòng tranh dân gian Hàng
Trống đất ăng Long trở thành dòng tranh thờ nổi
tiếng.* [73] eo Phạm Đình Hổ thì qua tục giết người
tế ần Hổ nhắc đến thần Xương Cuồng có ghi vào sử
sách như Mộc Tinh trong Lĩnh Nam Chích ái. Tục
tế ần Hổ này có từ xa xưa trước Tây Lịch, khi quân
nhà Tần của Nhâm Ngao và Triệu Đà mới lấn chiếm và
đô hộ đất Văn Lang.
Trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam con Hổ được gắn
với tục thờ Mẫu. Dù ở miền Bắc, miền Trung hay miền
Nam đều có tục lệ thờ ần Hổ như một biểu tượng của
con vật dũng mãnh, uy linh tượng trưng cho sức mạnh
có khả năng trấn giữ cửa ải ngũ phương. Trên phương
diện này hổ đã hoá thành vật linh thiêng với những cái
tên trong huyền thoại dân gian thường gọi: ần Hổ,
Sơn quan thần Hổ, Lý nhĩ tướng quân, thần hộ vệ ành

Hoàng, chúa Sơn Lâm, ông Ba Mươi trong khi đó ở miền
Nam Việt Nam còn có tên ông Cả Cọp, ần Bạch Hổ…
Bùa ông Hổ còn được dán và ếm ngay trước cửa cái ra
vào nhà để trừ tà. Xuất phát từ tục thờ hổ, thần thánh
hóa loài vật này, các nghệ nhân dân gian cũng xây dựng
biểu tượng hổ qua nhiều chất liệu như: gỗ, đá, vôi giấy,
đất nung, tranh vẽ, tranh cắt giấy…Nhưng mẫu tranh
được biết đến nhiều nhất là tranh Ngũ hổ của phố Hàng
Trống (Hà Nội) xưa.* [73]

ần Hổ vừa là huyền thoại vừa là hiện thân của vẻ
đẹp dũng mãnh, hiểm ác vì thế hổ linh được chạm trổ
trên các lăng mộ, nhang án, nó được in trên hoa văn
gạch ở các móng chùa, đền, miếu cổ xưa với một mô
típ đẹp uyển chuyển, nhẹ nhàng và có tính thiêng liêng.
Hổ đã hoá thân thành vật linh như: Long Hổ hội tượng
trưng cho sự quần tụ của giới trí thức nho học (Bảng
rồng: Tiến sĩ, bảng hổ: Cử nhân). Trong tín ngưỡng dân
gian tục thờ Mẫu người ta thường vẽ tranh ngũ hổ để
tượng trưng cho ngũ phương. Ngoài việc mô tả chạm
trổ đá, gỗ và in hoa văn ần Hổ trên gạch, không ít ở
các cổng đền, miếu, bệ thờ, án gian trong gia đình đều
chạm khắc, hoặc đắp Hổ phù nhô ra, miệng há to dữ
tợn xung quanh răng nanh đâm ra như một cái hang.
Trong một số hoàn cảnh đặc biệt ần Hổ trắng còn là
biểu tượng của thần chữa bệnh và thần tài của một số
gia đình hiện nay đang buôn bán phát lộc, thường tôn
thờ ông Hổ. Hàng ngày đèn nhang, lễ vật bằng trứng
Hổ là con vật linh thiêng và là kẻ gác đền trong những khu rừng sống đều đặn, coi đó như linh vật trong tâm thức, tín
ngưỡng dân gian. Việc thờ ần Hổ gắn với việc thờ

già ở Ấn Độ
Mẫu trong dân gian là một lệ tục tín ngưỡng văn hoá
tâm linh đã trải qua nhiều mốc thời gian cho đến ngày
Việc tồn tại dai dẳng tục thờ thần Bạch Hổ trong người nay vẫn đang tồn tại bóng dáng ở những ban thờ Mẫu, ở
Việt cũng như nhiều dân tộc sống ở miền núi phía Bắc chùa, đền và miếu.* [74] ở những nơi này, Ngôi đền nào
Việt Nam một mặt phản ánh tín ngưỡng nguyên thủy cũng có đắp tượng hổ ở cửa vào, coi như ần tướng
từ rất xa xưa, đồng thời phản ánh tàn dư tôn sùng loài


2.2

Sùng kính và tôn thờ

gác đền và thần tướng này cũng được khách đi lễ thắp
hương, khấn vái, chẳng hạn như người dân lập miếu
thờ hổ ở vùng Mỹ Phước, Long Xuyên, An Giang, Việt
Nam.* [23]
Vào những ngày rằm, mùng một hoặc lễ chạp, ngoài
hương hoa, những người lớn tuổi còn cúng một miếng
thịt heo sống trên bàn thờ ông hổ. Trong tục thờ, có
gia đình thờ tranh ngũ hổ, có gia đình chỉ thờ một ông.
Những người thờ phụng ông hổ đều tin rằng có một sức
mạnh siêu nhiên phù hộ cho gia trạch bình an, loại trừ
tai nạn. Các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian cho rằng:
tục thờ này bắt nguồn từ một cuộc sống nguyên thủy,
khi con người còn sống trong điều kiện săn bắt, hái
lượm hoặc giai đoạn đầu của cuộc sống nông nghiệp,
thì hổ chính là sức mạnh thiên nhiên gần gũi và là tai
họa đối với con người, do đó phải thờ hổ.* [73] đặc biệt
là do khiếp sợ oai linh thần hổ, người dân miền sơn

cước luôn thờ cúng chúa sơn lâm.* [75]* [76]* [77] Một ví
dụ cụ thể là người dân Tiên Cảnh có phong tục cúng
thần rừng, vị thần họ tin rằng nắm giữ bổn mạng của cả
vùng đất này, đại diện cho thần rừng, không phải loài
nào khác mà chính là hổ dữ - vị chúa sơn lâm đầy quyền
uy, do nỗi sợ hãi đã khiến người dân Tiên Cảnh tôn
sùng loài ác thú này như thần thánh.* [78] hay người
dân Mường Mõ bao đời nay thờ hổ, tôn kính hổ như
thần linh, ở đây núi cao vực sâu thêm huyền bí vì những
truyền kỳ về hổ.* [75]
Con hổ luôn đe doạ đến đời sống con người nên một
số địa phương đã có tục thờ thần hổ. Tục này xuất xứ
từ làng ổ Tang, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc.
Đến thế kỷ 16, 17, khi lưu dân đến khai phá đất Nam Bộ,
một vùng hoang dã mà có thời dưới sông sấu lội, trên
rừng cọp đua, thì việc thờ hổ được xem như một nhu
cầu thiết thực đối với đời sống tâm linh, nên thời bấy
giờ ở Nam Bộ có rất nhiều miếu thờ hổ. Có nơi thì đúc
thành tượng hổ uy nghi, có nơi thì thờ tranh ngũ hổ,
quanh năm khói hương nghi ngút. Đối với người miền
Tây thì những câu chuyện về hùm beo, rắn khổng lồ
vẫn luôn là đề tài hấp dẫn, loài cọp dữ, loài vật hấp dẫn
chỉ đứng sau rắn hổ mây khổng lồ trong những câu
chuyện đường rừng, nhằm khắc họa lại một phần cuộc
sống sông nước miền Tây thời xưa. Ở vùng sông nước
miền Tây, lại có đình, đền, miếu thờ ông cọp hay ông cả
cọp và thay vì thờ thần thánh, người ta lại khói hương
nghi ngút, khấn vái thành kính loài vật được cho là thú
dữ, sợ hãi và tôn kính cọp, nên người dân lập đình, miếu
thờ cọp hằng năm làm heo cống nạp, cầu được bình an,

không bị loài hổ trả thù,* [79]* [80] một số dòng họ còn
đổi cả họ vì kinh sợ hổ bắt người để trả thù mà lập miếu
thờ phụng cầu an.* [81] Người miền Tây còn quan niệm
rằng rừng thiêng nước độc luôn có chủ nhân của rừng
núi và hổ là Chúa sơn lâm, thợ săn nên tránh nó nếu
không cần thiết.* [82]
Không chỉ người Việt, một số đồng bào dân tộc thiểu
số ở Việt Nam cũng có tục thờ hổ, trong đó có người
Khơ mú sống ở khu vực Tây Bắc và miền tây Nghệ An.
Một tập quán ăn sâu vào tình cảm và tiềm thức của

9
người Khơ Mú thuộc họ Rvai (hổ), đó là nghi lễ cúng ma
nhà (Hrôigang). Vào dịp Tết Nguyên đán, người Khơ
mú thuộc họ hổ đã diễn lại các động tác của hổ, vật tổ
của dòng họ với ý thức tự nhắc nhở và giáo dục những
người trong cộng đồng rằng mình là người họ hổ và có
nguồn gốc từ hổ.* [83] Với quan niệm hổ là tổ tiên của
mình, người Khơ mú thuộc họ Rvai kiêng không động
tay vào hổ, không săn bắt, giết, ăn thịt hổ. Trong các
hội hè, các nghi lễ người hóa trang giống như hổ. Khi
gặp hổ chết, người Khơ mú thuộc họ Rvai phải khóc
than thật sự như tổ tiên của mình qua đời. Người ta
tin rằng khi chết đi, họ sẽ hóa thành kiếp hổ. Khi còn
sống, người ta kiêng đắp chăn sặc sỡ như lông hổ, khi
chết, người ta đắp cho chiếc chăn khác màu lông hổ và
đặt chiếc chăn giống màu lông hổ bên cạnh người chết
để hồn được siêu thoát và trở về với hổ, có nghĩa là về
với tổ tiên.* [73] Với người ái, khi được nghe tiếng hổ
gầm vang trên đồi cao là niềm hân hoan, sảng khoái

nhất của bản mường.* [84]
Người Tà Ôi cũng có tục thờ ần hổ (Giàng avó).
Trong hệ thống thú rừng của người Tà Ôi, con hổ được
coi là con vật có sức mạnh nhất. Hổ được người Tà Ôi
coi như vị thần bảo hộ cho làng, việc bắt được hổ theo
quan niệm của người Tà Ôi được ví như món quà tặng
của thần rừng. Việc thờ đầu hổ xuất phát từ niềm tin
rằng hổ sẽ báo mộng cho người ta biết làng sắp gặp
chuyện chiến tranh, mất mùa, có dịch bệnh. Các điềm
báo xấu đó thông qua giấc mộng đến với người trong
làng. Hàng năm người ta vẫn đến tiến hành thăm nhà
mồ có đầu hổ. Trong các thôn của xã Nhâm chỉ có làng
Nhâm I còn có tục thờ thần hổ, làng Ka Linh, Tà Kêu
trước đây ở Lào cũng có tục này. Hàng năm khi người
Tà Ôi tiến hành tổ chức ăn năm mới, hay cúng khánh
thành nhà rông, thần hổ đều được chia phần, khi tuốt
lúa mới phải thổi cơm dành phần cho thần hổ ăn.
Người dân địa phương ở Trà Bồng cũng có lập am thờ
con hổ, họ thờ Bạch Hổ sơn quân hay còn gọi là ông
hổ đi tu, Bạch Hổ sơn quân là tùy tướng thân cận nhất
của iên Y A Na, tương truyền khi có giặc đánh tới,
hổ cùng nữ chúa xung trận, tùy tướng Bạch Hổ sơn
quân xuất hiện đến kết liễu rồi mang đầu giặc treo ở
một cây đa trong vùng. Khi hết giặc, Bạch Hổ sơn quân
vào núi đi tu. Nhớ ơn Bạch Hổ sơn quân, người dân ở
Trà Bồng còn lập miếu thờ riêng. Người ta cho biết, vào
dịp lễ cúng iên Y A Na, cứ đến khoảng 2 đến 3 giờ
sáng, cũng là lúc Bạch Hổ sơn quân xuất hiện, có niềm
tin hoang đường rằng cứ mỗi lần khấn xin hiện hình
là đêm đó Bạch Hổ sẽ xuất hiện. Những ai muốn Bạch

Hổ sơn quân hiện hình thì rải cát ở căn nhà phía sau
điện thờ. Sáng hôm sau, vào căn nhà này sẽ thấy dấu
chân Bạch Hổ to lớn hiện lên theo hướng đi vào đại
điện thờ.* [85]
Con hổ còn là con vật tổ của những dân tộc khác nhau,
Hổ là con vật tổ theo tín ngưỡng Bái vật tổ (Tôtem)
của dân tộc miền tây Trung ốc thời xa xưa, vùng đất
Sở Hùng, Xuyên, Điền ở Vân Nam Trung ốc từ xưa
đã thịnh hành tín ngưỡng Tôtem thờ vật tổ là con hổ,


10

2

là nơi tập trung tín ngưỡng thờ hổ của Trung ốc.
Dân tộc ở những vùng này phần lớn là hậu duệ của
người Nhung Địch cổ (người Phương cổ) như: Di tộc,
Bạch tộc, ổ gia tộc, Na-xi tộc, La Hủ tộc, Li-su tộc,
hiện họ vẫn còn giữ lại tín ngưỡng và tập tục thờ hổ.
Vào thời hoang sơ cổ, người Phương cổ thờ hổ ở vùng
anh Hải, Cam Túc, iểm Tây sống bằng chăn nuôi
du mục khi vào đến Trung Nguyên, bộ tộc hổ của vùng
Hoa Bắc đã chung sống với các bộ tộc thờ rồng. Hổ
nguyên là tín ngưỡng của dân tộc miền tây, theo từng
bước chân di cư, hòa hợp dân tộc, dần dần lan truyền
đến phương đông. Lộ Sử - ốc danh kỷ có ghi chép:
Vào thời ương Chu, Hổ tộc là một tộc lớn, họ phân
bố ở khắp vùng Giang Hoài, Hồ Nam, Tứ Xuyên. Nước
Hổ Phương lúc đó là nước Từ phương, nay là vùng giao

hội giữa Giang, Hoài, Tô, Hoản ở phía nam Từ Châu,
đó là người Từ - vùng đất chủ yếu của Hổ tộc thời xưa.
Những chạm trổ chủ yếu trên đồ đồng thời kỳ ương
chu là đầu hổ và mặt thú.
Ở góc độ cá nhân, tại nước Mỹ có một người tên là
Dennis Avner có sở thích kỳ lạ là sống trong hình hài
loài hổ và đã qua nhiều lần phẫu thuật, chỉnh sửa cơ
thể nhất thế giới để cho giống một con hổ, ông luôn bị
ám ảnh bởi khuôn mặt của những con mèo cái hung
ác hoặc những con hổ, sau đó, ông đã mất một thời
gian dài theo đuổi nỗ lực biến mình thành người hổ
(hóa hổ), cơ thể trở nên giống với hổ, từ răng nanh,
mái tóc dài, ria mép, tai, đuôi giả. Ông còn thích hàng
ngày ăn thịt sống và leo trèo cây rất cừ đồng thời ông
thỉnh thoảng xuất hiện trên truyền hình với biệt danh
Con hổ đi săn* [86]* [87]* [88]* [89]* [90]* [24]* [91] nữ diễn
viên người Mỹ Angelina Jolie có hình xăm con hổ rất
độc đáo trên eo lưng mình, tác phẩm ấn tượng này được
thực hiện tại ái Lan năm 2004, góp phần làm nên
thành công của cô trong bộ phim Truy sát (Wanted).
Một công ty ở Trung ốc đã chế ra ấm trà hổ với trên
vỏ ấm được chạm vẽ hình 99 con hổ rất tỉ mỉ với nhiều
tư thế khác nhau, tạo nên một bức tranh hổ vô cùng
sống động, hấp dẫn. Bảo vật này không lớn hơn ấm trà
thường nhưng được làm ra từ đất sét trộn lẫn với những
hạt vừng nghiền nát để tạo nên vẻ đẹp đặc biệt.* [24]

