Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

THỰC TRẠNG CÔNG tác NGHIÊN cứu lý LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG ĐẢNG THỜI kỳ mới và NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.83 KB, 35 trang )

MỞ ĐẦU
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò của lý
luận và công tác nghiên cứu lý luận, kiên định chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng.
Sau gần 30 năm kể từ khi bắt đầu thời kỳ đổi mới, công tác lý luận của
Đảng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tháo gỡ nhiều vấn đề phức tạp đặt
ra của thực tiễn, góp phần đưa nước ta thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát
triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, từng bước tạo lập
điều kiện để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng
hiện đại.
Tuy nhiên, công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu, càng xuất hiện nhiều
vấn đề mới phải giải quyết, đòi hỏi chúng ta phải nắm vững những kinh nghiệm,
những kết quả nghiên cứu đã có. Trong không ít trường hợp, việc giải đáp nhiều
vấn đề mới như vậy đòi hỏi phải có sự đột phá về lý luận.
Đại hội XI của Đảng đã ban hành các văn kiện quan trọng, trong đó, chứa
đựng những vấn đề lớn về đường lối, hàng loạt quan điểm, mục tiêu, chủ trương,
giải pháp lớn đối với sự phát triển của đất nước trong thời hạn một nhiệm kỳ, 10
năm, đến giữa thế kỷ XXI và trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nhiệm vụ đặt ra hiện nay là phải cụ thể hóa những vấn đề lý luận chung nêu trong
Cương lĩnh, Chiến lược, Nghị quyết Đại hội, tiếp tục nghiên cứu, phát triển lý
luận, đưa các văn kiện trên vào cuộc sống. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải đánh giá
tổng quát công tác lý luận của Đảng, trên cơ sở đó, xây dựng định hướng nghiên
cứu, trước hết là từ nay đến năm 2020.


Phần thứ nhất
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG CÔNG TÁC NGHIÊN
CỨU LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ TRONG ĐẢNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
I.1. Khái niệm về Lý luận
Chúng ta đều đã biết, con người khác con vật ở chỗ, làm việc gì cũng phải


có ý thức, có sự suy tính, định hướng trước, cao hơn nữa là phải có sự dẫn dắt của
lý luận. Làm cách mạng là đổi cái cũ ra cái mới, là một loại hoạt động khó khăn
phức tạp, ở trình độ cao, cho nên lại càng cần phải có lý luận soi đường. V.I. Lê-nin
khẳng định: "Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào cách mạng",
"chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm
tròn vai trò chiến sĩ tiên phong". Hồ Chí Minh nói: Đảng mà không có lý luận dẫn
đường thì "cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ nam".
Lý luận là cái phản ánh thực tiễn; lý luận được thể hiện dưới dạng hệ thống
những tri thức đã được khái quát, tạo ra những quan niệm tương đối hoàn chỉnh
về các mối liên hệ cơ bản và các quy luật của hiện thực khách quan. Nói cách
khác, lý luận là kinh nghiệm thực tiễn đã được khái quát trong ý thức của con
người, là hệ thống tương đối độc lập của các tri thức có tác dụng tái hiện trong lôgíc của các khái niệm cái lô-gíc khách quan của hiện thực mà nó phản ánh.
I.2. Khái niệm Nghiên cứu lý luận
Lý luận là tổng hợp kiến thức, tri thức ở trình độ khái quát cao, bao hàm các
nguyên lý, nguyên tắc, quy luật, quan niệm, khái niệm, mối quan hệ phổ biến,
mang tính bản chất, những nội dung tổng quát và những tri thức cụ thể... được
khái quát từ thực tiễn, được đúc rút từ những kinh nghiệm, được dự báo có căn cứ
khoa học. Như vậy, lý luận không bất biến, mà luôn thay đổi không ngừng, được
bổ sung, làm giàu qua thực tiễn, qua kinh nghiệm và những dự báo khoa học. Trải
qua thời gian, với sự vận động không ngừng của cuộc sống, có những vấn đề lý
luận trở nên lỗi thời, lạc hậu, không còn phù hợp với thực tiễn; cũng có những vấn
đề mới nảy sinh từ chính thực tế cuộc sống, đòi hỏi phải được phát hiện, lý giải
bản chất, tính quy luật, dự báo khả năng xu hướng vận động của nó để đề ra những
quyết sách kịp thời, đúng đắn trong quản lý, phát triển đất nước.

Công tác nghiên cứu lý luận là công tác thường xuyên của Đảng. Để lãnh
2


đạo thành công sự nghiệp cách mạng, đòi hỏi Đảng Cộng sản phải không ngừng

đổi mới, phát triển, hoàn thiện hệ thống lý luận cách mạng. Muốn đổi mới, phát
triển, hoàn thiện hệ thống lý luận cách mạng, trước hết phải nhận thức đúng đắn,
đầy đủ vai trò, vị trí, tầm quan trọng của công tác lý luận.
II. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU LÝ LUẬN CHÍNH
TRỊ TRONG ĐẢNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
II.1. Bối cảnh trong nước và quốc tế
II.1.1. Bối cảnh quốc tế
Công tác lý luận bước vào thời kỳ mới trong bối cảnh thế giới thay đổi
nhanh và biến động rất khó lường với những thuận lợi và khó khăn cơ bản là:
II.1.1.1. Thuận lợi
- Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn
cầu hoá tiếp tục diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều
nước. Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển vẫn là những xu thế
lớn.
- Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á tiếp tục là khu vực
phát triển năng động, tạo thời cơ phát triển đối với những nước đang và kém phát
triển.
- Một số nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, trong đó có Việt Nam, vẫn
kiên định mục tiêu, lý tưởng, tiến hành cải cách, đổi mới, giành được những thành
tựu to lớn, tiếp tục phát triển; phong trào cộng sản và công nhân quốc tế tiếp tục có
những bước hồi phục.
- Các nước với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại,
vừa hợp tác vừa đấu tranh. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc
lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội có những bước tiến mới.
Các yếu tố trên có tác động mạnh mẽ đến công tác lý luận, nhất là tạo môi
trường thuận lợi về cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương pháp nghiên cứu. Hợp tác
quốc tế về lý luận sẽ có cơ hội mở rộng, phát triển.
Đất nước ta sẽ có bước phát triển mới về chất, tiến gần tới nước công
nghiệp... Điều đó đặt ra yêu cầu mới cho công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết
thực tiễn để theo kịp bước phát triển mới của thế giới cũng như trình độ phát triển

của đất nước. Diễn biến mới của tình hình thế giới và trong nước sẽ có tác động
mạnh đến quá trình đổi mới tư duy lý luận.
II.1.1.2. Khó khăn
- Các mâu thuẫn cơ bản trên thế giới biểu hiện dưới những hình thức và
3


mức độ khác nhau vẫn tồn tại và phát triển. Cuộc đấu tranh dân tộc, đấu tranh giai
cấp, chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, chạy đua vũ
trang, hoạt động can thiệp, lật đổ, khủng bố, tranh chấp lãnh thổ, biển, đảo, tài
nguyên và cạnh tranh quyết liệt về lợi ích kinh tế tiếp tục diễn ra phức tạp.
- Khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và Đông Nam Á còn tiềm ẩn những
nhân tố mất ổn định, đặt ra những thách thức gay gắt cho nước ta.
- Các nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, phong trào cộng sản và cánh
tả còn gặp nhiều khó khăn, các thế lực thù địch tiếp tục chống phá, tìm cách xoá
bỏ chủ nghĩa xã hội.
- Chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển; về bản chất vẫn là một chế độ
áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản,
nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất
với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết
được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Các cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã
hội vẫn tiếp tục xảy ra.
- Nhân dân thế giới vẫn đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có
liên quan đến vận mệnh loài người. Đó là giữ gìn hoà bình, đẩy lùi nguy cơ chiến
tranh, chống khủng bố, bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu,
hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi những dịch bệnh hiểm nghèo...
- Các nước cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh
của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ
xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức.
Những khó khăn trên có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nước ta, đến

các mặt của đời sống xã hội, trong đó có công tác lý luận. Đồng thời, tình hình thế
giới và trong nước như vậy cũng đặt ra cho công tác lý luận phải nghiên cứu
những vấn đề vô cùng mới và phức tạp; tham gia tích cực vào việc giải quyết
những khó khăn, vướng mắc đặt ra cho đất nước.
II.1.2. Bối cảnh trong nước
Trong nước, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta nỗ lực phấn đấu hoàn
thành những mục tiêu, nhiệm vụ mà Đại hội XI đề ra. Do điều kiện quốc tế và
trong nước khó khăn nên chắc chắn nhiều chỉ tiêu mà Đại hội XI đề ra không hoàn
thành. Nhưng xét điều kiện khó khăn chung của thế giới thì đó cũng đã là một cố
gắng lớn. Đại hội XII sẽ diễn ra vào tháng 01 năm 2016, sẽ đề ra nhiệm vụ cho kế
hoạch 5 năm 2016-2020, đồng thời, vạch ra những công việc khẩn trương thực
hiện để hoàn thành những nhiệm vụ trong Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội
4


