Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Đảng cầm quyền nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong thời kỳ đổi mới tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.34 KB, 25 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng,
là hạt nhân chính trị lãnh đạo mọi mặt ở cơ sở. Tổ chức cơ sở Đảng (TCCSĐ)
có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối
của Đảng ở cơ sở và góp phần hoàn thiện đường lối của Đảng. Vì vậy, coi
trọng xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các TCCSĐ
là nội dung cơ bản, là vấn đề có tính quy luật trong xây dựng, đổi mới và
chỉnh đốn Đảng của các Đảng Cộng sản trên thể giới cũng của Đảng ta trong
giai đoạn cách mạng hiện nay.
Từ khi ra đời đến nay (03/02/1930); Đảng ta đặc biệt quan tâm đến
công tác Tổ chức xây dựng Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của TCCSĐ. Qua mỗi bước phát triển của cách mạng, qua mỗi kỳ Đại hội
Đảng, vấn đề xây dựng, củng cố TCCSĐ đều được tổng kết và nâng lên một
tầng cao mới. Do đó, công tác xây dựng Đảng đã đạt được nhiều kết quả tích
cực; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng
lên; phương thức lãnh đạo của Đảng từng bước được đổi mới; vai trò lãnh đạo
của Đảng được giữ vững, niềm tin của nhân dân đối với Đảng ngày càng được
củng cố; đội ngũ cán bộ, lãnh đạo, quản lý các cấp đã có bước trưởng thành
và tiến bộ về nhiều mặt. Những thành tựu đạt được trong hơn 25 năm đổi mới
là thành quả của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta; trong đó có sự đóng
góp to lớn của các cấp ủy, TCCSĐ trong toàn Đảng ta.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác xây dựng Đảng vẫn còn
tồn tại không ít hạn chế, yếu kém, thậm chí có những yếu kém khuyết điểm
kéo dài qua nhiều nhiệm kỳ chậm được khắc phục, làm giảm sút lòng tin của
nhân dân đối với Đảng; nếu không được sửa chữa kịp thời sẽ là thách thức đối
với vai trò lãnh đạo của Đảng và sự tồn vong của chế độ . Trước yêu cầu của
công cuộc đổi mới, đòi hỏi Đảng ta, các TCCSĐ phải tự đổi mới, tự chỉnh


đốn; củng cố xây dựng đội ngũ để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu,


đủ sức để giải quyết những vấn đề nảy sinh từ cơ sở. Do đó Đảng ta phải
thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng. Nghị quyết Trung ương 4 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện
nay” đã đề cập đến nhiều nội dung quan trọng trong công tác xây dựng Đảng.
Trong đó, nhóm giải pháp về tổ chức, cán bộ và sinh hoạt đảng đã được nhấn
mạnh: “Chấn chỉnh tổ chức, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, đảng bộ; thực hiện
nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình”.

Với vị trí, vai trò quan trọng của các TCCSĐ, để đóng góp vào việc
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của TCCSĐ nhằm đáp ứng yêu cầu
sự nghiệp đổi mới hiện nay; trên cơ sở vận dụng những nguyên lý của chủ
nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng vào thực tiễn.
Học viên chọn đề tài “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tô
chức cơ sở đảng trong thời kỳ đôi mới” làm tiểu luận học phần môn Lý luận
Đảng cầm quyền.
2. Kết cấu đề tài:
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo;
đề tài gồm có 3 chương, 9 tiết và các tiểu mục:
Chương I: Những vấn đề lý luận về tổ chức cơ sở đảng.
Chương II: Thực trạng tổ chức cơ sở đảng ở nước ta.
Chương III: Một số quan điểm, phương hướng nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong thời gian tới.