2.3

Huyền kỳ


TRONG TÍN NGƯỠNG

Những câu chuyện kể về hổ, loài thú gieo rắc nổi khiếp sợ cho
làng bản ở miền sơn cước, khi hồ về làng, bản thì các gia súc,
vật nuôi, đặc biệt là chó rất kinh sợ khi đánh hơi thấy mùi nồng
nặc của hổ

hoang vắng thì luôn có cảm giác sợ hãi, từ lâu hình ảnh
loài hổ hung dữ, quật ngã, xé xác con người đã hằn sâu
vào tâm trí nhiều người cho nên người ta một khi trông
thấy hổ giữa rừng già, nếu không phải là người có kinh
nghiệm đi rừng chắc chắn người ta sẽ hốt hoảng.
Vị chúa tể chí tôn của rừng xanh có uy quyền với những
cú vồ chết chóc và tiếng gầm vang động, với dáng uyển
chuyển và oai dũng, chậm rãi, đôi mắt hổ xanh biếc dữ
dằn long lên sòng sọc với ánh mắt xanh lè quắc lên
như nhiếp hồn, khi hổ xuất hiện thì một trận gió thổi
qua mang theo mùi hôi thối lợm giọng, đi theo nó là
mùi tanh tao chết chóc tạo ra không khí nặng nề, ngột
ngạt, hổ xuất hiện giống như một cái bóng chớp nhoáng
mờ ảo, trong làng gà không gáy, chó không sủa, trên
rừng, dế, nhím, chồn, cáo đang kêu tự nhiên im như
thóc.* [78]* [93] Nhiều người thợ săn rất ngán sợ khi gặp
hổ và truyền nhau kinh nghiệm đi rừng rằng nếu vào
một khu rừng mà không nghe tiếng chim hót, không
thấy bóng một con thú nào, thì khu rừng đó có hổ vừa
đi qua, hổ có mùi đặc trưng là rất thối và tiếng gầm
kinh hoàng của hổ, làm cho chim chóc cũng không dám
hót.* [93] hoặc khi nghe tiếng chó săn sủa loạn xạ, kèm

theo đó là tiếng chim kêu rít lên từng hồi thì đó là dấu
hiệu có hổ dữ xuất hiện.* [94] ợ săn ai cũng tin rằng
rừng thiêng có chủ nhân của nó và tốt nhất là nên tránh
mặt hổ mỗi khi lỡ gặp. Một số người Việt Nam tin rằng
hổ có linh khí, một số người nuôi hổ cho biết linh khí
của hổ có nhiều, nên trong bán kính gần 1 km, không
có con vật nào dám bén mảnh đến, kể cả giống chó săn
cũng không có con nào dám đến gần* [95] những con
chó săn khi đánh hơi thấy hổ là đã không dám đánh hơi
tiếp nữa mà cứ quanh quẩn bên con người* [96] Ở Miền
Tây sông nước, khi đang đi rừng mà thấy đàn chó săn
cụp đuôi, sợ sệt co cụm lại là dấu hiệu nhận biết con hổ
đang ở gần và họ chọn giải pháp là lùa bọn chó xuống
xuồng, rút êm để khỏi phải đối đầu.* [97]

Câu chuyện về loài thú đầy bí ẩn trong rừng xanh sâu
thẳm và sự tinh quái, bí hiểm đã khiến hổ trở thành
trung tâm của nhiều câu chuyện kể, kéo theo đó là
những đồn thổi, truyền miệng về những khả năng, tập
tính kỳ lạ của loài vật này đến mức trở thành những
câu chuyện khá hoang đường và dị đoan. eo quan
niệm của những người dân sơn tràng thì trong rừng
con hổ là loài vật hùng mạnh và rừng thiêng nhờ có
hổ dữ. Hổ còn rất tinh ranh và rất thính hơi. Nó có thể
phân biệt được mùi của voi, gấu, nai và cả hơi người
và dường như là loài vật có linh tính.* [92] Sự ám ảnh Người dân kể rằng hổ nhiều lần xâm nhập vào các bản,
về loài hổ còn hằn sâu trong tâm khảm con người theo làng, khu dân cư để bắt trâu, bò, nghé, bê, heo, dê, gà
một cách vô thức, khi người ta đi vào một khu rừng, rú và chó. Các loại gia súc, vật nuôi và cả người rất sợ hổ,



2.3

Huyền kỳ

khi nghe tiếng hổ gầm rung cả mặt đất, rung cả lán
trại làm người ta rợn hết người, đàn bò thì sợ hãi đứng
tụm vào nhau, đàn chó thì chạy chui hết vào gầm, dưới
sàn nhà, các xó xỉnh mà không dám ló mặt ra, chúng
im hơi và chẳng con nào dám sủa.* [98] Hay khi hổ vào
làng bản, nhà dân thì đàn chó nhà khép nép vì sợ hãi
núp ở trong góc sân và hổ quá dễ dàng vồ bắt lấy một
con chó rồi cắp lấy đem xác lên rừng, một số con hổ
ở làng bản nhiều lần mò vào bắt chó ăn thịt nên bén
mùi.* [78]* [99] Đồng bào còn kể lại rằng khi hổ về bản
thì có nghĩa là sẽ mất lợn, mất trâu, mất cả đàn dê vì
những con dê rất dốt, thấy hổ chúng không biết chạy
mà chỉ đứng kêu khóc be be* [100] còn đàn trâu bò thì
nhớn nhác, có con vì sợ quá mà lăn cả xuống vực thẳm,
có con thì chạy trốn mất tích,* [101] hổ thậm chí có thể
chỉ một nhát vồ chết con nghé rồi cắp theo con mồi
nhảy phốc qua hàng rào cao 3m.* [92]

Sự ám ảnh của hổ trong tâm trí nhiều người một cách vô thức
dẫn đến tâm lý nhiều người khi đi vào một khu rừng vắng luôn
có cảm giác ghê sợ

Một số người dân tộc còn quan niệm rằng hổ là có thiên
tư linh mẫn, tai nghe thấy hết mọi sự người ta nói, óc
cảm thấy hết những gì người ta nghĩ, nên hễ ai dám
báng bổ, khinh nhờn hay hỗn xược, thì nó trừng trị

cho khốc hại thì thôi, nhẹ thì hổ bắt đi con bò, con lợn
để cảnh cáo, nặng hơn thì nó sẽ cắn cổ và hổ vốn thù
dai.* [102] hổ là con vật không chỉ mạnh khỏe, hung dữ,
tham lam và kiên nhẫn trong việc rình mồi mà nó còn
là một ông chúa thù dai và quyết trả thù bằng được* [22]
nó sẽ nhớ và tấn công người nào đã đánh nó,* [82] nhất
là thần hổ báo thù thì vô cùng khốc liệt,* [103] nhiều con
hổ được cho là hóa thân của những vong hồn hổ đã bị
giết trước đó trở về báo thù dân làng.* [92] Nhiều thợ
săn tin rằng hổ là loài vật có tánh linh hay có linh tính
có thể nhận biết hơi người, tránh các loại bẫy* [89]* [104]
Kenneth Anderson thì cho rằng hổ dường như có một
giác quan thứ sáu thật sự sắc sảo và nó có thể phân
biệt giữa một con người không có vũ khí và một người

11
đàn ông có vũ trang đang theo đuổi nó* [105] Một quan
niệm khác thì cho rằng hổ có một thói quen lạ, nếu vồ
người, cắn cổ hoặc tát chết, nó tha vào rừng ăn thịt.
Nhưng nếu cú vồ của nó chạm vào tai của con mồi thì
nó sẽ bỏ đấy mà không ăn thịt.* [106] Một kinh nghiệm
khác thì hổ thường không dám chạm vào những cành
lá nằm úp sấp (tức mặt dưới của lá nằm ngửa lên trời)
do đó những người săn hổ hay bố trí các đám lá úp trái
để ngăn hổ không đến gần những nơi bẫy chưa chắc
chắn.* [107] Hổ cũng có khả năng giả chết, nó có thể
nằm lỳ cả ngày giống như chết.* [108]
Bên cạnh đó, sự sùng bái đến mức mê tín hoang đường
còn thể hiện qua việc người ta thường làm chiếc nanh
hoặc vuốt hổ, hoặc răng hổ bịt vàng bạc hoặc chiếc

vuốt làm bằng sứ, kim loại cho trẻ con đeo để trừ tà
ma, hoặc người lớn cũng đeo cho đẹp và tỏ ra oai vệ,
người Campuchia khi giết hổ thường lấy nanh hổ đánh
bóng bán làm vật trừ tà,* [109] Người Hoa ở Bắc Giang
thường đeo vòng đeo tay bằng kim khí có đính móng
hổ, vuốt gấu để hộ mệnh, trừ đuổi vía độc hay làm
hại trẻ em.* [110] Tuy nhiên, thần uy từ chiếc nanh hổ
có thể hợp với người này nhưng lại không tốt đối với
người khác, may mắn với người này nhưng lại là tai họa
với người khác, rất khó biện chứng về tâm linh. Nhiều
người quan niệm rằng, hổ là chúa tể của rừng xanh nên
hội tụ đủ sức mạnh thiên nhiên, chúng ăn toàn thực vật
quý, uống nước rừng, sống trong rừng sâu nên hấp thụ
được linh khí của đất trời. Hổ càng già thì nanh càng
lớn và uy lực của nó càng mạnh. Người nào sở hữu được
chiếc nanh hổ tinh đã ăn thịt nhiều người thì sẽ không
sợ con vật hung dữ nào* [111] và các loài chó sói, gấu,
rắn hổ chúa khi nhìn thấy bóng vía là chúng sẽ quỳ
xuống đồng thời việc đeo móng hổ còn giúp chủ nhân
tránh bị tà đạo, ma quỷ làm hại, đạn bắn không trúng,
tạo phong cách ngầu của người đeo.* [112] Nhiều người
khác lại cho rằng móng hổ là vật bùa là vì con hổ trước
khi kết thúc sự sống của con mồi bằng bộ hàm thép thì
nó cần những chiếc vuốt chụp và bấu chắc vào con mồi
làm cho con mồi không còn cơ hội trốn thoát, những
người khởi nghiệp muốn sở hữu những chiếc vuốt để
nắm chắc hoặc tìm kiếm cơ hội chiến thắng trong cuộc
sống cũng như trong thương trường.* [111] Tại tỉnh Cà
Mau từng có thời kỳ đột nhiên nổi lên tin đồn những
người tuổi Sửu, tuổi Ngọ, trong năm 2010 nếu không

uống thuốc sẽ bị cọp vật, Tin đồn thất thiệt này khiến
người dân hoang mang, đổ xô đi mua “thuốc”phòng
ngừa, gây xáo trộn đời sống.* [113]
Xương hổ nếu được dùng để gối đầu thì ngủ yên không
chiêm bao thấy những sự ghê sợ, hoặc treo lên giữa cửa
nhà sẽ trừ được ma quỷ.* [114] Những người thợ trước
khi nấu cao hổ thì người ta thường có nghi lễ cúng bái,
có người còn mời thầy cúng về cúng vì nếu không sẽ bị
lừa lọc, vỡ nợ, tán gia bại sản hoặc rơi vào vòng lao lý,
đi tù vì ông hổ sẽ không cho sống đàng hoàng.* [115]
Người Sán Dìu thì đem bộ da Hổ đem phơi khô, nhồi
trấu vừa làm vật trang trí trong nhà, vừa làm bùa hộ
mệnh vì bộ da là dáng hình và linh hồn con Hổ còn


12

2

quanh quẩn, vừa để bảo vệ mọi người may mắn về sức
khoẻ và an toàn cho các thành viên trong gia đình, ít khi
gặp ốm đau và bệnh tật* [116] Có giả thuyết cho rằng,
râu cọp (hổ tu) cũng là một trong những thành phần
chủ yếu của trò chơi ngải của các thầy phù thủy ma
giáo đồng thời còn đó là quan niệm của một số người
cho rằng râu hổ cắm vào búp măng tre có thể chế thành
ma thuốc độc hại người để làm giàu,* [23] nhiều thợ săn
tin rằng, chỉ cần đem một sợi râu cọp nhét vào trong
thân một cây măng non đang mọc sau này nó sẽ biến
thành một loài sâu có sức độc vô cùng khủng khiếp và

người xưa tin rằng nếu để râu cọp rơi vào tay kẻ có ác
tâm sẽ gây ra nhiều hậu họa chính vì vậy những người
thợ săn sau mỗi lần hạ được hổ thì việc đầu tiên họ cần
làm là đốt đuốc thiêu rụi hoàn toàn bộ râu hổ đi hoặc
cắt râu đi trước khi xẻ thịt vì râu hổ có thể chế thành
thuốc độc hại người.* [82]

2.4

Ghê sợ và bài trừ

Sự tinh ranh của hổ luôn làm con người sợ hãi chính vì thế luôn
tồn tại hai ý niệm về loài hổ, sùng bái và khinh ghét

Bên cạnh những ý niệm ngưỡng mộ dành cho hổ thì
trong dân gian nhiều nước vẫn tồn tại luồng ý niệm sợ
hãi, nỗi khiếp sợ, sự khinh ghét và ý muốn chế phục loài
hổ, xuất phát từ nỗi khiếp sợ về sự phá hoại của con hổ
đối với con người như là loài vật ăn thịt có bản tính ác