2011-2020.
Với những nhiệm vụ rất khó khăn và nặng nề nêu trên, giai đoạn từ nay đến
năm 2020 có những điều kiện thuận lợi, nhưng cũng đòi hỏi rất cao ở công tác lý
luận.
Công tác lý luận cần đem lại nhận thức mới về lý luận để có thể góp phần
giải quyết những khó khăn chung. Đồng thời, với chức năng "vượt trước" của
mình, công tác nghiên cứu lý luận ngay từ bây giờ phải nắm bắt hoàn cảnh, sớm
dự báo được tình hình từ nay đến 2020 để có lộ trình, bước đi hợp lý, hiệu quả.
II.2. Thực trạng công tác nghiên cứu lý luận chính trị trong Đảng thời
kỳ đổi mới
II.2.1. Những mặt đã làm được
Nhận thức tầm quan trọng của công tác lý luận một cách thật sự khoa học,
là cơ sở để nâng cao vai trò tiền phong lãnh đạo của Đảng trong hoạt động thực
tiễn, là cơ sở để giáo dục lý tưởng, nâng cao niềm tin của cán bộ, đảng viên và
quần chúng nhân dân vào Đảng. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo về lý luận tiếp tục

được quan tâm; tiếp tục phát triển, hoàn thiện chủ trương, đường lối về công tác lý
luận; nhận thức của các cấp lãnh đạo ngày càng được nâng lên
Sau các kỳ Đại hội Đảng, Đảng ta đều tiến hành tổng kết công tác lý luận, đề
ra phương hướng cho nhiệm kỳ tiếp. Tại Đại hội VIII, Đảng ta tiến hành tổng kết 10
năm đổi mới, Đại hội IX, tổng kết 15 năm đổi mới, Đại hội X, tổng kết 20 năm đổi
mới và Đại hội XI, tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991. Đặc biệt, sau khi Nghị quyết 01NQ/TW ban hành về công tác lý luận, ở Trung ương, Ban Bí thư phối hợp chặt chẽ
với Chính phủ trực tiếp chỉ đạo công tác lý luận; nghe các cơ quan tham mưu,
nghiên cứu, các nhà lý luận trình bày kết quả nghiên cứu, đóng góp ý kiến về
những vấn đề mà Đảng và Nhà nước quan tâm; định kỳ 5 năm báo cáo và xin ý
kiến Bộ Chính trị
Các cấp uỷ đảng ngày càng coi trọng hơn đến công tác lý luận, thường
xuyên tổng kết thực tiễn, đúc kết lý luận, tăng cường giáo dục để nâng cao trình độ
lý luận cho đảng viên theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới. Bản thân cán bộ
lãnh đạo có chế độ thường xuyên học tập, nghiên cứu, nâng cao trình độ lý luận.
II.2.1.1. Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn
Quán triệt sâu sắc tinh thần của Nghị quyết 01-NQ/TW của Bộ Chính trị về
lý luận một cách thật sự khoa học là cơ sở để nâng cao vai trò tiền phong lãnh đạo
của Đảng trong hoạt động thực tiễn, là cơ sở để giáo dục lý tưởng, nâng cao niềm
5


tin; xuất phát từ những đòi hỏi bức xúc của thực tiễn đối với công tác lý luận,
Đảng ta tiếp tục hoàn thiện và phát triển các chủ trương, đường lối về công tác lý
luận mà Nghị quyết 01-NQ/TW đã đề ra.
Sau khi Nghị quyết 01-NQ/TW ban hành, ở Trung ương, Ban Bí thư phối
hợp chặt chẽ với Chính phủ trực tiếp chỉ đạo công tác lý luận; nghe các cơ quan
nghiên cứu, các nhà lý luận trình bày kết quả nghiên cứu, đóng góp ý kiến về
những vấn đề mà Đảng và Nhà nước quan tâm; định kỳ báo cáo và xin ý kiến Bộ
Chính trị về kết quả nghiên cứu và về những vấn đề cần thiết khác, bảo đảm cho

công tác lý luận phát triển thuận lợi.
Định kỳ 5 năm, theo nhiệm kỳ của Đại hội Đảng, các cơ quan tham mưu
của Đảng về công tác lý luận phối hợp với các cơ quan quản lý khoa học của Nhà
nước xây dựng các định hướng nghiên cứu lớn trong nhiệm kỳ trình Ban Bí thư
phê duyệt. Trên cơ sở các định hướng của Ban Bí thư, Chính phủ phê duyệt các
chương trình nghiên cứu khoa học trọng điểm quốc gia, trong đó có các chương
trình nghiên cứu lý luận. Năm 1996, Hội đồng Lý luận Trung ương đã được thành
lập để tư vấn cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư về những vấn đề lý luận lớn, cấp bách.
Hệ thống các chương trình, đề tài khoa học cấp nhà nước về lý luận được tổ chức
hoạt động thành nề nếp nhằm nghiên cứu những vấn đề trọng tâm mà các nghị
quyết Đại hội, Nghị quyết Trung ương đề ra.
Các cấp uỷ đảng ngày càng coi trọng hơn đến công tác lý luận, thường
xuyên tổng kết thực tiễn, đúc kết lý luận, tăng cường giáo dục để nâng cao trình độ
lý luận cho đảng viên theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới. Bản thân cán bộ
lãnh đạo có chế độ thường xuyên học tập, nghiên cứu, nâng cao trình độ lý luận.
Năm 1999, Bộ Chính trị đã ban hành Quy định 54-QĐ/TW về chế độ học tập lý
luận chính trị. Năm 2013, Bộ Chính trị ban hành Quy định 164-QĐ/TW về chế độ
bồi dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó,
trọng tâm là việc bồi dưỡng, cập nhật kiến thức lý luận chính trị.
Sau các kỳ Đại hội Đảng, Đảng ta đều tiến hành tổng kết công tác lý luận, đề
ra phương hướng cho nhiệm kỳ tiếp. Tại Đại hội VIII, Đảng ta tiến hành tổng kết 10
năm đổi mới; Đại hội IX, tổng kết 15 năm đổi mới; Đại hội X, tổng kết 20 năm đổi
mới và Đại hội XI, tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, tổng kết 20 năm thực hiện Hiến pháp
1992 và hiện nay đang tiến hành tổng kết 30 năm đổi mới, chuẩn bị cho văn kiện
Đại hội XII. Đặc biệt, trong nhiệm kỳ khóa IX, Ban Chấp hành Trung ương đã ban
hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 "Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư
6



tưởng, lý luận trong tình hình mới" và trong nhiệm kỳ khóa X, Ban Chấp hành
Trung ương ban hành Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 "Về công tác tư tưởng, lý
luận và báo chí trước yêu cầu mới".
Việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học, xây dựng các luận cứ cho việc
hình thành chủ trương, giải pháp lãnh đạo, chỉ đạo… đang trở thành công việc phổ
biến của nhiều cấp ủy đảng. Các cơ quan nghiên cứu lý luận của Trung ương và
một số ngành, địa phương đã có nhiều cố gắng triển khai việc nghiên cứu lý luận,
tổng kết thực tiễn, coi trọng hợp tác quốc tế về lý luận và tiếp thu có chọn lọc kinh
nghiệm nước ngoài; chất lượng và khả năng ứng dụng các kết quả nghiên cứu lý
luận đã tiến bộ hơn trước.
Các ngành, các cấp ngày càng coi trọng và không ngừng nâng cao trình độ
tổng kết thực tiễn. Hệ thống chương trình, đề tài nghiên cứu ngày càng cụ thể và
thiết thực; kinh phí cần thiết để thực hiện các chương trình đó ngày càng tăng lên.
Công tác quản lý việc thực hiện các chương trình, đề tài, đặc biệt khâu đánh giá,
nghiệm thu để bảo đảm chất lượng các công trình nghiên cứu, ngày càng được cải
tiến, hoàn thiện hơn.
Một số ngành khoa học quan trọng đã được tăng cường và củng cố như kinh
tế học phát triển, chính trị học, văn hóa và phát triển... Đặc biệt, ngành khoa học
nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh và vận dụng trong thực tiễn có bước phát
triển nhanh và đi vào chiều sâu. Việc tập trung nghiên cứu, truyền bá tư tưởng Hồ
Chí Minh đã bước đầu đạt kết quả tốt, tính thuyết phục được nâng cao, tạo được
những tác động tích cực trong đời sống xã hội.
II.2.1.2. Công tác tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị
Các cấp uỷ đảng nhận thức ngày càng rõ hơn về tuyên truyền, giáo dục chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trước yêu cầu của sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việc tuyên truyền lý luận đã thường
xuyên được quan tâm định hướng về nội dung. Hình thức tuyên truyền đa dạng,
phong phú, được thể hiện qua lấy ý kiến đóng góp rộng rãi của đảng viên và nhân
dân để xây dựng đường lối chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; qua triển khai quán triệt các nghị quyết, kết luận của Đảng; qua các báo, tạp

chí của Đảng; qua giáo dục lý luận trong hệ thống học viện và nhà trường từ Trung
ương tới địa phương và các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện; qua các hội
thảo, tọa đàm và triển khai các nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực lý luận chính
trị và trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn. Môi trường cho tuyên truyền lý
luận dân chủ hơn, đã lắng nghe, tiếp thu những ý kiến khác, từng bước khắc phục
7