2


NỘI DUNG
Chương I

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
1.1. Khái niệm tổ chức cơ sở đảng.
Theo website “dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn” của Viện Từ điển
học và bách khoa toàn thư Việt Nam thì tổ chức cơ sở đảng là: “hình thức nền
tảng trong hệ thống tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam. Gồm các chi bộ,
đảng bộ, được thành lập ở các đơn vị cơ sở: đơn vị hành chính (xã, phường,
thị trấn), đơn vị sự nghiệp (trường học, bệnh viện, viện nghiên cứu khoa học,
vv.), đơn vị kinh tế (công ti, hợp tác xã, ngân hàng, vv.), cơ quan hành chính,
đơn vị vũ trang, vv; đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp uỷ: huyện, quận, thị
xã, thành phố trực thuộc tỉnh”.
Điều 21. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (Được Đại hội đại biểu
toàn Quốc lần thứ XI của Đảng thông qua ngày 19 tháng 01 năm 2011)
“1. Tổ chức cơ sở đảng (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của
Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
2. Ở xã, phường, thị trấn có từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ
chức cơ sở đảng (trực thuộc cấp uỷ cấp huyện). Ở cơ quan, doanh nghiệp,
hợp tác xã, đơn vị sự nghiệp, đơn vị quân đội, công an và các đơn vị khác có
từ ba đảng viên chính thức trở lên, lập tổ chức đảng (tổ chức cơ sở đảng hoặc
chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở); cấp uỷ cấp trên trực tiếp xem xét, quyết
định việc tổ chức đảng đó trực thuộc cấp uỷ cấp trên nào cho phù hợp; nếu
chưa đủ ba đảng viên chính thức thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng
viên sinh hoạt ở tổ chức cơ sở đảng thích hợp.
3. Tổ chức cơ sở đảng dưới ba mươi đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có
các tổ đảng trực thuộc.
4. Tổ chức cơ sở đảng có từ ba mươi đảng viên trở lên, lập đảng bộ cơ
sở, có các chi bộ trực thuộc đảng uỷ” (3, tr 35- 36).
3


Như vậy, tổ chức cơ sở đảng là cấp thấp nhất trong hệ thống tổ chức

theo 4 cấp của Đảng; là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
1.2. Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng .
Trên cơ sở những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kinh nghiệm của các đảng anh em và kinh nghiệm thực tiễn lãnh đạo
cách mạng của mình, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định TCCSĐ là nền tảng
của Đảng, là hạt nhân chính trị cơ sở.
1.2.1. Tô chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng.
Về tổ chức, Đảng được xây dựng và phát triển từ các chi bộ, đảng bộ
cơ sở, nơi trực tiếp gắn bó với quần chúng, thường xuyên tìm hiểu, nắm bắt
nguyện vọng, tâm tư tình cảm của nhân dân; giáo dục, hướng dẫn và tổ chức
nhân dân thực hiện thắng lợi nghị quyết của Đảng. Đồng thời, chi bộ cơ sở,
đảng bộ cơ sở cũng là nơi lựa chọn, bồi dưỡng những quần chúng ưu tú để bổ
sung vào hàng ngũ của Đảng. Chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở là gốc rễ của Đảng.
Tổ chức cơ sở đảng có vững mạnh thì Đảng mới vững mạnh.
Về hoạt động lãnh đạo; tổ chức cơ sở đảng vừa là nơi trực tiếp tổ
chức việc thực hiện đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, vừa là
nơi góp phần quan trọng vào việc hình thành, phát triển những chủ
trương, chính sách của Đảng bằng những sáng kiến, bằng trí tuệ của
đảng viên và quần chúng. Thực tiễn phong phú, sinh động ở cơ sở là một
trong những điều kiện quan trọng để hình thành nên trí tuệ của Đảng ta.
1.2.2. Tô chức cơ sở đảng là hạt nhân chính trị ở cơ sở.
Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính
trị nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nhưng là bộ phận giữ vị trí, vai
trò lãnh đạo hệ thống đó. Chính sự lãnh đạo đó đã đảm bảo cho mọi hoạt động
của hệ thống chính trị ở cơ sở theo đúng định hướng chính trị của Đảng.
Vị trí hạt nhân chính trị của tổ chức cơ sở đảng thể hiện ở vai trò đoàn
kết và lãnh đạo toàn diện các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở, kiên định mục
tiêu độc lập dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và
4



tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định nguyên tắc tập trung dân chủ. Đồng thời, tổ
chức cơ sở đảng còn là nơi giáo dục, tổ chức, động viên quần chúng nhân dân
thực hiện có hiệu quả cương lĩnh chính trị, đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, góp phần xây dựng một nước Việt Nam dân giàu,
nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
Chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở phải là trung tâm quy tụ, tập hợp được mọi
lực lượng quần chúng ở cơ sở thành khối đại đoàn kết, thống nhất ý chí và
hành động, tạo ra sức mạnh tổng hợp để hoàn thành mọi nhiệm vụ chính trị ở
cơ sở.
Tổ chức cơ sở đảng sẽ không làm tốt vai trò hạt nhân chính trị mình
nếu không quán triệt đầy đủ đường lối, chính sách của Đảng, vi phạm Điều lệ
Đảng, không làm tốt công tác xây dựng Đảng, quản lý đảng viên, nội bộ mất
đoàn kết, xa rời quần chúng, bị lôi cuốn vào những việc làm tự phát, coi
thường kỷ cương, pháp luật của Nhà nước; sinh hoạt đảng và chất lượng đảng
viên ở đó yếu kém.
1.3. Chức năng của tổ chức cơ sở đảng.
- Chi bộ, đảng bộ cơ sở có chức năng lãnh đạo thực hiện các nhiệm vụ
và hoạt động ở cơ sở theo đúng đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước, lãnh đạo công tác phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an
ninh… đạt hiệu quả.
- Chi bộ, đảng bộ cơ sở có chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị đối
với chính quyền, đoàn thể, các tổ chức kinh tế, sự nghiệp, công tác và các
tầng lớp nhân dân ở cơ sở.
- Mỗi chi bộ trực thuộc đảng ủy cơ sở là một bộ phận không tách rời
của đảng bộ cơ sở, chính vì vậy mọi hoạt động của đảng bộ cơ sở diễn ra
thường xuyên và chủ yếu ở các chi bộ. Chi bộ có mạnh thì nền tảng của Đảng
mới vững.

5



- Để thực hiện đúng chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở,
chi bộ phải đoàn kết và lãnh đạo các tổ chức và tổ chức quần chúng chấp hành
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
1.4. Nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng.
- Điều lệ Đảng (Điều 23) quy định tổ chức cơ sở đảng có 5 nhiệm vụ cơ
bản sau:
“1. Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo
thực hiện có hiệu quả.
2. Xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, nâng cao
chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật
và tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn
luyện và quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng,
tính chiến đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển
đảng viên.
3. Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế, hành chính, sự
nghiệp, quốc phòng an ninh và các đoàn thể chính trị - xã hội trong sạch,
vững mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân.
4. Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần
và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây
dựng đời sống vật chất và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước.
5. Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các nghị quyết, chỉ thị của Đảng
và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra tổ chức
đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Đảng uỷ cơ sở nếu được cấp ủy cấp trên trực tiếp uỷ quyền thì được

quyết định kết nạp và khai trừ đảng viên” (3, tr 39-40).
6


1.5. Sự thống nhất hai mặt của một vấn đề “nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tô chức cơ sở đảng”.
Trước hết, ta cần hiểu năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở đảng là gì? Trong cụm từ này là có hai ý nghĩa cần phải hiểu.
Ý nghĩa thứ nhất, năng lực lãnh đạo là gì? Tại sao phải Đảng phải có
năng lực lãnh đạo? Năng lực lãnh đạo là muốn nói đến khả năng lãnh đạo của
Đảng bằng đường lối, Nghị quyết, bằng phương thức lãnh đạo, tức là trí tuệ
của Đảng. Đảng là một cơ thể sống, năng lực lãnh đạo chính là khả năng làm
việc của cơ quan chỉ huy cũng giống như ở con người là khả năng làm chủ
bản thân và điều khiển hành vi của mình đó là “bộ óc”.
“Bộ óc” của Đảng ở cơ sở chính là cơ quan lãnh đạo của tổ chức cơ sở
đảng, cao nhất là Đại hội Đảng bộ hoặc Đại hội Đại hội đảng viên cơ sở, bộ
phận được giao nhiệm vụ thường trực lãnh đạo công tác ở cơ sở là Cấp ủy
Đảng. Năng lực lãnh đạo là một trong hai mặt thống nhất của một vấn đề, yếu
tố đó hợp thành năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng.
Năng lực lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng là khả năng ra các quyết định
lãnh đạo, khả năng làm chủ của Đảng đối với hệ thống chính trị ở cơ sở, khả
năng cụ thể hóa các đường lối, nghị quyết của cấp trên.
Ý nghĩa thứ hai, sức chiến đấu của Đảng là gì? Tại sao phải Đảng
phải có sức chiến đấu? Sức chiến đấu của Đảng chính là sức mạnh vật chất
mà Đảng có được, điều đó được thể hiện ở phương diện tổ chức của Đảng, là
tính chặt chẽ và nghiêm minh về tổ chức, là yếu tố con người của Đảng. Sức
chiến đấu của Đảng là khả năng thực hiện các quyết sách lãnh đạo bằng hoạt
động, khả năng bảo vệ chính trị nội bộ, bảo vệ cán bộ, đảng viên của Đảng.
Nếu như năng lực lãnh đạo là “bộ óc” của Đảng thì sức chiến đấu là
sức mạnh cơ bắp của Đảng, sức mạnh cơ bắp ấy làm cho Đảng có thể nằm gai