TRONG TÍN NGƯỠNG

độc, hổ hay ăn thịt người, vồ người gây kinh hoàng và
gieo rắc tại vạ cho người dân* [117] hoặc hoành hoành
ăn thịt, giết hại gia súc, vật nuôi của con người, gieo rắc
nhiều tai ương cho con người* [118]* [119] do đó người
ta sẵn sàng triệt hạ loài hổ.* [120]* [121] Ngoài ra những
giá trị, lợi ích kinh tế từ hổ và các sản phẩm từ hổ như:
cao hổ cốt, bộ da hổ, pín hổ, móng, vuốt hổ đã khiến
nhiều người nhìn nhận hổ như là một đối tượng kinh

doanh, săn bắt, nuôi nhốt.* [122]
Nhiều người vẫn coi hổ là thú dữ, là kẻ thù của con
người với truyền thuyết hổ thành tinh, là những con
hổ to, thích ăn thịt người, tinh khôn biết cách tránh
được các loại bẫy của con người. Nhiều con hổ được
dân gian cho là đã thành tinh tức chỉ về những con hổ
tinh không thoát khỏi các loại bẫy, những đoàn thợ săn
phục kích hổ do loài này vốn rất tinh ranh, nó đi được
một đoạn lại dừng bước, ngoái nhìn ra phía sau, do vậy
để theo dõi mà không bị nó phát hiện không phải là
điều dễ dàng, hổ cái mũi rất thính và loài hổ rất thính
hơi, nó có thể phân biệt được mùi của voi, gấu, nai và cả
hơi người, chúng đi nhẹ như con chuột chạy và không
để con người biết được dấu vết đi lại trong rừng. Cũng
có quan niệm cho rằng những con hổ chúa đã thành
tinh còn là hóa thân của những vong hồn cọp đã bị giết
trước đó trở về báo thù dân làng* [92]* [123]* [124] Người
Việt Nam còn có quan điểm rằng hay tín ngưỡng rằng
những con mãnh thú quá hung hãn, mạnh khỏe khác
thường là đã thành tinh, đã có linh hồn, trong đó hổ là
loài vật nguy hiểm nhất, những con cọp ba chân cũng là
hình tượng thường xuất hiện trong các giai thoại mãnh
thú thành tinh lúc xa xưa* [125] đặc biệt là những con
hổ trắng khi đã ăn thịt người thì sẽ hung hãn và hung
tợn hơn bất cứ loài thú nào.* [126]
Trong một dị bản phụ lục Lĩnh Nam Chích ái, có
truyện Trành hay Ma trành là quỷ hiển linh về thần hổ
đời Lê Mạt có tính cách mê tín. Trành là linh hồn người
bị hổ ăn thịt biến thành tinh của hổ, thường dẫn đường
cho hổ đi bắt người, khi có dịp lại hiện ra thành hình

người. ần hổ có nơi gọi là ma khái, hoặc hùm tinh.
Ở Trung ốc có thành ngữ chữ Hán vị hổ tác trành
nghĩa là làm ma cho cọp ngoài ra trong niềm tin của
một số dân tộc Miền Núi, có chuyện hổ biết nghe tiếng
sáo Nhà văn Sơn Nam trích dẫn việc người dân Nam Bộ
không những không sợ, mà có khi còn tỏ ra thân thiện
qua tác phẩm Gia Định thành thông Chí của Trịnh Hoài
Đức theo đó thì thái độ người dân đối với hổ vừa vừa
kính nể, coi như vị thần nhưng cũng coi thường. Tuyệt
đẹp, hung hãn, mau lẹ, sự quyến rũ và nỗi khiếp sợ với
việc luôn sẵn sàng bất ngờ tiến công và xé nát con mồi,
đó là bản chất loài mèo hùng mạnh này thể hiện một
tổng thể các lực đẩy của bản năng vừa trá hơn vừa hung
dữ hơn chó hoang và đặc biệt hổ lại có sức quyến rũ vì
nó to lớn và hùng mạnh, dẫu rằng nó không có được
oai vệ của sư tử. Bởi nó là một bạo chúa nham hiểm,
không biết tha thứ.* [32] Mười tám thôn vườn trầu ở
Hóc Môn ngày xưa, còn gọi là ập bát phù viên cũng
được lưu truyền bởi câu chuyện đặc biệt là loài cọp tinh


13
vì vậy, trong dân gian thường truyền miệng câu“Hung
dữ như cọp vườn trầu”* [127] Một truyền thuyết dân
gian Hàn ốc về bầy hổ dữ kể về thời xưa ở đảo Jindo
thường xuyên bị hổ dữ quấy phá chúng vào làng, ăn
thịt những người dân địa phương, tất cả dân làng quyết
định bỏ chạy, di cư sang đảo Modo sinh sống.* [128]

Hổ trướng. Đào Duy Từ có tác phẩm quân sự trứ danh

mang tên Hổ Trướng Khu Cơ là một bộ binh pháp kinh
điển của nền quân sự Việt Nam.* [130] trong Truyện
Kiều có câu: Trướng hùm mở giữa trung quân, ngày xưa
người ta thường dùng da hổ làm thành cái màn lớn để
chủ soái họp bàn nghị sự việc quân với các tướng, nên
chữ Hổ trướng để chỉ chỗ làm việc
eo quan niệm khác thì khi Hổ xuất hiện trong giấc người sau quen dùng
*
[23]
của
các
tướng
soái.
mơ khiến người ta lo sợ khi thức dậy. Sự xuất hiện đó
khơi lại các nỗi khiếp sợ của con người khi con ác thú Bộ da lông hổ với những vệt vằn là biểu tượng sức mạnh
đến gần và thường là điểm chẳng lành.* [53] Trong tác của vị tướng, nó còn được nhiều thủ lĩnh, đại vương ở
phẩm Tam ốc diễn nghĩa Hồi thứ 60, La án Trung các dân tộc phủ lên ghế ngồi hoặc căn treo ở đại sảnh,
có kể về chuyện viên tướng Mã Siêu ở Tây Lương đêm làm tấm thảm. Trong dinh Độc lập, Nguyễn Văn iệu
nằm mơ thấy một đàn hổ xé xác mình giữa trời tuyết, cũng đã từng căng da hổ ở đại sảnh. Người có bộ đi
khi anh chàng này giật mình tỉnh giấc và kể lại câu hùng dũng bước đi như cọp gọi là Hổ bộ và dáng đi của
chuyện cho Bàng Đức, ông này đã khẳng định đó là vua chúa cũng được gọi là Long hành hổ bộ tức dáng đi
điểm chẳng lành, đúng lúc đó thì Mã Đại trở về cấp như rồng như cọp. Người được gọi là Hổ đầu là người
báo việc Mã Đằng, cha của Mã Siêu bị Tào áo giết có tướng mạo tốt, hùng dũng như cọp. Mặt người có
hại cùng với hai người anh em là Mã Hưu và Mã iết. mặt cọp (hổ diện), miệng cọp (hổ khẩu) và râu cọp (hổ
Người Mông ở Việt Nam có tục xếp 9 lớp đá đè lên ngôi tu) như hình tượng râu hùm hàm én mày ngài của Từ
mộ của người đã khuất, bởi họ sợ con ma sẽ hóa thành Hải trong Truyện Kiều là người có tướng mạo của một
hổ dữ, bắt hết người thân, trâu bò, lợn gà của bản. Bắt người anh hùng hoặc Trương Phi vểnh râu hổ. Mình hổ
đầu từ một điềm của một người thanh niên bị chết, một dùng để chỉ những người có cơ thể hoàn hảo, đầy sức
con hổ lớn xuất hiện ngay trước cửa, con hổ chỉ nhìn mạnh (mình hổ, tay vượng, bụng beo, lưng sói). Hổ bôn
mọi người gầm gừ chứ không tấn công. Sau con hổ là những người khỏe mạnh nhanh nhẹn và được gọi

đi mất. Tuy nhiên, buổi sáng ngủ dậy, mọi người thấy lên như Hổ bôn trung lang tướng. Hổ cứ tức cọp ngồi là
trong nhà gà lợn đã bị con hổ bắt sạch, không còn một chỉ đạo vào địa thế hiểm yếu. Hổ đầu tức đầu cọp cũng
mống, và sau này cứ hễ có ai nhắc đến cái tên anh thanh chỉ vào tướng mạng hùng dũng. Hổ lang chỉ về phường
niên quá cố thì con hổ lại xuất hiện, phá hết nương rẫy, hung ác, tướng tá tả hữu gồm người khoẻ mạnh thì gọi
bắt sạch lợn gà, trâu bò. Nó còn mò sang tận các gia là hổ lĩnh.
đình bên các xã khác mỗi khi được gọi tên, khiến ai
cũng hoảng sợ, cử một cụ trưởng bản ngồi nói chuyện
với con hổ, cầu xin nó đừng tàn phá làng bản.* [129]

3

Trong biểu tượng

Trong văn hóa Phương Đông, Bạch Hổ là một trong bốn
linh vật trong Tứ phương thần và biểu tượng cho phía
Tây và mùa u. Hổ gần gũi với đời sống con người
nên có nhiều danh từ, thành ngữ mang tên hổ, thông
dụng là ở Việt Nam và Trung ốc: Con hổ oai hùng và
đầy sức mạnh nên các võ tướng dũng mãnh, thiện chiến
của triều đình xưa thường được ví như cọp và tôn xưng
là Hổ Tướng (ông tướng mạnh như cọp). Trong chiến
trận, đoàn quân bị mất tướng, coi như quân vô tướng
như hổ vô đầu. Ấn tín của quan võ hay các vị tướng nơi
trận tiền gọi là Hổ phù khi được cử ra trận, vị tướng
cầm quân được nhà vua giao cho cái phù hịêu làm tin.
Phù hiệu này làm bằng gỗ, bằng ngà hay bằng kim loại,
khắc hình con cọp, cắt làm đôi, viên tướng được cầm
một nửa, nữa kia nhà vua giữ, người nào nắm trong tay
Hổ phù thì có thể điều động được binh lính.


Một huy hiệu có biểu tượng con hổ

Ngày nay, hình ảnh con hổ được sử dụng làm linh vật,
biểu tượng, biểu trưng, phù hiệu, huy hiệu, cờ hiệu,
nhãn hiệu của nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ, các
tổ chức, hãng kinh doanh, công ty, cộng đồng, dòng
Nơi ở và làm việc của quan võ, doanh trại của tướng họ, các võ phái, câu lạc bộ…. trong đó thường là biểu
quân chỉ huy quân sự cổ được gọi là Hổ doanh hay tượng của nhà nước và các lực lượng quân sự võ trang.
Hổ quân doanh, cánh cổng vào doanh trại được gọi là Nó cũng được tìm thấy trong nhiều huy hiệu thời hiện
Hổ môn, cửa ra vào dinh của các tướng soái hay khu đại.
vực làm việc có treo bức trướng thêu hình hổ gọi là Hổ Bengal là biểu tượng quốc gia (ốc thú) của cả hai


14

3 TRONG BIỂU TƯỢNG

quốc gia Ấn Độ và Bangladesh.* [131] Hổ Bengal cũng tiếng vì đã mổ bụng tự sát (seppuku) trên núi Iimori,
xuất hiện trên hầu hết các tờ giấy bạc của Bangladesh nhìn xuống thành.
(Bangladesh Taka) và đồng xu 25 cent (poisha).* [132]
Hình tượng Con hổ Tippu (Tipu's Tiger hay Tippoo's
Tiger) là một ví dụ về tầm quan trọng trong nhận thức
về con hổ đối với người dân Ấn Độ như là một biểu
tượng của sự phản kháng chế độ thực dân Anh dành
độc lập dân tộc, biểu tượng ước lệ này mô tả cảnh một
con hổ giết chết một tên lính Anh và đây là biểu tượng
rõ ràng về chiến thắng của người dân Ấn Độ đối với đế
chế thuộc địa của người Anh.* [133]
Tại vùng Nam Á, hổ Bengal được gọi một cách trang
trọng là hổ Hoàng gia Bengal (Royal Bengal Tiger).

Hổ Bengal là biểu tượng của đảng bảo thủ Liên đoàn
Hồi giáo Pakistan Nawaz. Con gái của nhà lãnh đạo
đảng này là Maryam Nawaz sử dụng hổ trắng quý
hiếm trong các sự kiện của mùa tranh cử.* [134]* [135]
Những thành viên của chính quyền miền Đông Bengal
(tiếng Bengali:
) của ân đội
Bangladesh cũng sử dụng Hổ Bengal làm phù hiệu cho
mình với hình ảnh khuôn mặt của một con hổ. Biểu
tượng của đội bóng chày Kolkata của Ấn Độ là một
con hổ hoàng gia Bengal, đồng thời Đội bóng chày
Bangladesh cũng sử dụng hình ảnh của hổ hoàng gia
Bengal.

Xe tăng Tiger II

Tại Mỹ, cư dân Columbia đã thành lập lực lượng vệ sỹ
gia đình, lực lượng đã trở nên với cái tên “Fighting
Tigers of Columbia”(tức Mãnh Hổ Columbia), sau
này Đại học Missouri-Columbia lập một đội bóng
bầu dục mới thành lập của trường nên được gọi là
“Tigers”nhằm tôn vinh những ai đã chiến đấu để bảo
vệ Columbia, ngoài ra còn có tiểu đoàn Những con
hổ Louisiana (Louisiana Tigers) do đại tá Roberdeau
Wheat chỉ huy từng tham chiến trong trận Chiến dịch
ung lũng 1862, thời hiện đại, quân đội Mỹ còn có Sư
Hổ Mãn Châu là biểu tượng quốc gia của Nam Hàn đoàn không quân Phi Hổ của Hoa Kỳ (Flying Tigers) và
và là linh vật trong Olimpic tổ chức tại Seul, Hàn Lực lượng Mãnh Hổ của lục quân Hoa Kỳ trong những
ốc (chú hổ Hodori – Hàn Việt: Hổ nhi). Hổ Mãn trận thảm sát trong thời kỳ Chiến tranh Việt Nam.
Châu được mô tả trên các lá cờ và huy hiệu của vùng Ở châu Á thì có Sư đoàn bộ binh Mãnh Hổ của Nam Hàn

lãnh thổ Primorsky, trên huy hiệu của vùng lãnh thổ từng tham chiến tại Việt Nam. Tiểu đoàn Minh Hổ của
Khabarovsk, cũng như trên nhiều huy hiệu biểu tượng ân đội nhân dân Việt Nam từng tham chiến trong
của thành phố và quận, huyện trong khu vực vùng Viễn trận Chiến dịch Đông Bắc II. ân lực Việt Nam Cộng
Đông nước Nga. Ngoài ra nó còn được mô tả trên các hòa cũng sử dụng hình ảnh con hổ để biểu trưng cho
huy hiệu của Irkutsk. Hổ Mã Lai là biểu tượng quốc một số đơn vị như: Tiểu đoàn biệt động Cọp đen của
gia của Malaysia.* [136] hổ Mã Lai được khắc họa trên Sư đoàn 23 Bộ binh ân lực Việt Nam Cộng hòa, Tiểu
quốc quy của Malaixia, biểu tượng của chính quyền, đoàn 42 Biệt động quân Cọp ba đầu rắn (KBC 4533),
pháp đình cũng như biểu tượng của lực lượng cảnh sát Tiểu đoàn Cọp Biển (tiểu đoàn 6) của ủy quân Lục
hoàng gia Malaixia, ngân hàng quốc gia và là logo của chiến Việt Nam Cộng Hòa từng tham chiến trong Trận
Liên đoàn bóng đá Mã Lai. Cùng với sư tử, Hổ Mã Lai ành cổ ảng Trị, căn cứ Lôi Hổ ở Tây Nguyên của
được thể hiện trên ốc huy của Sigapore như một biểu Việt Nam Cộng hòa. Sau này, Lực lượng Những con hổ
tượng của nước này.
giải phóng Tamil hay còn gọi là Hổ Tamil sử dụng tên
Một số đơn vị, bộ phận vũ trang của quân đội một số
nước cũng sử dụng tên gọi của hổ làm biểu tượng cho
mình như: Trong lịch sử thời cổ của Trung ốc, Cơ
Phát đã chỉ huy 3000 quân Hổ bí (võ sĩ tinh nhuệ) từng
tham chiến trong Trận Mục Dã. Trong thời kỳ Tam
ốc ở Trung ốc, triều Đình Tào Ngụy đã tổ chức và
xây dựng Đội kỵ binh tinh nhuệ có tên là Hổ Báo Kỵ do
Tào uần trực tiếp chỉ huy và từng tam chiến trong
trận Đồng an đánh thắng lực lượng Tây Lương do
hổ trướng Mã Siêu chỉ huy. ừa tướng nước Ngụy là
Tào áo lúc bấy giờ cũng xây dựng một lực lượng bảo
vệ thường trực với tên gọi là Hổ Vệ quân do Hổ hầu
Hứa Chử đích thân chỉ huy. Ở Nhật Bản thời kỳ Mạc
Mạt có Bạch Hổ đội (Byakkotai) tham chiến trong trận
Trận Aizu khi đó thành phần đội này chủ yếu là những
người trẻ tuổi chủ yếu ở tuổi thành niên, samurai-nổi


