Công tác nghiên cứu lý luận phê bình Nhiếp ảnh hiện nay
Trong những năm gần đây, khi nhắc đến công tác nghiên c
ứu lý luận
phê bình nhiếp ảnh, Hội nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam đã nhận đư
ợc
không ít những ý kiến, những bài tham luận của các nhà nghiên c
ứu lý
luận phê bình cũng như của những cây bút viết về mảng lý luận ph
ê
bình.
Có nhiều ý kiến cho rằng, công tác nghiên cứu lý luận ph
ê bình
nhiếp ảnh của Việt Nam còn nhiều hạn chế (nếu không muốn nói l
à
yếu kém), chưa theo kịp với nhịp độ của các nhà sáng t
ạo. Trong
cuộc Tọa đàm về ảnh chân dung và liên hệ với cuộc thi và triển l
ãm
ảnh “Chân dung con ngư
ời Việt Nam hôm nay” năm 2011 do Hội
Nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam tổ chức ngày 23/5/2011, ông Đ
ặng
Đình An, Phó tổng Biên tập phụ trách Tạp chí Nhiếp ảnh, Ủy vi
ên
Ban Lý luận phê bình Hội NSNAVN một lần nữa đã d
ẫn lời NSNA
Võ Huy Cát: “Những nhà nghiên cứu lý luận phê bình nhi
ếp ảnh
đang ở đâu?”.
Công tác lý luận phê bình thuộc về lĩnh v
ực tiếp nhận nghệ thuật.
Người làm công tác lý luận phê bình nhiếp ảnh là người dẫn đư
ờng cho
công chúng trong việc tiếp nhận nghệ thuật nhiếp ảnh. Đồng thời l
à tác
nhân tạo nên sự phát triển của nghệ thuật nhiếp ảnh. Vì v
ậy, nhiệm vụ
của người làm lý luận phê bình nhiếp ảnh là phải tìm ra nh
ững con
đư
ờng tiếp nhận nghệ thuật nhiếp ảnh một cách khoa học nhất, bản
chất nhất về nhiếp ảnh Trên cơ sở đó yêu cầu người l
àm công tác lý
luận phê bình nhi
ếp ảnh phải có kiến thức hệ thống, kiến thức rộng về
nhiếp ảnh, có sự nhạy cảm nghệ thuật, có tư duy khái quát
Lý luận phê bình nhiếp ảnh bao hàm công tác lý luận nhiếp ảnh v
à
công tác phê bình nhiếp ảnh. Người làm lý luận nhiếp ảnh th
ì khái quát
những thành tựu của sáng tác và phê bình thành những quy luật, nh
ững
phạm trù, khái niệm, thuật ngữ Người làm phê bình nhiếp ảnh th
ì thì
ứng dụng những công cụ lý luận để định hướng, dẫn đường cho ngư
ời
tiếp nhận nghệ thuật nhiếp ảnh phổ thông…
Là một người bước đầu làm quen với công việc sáng tác, tôi đã tìm đọc
một số tài liệu về lý luận nhiếp ảnh cũng như một số bài vi
ết lý luận
của một số tác giả như: Nguyễn Nhưng, Nguy
ễn Đức Chính, Trần
Mạnh Thường, Nguyễn Huy Hoàng, Chu Chí Thành, V
ũ Huyến, Vũ
Đức Tân, Trần Đương, Nguyễn Văn Thành… Tuy nhiên, nói m
ột cách
khách quan, tôi chưa tìm thấy một công trình lý lu
ận hay một cuốn
sách lý luận nhiếp ảnh nào có tính giáo khoa. Có chăng chỉ là nh
ững
cuốn sách hư
ớng dẫn kỹ thuật nhiếp ảnh hoặc chia sẻ kinh nghiệm sáng
tác và một số bài viết về xu hướng nhiếp ảnh thế giới, m
ột số khuynh
hướng sáng tác đang được đặt ra… Khoa Nhiếp ảnh, trư
ờng Đại học
Sân khấu Điện ảnh Hà Nội, cái nôi đầu tiên đào t
ạo cử nhân nghệ thuật
Nhiếp ảnh cũng chưa đào tạo chuyên ngành Lý luận phê bình.