nếm mật trong những thời kì khó khăn, thử thách và khả năng hoàn thành
nhiệm vụ chính trị trong khi đã có chính quyền. Đảng phải có sức mạnh đó là

7


sức mạnh của tổ chức, sức mạnh của sự thống nhất về mặt con người. Chính
sức mạnh đó tạo cho Đảng ta một năng lực hoạt động thực tiễn.
Như vậy, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là sự thống nhất
hai mặt của một vấn đề có ý nghĩa sống còn cho Đảng. Sự thống nhất biện
chứng đó tạo cho Đảng ta có một sức mạnh toàn diện: sức mạnh trí tuệ và sức
mạnh vật chất, sự tác động qua lại hỗ trợ nhau trong quá trình Đảng thực hiện
vai trò lãnh đạo của mình.

8


Chương II
THỰC TRẠNG CỦA TỔ CHỨC CƠ SƠ ĐẢNG HIỆN NAY
2.1. Ưu điểm của tổ chức cơ sở đảng.
Đại hội XI của Đảng đã khẳng định vai trò rất quan trọng của tổ chức cơ
sở đảng, đã chỉ ra phương hướng xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng; nâng
cao chất lượng đội ngũ đảng viên. Với chủ đề của Đại hội là: “Tiếp tục nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc,
đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng đến năm 2020 nước ta cơ
bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại” (2, tr 14)
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X trình
tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã chỉ rõ:
“Việc củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức
đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên đạt được một số kết quả; chú

trọng hơn xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở đảng ở những vùng, lĩnh vực
trọng yếu, có nhiều khó khăn. Chức năng, nhiệm vụ các loại hình tổ chức cơ
sở đảng được xác định phù hợp hơn. Công tác phát triển, quản lý, nâng cao
chất lượng đảng viên được quan tâm chỉ đạo. Số lượng đảng viên mới kết nạp
hằng năm đều tăng; tỉ lệ đảng viên mới kết nạp trong độ tuổi thanh niên,
đảng viên nữ, người dân tộc thiểu số, trí thức tăng hơn khoá trước. Sau hơn
hai năm triển khai thực hiện Quy định số 15-QĐ/TW ngày 28-8-2006 của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) về đảng viên làm kinh tế tư nhân,
đã có nhiều đảng viên trước đây công tác ở các cơ quan đảng, nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội, lực lượng vũ trang, doanh nghiệp nhà nước, tham gia
phát triển kinh tế tư nhân để làm giàu chính đáng cho bản thân, đóng góp
tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội.
Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được các cấp uỷ, tổ chức đảng quan
tâm chỉ đạo; tiếp tục giải quyết những vấn đề lịch sử chính trị, đồng thời chú
trọng nắm và giải quyết vấn đề chính trị hiện nay.
9


Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới, vừa bảo đảm
sự lãnh đạo của Đảng, vừa phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các
tổ chức trong hệ thống chính trị. Việc mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng
được chú trọng; đã thí điểm chủ trương đại hội đảng bầu trực tiếp ban
thường vụ, bí thư, phó bí thư. Phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan
lãnh đạo Đảng từ trung ương đến cơ sở tiếp tục được cải tiến theo hướng sâu
sát cơ sở, gần gũi nhân dân, tăng cường đôn đốc, kiểm tra, giám sát” (2, tr
163- 165).
Có được những kết quả tiến bộ đó là do sự nỗ lực phấn đấu của toàn
Đảng, toàn dân trong việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, cụ thể là:
Thứ nhất, nhiều cấp ủy viên và cán bộ, đảng viên đã được rèn luyện,
thử thách, trưởng thành qua thực tiễn công tác; kiên định lập trường giai cấp