gọi và hình ảnh con hổ trên tất cả các biểu tượng và
tên gọi liên quan đến tổ chức này đặc biệt là sử dụng
cho biểu tượng của các lực lượng vũ trang (Lực lượng
Hổ biển hay Hải hổ: Biểu trưng về lực lượng hải quân
của Hổ Tamil, Phi đội Hổ Bay chỉ đến lực lượng không
lực của Hổ Tamil, lực lượng Hổ Đen chỉ về đội quân
chuyên đánh bom liều chết của lực lượng này.
Một số loại vũ khí sử dụng sức mạnh công phá lớn được
gọi là hỏa hổ, thanh đao được ví như hổ với câu: Đao
như mãnh hổ, thương tựa giao long. anh kiếm của
Kondō Isami được gọi là Hổ Triệt - “Kotetsu”(虎徹),
là tác phẩm của một thợ rèn thế kỷ 17 tên là Nagasone
Kotetsu, thực ra có thể được làm bởi Minamoto no
Kiyomaro, một thợ rèn kiếm danh tiếng cùng thời với
Kondō. Nhiều máy bay chiến đấu được đặt tên theo loài
hổ (tiger). Không quân Hoa Kỳ cũng sử dụng máy bay


15
tiêm kích biệt hiệu con hổ Northrop F-5 vào những năm
1960 ngoài ra còn nhiều máy bay chiến đấu được đặt
tên theo loài hổ như: Grumman F-11 Tiger, Grumman
F11F Super Tiger, Fieseler F 2 Tiger, De Havilland Tiger
Moth, Eurocopter Tiger. Trong Chiến tranh thế giới thứ
II, cũng trong thời gian này, phe Đức ốc xã đã chế
tạo và đưa vào sử dụng những chiếc xe tăng lợi hại gồm
02 thế hệ là Xe tăng Tiger I và Tiger II, Sau này điện ảnh
Nga dự lại bộ phim Tiger trắng (2012) để mô tả những
trận kịch chiến với thế hệ xe tăng này. Còn có loại xe
tăng P'okpoong Ho (Hán Việt: Bão Phong Hổ, Hanja:

暴風虎, tiếng Anh: Storm Tiger) là một loại xe tăng của
Bắc Triều Tiên, xe tăng King Tiger -Tiger II (cọp vua)
TVI của Đức, xe tăng Panzerjäger Tiger (P) Elefant. Về
tàu chiến, có mười lăm tàu chiến của Hải quân Hoàng
gia Anh từng được mang cái tên HMS Tiger, theo tên
loài hổ, Hải quân Anh còn có Lớp tàu tuần dương trực
thăng Tiger là lớp đầu tiên loại này của Hải quân Hoàng
gia Anh ốc, và cũng là những tàu tuần dương cuối
cùng được chế tạo cho Hải quân Anh, xuất sắc nhất có
chiếc HMS Tiger (1913).

làm biểu tượng cho mình như dầu nhớt Essso với câu
khẩu hiệu: “Mãnh lực của hổ" và "Ới‼ ông ba mươi”,
các hãng bia Tiger, bia Laruer in hình con hổ. Hãng
hàng không Tiger Airways có logo với hình con hổ
đang tung mình. Sau khi được giới thiệu năm 1951, đến
những năm 70 của thế kỷ XX, hổ Tony bắt đầu được
nhân hóa. Không chỉ là một biểu tượng quảng cáo do
người đóng, hổ Tony còn có quốc tịch Mỹ gốc Italy và
một gia đình đầy đủ với Hổ bà Tony, Hổ mẹ Tony, con
gái Antoinee và con trai Tony bé, một phiên bản…gầy
hơn của Tony và đang là linh vật của công ty Kellogg's
Frosted Flakes. Năm 1974, Tony đạt giải “Chú hổ của
năm”trong một quảng cáo lấy bối cảnh năm con Hổ
của Trung ốc.* [138] Ở Đài Loan thì có Tiểu Hổ Đội
(tiếng Anh: e Lile Tigers; chữ Hán: 小虎隊), gồm
ba thành viên Ngô Kỳ Long, Trần Chí Bằng và Tô Hữu
Bằng, là ban nhạc của Đài Loan cuối thập kỉ 80, đầu
thập kỉ 90 của thế kỷ XX
Con hổ còn là biểu tượng của kinh tế với thuật ngữ

Con hổ về kinh tế (Tiger economy). uật ngữ những
con hổ châu Á dùng để chỉ về các nên kinh tế của châu
Á trỗi dây và có ảnh hưởng mạnh mẽ đến kinh tế thế
giới ngoài ra quốc tế cũng dùng hình ảnh con hổ để chỉ
về những quốc gia có sự phát triển kinh tế chẳng hạn
như Con hổ Celtic (Celtic Tiger, tiếng Celtic: An Tíogar
Ceilteach) chỉ về sự phát triển kinh tế ngoạn mục của
Cộng hòa Ái Nhĩ Lan giai đoạn năm 1995 đến năm 2000,
Con hổ Baltic (Baltic Tiger) chỉ về nền kinh tế các nước
Estonia, Latvia, và Lithuania trong suốt thời kỳ khủng
hoảng kinh tế sau 2000 và kéo dài cho đến giai đoạn
2006–2007, thuật ngữ Tatra Tiger là biệt danh của nền
kinh tế Slovakia giải đoạn 2002-2007* [139] hay thuật
ngữ Con hổ Vùng Vịnh dùng để mô tả sự tăng trưởng
kinh tế của Dubai kể từ thập niên 1990 cho đến nay.
Con hổ xứ Nordic (Nordic Tiger) là biệt danh để chỉ về
nền kinh tế của Iceland.

Để chỉ về tính cách, sức mạnh, chiến công, tên gọi, biệt
hiệu, danh xưng của nhiều người, vùng đất có đặt tên
theo loài Hổ hay tên gọi ví von về con hổ, Người La Hủ
Logo của Câu lạc bộ Hull City
một dân tộc ít người ở Việt Nam cũng tự đặt tên cho sắc
dân
mình gắn với con hổ, theo đó“La”là hổ,“Hủ" là
Ngày nay, Câu lạc bộ bóng đá Đức là Bayer Muchen
sóc,
“La Hủ" nghĩa là mạnh như con hổ, khéo léo và
cũng được báo chí đặt biệt danh là con Hùm Xám xứ
nhanh

như con sóc. Một số tên người về hổ có thể kể
Bavaria. Cúp bóng đá vô địch các quốc gia Đông Nam
đến
như:
Á trước đây còn có tên gọi là Tiger Cup do hãng Tiger
Beer tài trợ. Đội bóng đá Hull City A.F.C. của Giải ngoại Ở Việt Nam trong lịch sử có nhiều danh thần, võ tướng
hạng Anh cũng sử dụng hình ảnh con hổ làm logo có tên gọi gắn với con hổ như: Phạm Bạch Hổ, Lê Như
chính thức cho mình. Đại học Korea của Nam Hàn có Hổ (vô địch đấu vật thời nhà Lê), Bùi Cầm Hổ, Hoàng
biệt hiệu là những con hổ Anam và lấy hổ làm linh vật. Đình Hổ, Phạm Đình Hổ (còn có tên gọi là Chiêu Hổ),
Con hổ cũng là biểu tượng của ế vận hội 1988 ở Seoul Nguyễn Huy Hổ, Tăng Bạt Hổ, nhà văn Phạm Hổ, Đào
với hình ảnh là chú hổ Hodori (tiếng Hàn:
). Logo Văn Hổ, Đại tá Trần Văn Hổ, Trần Văn Hổ (Tự Đẩu)
của Đội tuyển bóng đá Hàn ốc là hình một con hổ – nguyên là Đốc Phủ Sứ thời thuộc Pháp. ời xưa
cách điệu, bóng đá Hàn ốc đã được biết đến là một thì có Tràng An tứ hổ (Nhất ỳnh, nhì Nham, tam
mãnh hổ Đông Á với sức mạnh và tinh thần thi đấu quả Hoàn, tứ Tuấn), Trường An thất hổ (bảy con hổ của
cảm* [69] và đội tuyển bóng đá Hàn ốc được đặt biệt kinh thành ăng Long). ời Tây Sơn có Tây Sơn thất
danh là hổ Đông Á * [137]
hổ tướng* [140] trong đó có Hám hổ hầu Võ Văn Dũng.
Hổ cũng được sử dụng trong quảng cáo hàng hóa như Nhà Nguyễn cũng có Ngũ hổ tướng của nhà Nguyễn
xăng dầu và đồ ăn nhanh. Một số hãng sử dụng con hổ và Ngũ hổ tướng Gia Định, Nguyễn Hữu Tiến được gọi


16
là Hổ tướng còn người Bắc Hà thì gọi ông là Hổ Uy đại
tướng, Long Hổ tướng quân Trần Hầu, Lê Văn Hưng
của ân lực Việt Nam Cộng Hòa được các phóng viên
chiến trường gọi là một trong ngũ hổ U Minh ượng,
võ sư Long Hổ Hội (tên thật là Lâm Hữu Hội) danh chấn
xứ Bạc Liêu võ sư Ngô Bông còn được gọi là Lâm Hổ,
nhà văn Trương Duy Toản bút hiệu Đổng Hổ.


3 TRONG BIỂU TƯỢNG

Hàn Khang tử), Hồ Sa Hổ, Nghiêm Bạch Hổ, Dương
Hổ ành, Chu iết Hổ, Triệu Bá Hổ hay Cơ Hổ, Chu
Nguyên Hổ (朱元虎), Chiêu Hổ, Hoàng Đắc Công hiệu
là Hổ Sơn, Đinh Đắc Tôn có ngoại hiệu là Trúng tiễn hổ
(Hổ trúng tên), Đằng hầu Hổ (Đằng Hổ ỹ), Mã Định
Hổ (tự nhận là hậu duệ đời thứ 39 của Phục ba tướng
quân Mã Viện). ời Tam ốc, Viên iệu được phong
làm Hổ bôn trung lang tướng, Vu Cấm được phong chức
Hổ uy tướng quân….Trong Tam ốc diễn nghĩa, La
án Trung dùng hình tượng con Hổ để mô tả về hình
dáng của nhiều viên tướng và dùng nó để ví về các
anh hùng như: Tôn Kiên được danh xưng là Mãnh Hổ
Giang Đông, Đổng Trác được xưng tụng là biên quan
dã hổ (con hổ dữ ở vùng biên) Lữ Bố được Tào áo
so sánh với hình ảnh của con hổ. Hứa Chử được gọi
là Hổ Hầu (tên gọi do Mã Siêu đặt, ban đầu có tên là
hổ si, tức con hổ dại), ngoài ra thì còn có danh xưng
Ngũ Hổ tướng thời Tam ốc chỉ về các viên tướng có
sức mạnh như: an Vũ, Trương Phi, Mã Siêu, Triệu
Vân, Hoàng Trung. Trong tác phẩm ủy Hử, thì có
Yến uận biệt danh Cẩm mao hổ, Lý Vân ngoại hiệu
là anh Nhãn Hổ, Khiêu Giản Hổ Trần Đạt, Sáp Sí Hổ
Hùm xám là biệt danh của nhiều anh hùng trong đó phải kể đến (Hổ chắp cánh) Lôi Hoành, Điền Hổ, Lý Trung có ngoại
hiệu Đả Hổ Tướng ời. ời Nhà Minh, Nỗ Nhĩ Cáp
là Hoàng Hoa Thám
Xích được nhà Minh phong danh hiệu Long hổ tướng
Đặc biệt là danh xưng Hùm xám hay cọp xám, hổ xám. quân, triều Minh cũng phong cho Vương Đài làm Long