Vừa qua, trong cuộc thi và triển lãm ảnh toàn qu
ốc “Chân dung con
ngư
ời Việt Nam hôm nay” năm 2011 do Hội nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt
Nam tổ chức, sau khi công bố kết quả cuộc thi và triển lãm, dư luận đ
ã
không ít tiếng khen chê về cuộc thi này. Trong các buổi “Tọa đàm v
ề
ảnh chân dung” tại TP.HCM vào tháng 3/2011 và tại Hà Nội v
ào tháng
5/2011 đã có những câu hỏi được đặt ra: “Thế nào là
ảnh chân dung?”,
“Khái ni
ệm ảnh chân dung cổ điển?”, “Khái niệm ảnh chân dung trong
thời đại mới?”… Tuy nhiên, tôi không thấy bất cứ một nhà lý luận ph
ê
bình nhiếp ảnh nào lên tiếng. Hậu quả là những tranh cãi thiếu cơ s
ở lý
luận của các nhà sáng tác - những người lẽ ra phải được các nhà lý lu
ận
trang bị lý thuyết để làm cơ sở cho quá trình sáng tác của mình…
Nghiên cứu về nhiếp ảnh Việt Nam trong nhiệm kỳ 6 vừa qua, nh
à
NCLLPB nhiếp ảnh Nguyễn Đức Chính đã dùng hai chữ “tê li
ệt” khi
nhận xét về mảng công tác nghiên cứu lý luận phê bình nhi
ếp ảnh của
Hội. Gần đây, trong bài viết “Lý luận phê bình nhiếp ảnh bị tê li
ệt?”
đăng trên Website của CLB Ảnh Báo chí (Hội Nhà báo VN), n
hà
NCLLPB nhiếp ảnh Vũ Huyến (nguyên Phó Ch
ủ tịch Hội Nghệ sĩ
Nhiếp ảnh Việt Nam) đã đưa ra những lập luận và khẳng định: “Nh
ận
xét của nhà NCLLPB nhi
ếp ảnh Nguyễn Đức Chính: “LLPB nhiếp ảnh
bị tê liệt” là hoàn toàn có cơ sở…”. Than ôi! Những nhà nghiên cứ
u lý
luận phê bình nhiếp ảnh chỉ biết than vãn và đứng nhìn ch
ứ không
dũng cảm nhận trách nhiệm và tìm ra những phương thức, những bư
ớc
đi để khắc phục sự yếu kém, “tê liệt” trong công tác mà chính h
ọ phải
là người “đứng mũi chịu sào”?
So với công tác lý luận nhiếp ảnh, công tác phê bình nhi
ếp ảnh có vẻ
đỡ trầm lắng hơn. Trên Tạp chí Nhiếp ảnh và Website c
ủa Hội nghệ sĩ
Nhiếp ảnh Việt Nam từ năm 2005 đến nay có đến hơn 300 bài vi
ết về
nhiếp ảnh. Chủ yếu là những bài nhận xét về các cuộc thi và triển l
ãm,
hay liên hoan khu vực hoặc triển lãm ảnh cá nhân… Đọc những b
ài
viết ấy, tôi tạm chia thành hai dạng: Phê bình báo chí và phê bình h
ọc
thuật.
Chức năng của phê bình nhiếp ảnh là phát hi
ện ra cái đẹp trong sáng
tác và xây dựng hệ giá trị thẩm mĩ, và lấy đó làm đòn bẩy, định hư
ớng
cho công tác sáng tạo của các nhà nhiếp ảnh. Phê bình báo chí có ch
ức
năng phát hi
ện ra cái đẹp. Nó cung cấp cho độc giả những phán đoán
thẩm mỹ về một tác phẩm nhiếp ảnh và đương nhiên với chứ
c năng
như vậy, phê bình báo chí thuộc về phê bình giá trị ch
ứ không thuộc về
phê bình sự thật. Những bài phê bình nhiếp ảnh dạng này thường l
à
những bài viết giới thiệu về các cuộc thi và triển lãm hoặc li
ên hoan
khu vực, triển lãm cá nhân Người viết phê bình báo chí có thể l
à
những người sáng tác hoặc là những cây bút “nghiệp dư”, ch
ỉ cần có
khả năng viết và phương pháp phê bình của họ dựa vào c
ảm nhận cá
nhân chứ không nhất thiết phải có kiến thức chuyên sâu v
ề lĩnh vực
này. Và trong một chừng mực nào đó, nh
ững phán đoán của họ có thể
là nhầm lẫn. Vì vậy chỉ có thể coi đây là những bài như m
ột chút gia vị
bổ sung làm cho công tác phê bình nhiếp ảnh phong phú thêm, ch
ứ tầm
ảnh hưởng của nó đối với sáng tác nhiếp ảnh là không nhiều và nh
ững
bài phê bình dạng này không thể trở thành đòn b
ẩy cho lĩnh vực sáng
tác
Những bài phê bình nhiếp ảnh dạng phê bình học thuật thường l
à
những bài viết với những thuật ngữ nghề nghiệp đư
ợc “mổ xẻ” bằng
các phương pháp nghiên cứu khoa học. Với cách tiếp cận khoa học, n
ó
miêu tả một cách chính xác hơn, sâu sắc hơn và có lý luận h
ơn, do đó
dễ thuyết phục độc giả. Người viết phê bình báo chí có th
ể không biết
hoặc không cần áp dụng lý thuyết vào việc phê bình, nhưng người l
àm