tình trạng quy chụp. Phần lớn cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý
đều ý thức được nhiệm vụ học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, tích cực, tự
giác học tập các chương trình đào tạo, bồi dưỡng, cập nhật kiến thức lý luận chính
trị theo quy định.
Công tác giáo dục lý luận chính trị được triển khai sâu rộng trong hệ thống
giáo dục của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị- xã hội; hệ thống học viện,
các trường chính trị tỉnh, các trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện đã đào tạo,
bồi dưỡng, cập nhật kiến thức lý luận chính trị cho hầu hết cán bộ, công chức
trong hệ thống chính trị. Trình độ lý luận chính trị của cán bộ, đảng viên, nhất là
cán bộ, đảng viên giữ cương vị chủ chốt từng bước được tiêu chuẩn hóa. Việc bồi
dưỡng, cập nhật kiến thức cho cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, đào tạo cán bộ
nguồn, cán bộ chủ chốt được triển khai thông qua một số lớp. Hầu hết đối tượng
cán bộ, đảng viên cơ sở được bồi dưỡng kiến thức lý luận chính trị thông qua hệ
thống trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện.
Hệ thống các trường chính trị đã điều chỉnh quy mô đào tạo theo hướng
tăng tỷ lệ đào tạo tập trung và từng bước giảm mạnh đào tạo tại chức, tăng cường
mở các lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức mới theo các chức danh lãnh đạo, quản
lý, nhất là việc mở lớp cán bộ dự nguồn cao cấp. Thực hiện chiêu sinh đúng đối
tượng theo phân cấp, bảo đảm quy mô đào tạo hợp lý, nhất là những lớp học tập
trung. Từng bước hoàn thiện quy chế đào tạo, quản lý chặt chẽ đội ngũ giảng viên
và học viên theo quy chế. Gần đây, Hội đồng Lý luận Trung ương đã xây dựng
chương trình bồi dưỡng cập nhật kiến thức cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Học viện

Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh xây dựng chương trình và tổ chức bồi dưỡng cán
bộ nguồn cho Trung ương….
Về mặt nội dung, đã quan tâm xây dựng, bổ sung, hoàn thiện chương trình,
giáo trình, chuyên đề giảng dạy lý luận chính trị trong hệ thống Đảng, quân đội,
công an và các đoàn thể chính trị - xã hội phù hợp với yêu cầu mới; đưa thực tiễn
vào trong nội dung giảng dạy; chú trọng xây dựng chương trình, nội dung bồi
dưỡng, cập nhật kiến thức lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên các cấp, nhất là
cán bộ chủ chốt và đặc biệt cho cán bộ cao cấp của Đảng. Hệ thống các nhà xuất
bản của Đảng đã xuất bản nhiều ấn phẩm phục vụ công tác giáo dục, bồi dưỡng lý
luận chính trị, trong đó đã biên tập bộ sách kinh điển và các giáo trình về chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Về phương pháp, chú trọng đối thoại,
từng bước hạn chế độc thoại, tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn.
Phương pháp giảng dạy hiện đại được áp dụng ngày càng nhiều, góp phần phát
8


huy vai trò hướng dẫn của giảng viên và tính chủ động, tích cực, khả năng độc lập
suy nghĩ, sáng tạo của người học.
Trong hệ thống giáo dục quốc dân vẫn luôn duy trì và tăng cường các môn
học về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tích cực đổi mới chương
trình, nội dung, phương pháp giáo dục, chú trọng đảm bảo định hướng chính trị và
tính thiết thực, hiệu quả. Các chương trình đào tạo lý luận chính trị đã được rút
ngắn tương đối hợp lý, từng bước khắc phục sự lạc hậu về nội dung, phương pháp
dạy và học, bảo đảm tính cơ bản, hệ thống, hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt
Nam. Công tác giáo dục đạo đức, lối sống và rèn luyện tác phong công tác cho học
sinh, sinh viên ngay trong quá trình học tập đã được quan tâm hơn.
Việc học tập và làm theo tư tưởng và tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đã
được triển khai trong Đảng và trong xã hội, được các ngành, các cấp từ Trung
ương tới địa phương quan tâm, thực hiện nghiêm túc; đã thành lập Ban Chỉ đạo,
bộ phận giúp việc để triển khai nhiệm vụ này một cách thường xuyên, sâu rộng.

II.2.1.3. Công tác đấu tranh lý luận
Đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch được chú trọng và từng
bước chủ động, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ở Trung ương, giữa
Trung ương và địa phương. Chủ động nắm bắt, nhận diện, nghiên cứu, phân thành
các nhóm luận điểm chống phá của các thế lực thù địch về chủ nghĩa Mác- Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, về vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản, về đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, về các vấn đề dân chủ,
nhân quyền, dân tộc, tôn giáo, về đoàn kết giai cấp, dân tộc,... Đấu tranh lý luận
được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực như nghiên cứu lý luận, văn học nghệ thuật
và báo chí, xuất bản với nhiều hình thức da dạng phong phú như: qua các bài viết,
hội thảo, diễn đàn; qua tuyên truyền những thành tựu về kinh tế, xã hội, và nhân
quyền của Việt Nam để bác bỏ những luận điệu sai trái, bịa đặt. Từng bước xây
dựng tổ chức bộ máy đấu tranh chống ‘‘diễn biến hòa bình’’, phối hợp giữa các bộ,
ngành, giữa Trung ương và địa phương, phân công viết bài phản bác các thông tin,
quan điểm sai trái; tăng cường các bộ phận làm công tác thông tin đối ngoại.
II.2.1.4. Công tác xây dựng, tổ chức lực lượng nghiên cứu, đào tạo bồi
dưỡng lý luận chính trị được quan tâm thường xuyên hơn; cơ chế, chính sách,
cơ sở vật chất được tăng cường
Trong hơn 20 năm qua, Đảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị định
hướng việc xây dựng mạng lưới các cơ quan nghiên cứu, xây dựng đội ngũ cán bộ
nghiên cứu lý luận, xây dựng các chính sách khuyến khích tài năng và lao động
9


sáng tạo, phát huy tự do tư tưởng, tạo điều kiện cần thiết cho hoạt động nghiên
cứu và các mặt công tác khác trên lĩnh vực lý luận; tổ chức, thu hút cán bộ khoa
học và các cơ quan khoa học tham gia tích cực vào quá trình hoạch định đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Các cơ quan lý luận của Đảng, của Nhà nước đã được tổ chức, sắp xếp lại
nhằm khắc phục tình trạng xa rời thực tiễn, tình trạng phân tán, trùng lắp và kém

hiệu quả; phân định rõ chức năng và nhiệm vụ, có sự phân công và phối hợp giữa
các cơ quan nghiên cứu, các cơ sở đào tạo. Đã tiến hành sắp xếp lại hệ thống
trường đảng; chuyển Trường đảng cao cấp Nguyễn Ái Quốc thành Học viện
Nguyễn Ái Quốc, rồi Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh…; chuyển các
khoa thành các viện nghiên cứu; xây dựng hệ thống Học viện thành trung tâm đào
tạo, nghiên cứu lý luận chính trị; xây dựng các trường chính trị ở địa phương
thành các trung tâm đào tạo, bồi dưỡng lý luận ở địa phương.
Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia cũng được củng cố trở
thành Viện Khoa học xã hội Việt Nam, rồi Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt
Nam... Một số trường đại học lớn cũng được quan tâm phát triển, tăng cường chức
năng nghiên cứu lý luận như 02 Đại học quốc gia, Đại học Kinh tế quốc dân...
Công tác bồi dưỡng lý luận đã dần đi vào nề nếp; việc bố trí, sử dụng đội
ngũ cán bộ lý luận đã hợp lý hơn. Các cơ quan lý luận chú ý nâng cao quan điểm
chính trị, trình độ chuyên môn, ngoại ngữ cho cán bộ lý luận và gửi một số cán bộ
trẻ, có triển vọng đi đào tạo ở nước ngoài. Sau 20 năm củng cố và phát triển, đội
ngũ cán bộ và các nhà khoa học lý luận có bước phát triển cả về số lượng và chất
lượng với trình độ ngày càng cao. Bước đầu đã có chính sách và biện pháp sử
dụng những cán bộ nghỉ chức vụ hay nghỉ hưu nhưng còn sức đóng góp cho công
tác lý luận. Công tác đào tạo cán bộ lý luận từ quy hoạch đến tuyển chọn bước đầu
được thực hiện.
Cơ chế hoạt động nghiên cứu và quản lý công tác lý luận nhằm phát huy tự
do sáng tạo trong quá trình tìm tòi, khám phá chân lý; xây dựng không khí dân
chủ, cởi mở trong thảo luận, tranh luận khoa học đã được thực hiện và bước đầu
có bước phát triển. Quy chế dân chủ trong nghiên cứu khoa học xã hội đã được
quan tâm và hiện nay các cơ quan chức năng của Trung ương Đảng đang tích cực
hoàn thiện xây dựng Quy chế dân chủ trong nghiên cứu lý luận chính trị. Các cơ
quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước đã quan tâm lắng nghe ý kiến, phát huy tài
năng, trí tuệ, thu hút đội ngũ cán bộ lý luận và các cơ quan nghiên cứu tham gia
vào quá trình hoạch định đường lối, chiến lược, chủ trương, chính sách của Đảng
10