Trong tâm thức người Việt, thuật ngữ Hùm xám còn là Hổ tướng quân, La Nhữ Tài được gọi là Đông Sơn hổ,
tên gọi đặt biệt hiệu cho nhiều anh hùng, hảo hán ở Việt Ngạch Diệc Đô được xưng là Đại hổ. ời nhà anh
Nam, với cấu trúc cụm từ là Hùm xám và địa phương thì có danh xưng ảng Đông ập Hổ (10 con hổ ở đất
nơi thành danh, như Hoàng Hoa ám được tôn xưng ảng Đông) trong đó có Tô Hắc Hổ ngoài ra cũng có
*
là Hùm xám Yên ế, ngoài ra còn có ông Nguyễn Minh ý kiến xếp Hoàng Phi Hồng vào số này. [147]
Kỳ nguyên Chủ tịch ảng Trị còn được đặt biệt hiệu Một số nước khác, các danh tướng cũng dùng tên gọi
là Hùm xám đường 9-Nam Lào, Anh hùng lực lượng Vũ về Hổ để chỉ về mình như Takeda Shingen danh tướng
trang nhân dân Việt Nam Nguyễn Đình Bảy (tự Bảy thời chiến quốc Nhật Bản được gọi là Con hổ xứ Kai,
Khiêm) được gọi là Hùm xám Trị iên,* [141] ông Đặng đối thủ của ông là Uesugi Kenshin còn gọi là Nagao
Văn Việt, Chỉ huy trưởng các trận đánh trên đường số Kagetora (長尾景虎) (Trưởng Vĩ Cảnh Hổ) sau đó đổi
4 của Việt Minh được người Pháp gọi là Con hùm xám tên thành Uesugi Masatora (上杉政虎) (ượng Sam
trên đường số 4, Anh hùng Lao động Nguyễn Phong Chính Hổ). Vị vua của Triều đại Mogol là Babur được
Lưu được gọi là Hổ xám Trường Sơn, Nahria Ya Duck đặt tên có nghĩa là hổ, Vị vua Sher khan của Hồi giáo,
đệ nhất Phó ủ tướng Fulro được mệnh danh là Hùm Tipu Sultan là những vị vua lấy con hổ làm biểu tượng.
xám Tây Nguyên* [142] Trong võ học, những cao thủ Viên tướng Nhật Yamashita Tomoyuki còn được gọi là
võ thuật Việt Nam danh chấn cũng được đặt biệt danh con hổ Mã Lai. Võ sư Kim Chấn Bát được đặt biệt hiệu
là hùm xám. Võ sư Mã anh Long cũng được đặt biệt là Kim Phi Hổ. Radamel Falcao García được báo chí gọi
danh là Hùm xám Hòa Hưng,* [143] võ sư Huỳnh Long là mãnh hổ (El Tigre), Arthur Friedenreich cũng có biệt
Hổ được mệnh danh là Hùm xám ảng Ngãi* [144] võ danh Mãnh hổ. Tiger Woods vận động viên golf số 1 thế
sư Hà Trọng Ngự với tuyệt kỹ quyền ba chân hổ được giới được lấy từ tên người bạn quân nhân Việt Nam của
tôn xưng là Hùm xám miền Nam,* [145] võ sư Hà Trọng bố anh Vương Dang Phong, người khiến bố Woods đã
Sơn cũng có biệt danh là Hùm xám miền Trung* [146] đặt tên cho anh cái nickname là Tiger. Sau này cái tên
cùng với võ sư Lý Xuân Hỷ người được mệnh danh Tiger Woods đã trở nên quen thuộc, thời điểm mà anh
là Hùm xám cao nguyên.* [146] Người Việt còn dùng nổi lên ở tầm quốc gia với giải trẻ và nghiệp dư cũng là
thuật ngữ hùm xám để đặt tên cho các nhân vật nước lúc anh được biết đến với cái tên đơn giản Tiger Woods.
ngoài như Đội bóng Bayern Munich được báo giới Việt Ngoài ra còn diễn viên Liliane Tiger.
Nam đặt tên là Hùm xám xứ Bavaria, thủ môn José Luis
Nhiều vùng đất, địa danh, công trình được đặt tên theo
Chilavert được gọi là Con hùm xám Nam Mỹ.

loài hổ như: Ở Trung ốc có Long Hổ Sơn hay còn
Ở Trung ốc có những người mang tên hổ như: gọi là núi rồng-hổ, một địa danh linh thiêng của đạo
Hoàng Phi Hổ, Đường Bá Hổ, Lôi Lão Hổ, Tô Hắc Hổ, giáo, Vực Hổ Khiêu tức hẻm sông Hổ Nhảy được đặt
Hàn Cầm Hổ, Hổ Tam Nương, Trần Hổ, Trương Văn tên từ sự việc theo truyền thuyết, đây là đoạn sông xưa
Hổ, ạch Hổ, Dương Hổ, Lý Hổ, Tào Hổ, Hàn Hổ (tức


17
đi. Nhân dân cho là Hổ thần nên đặt tên hang là Bạch
Hổ.* [149] Ngoài ra còn có ác Hang Cọp ở Đà Lạt,
tương truyền nơi đây ngày xưa là nơi trú ngụ của một
con cọp cho nên mới lấy hang cọp mà đặt tên cho thác,
hiện nơi đây có đặt tượng hổ cao khoảng 5m, dài 10m
nằm trong khuôn viên của thác.

Vực Hổ Khiêu - Địa danh được đặt tên dựa theo động tác của
một con hổ nhảy qua núi

kia có một con hổ phóng từ bờ bên này sang bờ bên kia
nên có tên là vực Hổ Nhảy (khiêu có nghĩa là nhảy là phóng), Hổ Khiêu Hiệp (Hẻm núi Hổ Nhảy), tương
truyền rằng để trốn khỏi một tay thợ săn, một con hổ
đã nhảy qua con sông tại điểm hẹp nhất (rộng 25 m), do
đó người ta gọi đây là hẻm núi Hổ Nhảy. Hổ Khâu, Hổ
Môn nghĩa là “cổng hổ", Người phương Tây thường
biết đến Hổ Môn qua tên gọi xuất phát từ tiếng Bồ Đào
Nha là Bocca Tigris (nghĩa là “miệng hổ") hay Bogue,
Hổ Lao an, Hổ Môn (trấn), Hổ Lâm, Cầu Hổ Môn,
Đại Hổ Sơn (大虎山), cù lao Hổ Hạm (chữ Hán: 虎槛
洲, Hổ Hạm Châu). Ngoài ra ở các nước khác còn có
Sông Tigre ở Brazil, Sông Amba, Nong Suea (huyện) ở

ái Lan, và đặc biệt là sông Tigrit một trong hai con
sông của dòng sông Lưỡng Hà.
Ở Việt Nam, tại Tiền Giang có vùng đất miệt vườn có
tên gọi là Cù lao Ông Hổ là vùng đất sinh ra vị chủ tịch
Tôn Đức ắng, ngoài ra còn có Mỏ Bạch Hổ, ị trấn
Tăng Bạt Hổ, Cầu bạch hổ. Đặc biệt ở Nam bộ Việt Nam
còn lưu truyền nhiều địa danh liên quan đến cọp như
Đìa Cứt Cọp (ấp 4, Hưng Nhượng, Giồng Trôm, Bến
Tre) là nơi có nhiều cọp tụ tập lại săn mồi và phóng uế
bừa bãi, Sân Ngự (thị trấn Bình Đại, Bến Tre) là nơi theo
truyền thuyết hàng năm vào mùa khô, cọp từ các nơi
tụ tập về đây gọi là cọp hội dưới sự đầu lĩnh của chúa
cọp bạch ba chân, Đồn Cọp (Phú Nghĩa, Chợ Lách, Bến
Tre) là nơi cọp thường đến phá phách dân chúng mới
lập mưu vây cọp lại, rồi báo cho tỉnh đưa lính về bắn,
Mỏ Cày (Bến Tre) cọp ở đây rất nhiều do đó, người dân
vừa cày, vừa đánh mỏ để cọp sợ không dám đến làm hại,
rạch Ông Hổ (Long Hưng, Châu ành, Tiền Giang),
Rạch Gầm (Châu ành, Tiền Giang) là nơi trước có
nhiều cọp và chúng gầm thét vang động cả một vùng
nên có tên Rạch Cọp Gầm, về sau, gọi tắt thành Rạch
Gầm.* [148] đồng thời có các địa danh như suối Cọp và
Hang Bạch Hổ (ở Định án), truyền rằng, trước kia,
khi rừng rậm còn nhiều, có một cặp hổ trắng về ẩn
tại núi Đá Voi, cặp hổ này không bắt người ăn thịt mà
thường xuống nghe kinh Phật ở chùa iện Chơn. Sau
này rừng bị phá dần, lại thêm chiến tranh, cặp hổ bỏ

Uy danh của loài hổ còn ảnh hưởng đến tên gọi nhiều
sinh vật hùng mạnh nhất trong họ mình hoặc có hình

thức, cấu tạo giống bộ phận nào đó của cơ thể hổ.* [150]
Có thể kể đến là về động vật có các loài như: rắn hổ,
Họ Rắn hổ, rắn hổ chúa, rắn hổ mang Xiêm, Rắn hổ
mang chúa, Rắn hổ đất, Rắn hổ trâu, Rắn hổ bướm các
loại rắn hổ, một số loài rắn độc quý hiếm có tên hổ như
rắn Hổ trâu, Hổ lửa, Hổ mang, Rắn hổ hành…* [130] cá
hổ hay còn gọi là cá răng đao, Cá hổ kình, Cá hổ kình
lùn, Cá nhám hổ, Cá giả hổ kình, Cá mập hay còn gọi
là cọp biển, cá mập hổ, Cá hổ Xiêm, tôm hùm, Tép cọp,
Bướm đêm hổ đốm tối, Ếch đồng hay còn gọi là ếch
da hổ, Muỗi hổ (Aedes albopictus), Mực nang vân hổ,
Diệc hổ cổ trần, Kỳ giông hổ, hổ Tasmania, con mèo
thường được gọi là tiểu hổ, về các loài thực vật có: cây
lưỡi hổ, cây ba mươi, hổ bì, lá lưỡi cọp, cây ba mươi,
Bách thanh hổ, Cỏ đuôi hùm, Lưỡi cọp, Hổ vĩ xám, Hổ
nhĩ trắng, Tai hùm, Hổ bì, Lan da hổ, Bìm bìm chân
cọp, Móng cọp xanh, Đơn lưỡi hổ, Vuốt hùm, Hài lưỡi
hổ, Hổ trương, Hổ béo Trong kho tàng dược liệu y học
cổ truyền, nhiều cây, lá mang tên hổ là vị thuốc dễ
kiếm tìm có tác dụng chữa bệnh* [151] như Hổ thiệt,
Hổ nhĩ thảo, Hổ trượng căn, Hổ phách, Hổ vĩ, còn có
Chín vị thuốc tên hổ* [152] như Hổ kế (Cicus japonicus)
Hổ thiệt (Aloe), Hổ cao (Siegesbeckia orientalis L) Hổ
trượng căn (Polygonum cuspidatum sieh Znce) Hổ vĩ,
hay hổ vĩ mép vàng (Sansevira trifasciata Prain var), Hổ
phách (Succinum) Hổ chuối (Ptyas korros), Hổ mang,
hổ đất, hổ lửa (Ophiophagus hannah), Hổ cốt (Panthera
tigris L) hay Cao hổ cốt.

4 Trong văn học

4.1 Trung Quốc
Hổ được miêu tả nhiều trong văn học của các nước,
Trong văn học Trung Hoa, hổ xuất hiện trong nhiều
tác phẩm kinh điển như: Tây Du Ký (hổ đóng vai trò là
những con yêu quái hại người), trong đó hổ xuất hiện
và tấn công Đường Tam Tạng khi ông này chuẩn bị qua
biên giới Đại Đường, sau đó được một người thợ săn ở
biên giới giải cứu và giết chết con hổ. Lần thứ hai, con
hổ tấn rình tấn công Đường Tam Tạng thì bị Tôn Ngộ
Không đánh chết, Ngộ Không đã lấy da con hổ để làm
áo mặc và bộ da hổ này theo Tôn Ngộ Không suốt quá
trình đi thỉnh kinh. Một lần khác, Đường Tam Tạng
từng bị con yêu tinh phù phép biến thành hổ.* [153] Và
con hổ đáng chú ý nhất là con hổ tinh trong lốt yêu quái
đạo sĩ ở nước Xa Trì gồm Dương Lực Đại Tiên (con Dê),
Hổ Lực Đại Tiên (hổ) và Lộc Lực Đại Tiên (con hươu)


18

4

TRONG VĂN HỌC

Nhớ cảnh sơn lâm, bóng cả, cây già,
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Tranh vẽ tả cảnh Võ Tòng giết hổ
Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng.
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,

Tam ốc Diễn nghĩa với việc làm nền cho những anh Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc,
hùng xuất hiện, trong tác phẩm này có kể về một trận Trong hang tối, mắt thần khi đã quắc,
đánh của quân ục với quân Nam Man trong đó, quân Là khiến cho mọi vật đều im hơi.
Nam Man đã dùng các loài dã thú, rắn rết trong đó có Ta biết ta là chúa tể muôn loài,
hổ để tấn công quân ục. Trong tác phẩm này ngoài Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi.
Ngũ Hổ tướng, còn có Vương Song viên tướng được Nào đâu những đêm vàng bên bờ suối
mô tả là thân hình dài chín thước, lưng gấu, mình hổ, Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan?
mắt đen nhưng con ngươi vàng và được phong là Hổ Đâu những ngày mưa chuyển bốn phương ngàn
oai tướng quân. Tác phẩm ủy Hử với hình tượng trứ Ta lặng ngắm giang sơn ta đổi mới?
danh Võ Tòng đã hổ trên đồi Cảnh Dương ngoài ra hổ Đâu những bình minh cây xanh nắng gội,
còn được mô tả qua việc ăn thịt mẹ của Lý ỳ và ông Tiếng chim ca giấc ngủ ta tưng bừng?
này đã trả thù bằng cách tìm về hang cọp giết hổ báo Đâu những chiều lênh láng máu sau rừng
thù cho mẹ của mình.
Ta đợi chết mảnh mặt trời gay gắt,
Trong điển tích Võ Tòng đã hổ, câu chuyện cụ thể là khi
Võ Tòng trên đường về quê thăm anh, khi đi ngang qua
huyện Dương Cốc (nay là thành phố Liễu thành), ông
ghé vào một tửu quán, bên ngoài ghi là “Uống 3 chén
không nên qua đồi”. Võ Tòng là một người mê rượu,
thấy dòng chữ này rất khó chịu, hỏi tại sao thì chủ quán
kể có chuyện con hổ thành tinh chuyên ăn thịt người
trên đồi Cảnh Dương, ai uống quá say không nên đi qua
đó. Võ Tòng nghe vậy rất phẫn nộ, uống một mạch hết
rượu trong quán. Chiều hôm đó, ông đang trong cơn
say, một mình cầm gậy lên đồi tìm Hổ. Sớm hôm sau
gặp Hổ, ông cầm gậy vờn với mãnh thú tới tối. Đến lúc
trời chạng vạng sáng, sau khi dùng nhiều mưu kế mà
không được, ông vứt gậy, một tay nhận đầu hổ xuống
đất, một tay đấm, con hổ bể đầu chết tươi.* [154]


4.2

Việt Nam

Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt,
Ta nằm dài, trông ngày tháng dần qua.
Khinh lũ người kia ngạo mạn, ngẩn ngơ,
Giương mắt bé diễu oai linh rừng thẳm,
Nay sa cơ, bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi.