công tác phê bình học thuật thì không thể không biết và không v
ận
dụng lý thuyết vào việc phê bình. (Mặc dù v
ẫn biết “nghệ thuật nói
chung và nghệ thuật nhiếp ảnh nói riêng nằm ngoài định nghĩa” v
à
trong đời sống không có lý thuyết nào có thể ôm trọn được toàn b
ộ
thực tế sáng tạo). Bởi vậy những người viết phê bình h
ọc thuật không
chỉ dựa vào năng khiếu mà họ còn phải học tập, được đào tạo và tự đ
ào
tạo, tức là họ phải có chuyên môn (mặc dù có thể họ không chuy
ên
nghề). Và trong một chừng mực nào đó những bài phê bình h
ọc thuật
có thể trở thành một “sáng tác độc lập” và nó quay tr
ở lại phục vụ cho
công tác sáng tạo, đồng thời thúc đẩy, soi sáng con đư
ờng sáng tạo của
các nhà nhiếp ảnh… Tuy nhiên, điều đáng tiếc là bên cạnh rất nhiều b
ài
phê bình nhiếp ảnh dạng báo chí đăng tải trên Tạp chí Nhiếp ảnh v
à
Website của Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam thì những bài vi
ết mang
tính học thuật của những người có chuyên môn l
ại chiếm một vị trí
khiêm nhường…
Nhiếp ảnh du nhập vào Vi
ệt Nam từ năm 1869 (đánh dấu bằng sự ra
đời của hiệu ảnh “Cảm hiếu đường” của cụ Đặng Huy Tr
ứ tại phố
Thanh Hà, Hà Nội). Đến ngày 15/3/1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đ
ã ký
Sắc lệnh thành lập “Doanh nghiệp Quốc gia Chiếu bóng và Ch
ụp ảnh
Việt Nam”. Việc ban hành Sắc lệnh là sự khẳng định của Nhà nư
ớc
Việt Nam đối với hai loại hình văn hóa mới: Điện ảnh và Nhi
ếp ảnh.
Đ
ầu tháng 12 năm 1965, Đại hội Hội nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam lần
thứ nhất được tổ chức trọng thể tại Thủ đô Hà N
ội. Tính đến thời điểm
này, Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam đã kết nạp được 843 hội vi
ên,
trong đó có 87 hội viên được phong tư
ớc hiệu Nghệ sĩ Nhiếp ảnh xuất
sắc (EVAPA), 6 hội viên được phong tư
ớc hiệu Nghệ sĩ Nhiếp ảnh đặc
biệt xuất sắc (EVAPA/G) và 6 hội viên được phong tước hiệu nh
à
Nghiên cứu Lý luận phê bình Nhiếp ảnh (PS.VAPA).
Trong việc hội nhập quốc tế, đặc biệt từ sau khi đất nư
ớc thống nhất,
Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam đã mở rộng, giao lưu đ
ối ngoại trong
lĩnh vực nhiếp ảnh với nhiều nước trên th
ế giới. Đặc biệt năm 1991,
Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam đã gia nhập Liên đoàn Nhi
ếp ảnh
Nghệ thuật Quốc tế (FIAP). Và tính đến nay, có 130 hội viên H
ội Nghệ
sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam trở thành hội viên Liên đoàn Nhi
ếp ảnh Nghệ
thuật Quốc tế (trong đó có 42 hội viên được phong tước hiệu EFIAP v
à
2 hội viên được phong tước hiệu MFIAP). Và trong nh
ững năm gần
đây, không một năm nào các nghệ sĩ nhiếp ảnh Việt Nam không đư
ợc
vinh danh trên trường quốc tế.
Có thể nói, trong lĩnh vực sáng tác, nhiếp ảnh Việt Nam đã kh
ẳng định
được vị trí của mình. Tuy nhiên, nền nhiếp ảnh Việt Nam có phải l
à
một nền nghệ thuật bền vững khi lĩnh vực nghiên cứu lý luận ph
ê bình
– một lĩnh vực quan trọng, được coi là kim chỉ lam dẫn đư
ờng cho lĩnh
vực sáng tác, thúc đẩy quá trình sáng tác thì lại bị “tê liệt”? Làm th
ế
nào để lĩnh vực nghiên cứu lý luận phê bình nhi
ếp ảnh thực hiện đúng
vai trò, chức năng và nhiệm vụ của mình? Làm thế nào để tránh t
ình
trạng đội ngũ sáng tác muốn bước đi, những bước đi vững chắc nh
ưng
lại không có người định hướng? Câu hỏi xin đặt ra cho những ngư
ời
làm công tác nghiên cứu lý luận phê bình, Ban Lý luận -
Phê bình và
Ban Chấp hành Hội Nghệ sĩ Nhiếp ảnh Việt Nam.
Tài liệu khảo cứu:
1. Hội thảo Lý luận phê bình nhiếp ảnh, lần thứ Nhất, Nhiệm kỳ 2005 –
2010 (Hội NSNAVN).
2. Lịch sử nhiếp ảnh Việt Nam (NXB Văn hóa Thông tin)
3. Nhận diện phê bình và giải pháp (NXB Sân khấu)
4. Tạp chí Nhiếp ảnh