và Nhà nước. Một số cơ chế, chính sách về đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị
được ban hành kịp thời và có tác dụng thiết thực như: về chế độ học tập lý luận
chính trị bắt buộc đối với đảng viên; về xác định trình độ lý luận chính trị; về việc
thành lập trường chính trị cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; về tổ chức
và hoạt động của Trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp huyện; chính sách phụ cấp
giảng viên; chính sách thâm niên nhà giáo...
Ngân sách đầu tư cho các hoạt động lý luận được tăng cường; nguồn kinh phí
nhà nước cấp cho khoa học ngày càng tăng lên nhằm bảo đảm từng bước hiện đại hoá
cơ sở vật chất - kỹ thuật cho nghiên cứu lý luận, hiện đại hoá hệ thống thông tin và
bảo đảm cung cấp thông tin, tạo điều kiện cho việc khảo sát, nghiên cứu thực tế...
II.2.1.5. Hợp tác quốc tế trong công tác lý luận
Thực hiện chủ trương của Đảng, các cơ quan nghiên cứu, các học viện, nhà
trường ở nước ta đã chủ động thực hiện công tác hợp tác quốc tế trong nghiên cứu
lý luận. Trong hơn 20 năm qua, đã gửi đi đào tạo được một số lượng không nhỏ
cán bộ có trình độ cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ các chuyên ngành lý luận ở một số
nước bạn góp phần tăng thêm số lượng và chất lượng đội ngũ những người làm
công tác lý luận. Đã chú trọng hợp tác nghiên cứu với nước ngoài về một số vấn
đề lý luận để góp phần vào việc hoàn thiện dự thảo sửa đổi Hiến pháp cũng như bổ
sung, hoàn thiện một số chính sách của Đảng và Nhà nước ta. Hoạt động trao đổi,
tham vấn trong lĩnh vực lý luận cũng đã có bước tiến thông qua nhiều cuộc trao
đổi lý luận với một số Đảng bạn như với Đảng Nhân dân Cách mạng Lào; Đảng
Cộng sản Trung Quốc; Đảng Cộng sản Cu Ba; Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng
sản Nhật Bản và một số Đảng cánh tả Châu Âu. Trong hệ thống Đảng cũng đã có
chương trình gửi đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn và lý luận ở nước ngoài.
II.2.2. Hạn chế, bất cập
II.2.2.1. Trong công tác nghiên cứu lý luận
II.2.2.1.1.Công tác nghiên cứu lý luận chưa được quan tâm đúng mức, chưa
tương xứng với vị trí, vai trò, nhiệm vụ được giao

Ở Trung ương, công tác nghiên cứu lý luận được đánh giá cao, được quan
tâm chỉ đạo, nhưng sự quan tâm đôi khi chưa cụ thể, chỉ đạo tổ chức thực hiện
chưa quyết liệt. Chính vì vậy, một số chủ trương ở nhiệm kỳ nào cũng đặt ra mà
không ban hành được. Có một số nghị quyết về lý luận mà nhiều năm không sơ
kết, tổng kết. Sự lạc hậu, xa rời thực tiễn của công tác lý luận có một phần trách
nhiệm thuộc về sự lãnh đạo, chỉ đạo, nhất là sự chỉ đạo tổ chức thực hiện.
Nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền đối với công tác nghiên cứu lý
11


luận chưa tương xứng với vị trí, vai trò của công tác này. Nhiều cấp ủy đảng ở địa
phương đồng nhất công tác lý luận với công tác giáo dục lý luận; do đó, không chú
ý đến việc tổ chức thực hiện công tác nghiên cứu lý luận trên địa bàn. Việc tổ chức
thực hiện nhiệm vụ tổng kết thực tiễn còn thụ động; chưa thấy hết giá trị, vai trò
của nó đối với công tác lãnh đạo của đảng bộ, của địa phương.
II.2.2.2.2. Công tác nghiên cứu lý luận còn trong tình trạng lạc hậu trên
một số mặt, chưa đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn đang vận động nhanh
chóng, phong phú và phức tạp; nhiều sản phẩm nghiên cứu lý luận chưa được ứng
dụng vào đời sống
Nhiều vấn đề lớn, bức xúc đặt ra từ thực tiễn trong nước và quốc tế chưa
tìm ra hướng giải quyết hoặc giải đáp chưa có sức thuyết phục. Một số vấn đề lý
luận đã thảo luận, làm rõ, nhưng chậm được kết luận, khẳng định để đưa vào thực
hiện. Kết quả các công trình nghiên cứu khoa học lý luận chính trị, khoa học xã
hội và nhân văn có chất lượng chưa cao, ít có kết quả được ứng dụng, vận dụng.
Hiệu quả nghiên cứu chưa tương xứng với sự đầu tư của Đảng và Nhà nước.
Nhiều kết quả nghiên cứu lý luận có giá trị chưa được tổ chức chắt lọc và sử dụng.
Cho đến nay, công tác nghiệm thu, thẩm định, đánh giá chất lượng các
chương trình, đề tài chưa thực sự khách quan, khoa học. Hầu như chưa có chương
trình, đề tài nào bị đánh giá không đạt yêu cầu về chất lượng. Các kết quả nghiên
cứu sau khi nghiệm thu không được xã hội hóa, không được công khai đánh giá về

giá trị ứng dụng như thế nào, tác động, ảnh hưởng đến đời sống xã hội ra sao.
Chưa có một văn bản nào nói rõ kết quả của đề tài nào, chương trình nghiên cứu
nào đã thực sự có đóng góp về mặt lý luận góp phần xây dựng Cương lĩnh, Chiến
lược hay Nghị quyết các đại hội Đảng, và các hội nghị Trung ương... Tình trạng
này đã không khuyến khích, động viên hoạt động nghiên cứu lý luận bởi bản thân
những nhà nghiên cứu cũng không biết kết quả nghiên cứu của mình có thành
công không? Có được sử dụng không và sử dụng như thế nào? Có hữu ích không
hay nghiên cứu chỉ để nghiên cứu. Hơn thế, những sáng tạo trong nghiên cứu lý
luận cũng cần được khẳng định quyền tác giả và có cơ chế trả thù lao tương xứng
khi được ứng dụng.
Chính sự không công khai, minh bạch trong thẩm định, đánh giá, sử dụng
các kết quả nghiên cứu lý luận và khẳng định những sáng tạo của cá nhân hay tập
thể trong hoạt động nghiên cứu lý luận đã góp phần làm mất động lực nghiên cứu,
sáng tạo lý luận trong thời gian qua.
II.2.2.2.3. Chưa xây dựng được mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa nhà lý
12


luận và đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, giữa công tác nghiên cứu lý
luận và công tác giảng dạy, đào tạo lý luận
Trên thực tế có sự tách rời giữa nghiên cứu lý luận với công tác lãnh đạo,
chỉ đạo trong thực tiễn. Một mặt, sản phẩm nghiên cứu lý luận chưa ứng dụng vào
thực hiện nhiệm vụ của địa phương, đơn vị; mặt khác trong hoạt động lãnh đạo,
chỉ đạo chưa coi trọng áp dụng lý luận, các kết quả nghiên cứu lý luận, còn nặng
về kinh nghiệm.
Giữa nghiên cứu lý luận và đào tạo giảng dạy lý luận có sự tách rời nhau.
Những vấn đề, những sự kiện giới nghiên cứu lý luận quan tâm, những chương
trình, đề tài đang được triển khai nghiên cứu không thu hút sự chú ý của những
sinh viên, học viên lý luận. Bản thân các kết quả nghiên cứu lý luận không được
cọ sát, kiểm nghiệm trong môi trường học thuật, đào tạo. Do đó, những người sẽ