Để ta chiếm lấy riêng phần bí mật?
an ôi! ời oanh liệt nay còn đâu?
ế Lữ, Nhớ rừng (trích)

Hình tượng con hổ cũng xuất hiện nhiều qua văn học
Việt Nam,* [23] bên cạnh những câu chuyện cổ tích xuất
hiện từ lâu như như Trí khôn của ta đây, Cóc kiện trời,
ỏ rừng và hùm xám, Con hổ có lá gan chuột nhắt,
Mèo vẫn hoàn mèo, thì hổ còn được nhắc đến trong
các tác phẩm văn học thời cổ như: Hịch tướng sĩ của
Trần Hưng Đạo, uật hoài của Phạm Ngũ Lão, Lĩnh
Nam Chích ái, Mãnh hổ hành”(Bài hành về con
hổ dữ) của nhà thơ Nguyễn Hành (nhà thơ), Truyện
Kiều của Nguyễn Du, Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình
Chiểu. Cũng như những tác phẩm thời kỳ cận đại và
hiện đại như: ần Hổ của Tchya, Đường Rừng của Lan
Khai, Nhật ký trong tù của Hồ Chí Minh, Tây Tiến của
ang Dũng (với câu thơ: Đêm đêm Mường Hịch cọp
trêu người), Như những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn

Huy iệp và đặc biệt là bài thơ Nhớ rừng của ế Lữ
khi tác giả mô tả chân thực cảnh một con hổ trong vườn
bách thú và hình dung ra hình ảnh của nó khi tự do
trong rừng, thông qua hình ảnh con hổ, ế Lữ dùng
để biểu tượng về hình ảnh của một đất nước, dân tộc
Việt Nam đang thời kỳ Pháp thuộc. Trong đó câu than
thở an ôi, thời oanh liệt nay còn đâu! đã trở nên trứ


4.2

Việt Nam

danh.* [23]
Trong truyện cổ tích Trí khôn của ta đây người Việt đã
lý giải sự tích của những hình thù vằn vện trên mình
hổ, con hổ được đóng vai trò là kẻ xấu và truyện nhằm
đề cao trí khôn của con người trong công cuộc chống lại
những loài thú giữ trong đó con hổ hiền lành, dại dột,
bị người lừa. Trong truyện cóc kiện trời thì hổ đóng vai
trò quan trọng, là một trog những con vật theo cóc lên
thiên đình để kiện trời, hổ đóng vai trò quan trọng khi
là con vật mạnh nhất trong đoàn quân của nhân gian,
chính hổ đã xé xác thiên lôi buộc Ngọc Hoàng phải điều
đình với đoàn quân của nhân gian.

19
mô tả về hổ trên góc độ cái nhìn của nhân dân Nam
bộ, theo đó hai diện mạo: khuôn mặt tự nhiên là ác thú
vì Trên cơ bản, cọp vẫn là ác thú ăn thịt người do đó

Trịnh Hâm mới bắt tiểu đồng trói vào gốc cây để trước
cho hùm cọp ăn mày/Hại Tiên phải dụng mưu này mới
xong/Vân Tiên ngồi những đợi trông/Trịnh Hâm về nói
tiểu đồng cọp ăn (Truyện Lục Vân Tiên câu 875-878) và
khuôn mặt cứu tinh, lại là một nhân vật hư cấu có suy
tính khi hành động: Sơn quân ghé lại một bên/Cắn dây
mở trói cõng lên ra đàng.

Trong câu chuyện Chú Cuội, kể việc Cuội vào rừng sâu
tìm cây thì trông thấy một cái hang cọp, có bốn con cọp
con đang vờn nhau. Cuội liền xông đến vung rìu bổ cho
mỗi con một nhát lăn quay trên mặt đất. Nhưng vừa lúc
đó, cọp mẹ cũng về tới nơi. Nghe tiếng gầm kinh hồn
ở sau lưng, Cuội chỉ kịp quẳng rìu leo thoắt lên ngọn
một cây cao. Từ trên nhìn xuống, Cuội thấy cọp mẹ
lồng lộn trước đàn con đã chết. Nhưng chỉ một lát, cọp
mẹ lẳng lặng đi đến một gốc cây gần chỗ Cuội ẩn, đớp
lấy một ít lá rồi trở về nhai và mớm cho con. Chưa đầy
ăn giập miếng trầu, bốn con cọp con đã vẫy đuôi sống
lại, khiến cho Cuội vô cùng sửng sốt. Chờ cho cọp mẹ
tha con đi nơi khác, Cuội mới lần xuống tìm đến cây lạ
kia đào gốc vác về.
Ngoài ra trong nhiều truyện kể dân gian, cọp đóng
vai thần cứu tinh, như trong Tống Trân Cúc Hoa được
truyền tụng trong giới người Kinh lẫn người ượng
phía Bắc, theo đó mô tả chi tiết Sơn ần thương tình
biến thành mãnh hổ, tình nguyện mang thư Cúc Hoa
sang Tần. Trong câu chuyện oại Khanh, Châu Tuấn,
hổ xuất hiện giữa rừng khuya, cọp cõng oại Khanh
và mẹ chồng sang tận nước Tề để tìm chồng. Giai thoại

Con hổ có nghĩa đã được đưa vào Sách giáo khoa ở Việt
Nam cho thấy hổ cũng là con vật có tình nghĩa, biết
đền ơn xứng đáng người đã giúp đỡ mình.* [23]
Trong tuồng hát bội Hổ ành Nhân, thế kỷ XIX cũng
có kể chuyện hổ sinh ra người. Truyện dân gian có Ông
Nghè hóa cọp chế diễu những người chưa đỗ ông Nghè
đã đe hàng tổng. Giai thoại về bác Ba Phi(Nguyễn Long
Phi, 1884-1964) ở Cà Mau còn có chuyện bắt cọp xay
lúa, xử án cọp,* [23]* [58] người ta cũng kể câu chuyện
về việc bác Ba Phi từng đánh bại hổ dữ, theo đó, ở vùng
U Minh có con hổ đực rất khôn ngoan, nhiều người
lạc chân trong rừng thường mất tích một cách bí ẩn
mà người ta nghi bị nó ăn thịt, sau này khi nó bắt một
người phụ nữ đang làm ruộng thì bác Ba Phi được mời
tới để đánh hạ con hổ dữ này, một cuộc chiến quyết liệt
đã xảy ra và bác Ba Phi đã đánh thắng con hổ.* [155]
Trong truyện Lục vân Tiên hổ cũng được bố trí xuất
hiện ba lần một lần cởi trói cho tiểu đồng và đưa ra
đại lộ, một lần dưới dạng du thần đưa Vân Tiên ra khỏi
hang ương Tòng và lần cuối, cọp bắt hai mẹ con ể
Loan bỏ lại trong hang ương Tòng để quả báo nhưng
không ăn thịt. Tác phẩm này, Nguyễn Đình Chiểu đã

Hổ Shere Khan, con hổ tàn ác trong tác phẩm Sách của rừng
xanh

Nhà văn Tchya đã phản ánh hình tượng con hổ vào tiểu
thuyết ần Hổ xuất bản năm 1937, và Ai hát giữa rừng
khuya vào năm 1942 của tác giả Vũ Ngọc Phan (19021987). Trong tiểu thuyết này đã mô tả về ần Hổ xuất
thân từ những con hổ đã ăn thịt hơn trăm người, trong

tai nổi lên hơn trăm tia máu đỏ, nghe được ngàn dặm,
và nếu có chạm mình vào lá cũng không quên. Vị thần
Hổ đây là con hổ xám, hổ vàng, và khi họp hội đồng
cơ mật dưới gốc một đại thụ, vị thần Hổ thường trút bỏ
bộ lông trắng, biến thành một ông già đầu râu tóc bạc
đường bệ. Bị hổ vồ là có số, những kẻ bị giống mãnh
thú ấy sơi đã có tên trong quyển sổ do thần Hổ giữ.
ật là một sự định mệnh, không sao trốn thoát được.
Rồi những người mang họ Đèo trong truyện ần Hổ
của Tchya mà tất cả con cháu phải làm mồi cho hổ chỉ
vì ông tổ của họ đã dám phạm đến một con hổ già, làm
hắn chột một mắt và tuyệt đường sinh sản, là một họ
rất am tường số mệnh. Sự báo thù thật là ghê gớm tất
cả con cháu họ Đèo khi đã sa vào nanh vuốt hổ, người
nào cũng bị móc mất một mắt và cắn xé mất hạ bộ. ần
Hổ ra oai và gieo vạ cho cả dòng giống những người đã
dám phạm đến thần.


20

5

TRONG NGHỆ THUẬT

Ngoài ra, trong Truyện Đường Rừng, 1940, Lan Khai (anthology) hay nhất ở Anh* [156] với những trích đoạn
(1906-1945) kể chuyện Người hóa hổ, người và súc vật nghệ thuật mô tả sự rực rỡ và mãnh lực của hổ:
có thể hóa kiếp cho nhau. Hình ảnh của hổ với sự kỳ
bí về bộ lông tráng lệ, oai phong lẫm liệt, và hành tung
Chao ôi hổ! Hổ cháy bừng như lửa

bí ẩn được thể hiện qua Trái Tim Hổ trong nhóm mười
Chúa sơn lâm bừng cháy giữa rừng đêm
truyện Như những ngọn gió Hua Tát của Nguyễn Huy
iệp, đăng trên báo Văn Nghệ 1987, xuất bản thành
Ánh mắt nào, bàn tay nào bất tử
sách 1988 theo đó ở bản Hua Tát có con hổ kỳ dị người
Có thể tạo ra cái vẻ kinh hoàng.
ta đồn có trái tim khác thường, chỉ nhỏ bằng hòn sỏi
và trong suốt, là bùa hộ mệnh cùng là vị thuốc thần.
……..
Hình ảnh con hổ qua văn học đã gây ảnh hưởng và điều
Bờ vai nào, và từ đâu nghệ thuật
kiện hóa đời sống tinh thần người dân với hình ảnh của
Tạo đường gân thớ thịt của con tim?
muông thú đang và đáng được bảo vệ là tài sản thiên
nhiên, uy dũng, hùng tráng diễm lệ và kỳ ảo, cọp là vẻ
Mỗi khi con tim dồn lên nhịp đập
đẹp của một trần thế đang phôi pha. Tác phẩm Bí mật
Chân tay nào tạo nên vẻ khiếp kinh?
trên đồi Hổ táng (1985) của nhà văn Bá Dũng cũng nhắc
*
đến truyền thuyết về con hổ có nghĩa. [23]
……..

4.3

Tây Phương

Trong văn học phương Tây, hổ đã gây cảm hứng đến
nhiều người. Cả Rudyard Kipling trong e Jungle

Books và William Blake trong Songs of Experience miêu
tả nó như là con thú dữ tợn và đáng e sợ. Trong e
Jungle Books, con hổ Shere Khan là kẻ thù lớn nhất
và nguy hiểm nhất của Mowgli, ông vua không ngai
của rừng rậm nhiệt đới. Những chi tiết về con hổ cái
Champawat và làm thế nào nó đã bị hạ sát có thể được
tìm thấy trong cuốn sách Những kẻ ăn thịt người ở
Kumaon (năm 1944), được viết bởi chính Jim Corbe.
Tại thị trấn Champawat gần cầu Chataar và trên đường
đến Lohaghat, người ta đã đặt một tấm bảng xi-măng,
đánh dấu nơi con hổ bị hạ sát. Tuy nhiên, vị trí chính
xác nơi mà các con hổ đã bị giết bởi Jim Corbe là gần
hơn với vị trí hiện tại của nhà máy thủy điện đó là từ
tấm bảng này khoảng 1 km (0,62 dặm).
Nhưng trong truyện tranh Calvin and Hobbes của Bill
Waerson, Hobbes là con hổ đôi khi thoát ra khỏi vai
trò của nó như là một con thú để ôm ấp. Ở một khía
cạnh khác là Tigger (Tíc-gơ), con hổ trong truyện Gấu
Pooh của A. A. Milne, là con hổ luôn luôn đem lại may
mắn và không bao giờ đem lại sự sợ hãi, sau đó hãng
Walt Disney Television Animation sản xuất bộ phim
My Friends Tigger & Pooh có xây dựng hình ảnh về
chú hổ Tíc-gơ là chú hổ giọng khàn, hay di chuyển bằng
cách nhảy tưng tưng bằng đuôi. Trong tác phẩm A Tiger
for Malgudi thì Yogi là con hổ tốt. Nhà văn Yann Martel
đã đoạt giải Man Booker Prize năm 2002 với tiểu thuyết
Cuộc đời của Pi (Life of Pi) về cậu bé Ấn Độ sống sót
trên ái Bình Dương với con hổ Bengal và đã được Lý
An dựng thành bộ phim cùng tên.


4.4 Khác
Trong văn học Ấn Độ, Tiểu thuyết Cọp trắng nguyên
bản tiếng Anh e White tiger giải thiêng văn hóa Ấn
Độ giải Man Booker 2008* [157] tác phẩm mô tả việc
xuất thân từ bóng tối nhưng Balram muốn làm cọp
trắng, loài vật trong rừng mà mỗi thế hệ chỉ có một
con, phá cũi vươn về thế giới ánh sáng. Khát vọng của
Balram không dễ thực hiện được trong xã hội anh đang
sống. Và cọp trắng Balram đã không từ thủ đoạn, kể
cả giết chết ông chủ và mặc kệ số phận gia đình để
một mình thoát khỏi bóng tối.* [158] trong văn hóa của
người Khmer Nam Bộ, trong những câu truyện cổ phổ
biến có 02 câu chuyện liên quan đến hổ là ỏ và cọp và
câu chuyện ầy thuốc rắn cứu cọp nhằm nêu lên khát
vọng về công lý và công bằng, tuy vậy nhân vật chính
trong hai câu chuyện này lại là con thỏ.* [159]

5 Trong nghệ thuật

Trong văn hoá nghệ thuật, là một loài vật rất đẹp và có
sức lôi cuốn* [160] nên hổ cũng là con mật được mô tả
theo hướng trở nên gần gũi với con người, ngoài việc là
đối tượng không thể thiếu trong các vườn bách thú và
còn là diễn viên xuất sắc, thu hút nhiều khán giả trên
màn bạc hoặc sân khấu xiếc. Hổ còn là đối tượng và
là đề tài trong nghệ thuật điêu khắc, trong nghệ thuật
gốm xưa Việt Nam và nhất là trong tranh dân gian* [63]
eo quan niệm dân gian Á Đông, đặc biệt là Việt Nam
và Trung ốc, hổ là hình ảnh uy nghi, đầy ấn tượng,
hổ tượng trưng cho sức mạnh và dân gian cũng đã thần

thánh hóa hổ, cho hổ sứ mạng thiêng liêng có khả năng
diệt trừ được ma qủy. Có hình hổ trấn giữ ở cửa thì tà
ma không dám thâm nhập. Bởi vậy hình tượng hổ đã
Ở châu Âu, nhà thơ người Anh William Blake đã sáng trở thành phổ biến trong đời sống văn học, nghệ thuật
tác bài thơ về hổ với tựa đề e Tyger tạm dịch là dân gian, đặc biệt hổ đã được vẽ thành tranh và tạc
Chúa sơn lâm và được coi là bài thơ hay nhất trong sự thành tượng để thờ ở các đền, đình, miếu, điện…* [130]
nghiệp của ông và là bài thơ thuộc thể loại văn tuyển Hổ cũng là đối tượng nghệ thuật hấp dẫn thể hiện trên


5.1

Hội họa

21

5.1 Hội họa
Hổ được thể hiện trong nền hội họa của Phương Đông
lẫn phương Tây, rất nhiều bức tranh vẽ về loài hổ. Với
biểu tượng về sức mạnh, không chỉ ở phương Đông,
rất nhiều nơi trên thế giới có đại hội sơn lâm và theo
quan niệm ở châu Á, với tư cách là chúa tể, hổ đóng vai
trò của quyền uy thống trị, có vai trò điều phối, chia
khu vực sơn lâm cho các dã thú khác. Đó là vai trò anh
hùng. Đến khi có chủ nghĩa anh hùng phong kiến thì
hổ (cùng với đại bàng) là biểu tượng của anh hùng độc
lập. Có thể thấy điều này qua những bức tranh cổ vẽ
cảnh hổ đang gầm mặt trời. Lúc này, hổ là anh hùng
giang hồ chống phá lại thể chế, không bị hàng phục
dưới bất kỳ một chính thể tập quyền nào.* [62]
Ở Phương Tây thời cổ, Người ta cũng thu thập được

những tài liệu qua tranh vẽ của nhữnghọa sĩ châu Âu
sống vào khoảng thế kỷ XVIII và XIX, theo những tài
liệu này thì sư tử thường là kẻ chiến thắng trong những
trận đấu phân chia quyền lực trong các cuộc quyết đấu
và loại tranh này xuất hiện trên cả huy hiệu của Hoàng
gia Anh. Các họa sĩ theo trường phái cổ ở các nước
Trung Hoa, Việt Nam, Hàn ốc và Nhật Bản cũng vẽ
rất nhiều bức tranh về loài hổ bằng các chất liệu truyền
thống, người Việt Nam có tranh Đông Hồ mô tả về ngũ
hổ, người Trung ốc có tranh thủy mạc vẽ về hổ và
rồng. Hội họa phương Tây cũng có nhiều tác phẩm hội
họa bằng tranh sơn dầu hoặc những nét vẽ bằng bút
chỉ để họa về hình tượng con hổ.