làm công tác lý luận và công tác nghiên cứu lý luận trong tương lai cũng không có
dịp tiếp xúc với nhưng thành tựu mới nhất của nghiên cứu lý luận. Trong hơn 20
năm qua, công tác đào tạo, giảng dạy lý luận có biểu hiện thương mại hóa, không
ít giảng viên không dành thời gian cho nghiên cứu lý luận mà chỉ tập trung vào
giảng dạy lý luận để tìm kiếm thu nhập. Sự tách rời giữa nghiên cứu và đào tạo đã
phần nào hạn chế sự phát triển của cả nghiên cứu lý luận và đào tạo lý luận.
II.2.2.2.4. Các cơ quan nghiên cứu lý luận chưa được kiện toàn thành hệ
thống xuyên suốt; đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận còn nhiều bất cập; chưa thực
sự phát huy được tiềm năng sáng tạo trong nghiên cứu lý luận
Hoạt động nghiên cứu lý luận chưa được quy hoạch, chưa có chiến lược
phát triển lâu dài, chưa có cơ chế, chính sách riêng phù hợp với tính chất đặc thù
của hoạt động này. Kinh phí đầu tư cho hoạt động nghiên cứu lý luận hầu như
không đáng kể; vừa thiếu, vừa lãng phí, chủ yếu thông qua hệ thống chương trình,
đề tài khoa học các cấp mang tính chất phong trào, mùa vụ, tạm thời. Không có
những chương trình nghiên cứu chiến lược dài hơi, liên tục nhiều năm, được đầu
tư kinh phí và cơ sở vật chất tương xứng để các nhà nghiên cứu tập trung toàn bộ
sức lực, trí tuệ chuyên tâm và yên tâm nghiên cứu thấu đáo, có đủ điều kiện và
thời gian để giải quyết những vấn đề mang tính chiến lược cho cả một giai đoạn
lâu dài của đất nước một cách toàn diện.
Cơ quan nghiên cứu lý luận chưa được đầu tư xây dựng thành hệ thống,
không có cơ quan mang tính trung tâm đủ mạnh, đủ sức quy tụ các đơn vị nghiên
cứu thành một khối thống nhất, cùng phối - kết hợp giải quyết các chương trình,
đề tài chung. Ngoài Hội đồng Lý luận Trung ương chuyên tâm về công tác lý luận,
13


nhưng các thành viên lại chỉ kiêm nhiệm; không có đơn vị nào mang tính chất một
cơ quan nghiên cứu lý luận chuyên nghiệp. Hoạt động nghiên cứu lý luận ở các
đơn vị khác đều mang tính nghiệp dư, chỉ được thực hiện khi được giao đề tài
nghiên cứu trong khi đề tài nghiên cứu lý luận vừa nhỏ hẹp, vừa bị xé lẻ phân chia

cho nhiều đầu mối rời rạc, nhiều đơn vị phải cạnh tranh, đấu thầu mới có được.
Nhiều viện nghiên cứu nhiều năm liên tục không có các đề tài nghiên cứu lý luận.
Số lượng cơ quan thực hiện nghiên cứu lý luận thì nhiều nhưng lại yếu vì vừa
phân tán, biệt lập, chồng chéo, vừa không có sự liên kết, phối hợp, vừa mang tính
nghiệp dư, hoạt động cầm chừng, thụ động.
Đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận mặc dù có được đào tạo tương đối chính
quy, bài bản, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức trong sáng và
tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân, nhưng, do
được đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau; hơn thế, phương pháp đào tạo lý luận,
chính trị của chúng ta ở các trường đại học, các học viện thời gian qua lại hết sức
lạc hậu, các phương pháp nghiên cứu tiên tiến và các cách tiếp cận hiện đại ít được
cập nhật. Đối với đội ngũ các nhà nghiên cứu cao niên thì sự tâm huyết, bản lĩnh
chính trị vững vàng, vốn kiến thức lý luận và văn hóa sâu rộng, nhiều kinh nghiệm
nhưng để đổi mới tư duy lý luận không phải là việc đơn giản. Do đó, để có một tư
duy mới trong nhận thức và khám phá những vấn đề mới của thực tiễn đổi mới đối
với đội ngũ này cũng không dễ dàng. Đối với đội ngũ cán bộ cán bộ nghiên cứu lý
luận trẻ dù có tâm huyết, bản lĩnh và lòng say mê khám phá lý luận, khoa học
nhưng đời sống lại hết sức khó khăn, trình độ học vấn, vốn kiến thức thiếu hụt,
khả năng sử dụng ngoại ngữ kém… nên đã hạn chế hiệu quả và chất lượng nghiên
cứu lý luận của họ. Hơn thế, bản thân họ cũng ít có điều kiện và cơ hội tham gia
thực hiện các đề tài nghiên cứu lý luận quan trọng.
Nhìn chung, đội ngũ cán bộ nghiên cứu lý luận hiện nay thiếu về số lượng,
yếu chuyên môn, nghiệp vụ, lòng nhiệt tình, sự say mê nghiên cứu bị chi phối bởi
nhiều nhân tố xã hội. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu trẻ gặp nhiều khó khăn trong đời
sống, do đó, chưa thực sự yên tâm, chuyên tâm với công tác nghiên cứu lý luận
trong điều kiện hiện nay.
Hiện nay không khí dân chủ cũng là một thành tựu quan trọng của công
cuộc đổi mới. Dân chủ trong nghiên cứu lý luận cũng đã được mở rộng. Chúng ta
đã thực hiện và triển khai Pháp lệnh Dân chủ ở cơ sở gần 15 năm, trong khi đó
hoạt động nghiên cứu lý luận chưa có quy chế dân chủ. Không có quy chế dân chủ

sẽ hạn chế tư duy sáng tạo trong nghiên cứu lý luận, không phát huy và khai thác
14


hết tiềm năng sáng tạo của cả xã hội trong công tác lý luận. Mặt khác, không ít
những kết quả nghiên cứu lý luận mới cũng không được khai thác và ứng dụng
trong thực tiễn. Đây thực sự là một sự lãng phí nguồn lực trí tuệ của xã hội.
II.2.2.2. Trong công tác tuyên truyền, giáo dục, bồi dưỡng lý luận chính trị
Việc tuyên truyền, phổ biến lý luận còn chưa hấp dẫn; triển khai nghị quyết,
kết luận của Đảng còn hình thức, thiếu chiều sâu về lý luận. Nghiên cứu, tuyên
truyền và giải thích chưa đủ sức thuyết phục về một số luận điểm quan trọng, cơ
bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước trong điều kiện mới. Còn ít biện pháp cụ thể, khoa học để xây
dựng, củng cố niềm tin của nhân dân trên cơ sở giải đáp những băn khoăn, vướng
mắc, những vấn đề phức tạp và những mâu thuẫn mới nảy sinh trong quá trình đổi
mới. Tuyên truyền những thành tựu mới về lý luận của thế giới vào Việt Nam còn
hạn chế. Các binh chủng tuyên truyền chưa phát huy hết vai trò, trách nhiệm trong
phổ biến những kết quả nghiên cứu lý luận.
Việc học tập lý luận chính trị trong Đảng còn có những khuyết điểm, yếu
kém cần khắc phục: Hệ thống chương trình đào tạo, bồi dưỡng còn nhiều bất hợp
lý; thời gian và nội dung chương trình chưa phù hợp; phương pháp giảng dạy, học
tập còn lạc hậu; đội ngũ giảng viên còn yếu và thiếu, chưa được quan tâm đúng
mức; chất lượng đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị hạn chế, nhiều trường hợp
học lý luận chính trị để đủ điều kiện nâng ngạch, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ, không
đáp ứng yêu cầu trình độ công tác.
Công tác giáo dục tư tưởng còn lúng túng, bị động, lúc “tả khuynh”, lúc “hữu
khuynh”, có lúc buông lỏng, chưa gắn chặt chẽ với nhiệm vụ chính trị của từng giai
đoạn cách mạng; coi nhẹ quan điểm giai cấp, bản chất giai cấp của Đảng, né tránh
nhiều vấn đề có tính thời sự, nhạy cảm; chưa quan tâm đến giáo dục đạo đức, lối
sống, vấn đề văn hóa- xã hội, nên đạo đức xã hội xuống cấp nghiêm trọng và có sự

suy thoái tư tưởng chính trị trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên…
Chưa chú trọng chỉ đạo để nâng cao hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan của
Đảng và Nhà nước trong việc triển khai, nâng cao chất lượng công tác giáo dục
chính trị tư tưởng; chưa thực hiện tốt việc kiểm tra chất lượng nội dung chương
trình và kiểm soát việc chấp hành nội dung tư tưởng trong giảng dạy; việc chỉ đạo
xây dựng chế độ, chính sách cho người dạy và người học lý luận chính trị chưa kịp
thời; việc nghiên cứu những vấn đề lý luận chưa rõ, những vấn đề mới nảy sinh và
gắn nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn với đào tạo bồi dưỡng cán bộ chưa được
quan tâm đúng mức dẫn đến nội dung chương trình cũ, lạc hậu gây nhàm chán đối
15


với người học. Đội ngũ giảng viên coi nhẹ nghiên cứu lý luận, coi nặng việc giảng
dạy thêm nên chất lượng bài giảng thấp.
Công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho người giáo dục tư tưởng còn bị
xem nhẹ. Không ít cán bộ, đảng viên là giảng viên chưa có kế hoạch đào tạo nâng
cao, đào tạo lại dẫn đến lạc hậu cả về kiến thức lẫn phương pháp. Ở một số trường
đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, số giờ giảng môn học Chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bị cắt giảm và chất lượng thấp. Nhiều cơ sở đào
tạo và sinh viên chưa thực sự coi trọng môn học học này.
Trong hệ thống các học viện, trường chính trị toàn quốc, một số chương
trình đào tạo, nhất là bồi dưỡng theo chức danh vẫn chưa thực sự đáp ứng được
yêu cầu của người học. Nội dung đào tạo vẫn còn nặng về lý thuyết, thiếu tính
thực tiễn, chưa đáp ứng được yêu cầu đặt ra, nhất là việc trang bị kỹ năng làm việc
của người học. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ vẫn còn chồng chéo, trùng lắp
về nội dung. Chương trình đào tạo sau đại học về lý luận chính trị còn dàn trải với
nhiều môn học, có môn không gắn với chuyên ngành; thời gian dành cho nghiên
cứu tác phẩm kinh điển chưa nhiều; dung lượng các kiến thức liên ngành, cập nhật
kiến thức còn nhiều hạn chế.
Phương pháp giảng dạy vẫn chưa đổi mới thực sự. Dân chủ trong giảng dạy,

học tập chưa được phát huy đầy đủ, hiệu quả tương tác giữa người dạy và người
học còn thấp. Chất lượng học tập lý luận chính trị, nhất là các lớp tại chức còn
thấp. Công tác quản lý học viên (kể cả việc tham gia học tập và rèn luyện) chưa
đạt được hiệu quả tích cực. Một số cơ sở đào tạo chưa coi trọng gắn liền việc trang
bị tri thức, kỹ năng nghiệp vụ với rèn luyện tư tưởng, chính trị, đạo đức cách
mạng, lối sống cho học viên.
Cách đánh giá chất lượng đào tạo chưa có sự thay đổi đáng kể nên việc
đánh giá chất lượng đào tạo vẫn chưa đảm bảo thực chất. Tiêu cực, nể nang, bệnh
thành tích và chủ nghĩa hình thức trong học tập vẫn còn. Kết quả học tập lý luận
chính trị vẫn chưa gắn với công tác đề bạt, bổ nhiệm và đãi ngộ cán bộ nên chưa
khuyến khích được người học. Không ít cán bộ tham gia các lớp học theo nghĩa vụ
bắt buộc, chạy theo nhu cầu về chứng chỉ, bằng cấp để được cất nhắc, đề bạt.
Đầu tư cho đổi mới nội dung chương trình và phương pháp giảng dạy chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chưa xứng tầm, còn dàn trải và hiệu
quả chưa cao. Chưa thực sự tạo nên bước đột phá trong đổi mới chương trình, nội
dung, phương thức giảng dạy lý luận chính trị (tiếp thu kinh nghiệm từ các nước
tiên tiến, chế độ dân chủ trong giảng dạy – học tập; tính hiệu quả trong tổng kết
16


thực tiễn). Không ít giảng viên giảng dạy môn học lý luận chính trị còn yếu về
kiến thức, kỹ năng sư phạm, thậm chí là thiếu niềm tin vào chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước, bất mãn với chế độ, phê phán Đảng, rất phản tác dụng. Chính sách, cơ chế
còn chưa hoàn thiện, chưa tạo được nền nếp trong quá trình học tập, rèn luyện và
bồi dưỡng thường xuyên của cán bộ, đảng viên1.
Việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh chưa thực sự đi
vào chiều sâu, ở một số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, làm theo
chưa đạt yêu cầu.
II.2.2.3. Công tác đấu tranh lý luận

Đấu tranh lý luận có lúc còn bị động, nội dung, phương thức đấu tranh trên
lĩnh vực lý luận chậm đổi mới, còn lúng túng, thiếu sắc bén, chất lượng khoa học
thấp, tính thuyết phục và tính chiến đấu chưa cao, phương pháp chưa linh hoạt,
hiệu quả thấp. Chưa tập hợp, phát huy đầy đủ sức mạnh của các lực lượng tham
gia trên mặt trận đấu tranh tư tưởng, lý luận; chưa huy động được các chuyên gia
giỏi tham gia vào đấu tranh lý luận.
II.2.2.4. Hợp tác quốc tế trong công tác lý luận
Việc hợp tác quốc tế về công tác lý luận vẫn thiếu thống nhất, thiếu tập trung,
chưa có được mục tiêu chung. Vẫn còn hiện tượng “mạnh ai người ấy lo”, cho nên
chưa mang lại hiệu quả tối ưu. Sự hợp tác quốc tế của các cơ quan đào tạo, nghiên
cứu trong hệ thống Đảng, đoàn thể còn hạn chế so với các cơ quan nghiên cứu,
đào tạo bên hệ thống nhà nước. Kết quả và hiệu quả trong hợp tác lý luận chưa
nhiều. Năng lực hợp tác quốc tế trong công tác lý luận còn hạn chế, nhất là khả
năng giao tiếp ngoại ngữ và trao đổi lý luận của đa số cán bộ, các nhà nghiên cứu
trong nước.
II.2.2.3. Nguyên nhân
Những hạn chế yếu kém nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác
nhau, cả chủ quan và khách quan, trong đó, các nguyên nhân nổi lên là:
Thứ nhất, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước là quá trình đấu tranh gay
go, phức tạp giữa cái cũ và cái mới, giữa con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và phi
xã hội chủ nghĩa; là quá trình chuyển sang một mô thức phát triển hoàn toàn mới
chưa có tiền lệ.
1

Chậm ban hành quy định về chế độ bồi dưỡng, cập nhật kiến thức đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp (Quy
định 164 của Ban Bí thư mới ban hành 01/02/2013); chính sách đề bạt cán bộ có thành tích học tập cao; quy chế
giảng viên lý luận chính trị kiêm chức; chính sách đặc thù đủ sức thu hút cán bộ giảng viên đủ đức, thực tài tham gia
giảng dạy lý luận chính trị...

17



Thứ hai, sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa cùng với sự chống phá
quyết liệt của các thế lực cơ hội, thù địch đã tác động tiêu cực ít nhiều đến việc
nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin ở nước ta.
Thứ ba, các cấp ủy đảng, chính quyền chưa thực sự coi trọng công tác lý
luận; chậm khắc phục mặt lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận; chưa
thực hiện yêu cầu gắn lý luận với thực tiễn; gắn nghiên cứu lý luận với giáo dục lý
luận và đấu tranh lý luận, với hoạt động chính trị.
Thứ tư, chưa tạo được môi trường thực sự dân chủ trong nghiên cứu, thảo
luận, tranh luận khoa học, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá
nhân và tập thể trong nghiên cứu lý luận. Chưa ban hành được Quy chế dân chủ
trong nghiên cứu lý luận chính trị.
Thứ năm, chưa thường xuyên đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của
các cơ quan nghiên cứu lý luận, cải tiến tổ chức nghiên cứu lý luận phù hợp hơn
với nhu cầu thực tiễn.
Thứ sáu, một số cấp uỷ, người đứng đầu đơn vị, đảng viên và nhân dân coi
nhẹ công tác giáo dục chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình
hình hiện nay. Chưa coi trọng thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ về lý
luận chính trị (nhiều lớp bồi dưỡng hằng năm theo chức danh không chiêu sinh đủ
học viên). Một số trường, nhất là trong một số trường cao đẳng, đại học và cơ sở
đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân nhận thức không đúng đắn về vai trò của
môn học này (tư tưởng đối phó, bớt xén, thậm chí yêu cầu giảm thời lượng chương
trình, không coi trọng đào tạo đội ngũ giảng viên...).
III. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CỦA CÔNG TÁC NGHIÊN CỨU LÝ
LUẬN TRONG ĐẢNG THỜI KỲ ĐỔI MỚI
Mặc dù đã đạt được các kết quả nêu trên, nhưng trong các lĩnh vực lý luận
mà Nghị quyết 01-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt ra còn nhiều vấn đề chưa rõ, nhiều
nội dung mới đặt ra như sau:
III.1. Về nghiên cứu lý luận

III.1.1. Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, những biến cố chính trị vào
cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, với những đặc điểm tình hình của thế kỷ XXI khác
xa so với trước đây, nhưng tại sao Đảng ta tiếp tục lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của Đảng, là phương
pháp luận để giải quyết các vấn đề nảy sinh trong sự nghiệp cách mạng của Đảng
trong thế kỷ XXI
Những nghiên cứu lý luận chưa chỉ rõ được đầy đủ về luận điểm nào,
18


nguyên lý nào của chủ nghĩa Mác-Lênin đã bị thực tiễn vượt qua phải điều chỉnh.
Các đảng cộng sản và công nhân quốc tế trong thế kỷ XX đã vận dụng sai những
nguyên lý, quy luật nào. Cần đánh giá như thế nào về chủ nghĩa xã hội dân chủ, xã
hội dân sự và các mô hình chủ nghĩa xã hội mới; các luận thuyết này có mối quan
hệ như thế nào với chủ nghĩa Mác-Lênin. Vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin đối với
sự phát triển trong thời đại ngày nay. Các nhân tố hợp lý của các học thuyết phi
mác-xít hiện đại là gì? Vai trò của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
đối với quá trình đổi mới của Việt Nam. Sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn tới. Tại sao Đảng ta tiếp tục lấy chủ nghĩa
Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động cách mạng của
Đảng, làm chủ thuyết phát triển đất nước, là phương pháp luận để giải quyết các
vấn đề nảy sinh trong sự nghiệp cách mạng của Đảng trong thế kỷ XXI. Có hay
không những nhân tố trong chủ nghĩa Mác - Lênin mà khoa học hiện đại, thời đại
ngày nay đã vượt qua cần có sự điều chỉnh nhất định? Những nhân tố đó là do hạn
chế lịch sử hay là sai lầm ngay từ đầu? Nếu có thì điều chỉnh, phát triển như thế
nào. Giá trị nhân văn, nhân đạo của chủ nghĩa Mác-Lênin là gì? Vấn đề khai thác
giá trị nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
và sự phát triển của nhân loại nói chung. Mối quan hệ giữa chủ nghĩa Mác - Lênin
với tinh hoa văn hóa nhân loại; những nhân tố hợp lý của các học thuyết ngoài chủ
nghĩa Mác - Lênin cần được bổ sung, phát triển, làm giàu thêm cho chủ nghĩa Mác