“Hổ tọa”tác phẩm của Kishi Chikudo khoảng đầy thế kỷ 19

các vật dụng sinh hoạt thường ngày, nhà cửa, nơi thờ
tự…
Trong nghệ thuật, con hổ, biểu trưng cho sức mạnh,
được dùng cho ngành võ bị, trang trí áo võ quan, miếu
võ quan, trong chế độ phong kiến, khi rồng được dùng
làm biểu tượng dành riêng cho vua chúa thì hổ được
xem là biểu tượng của quan lại (quan võ)* [161] và cho
đến thế kỷ 19, hình tượng con hổ trong Văn hóa Việt
Nam thời nhà Nguyễn đã có sự thể hiện đa sắc, đa diện
từ sự mênh mông lan tỏa một cách trừu tượng hóa qua
vị trí địa lý trong phong thủy đến định hình trong kết
cấu kiến trúc, tên gọi di tích cụ thể, hay khắc dấu trên
Cửu đỉnh, khoe cùng sương gió thời gian….Tất cả góp
phần khẳng định vị trí hình tượng con hổ trong Văn

hóa Nguyễn, góp phần tạo nên những nét đặc trưng
của nền Văn hiến Việt Nam* [161]

Người Hàn ốc có bức họa thần núi (Sansindo) vẽ
cảnh thần núi ngồi tựa hổ hay cưỡi trên lưng hổ và
một số bức tranh, con hổ chính là thần núi trong quan
niệm của người tạo tác. Nhưng trong những bức tranh
khác, hổ lại xuất hiện bên cạnh một cụ già nhân từ đó
chính là thần núi và hổ là loài hầu cận của ông này. Hổ
tiếp nhận mệnh lệnh từ thần núi để trấn an cho làng
xóm, cho từng gia đình, bảo vệ sinh mệnh cho người
dân. Giới Phật giáo Hàn ốc cũng treo tranh thần núi
còn gọi là Sansintaenghwa mô tả một cách sinh động,
hài hước về sơn thần và hổ. Người Hàn ốc còn có
bức tranh Jakhodo (Ác hổ đồ), tranh chim ác là và hổ.
Chim ác là đang đậu trên cành thông xanh ngắt còn hổ
thì ngước nhìn cành cây. Đây là hai loài vật rất được
chuộng trong nghệ thuật dân gian Hàn ốc, Chim ác
là được quan niệm là dấu hiệu của điềm lành. Hổ là
giống vật nhân từ bảo vệ con người khỏi tai ương. Còn
cây thông tượng trưng cho tuổi thọ và sự trường tồn.
Vùng văn hóa Đông Á nói chung rất chuộng hổ, ngày
Tết thích treo tranh hổ, một cử chỉ mang biểu tượng
cá tính, đặc biệt, người Hàn ốc hay treo những bức
tranh Jakhodo trong nhà vào tháng Giêng âm lịch hàng
năm vì có ý nghĩa ngăn ngừa điềm họa nên đã hình
thành tập quán treo tranh vì người xưa cho rằng treo
tranh trong nhà sẽ xua được hung khí để gia đình được
an vui. Đề tài về hổ nếu gạt bỏ cái vỏ tôn giáo thì bản
thân nó sẽ trở thành những tác phẩm có giá trị nghệ

thuật cao như các tranh ngũ hổ, bạch hổ hay hắc hổ…


22
do sự phối hợp đường nét, hình khối và màu sắc tài tình
của nghệ sĩ đã tạo nên những bức tranh hổ đẹp, đầy sức
sống mãnh liệt, biểu hiện trên nét mặt, chòm râu, ánh
mắt sáng dội của hổ nhất là thế ngồi của hổ, với thân
hình vạm vỡ, chắc khoẻ ngồi nghiêng trên thế chống
thẳng tuyệt đối vững chắc của hai chân trước, càng làm
tăng thêm sức mạnh của hổ luôn được khai thác.* [63]

5

TRONG NGHỆ THUẬT

miền ở Việt Nam và là bức tranh của dòng tranh Hàng
Trống ẩn chứa nhiều thông điệp của nền văn hóa cổ
phương Đông. Tranh ngũ hổ trong gia đình người Việt
không chưng trên bàn thờ gia tiên như những bức tranh
ngũ quả mà tranh ngũ hổ thường treo ở bàn thờ dành
riêng cho hổ hoặc trưng dưới ban thờ thần thánh hoặc
thờ Phật.* [83] Một số ý kiến khác cho rằng, những bức
tranh ông Hổ được xuất hiện từ đời nhà Trần, sau khi
tướng Trần Hưng Đạo đại phá quân Nguyên Mông do
đó để ca ngợi hào khí của dân tộc trong những ngày
tháng đó, những bức tranh Hổ đã ra đời như vậy.* [163]
Hội hoạ dân gian Việt Nam đã thần thánh hoá con hổ
với trường phái tranh Hàng Trống (Hà Nội) chuyên vẽ
tranh hổ (hoàng hổ, hắc hổ, bạch hổ, tứ hổ, ngũ hổ) để

treo thờ với tư cách là những vị trấn giữ các phương trời
đất. Bởi vậy, khi vẽ tranh hổ, người nghệ sĩ dân gian đã
thể hiện đủ năm con hổ với 5 tư thế, và 5 màu sắc khác
nhau. Tranh ngũ hổ trong dân gian còn gọi là tranh ông
Năm Dinh. Đó là 5 vị thần tướng ngự trị năm phương
trời.* [150] Với cách thức sáng tạo của riêng mình, các
nghệ nhân Hàng Trống không chỉ tạo nên nét riêng
cho dòng tranh, mà đã làm bật lên sức sống nội tại của
nhân vật, thể hiện sức mạnh của loài mãnh chúa.* [73]
Nếu như năm Hổ (Dần) người Việt Nam hay treo tranh
Tết Ngũ Hổ hay Nhất Hổ; đây là bức tranh dân gian đẹp,
hàm chứa các giá trị tâm linh, nghệ thuật dân gian theo
quan niệm, triết lý nhân sinh quan về vũ trụ của người
xưa. Trong ngày xuân, tâm trạng mọi người thanh thản
ngồi bên sắc thắm cành đào, uống chén rượu nồng và
ngắm những bức tranh Tết - tranh Hổ con người thêm
sảng khoái, giàu sức sống mà tranh Tết chính là thông
điệp chuyển lời cầu chúc tốt đẹp cho mình và chúc điều
tốt lành cho mọi người, là nếp ứng xử giàu tính nhân
văn của người Việt xưa* [164]

Dựa trên cách thể hiện nguyên lý theo quan niệm văn
hoá phương Đông, người xem tranh /thờ tranh có thể
suy luận theo nhiều hướng khác nhau để dịch chuyển
vấn đề từ Ngũ hổ (Hổ vàng, Hổ xanh, Hổ trắng, Hổ đỏ,
Hổ đen) tới Ngũ hành (kim, mộc, thuỷ, hoả, thổ), Ngũ
sắc (xanh, đỏ, vàng, trắng, đen), Ngũ phương (đông,
tây, nam, bắc, và trung tâm), Ngũ phúc (phú, quý, thọ,
khang, ninh), Tứ quý (xuân, hạ, thu, đông),… hơn nữa
khi suy luận rộng, mỗi màu sắc trong tranh lại tương

quan với tính cách của từng nhân vật hổ, theo quan
niệm tượng trưng sắc màu trong dân gian nhằm biểu
đạt nổi bật chủ đề miêu tả, làm cho tổng thể bức tranh
hổ thêm thần bí, lôi cuốn người dùng (tâm linh) và
Một bức tranh của Trường phái Trung Hoa về cảnh hổ vồ khổng người xem (thưởng thức nghệ thuật). Sau này, tranh
tước (chim công)
dân gian Hàng Trống lại nghĩ thêm ra bộ Ngũ hổ tướng
và lập bàn thờ trong đền. Có nhiều loại tranh hổ: bạch
hổ, hắc hổ, ngũ hổ…Trong đó, tranh ngũ hổ là nổi bật
hơn cả. Tranh ngũ hổ còn gọi là tranh ông Năm dinh,
tượng trưng cho năm vị thần tướng ngự trị năm phương
Trong tín ngưỡng phương Đông, Hổ là một con vật, trời, nên các nghệ nhân khi vẽ tranh hổ, ngoài chòm râu
tượng trưng cho sức mạnh và sự thành công trong sự ánh mắt dữ tợn của hổ được vẽ bằng màu vàng kim, dân
nghiệp,* [162] tranh Ngũ hổ được cho là xuất hiện từ gian còn vẽ 5 màu nhất định, tượng trưng cho trung tâm
khoảng 400 năm trước và chịu ảnh hưởng rõ rệt của và bốn hướng với bố cục cân đối.
các luồng tư tưởng, văn hóa, tôn giáo giữa các vùng


5.1

Hội họa

23

Tranh Ngũ hổ là một bức vẽ phổn thể 5 nhân vật
êm đềm và dịu dàng. Tượng trưng cho sức khoẻ,
(Hoàng hổ, anh hổ, Bạch hổ, Xích hổ, Hắc hổ) được
sự phát triển.
bố cục, trình bày theo một trật tự từ trong ra ngoài,
từ cao tới thấp, từ chính đến phụ dựa trên nguyên lý

• Bạch hổ tướng quân: trấn giữ phương Tây - ứng
ngũ hành (Kim-mộc-thuỷ-hoả-thổ), ngũ sắc (xanh, đỏ,
với hành Kim (kim khu). Màu vàng thể hiện sự ổn
vàng, trắng, đen), ngũ phương (đông, tây, nam, bắc, và
định. Tượng trưng cho sự trong trắng, thuần khiết.
trung ương) để thể hiện uy vũ vị thần hổ. Đồng thời,
ngũ hổ gợi cho người xem cảm giác về một lá bùa chú
• Xích hổ tướng quân: trấn giữ phương Nam - ứng
và thể hiện sự xum vầy đầy đủ vì thế treo tranh ngũ
với hành hoả (hỏa khu). Màu đỏ thể hiện sự vui
*
hổ cảm thấy yên tâm vì được che chở. [83] Từ quan sát
vẻ, hạnh phúc. Tượng trưng cho tốc độ, tính lãnh
thực tế, người hoạ công vẽ tranh thờ lấy nguyên mẫu
đạo, quyền lực cá nhân.
từ con hổ hoang dã trong đại ngàn để phác hoạ hình
tượng thần hổ có sức mạnh phi thường, qua dáng ngồi,
• Hắc hổ tướng quân: trấn giữ phương Bắc- ứng với
đứng, cưỡi mây, lướt gió oai phong, đường bệ với mảng
hành thuỷ (thủy khu). Màu đen thể hiện sự thanh
khối cơ bắp khoẻ mạnh, linh hoạt, các chi tiết mặt, râu,
thản, yên tĩnh. Tượng trưng cho trí tuệ, sự thông
mũi, vằn lông,…sắc nét dữ tợn; đặc biệt là những con
minh.
mắt hổ luôn rực lửa nội lực của loài mãnh thú. Bằng
lối vẽ công bút, dầm bút, người hoạ công vẽ tranh thờ
xưa đã biểu đạt rõ nét tính cương - nhu trong thần hổ,
mà ở đó mỗi vị thần hổ lại được gắn với một hành, một Bộ tranh dân gian Ngũ hổ tướng dựa một phần vào sự
phương, một sắc màu và những ý niệm đầy tính triết lý kiện có thật. Trong thiên nhiên, đôi khi con người cũng
gặp hổ màu trắng hay đen. Đây là hiện tượng bạch biến

qua hình tượng:* [73]
hay hắc biến của nhiều loài thú rừng. Màu đen do sắc
tố đen trong lông làm thành. Nếu toàn bộ lông bị sắc
tố này chi phối, hổ sẽ có màu đen tuyền. Nếu toàn bộ
sắc tố này bị hủy, lông sẽ có màu trắng.* [165] ực tế
còn nhiều báo cáo ghi nhận được việc bắt gặp các loài
hổ xám hay hổ lam (anh hổ) và loài hổ vàng hay hổ
khoang vàng. Loài hổ có màu đỏ thực tế là những con
hổ sậm màu thường gặp ở các chủng loài hổ ở Indonesia
như hổ Sumatra, hổ Bali.
Cũng có những khuyến cáo về mặt phong thủy đối với
việc bài trí tranh hổ trong nhà, theo đó, xuất phát từ
quan niệm dân gian của mọi người rằng hổ là con vật
có uy lực và bị coi là hung thú nên khi hổ xuống núi
vào nhà thì sẽ hại người do đó không nên bài trí hổ
trong phòng ngủ (nhất là phòng ngủ vợ chồng), nếu
trong nhà treo bức tranh con hổ, nhất là khi đầu hổ
hướng vào trong nhà được coi là đại hung đồng thời nếu
treo tranh thêu hình con hổ cũng sẽ khiến những người
sống trong nhà có tâm trạng bất an và nhà thường có
nhiều chuyện buồn. Đặc biệt những người làm kinh
doanh càng kỵ không nên treo tranh hổ, bởi như thế
sẽ khiến việc kinh doanh không gặp may mắn, lợi ít
hại nhiều.* [166]

Ngũ hổ qua tranh thờ của Tranh Hàng Trống

• Hoàng hổ tướng quân: được vẽ ngồi ở vị trí trung
tâm (địa khu), trước mặt có lệnh bài, trấn giữ
Trung ương - ứng với hành ổ. Màu vàng thể

hiện sự thuận lợi, thăng tiến cùng niềm tin, sự bền
vững, lâu dài.
• anh hổ tướng quân: trấn giữ phương Đông - ứng
với hành mộc (mộc khu). Màu xanh thể hiện sự