- Lênin. Sự vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin của Đảng và nhân
dân ta qua 25 năm đổi mới; những nhân tố cần tiếp tục phát huy trong những giai
đoạn tiếp theo. Mối quan hệ giữa tư tưởng của Hồ Chí Minh với quan điểm của C.
Mác, Ph.Ăng-ghen, V.I.Lênin. Những điểm mới, những của tư tưởng Hồ Chí Minh
so với các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin là gì? Mối quan hệ giữa tư
tưởng của Hồ Chí Minh với quan niệm, quan điểm của các trào lưu, tư tưởng trong
lịch sử nhân loại, lịch sử dân tộc ta. Giá trị vận dụng của tư tưởng của Hồ Chí
Minh trong các giai đoạn tiếp theo của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế...
III.1.2. Bản chất của thời đại ngày nay có gì mới và biểu hiện mới của thời
đại ngày nay là gì, nhất là trong điều kiện chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục phát triển
và chưa rõ về giới hạn lịch sử của nó, trong điều kiện toàn cầu hóa và hội nhập
quốc tế sâu rộng; triển vọng phát triển của chủ nghĩa xã hội thế giới cả về lý luận
và thực tiễn là gì?
Giới hạn phát triển của chủ nghĩa tư bản, các yếu tố làm chủ nghĩa tư bản
19


hiện đại sụp đổ trong tương lai... Các luận cứ mới chứng minh thời đại ngày nay là
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Giới hạn phát triển của
chủ nghĩa tư bản, các yếu tố làm chủ nghĩa tư bản hiện đại sụp đổ trong tương lai.
Các con đường phát triển trong thời đại ngày nay và vị trí, vai trò của mỗi con
đường đó. Các vấn đề phát triển của chủ nghĩa xã hội thế giới.
Cần tiếp tục luận cứ cho các khẳng định của Đảng trong Cương lĩnh, trả lời
các câu hỏi đặt ra như: Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức,
nhưng sẽ có những bước tiến mới. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội. Biểu hiện mới của Mâu thuẫn cơ bản của
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Bước thụt lùi, quanh co,
phản tiến bộ, sự thắng thế của chủ nghĩa tư bản đến bao giờ thì kết thúc?

Cần tiếp tục tập trung nghiên cứu các vấn đề của giai đoạn hiện nay của thời
đại như: Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn
cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến sự phát triển của nhiều nước; nó sẽ
dẫn đến hệ quả gì, một xã hội như thế nào, đem lại lối sống gì? Đặc điểm nổi bật
trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ xã hội và trình độ phát
triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi
ích quốc gia, dân tộc. Hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là
xu thế lớn. Trạng thái này tồn tại được bao lâu nữa...
Cần tiếp tục luận chứng cho các luận điểm về chủ nghĩa tư bản như: Chủ
nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp
bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản,
nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hoá ngày càng cao của lực lượng sản xuất
với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết
được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp
tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh
của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản. Trong các
giai đoạn tiếp theo, những nội dung trên đây của thời đại biểu hiện như thế
nào...
III.1.3. Mô hình xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng cần được hoàn
thiện, bổ sung như thế nào, nhất là trong điều kiện Việt Nam hội nhập ngày càng sâu,
rộng với thế giới và quá trình toàn cầu hóa; mối quan hệ giữa mô hình xã hội chủ
nghĩa ở nước ta với các đặc điểm, trào lưu xã hội trên thế giới; cần cụ thể hóa con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội như thế nào cho từng giai đoạn, từng lĩnh vực để biến
20


được thành mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể trong thực tiễn?
Đại hội VI, Đại hội VII và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991) đã phác họa mô hình xã hội xã hội
chủ nghĩa mới mà nhân dân ta xây dựng, với các đặc trưng về kinh tế, văn hóa,

xã hội, con người, chế độ chính trị…. Mô hình này đã được các kỳ đại hội đại
biểu toàn quốc của Đảng không ngừng bổ sung, phát triển và hoàn thiện. Đặc
biệt, Đại hội X và Đại hội XI của Đảng đã có bước phát triển quan trọng, thể
hiện rõ nhất trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Tuy vậy, mô hình xã hội chủ
nghĩa đó vẫn còn chưa hoàn chỉnh, còn nhiều điểm chưa rõ. Mô hình đó đã cụ
thể hơn so với phác thảo của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, nhờ
đó, cho phép khắc phục được cách hiểu sai lầm thể hiện trong mô hình xây
dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô trước đây. Tuy vậy, các đặc trưng của xã
hội xã hội chủ nghĩa vẫn cần tiếp tục cụ thể hóa, làm rõ. Một số đặc trưng
chưa rõ về nội hàm, còn gây cách hiểu không thống nhất. Các đặc trưng chưa
tạo thành hệ thống lôgíc chặt chẽ, phản ánh bản chất của chủ nghĩa xã hội
mang đặc sắc Việt Nam. Đặc biệt, mô hình đó chưa cho phép phân biệt một
cách rõ ràng, tường minh giữa chủ nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản, với con
đường phi xã hội chủ nghĩa. Những gì mà chúng ta dùng để phân biệt chủ
nghĩa xã hội với chủ nghĩa tư bản thì lại là những yếu tố có tính thuyết phục
không cao, tính khả thi thấp (chẳng hạn về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà
nước; kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
vững chắc của nền kinh tế quốc dân; nhân dân làm chủ; Nhà nước pháp quyền
của dân, do dân, vì dân; con người được phát triển toàn diện… ). Giữa mục
tiêu và phương tiện để đạt mục tiêu đó, giữa mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa
với tư cách là mục tiêu cần đạt tới với con đường, bước đi, "định hướng" đi tới
mục tiêu đó chưa có sự thống nhất, chưa được làm rõ. Chẳng hạn, chúng ta
chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như
là "mô hình kinh tế tổng quát" của suốt thời kỳ quá độ, trong khi lại chưa xác
định được dưới chủ nghĩa xã hội có còn kinh tế thị trường hay không? Chúng
ta chủ trương ngày càng đẩy mạnh phát triển kinh tế tư nhân trong khi chưa
xác định được các thành phần kinh tế dưới chủ nghĩa xã hội. Chúng ta thực
hiện chủ trương "tích cực và chủ động hội nhập quốc tế" trong khi kiên trì
mục tiêu riêng (định hướng xã hội chủ nghĩa…)… Chế độ sở hữu xã hội chủ

nghĩa; các giai đoạn phát triển của chế độ sở hữu qua các giai đoạn phát triển
21


của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Nghiên cứu
mối quan hệ giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng. Nghiên cứu chế độ sở hữu
đại diện; quyền của Nhà nước với tư cách là đại diện sở hữu toàn dân; mối
quan hệ giữa "quyền đại diện" sở hữu và "quyền quản lý" của Nhà nước. Nội
hàm và mối quan hệ giữa các đặc trưng kinh tế, văn hóa, xã hội, chính trị...
của chủ nghĩa xã hội; quá trình hình thành, phát triển của các đặc trưng đó,
gắn với các giai đoạn của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Mối quan hệ giữa yêu cầu giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc;
tính chủ động, sáng tạo của con người Việt Nam; chủ trương phát huy nội lực,
lấy sức mình là chính… với quá trình toàn cầu hóa (khách quan, toàn diện),
chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Cần làm rõ hơn về bản chất của chủ
nghĩa xã hội dân chủ và Việt Nam có thể tiếp thu được gì từ chủ nghĩa xã hội
dân chủ. Bản chất của "chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc", "Giai
đoạn đầu của chủ nghĩa xã hội" (của Trung Quốc); so sánh với "chủ nghĩa xã
hội mà nhân dân ta xây dựng" (ở Việt Nam) cũng như thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (của Việt Nam). Phân định thế nào giữa con đường xã hội chủ
nghĩa với con đường tư bản chủ nghĩa; khó khăn, thuận lợi, tính khả thi; sự
thống nhất, mâu thuẫn. Các đặc điểm của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa và
định hướng phát triển qua từng giai đoạn; về văn hóa xã hội chủ nghĩa và định
hướng phát triển qua các giai đoạn; về nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và định
hướng phát triển qua các giai đoạn; về Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân và định hướng phát triển qua các giai đoạn; về vai trò của Đảng
trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội.
III.1.4. Mục tiêu, nội dung cụ thể của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước qua các thời kỳ là gì? đặc điểm của nền kinh tế độc lập tự chủ? các
điều kiện, giải pháp, cơ chế, chính sách bảo đảm để nền kinh tế phát triển theo

chiều sâu, kết hợp phát triển nhanh với phát triển bền vững, xây dựng nền kinh tế
tri thức?
Chưa xác định rõ mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước qua các
thời kỳ, thể hiện ở chỗ, chưa xác định được tiêu chí của nước công nghiệp và nước
công nghiệp hiện đại (mặc dù chúng ta đã đặt mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở
thành nước công nghiệp; năm 2045 trở thành nước công nghiệp hiện đại). Chưa
phân biệt được sự khác biệt giữa công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa và công nghiệp
hóa tư bản chủ nghĩa để từ đó, phát huy được thế mạnh của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa xã hội chủ nghĩa. Đặc điểm của nền kinh tế độc lập tự chủ trong điều kiện
22


hội nhập ngày càng sâu là gì? Công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường; nghiên cứu các mô hình công
nghiệp hóa trên thế giới; các điều kiện thành công của một mô hình công nghiệp
hóa; so sánh mô hình công nghiệp hóa của Việt Nam với các mô hình công nghiệp
hóa trên thế giới. Nội dung, đặc điểm, sự biến đổi của cơ cấu kinh tế, cơ cấu
ngành, vùng lãnh thổ... trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế. Xác định các trình độ phát triển của đất nước trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; làm rõ tiêu chí của "nước công nghiệp",
"nước công nghiệp theo hướng hiện đại", "nước công nghiệp hiện đại", "nước
công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa"... Lộ trình, bước đi của
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức
và bảo vệ tài nguyên, môi trường. Xác định cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại, có hiệu
quả và bền vững, phù hợp từng giai đoạn. Xác định mô hình phát triển nông, lâm,
ngư nghiệp ngày càng đạt trình độ công nghệ cao, chất lượng cao gắn với công
nghiệp chế biến và xây dựng nông thôn mới; bảo đảm phát triển hài hoà giữa
các vùng, miền; thúc đẩy phát triển nhanh các vùng kinh tế trọng điểm, đồng
thời tạo điều kiện phát triển các vùng có nhiều khó khăn . Tiếp tục làm rõ các
khái niệm "phát triển bền vững", "chất lượng tăng trưởng", "mô hình tăng trưởng,

phát triển", "mô hình phát triển theo chiều rộng", "mô hình phát triển theo chiều
sâu". Các điều kiện, giải pháp, cơ chế, chính sách bảo đảm để nền kinh tế phát
triển theo chiều sâu. Mô hình phát triển chủ đạo trong các giai đoạn khác nhau của
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Mối quan hệ giữa sự
phát triển của mô hình công nghiệp hóa ở nước ta với quá trình đi lên chủ nghĩa xã
hội.
III.1.5. Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có những
ưu thế và hạn chế gì so với các mô hình kinh tế thị trường hiện đại trên thế giới?
Mục tiêu, nhiệm vụ hoàn thiện và phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa cho các giai đoạn, thời kỳ cụ thể phát triển của đất nước là gì?
Vấn đề kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề tất yếu nảy
sinh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, cần nghiên
cứu, làm rõ làm cơ sở cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát
triển kinh tế của Đảng, Nhà nước. Từ khi thực hiện đường lối đổi mới đến nay, lý
luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được hình thành, bổ
sung, phát triển qua các thời kỳ, nhất là trước mỗi kỳ Đại hội Đảng. Tuy vậy, lý
luận về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hiện nay vẫn còn nhiều
23


điểm chưa rõ, nhất là trong mối quan hệ với kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa,
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa... Đặc biệt, chúng ta chưa làm rõ được sự phát
triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa gắn với các giai đoạn,
thời kỳ cụ thể. Chúng ta cũng chưa làm rõ được dưới chủ nghĩa xã hội có kinh tế
thị trường hay không? Làm thế nào để giữ và tăng cường định hướng xã hội chủ
nghĩa trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Sở hữu và thành phần kinh tế là những vấn đề cơ bản dưới chủ nghĩa xã hội,
đặc biệt, trong thời quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau một thời gian xác định sai về
chế độ sở hữu và thành phần kinh tế, dẫn đến sự trì trệ, kém hiệu quả, chuyển sang
chế độ đa sở hữu, nhiều thành phần kinh tế theo đường lối đổi mới, việc nghiên

cứu về các vấn đề này không được quan tâm đúng mức. Vấn đề sở hữu, chẳng hạn
sở hữu đất đai, thành phần kinh tế, như thành phần kinh tế nhà nước, hợp tác xã...,
lại đang đặt ra bức bách....
III.1.6. Định hướng xã hội chủ nghĩa trên các lĩnh vực văn hóa, xã hội là
gì? Thế nào là con người mới xã hội chủ nghĩa và định hướng xây dựng con
người mới xã hội chủ nghĩa qua các giai đoạn, thời kỳ?
Cần tiếp tục nghiên cứu, cụ thể hóa mối quan giữa phát triển kinh tế đi đôi
với phát triển văn hóa - xã hội. Vấn đề thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội này
qua nhiều năm vẫn dừng ở mức chung, trở thành “công thức”, thành thử khi triển
khai, thể chế hóa thành luật, chính sách... rất khó. Đặc biệt, cần gắn mối quan hệ
này với từng giai đoạn, từng thời kỳ... Điều này đòi hỏi phải có những nỗ lực
nghiên cứu mới. Xác định rõ các mục tiêu văn hóa, xã hội, con người, thể hiện ở
đặc trưng của văn hóa-xã hội xã hội chủ nghĩa; đặc trưng văn hóa-xã hội, con
người trong nước công nghiệp, nước công nghiệp hiện đại; định hướng xã hội
chủ nghĩa trong các lĩnh vực văn hóa, xã hội là gì? Thế nào là con người mới xã
hội chủ nghĩa và định hướng xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa....
III.1.7. Làm thế nào giữ vững được sự độc lập, tự chủ, con đường xã hội
chủ nghĩa trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng với thế giới và khu vực
của Việt Nam?
Mặc dù đã đạt được những kết quả nghiên cứu lý luận cơ bản trên đây,
trong lĩnh vực nghiên cứu về quốc phòng, an ninh, đối ngoại vẫn còn nhiều hạn
chế, bất cập, cần tập trung nghiên cứu, trả lời các câu hỏi: Nội dung của đường
lối, nghệ thuật quân sự chiến tranh nhân dân và lý luận, khoa học an ninh nhân
dân. Thế nào là chủ động, tăng cường hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh. Vấn
đề xây dựng và kết hợp giữa quân thường trực với lực lượng dự bị động viên trong
24


quân đội trong điều kiện mới. Vấn đề kết hợp lực lượng chuyên trách, bán chuyên
trách, các cơ quan bảo vệ pháp luật với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ

quốc. Vai trò và giới hạn phát triển của nền công nghiệp quốc phòng, an ninh
trong nước. Làm thế nào giữ vững được sự độc lập, tự chủ, tính xã hội chủ nghĩa
trong điều kiện hội nhập quốc tế sâu rộng với thế giới và khu vực của Việt Nam.
Vị trí của Việt Nam trong thế giới tư bản chủ nghĩa còn thống trị và trong tương
lai sau này. Thái độ của Việt Nam đối với các phong trào cánh tả, các phong trào
xã hội chủ nghĩa và tiến bộ xã hội.
III.1.8. Định hướng xây dựng các giai cấp, tầng lớp, hệ thống chính trị
trong mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, gắn với các giai đoạn khác nhau của
tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là gì?
Cần xác định rõ định hướng xây dựng cơ cấu xã hội - giai cấp trong mỗi
giai đoạn phát triển của đất nước, gắn với các giai đoạn khác nhau của tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Xác định rõ nội hàm các giai cấp, tầng
lớp, đội ngũ trong cơ cấu xã hội - giai cấp trong điều kiện hiện đại, nhất là về giai
cấp công nhân. Hiện nay chưa có các công trình nghiên cứu thuyết phục về sự biến
động của cơ cấu xã hội - giai cấp Việt Nam và dự báo trong tương lai. Trên cơ sở
nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, trong những năm qua hệ thống chính trị
nước ta đã có nhiều đổi mới, hoạt động hiệu quả hơn. Tuy vậy, một trong những
“điểm nghẽn” trong sự phát triển của nước ta là thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó có sự ảnh hưởng không nhỏ của hệ thống
chính trị. Vì vậy, để phá vỡ điểm nghẽn này, đòi hỏi chúng ta phải đổi mới
mạnh mẽ hệ thống chính trị. Muốn việc đổi mới này đúng định hướng, hiệu quả
thì phải trên cơ sở tiếp tục nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, gắn với đặc
thù của mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn....
III.1.9. Đặc điểm của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong thế kỷ
XXI là gì? Giải pháp bảo đảm Nhà nước phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với
nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý
kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; cơ chế kiểm soát tệ quan
liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lạm quyền, xâm phạm quyền dân chủ
của công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội?

Bản chất, nội dung và nhất là đặc thù của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam; lộ trình xây dựng Nhà nước pháp quyền qua các giai đoạn.
Phương thức quản lý của nhà nước pháp quyền trong nền kinh tế thị trường có gì
25


×