Vào năm 2010, tức năm Canh Dần là năm con hổ, tại
Hà Nội, để chào mừng năm mới, một họa sĩ đã triển
lãm giới thiệu 60 bức tranh Hổ với đủ tư thế, sắc thái
và màu sắc, là món quà họa sĩ tặng bạn bè, công chúng
nhân dịp Xuân Canh Dần và chào mừng Đại lễ 1000
năm ăng Long-Hà Nội. 60 bức chân dung Hổ tượng
trưng cho một vòng Hoa Giáp của đời người và được
hoạ sĩ từ khoảng 100 bức tranh về hổ, tượng trưng cho
sự dũng mãnh, nhưng cũng đầy sự bình tĩnh, tự tin để
luôn luôn thành công. Các bức chân dung hổ được vẽ
trên bìa các-tông có nhiều màu sắc khác nhau, có bức
rực rỡ màu đỏ, hồng, xanh, có bức chỉ hai màu đen trắng.* [90]


24

5.2

5

Điêu khắc

Hình tượng hổ đã xuất hiện từ lâu. Tượng hổ được tạc
ở nhiều nơi trên thế giới. Riêng tại Việt Nam, trong các
di tích văn hoá Ðông Sơn khai quật được, đã xuất hiện

rất nhiều tượng hổ. Kiến trúc thời nhà Lý thể hiện ở
trên mái chùa Một Cột loài thú lạ vẫn thường được
đắp tượng trang trí trên nóc, mái các công trình kiến
trúc cổ. Xi vẫn còn có tên là li vẫn, li đầu, xi vĩ, từ vĩ,
long vẫn, long vỹ, li hổ, li long cù vĩ, xi manh, thôn tích
thú hay vẫn thú, đều do người Trung Hoa dịch từ tiếng
Phạn là Makara (Ma Kiệt ngư, Ma Ca La, Ma Già La).
Hình của nó thường được đắp trên nóc, mái của các
công trình kiến trúc thời cổ, với miệng há rộng, hoặc
ngậm vào đầu kìm (nên mới có chữ vẫn là miệng). Ở
Nhật Bản gọi là hổ, kim hổ, shibi (xi vĩ), hay hổ mâu,
trong đó hổ trỏ loài cá kình, còn mâu trỏ hai vây (như
hai lưỡi kiếm sắc nhọn) của loài cá này* [167]

Tượng đá chạm khắc về hình con hổ ở một ngôi đền của Nhật
Bản, thông thường tượng hổ thường được đặt ở những nơi đền
chùa chiền để trấn yểm

Hổ chính thức đi vào nghệ thuật tạo hình sớm nhất
vào thời nhà Trần với những tượng hổ ở lăng Trần ủ
Độ, lăng vua Hiến Tông, hổ chạm ở bệ đá tại chùa ế
Dương (Hà Tây cũ) được lưu truyền đến những con hổ
đá thời Lê ở Nam Kinh (anh Hoá). Trong các lăng
mộ đời nhà Trần, điêu khắc đá chủ yếu là tượng người,
tượng thú chầu và làm thần canh giữ cho thế giới vĩnh
hằng của ông vua có vẻ đẹp trầm mặc và sinh động. Đặc
biệt là Cọp Đá ở Lăng Trần ủ Độ, tượng hổ ở lăng
Trần ủ Độ ở ái Bình là một tác phẩm nghệ thuật
đẹp trong nền nghệ thuật điêu khắc cổ Việt Nam* [161]


TRONG NGHỆ THUẬT

và cũng là một trong những kiệt tác điêu khắc đá quan
trọng của lịch sử mỹ thuật nước này.* [168] Mô tả Con
cọp ở tư thế nằm, dáng vẻ ung dung, hai chân trước sải
dài, hai chân sau thu gọn trong bụng, đầu ngẩng cao,
đôi mắt lim dim, hai tai dỏng lên như đón nghe một
tiếng động nào đó vọng về từ chốn xa xăm với cái đuôi
mạnh mẽ. Khối đá không to như con cọp thực ngoài đời,
nhưng nghệ thuật cổ đã khắc dựng một hình tượng có
sức lay động.* [27]
Trong các đề tài vẽ, những con thú linh như long, lân,
quy, phụng hoặc loài thú hiền như voi, ngựa, hươu, nai
xuất hiện khá nhiều trên bề mặt loại đồ đựng thông
dụng gồm đĩa, bình, lọ, âu… Riêng hình ảnh con hổ là
loài dã thú thì khá hiếm hoi, tần suất xuất hiện của
hổ trên đồ gốm cổ Việt Nam còn thấp hơn các con vật
bình thường khác như cá, chim, vịt, hươu, dù vậy sự
hiện diện của hổ trên gốm Việt cổ khá sớm và có tính
liên tục. Hình tượng hổ xuất hiện trên nhiều dòng đồ
gốm khác nhau, với phong cách tạo hình khác biệt, tạo
nên những dấu ấn riêng, độc đáo và thú vị, tựu trung
lại, hình ảnh dũng mãnh và oai hùng của loài hổ luôn
là một đề tài trang trí được các thợ gốm và những người
sử dụng gốm sứ Việt Nam ưa chuộng.* [169] Chẳng hạn
như có những hình gốm mô tả hình con hổ dáng đứng
với hai chân sau, chân trước bên phải như con người
vươn ra nắm khóm cây (giống cây tre), còn chân kia
choãi ra sau, con hổ có cái đuôi dài đưa ra trước đến
chấm đất. Cách vẽ nhân cách hoá này cho người xem

cảm giác hổ đang vạch lá dọn đường đi vào thời Lê Sơ,
cuối thế kỷ thứ XV. Đó là gốm Chu Đậu, xã ái Tân,
huyện Nam anh, tỉnh Hải Dương,* [170] ngoài ra, một
số tác phẩm tiêu biểu như tiêu biểu nhất phải kể đến
hình ảnh hổ khắc trên thạp đồng Vạn ắng (Phú ọ),
tấm phù điêu nông dân đâm hổ ở đình Chảy (Hà Nam),
bức chạm khắc gỗ hổ chạy ở đình Lỗ Hạnh (Bắc Ninh)
và bức chạm khắc gỗ chàng trai cưỡi hổ ở đình Tiên
Kỳ (Nghệ An). Nói chung tượng hổ thường được đặt ở
những nơi đền chùa để trấn yểm.* [171]
Trong nền điêu khắc cổ Việt Nam thì mô típ hổ vồ mồi,
hổ ngắm trăng, hổ và rồng, hổ và đại bàng…thường
được dùng để diễn tả một sức mạnh, cái oai, một ý chí
và khai thác chất thơ trong cái hùng của hổ - loài thú
sơn lâm, trong nghệ thuật cổ Việt Nam khi mượn hình
tượng hổ, những nghệ nhân không dùng cương để biểu
hiện mà dùng cái nhu, cái mềm để biểu hiện chất hùng,
chất thép mà khai thác ở ngay những hình ảnh bình
thường nhất.* [27]* [63] eo tín ngưỡng thì hổ tượng
trưng cho vị thần bảo vệ, trấn giữ các phương chống
lại tà ma, đảm bảo cho cuộc sống phát triển. Những mô
típ hổ vồ mồi, hổ trông trăng, hổ và đại bàng, thường
được dùng để diễn tả một sức mạnh, một ý chí và người
ta còn khai thác chất thi vị trong cái hùng của loài chúa
sơn lâm.* [161] Hổ cũng để lại dấu ấn trên Cửu đỉnh thời
nhà Nguyễn, Hình ảnh con hổ được đúc vào Cao đỉnh,
sánh cùng mặt trời, biển đông, con rồng, chim trĩ, hoa
tử vi…tôn hết vẻ uy quyền, là một trong những đỉnh
cao nghệ thuật tạo hình Việt Nam.* [172]



5.3

Múa

Hổ chạm thành khối tượng tròn trên đá thì rất nhiều
nhưng nhiều hơn cả vẫn là hổ chạm nổi, chạm lộng trên
gỗ. Hàng loạt đình làng ở Việt Nam, phần lớn là nông
thôn, các nghệ sĩ dân gian đã để lại đời sau rất nhiều
hình mẫu khác nhau về hình tượng con hổ đá. ở đình
Chu yến (Hà Tây cũ) trong hoạt cảnh táng mả vào
hàm rồng, con hổ chạy theo bước chân Đinh Bộ Lĩnh
đang hăm hở và láu lỉnh đưa gói xương cốt vào miệng
con rồng, nó vừa há miệng vẫy đuôi vui vẻ. Con hổ ở
đây mắt ánh lên, răng hơi nhe ra nhưng người nghệ
sĩ đã cho nó một dáng điệu rất dễ thương của con chó
nhà. ở đình Đông Viên (cũng thuộc Hà Tây cũ) con hổ
cùng với các chàng trai tinh nghịch xông vào mấy cô
gái đang tắm trong đầm sen để đùa giỡn. Tiêu biểu nhất
phải kể đến hình ảnh con hổ khắc trên thạp đồng Vạn
ắng (Phú ọ), tấm phù điêu người nông dân đâm hổ
ở đình Chảy (Hà Nam), bức chạm khắc gỗ hình con hổ
đang chạy ở đình Lỗ Hạnh (Bắc Ninh) và bức chạm gỗ
chàng trai cưỡi hổ ở đình Tiên Kỳ (Nghệ An), và còn
rất nhiều hình tượng hổ ở nhiều đình miếu nằm rải rác
khắp nơi trong nước.

25
uy quyền thường được thờ phụng, đại diện cho chư vị
tướng quân chuyên phù trợ chính pháp và từ đó nó là

biểu tượng cho quyền lực, cho công danh và sự tăng
tiến trong kinh doanh, Là pháp khí của công danh, tài
lộc và quyền lực,chống lại tiểu nhân. Hổ dùng tiếp khí
cho các cát tinh Lục Bạch, Bát Bạch và cũng có thể bổ
trợ cho bản mệnh người tuổi Dần và cũng có thể dùng
để trấn yểm khi nhà bị phạm vào cấm kỵ hoặc bị Sát
tinh chiếu hướng do vậy tượng hổ mạ vàng được đặt ở
nơi phòng khách, trên bàn làm việc.* [171]

Đồng thời, những người cầm tinh năm Ngọ, Tuất và
Dần thì không nên bài trí hổ trong nhà vì bài trí hổ
trong nhà sẽ dễ ốm đau, gặp xui xẻo trong công việc
hoặc rất dễ gây nên bất hòa giữa các mối quan hệ trong
gia đình. Đối với nhà mở cửa hàng kinh doanh, việc bài
trí hổ cũng sẽ ảnh hưởng xấu tới uy tín và doanh thu
của cửa hàng vì hổ bị coi là hung thú. Điều kỵ nhất là
không nên bài trí hổ trong phòng ngủ (nhất là phòng
ngủ vợ chồng) do đây là không gian cần sự kín đáo,
riêng tư. Nếu bài trí hổ sẽ khiến vợ chồng có tâm trạng
bất an, tình cảm cũng bị giảm dần. Nếu đặt con hổ
Ở Việt Nam, hổ được xếp vào nhóm hộ môn thú (những đối diện với cửa chính sẽ khiến hàng xóm và những
con thú canh gác nhà cửa, lăng mộ, đình, chùa, miếu vị khách đến nhà cảm thấy bất an.* [166]
mạo), là một trong những con vật được tạc trong các
khu lăng mộ người Việt. Người Việt không sử dụng các
tượng đá sư tử để trấn yểm và để tạo nên sự thiêng 5.3 Múa
liêng, hùng tráng cho không gian này. Nếu cần có một
con vật hung dữ, người Việt nghĩ ngay đến hổ/cọp và Trong hệ thống các vũ khúc cung đình triều Nguyễn,
hầu như trong suốt lịch sử phát triển của lăng miếu Long Hổ hội là điệu múa được nhiều thế hệ nghệ nhân
của họ, hổ là con vật oai phong nhất, không gì thay thế cung đình Huế sáng tạo dựa trên cơ sở điệu múa tứ linh,
được* [173] cho nên người ta cũng sử dụng hình ảnh là điệu múa được sáng tạo nhằm biểu hiện những sinh

con hổ để trấn giữa tại các lăng mộ của các bậc vua hoạt của hai loài vật Điệu múa được chia làm ba phần,
chúa, danh nhân, ngoài hình tượng con hổ đá ở lăng trong đó phần “Hổ độc diễn”đã được các nghệ nhân
Trần ủ Độ, Lăng mộ của Ngô yền cũng có tấm cung đình mô phỏng theo những nét đặc trưng nhưng
bình phong có hình con hổ, tuy nhiên đến nay cũng có rõ ràng và dễ hiểu. Trên sân khấu, ngoài hình tượng
giấy lên tranh cãi về tấm bình phong này vì theo thiết con Long (Rồng) oai nghiêm mềm mại, thì hình tượng
kế, con hổ này không có tư cách con hổ và nó giống con Hổ đã được các nghệ nhân sáng tạo thông qua sự
như một con báo lai chó sói và nham nhở trông như quan sát tinh tế những thuộc tính của con vật được coi
là chúa tể sơn lâm. Long và Hổ vờn nhau thể hiện cuộc
một con quỷ.* [174]* [175]* [176]
sống thanh bình, đất trời hòa hợp và cái đẹp chân thật
của bản năng.
Nghệ thuật múa Hổ độc diễn được miêu tả bằng chuỗi
hành động từ chậm đến nhanh và đạt đến cao trào với
cách tạo hình động như: bắt đầu Hổ lăn một vòng 3600,
tiếp đến Hổ quan sát xung quanh, đào đất, nhảy ngồi
trên 2 chân sau, nín thở, đại tiện, lấp đất, ngửi, lăn đất,
cọ lưng, giỡn bóng nắng, ngủ… Chuỗi hành động của
Hổ độc diễn được các nghệ nhân tái hiện cực kỳ độc
đáo. Cũng như hành động đẻ trong điệu múa cung đình
Lân mẫu xuất lân nhi, hình ảnh Hổ đại tiện được miêu
tả không hề trùng lặp với một điệu múa cung đình nào
nhưng đã gây bất ngờ và thú vị cho khán giả. Khi miêu
tả Hổ đại tiện, các nghệ nhân cho rằng, Hổ là giống
Tượng hổ mạ vàng thường được đặt trong phòng khách để cầu lớn nhất trong họ nhà mèo và chỉ duy nhất họ này biết
che giấu khi đại tiện, đấy là sự khôn ngoan đặc biệt
sự thăng tiến và may mắn trong kinh doanh
hơn hẳn các loài khác, kể cả con người. Chính vì vậy,
Ở góc độ phong thủy, tượng hổ mạ vàng được coi là đại khi sáng tạo nên nhân vật Hổ, những người nghệ nhân
diện cho quyền lực do Hổ là con vật linh thiêng và đầy cung đình xưa đã miêu tả chi tiết này.



×