công nhân, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và
đường lối đổi mới của Ðảng; gương mẫu thực hiện quan điểm, đường lối của
Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, hoàn thành nhiệm vụ được giao;
trong đó, nhiều cán bộ trẻ được đào tạo cơ bản, có phẩm chất, năng lực tốt,
từng bước thích ứng với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
yêu cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới. Công tác kết nạp đảng viên được cấp ủy
các cấp quan tâm chỉ đạo và đạt được một số kết quả tích cực.
Thứ hai, do sự quan tâm chỉ đạo, lãnh đạo của Ban Chấp hành Trung
ương, các cấp ủy đã nhận thức đầy đủ hơn về vai trò của tổ chức cơ sở đảng,
đồng thời ra những nghị quyết, chủ trương lớn về công tác xây dựng tổ chức
cơ sở đảng vững mạnh.
2.2. Một số tồn tại, hạn chế.
Bên cạnh thành tựu, công tác xây dựng Đảng còn một số tồn tại hạn
chế, yếu kém, chậm được khắc phục:
Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được
một số vấn đề về đảng cầm quyền, về Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
Chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của
10


công tác tư tưởng còn hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu,
thủ đoạn “diễn biến hoà bình”. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo
đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng
tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được
ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hoá
giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều
ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự
ổn định, phát triển của đất nước. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa thực sự đi vào chiều sâu, ở một số nơi còn
mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, làm theo chưa đạt yêu cầu.

Tổ chức của một số cơ quan Đảng, Nhà nước và tổ chức chính trị - xã
hội chưa thực sự tinh gọn, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ chưa
rõ ràng. Việc đổi mới công tác cán bộ còn chậm; thiếu cơ chế, chính sách cụ
thể để thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán bộ, phát hiện và sử dụng
người tài; chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu.
Tình trạng chạy chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương
chưa được khắc phục. Công tác cán bộ thiếu tầm nhìn xa. Chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ thấp. Môi trường làm việc, chính sách cán bộ chưa tạo được
động lực để khuyến khích, thu hút, phát huy năng lực, sự cống hiến của cán
bộ; chưa cổ vũ ý chí phấn đấu vươn lên, sự gắn bó, tận tụy của cán bộ đối với
công việc.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp;
công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội
dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu. Việc xây dựng tổ
chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài còn chậm, vai trò của tổ chức đảng ở đây mờ nhạt. Động cơ phấn
đấu vào Đảng của một số người có biểu hiện lệch lạc, cơ hội.

11


Việc xử lý, sử dụng và quản lý cán bộ, đảng viên có vấn đề lịch sử
chính trị còn phiến diện, thiếu chặt chẽ. Việc xem xét, giải quyết những vấn
đề chính trị hiện nay của cán bộ, đảng viên còn lúng túng. Nhiều cấp uỷ, tổ
chức đảng chưa quan tâm chỉ đạo đúng mức công tác này.
Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và
thi hành kỷ luật đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao;
chưa coi trọng việc kiểm tra, giám sát thực hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị,
nghị quyết, thi hành Điều lệ Đảng, kiểm tra, giám sát phòng ngừa tiêu cực và

phát huy nhân tố tích cực. Nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ
chức đảng chậm được phát hiện. Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy
thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ,
đảng viên. Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều tổ chức đảng không nghiêm. Sự đoàn
kết, nhất trí ở không ít cấp uỷ chưa tốt.
Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể chính trị - xã hội trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới.
Chức năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, ban cán sự đảng chưa được xác định rõ
ràng, cụ thể nên hoạt động còn lúng túng. Phong cách, lề lối làm việc đổi mới
chậm; hội họp vẫn nhiều. Nguyên tắc tập trung dân chủ còn bị vi phạm, ảnh
hưởng đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Có thể nêu ra một số điểm đáng lưu ý về tình hình tổ chức cơ sở đảng
không mấy khả quan hiện nay:
Một là, việc xây dựng tổ chức đảng, phát triển đảng viên ở một số địa
bàn, lĩnh vực, đơn vị còn gặp nhiều khó khăn. Hiện nay, vẫn còn nhiều thôn,
làng, ấp, buôn, bản, tổ dân phố, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp 100%
vốn nước ngoài chưa có chi bộ, chưa có đảng viên nhưng việc kết nạp đảng
viên gặp nhiều khó khăn, chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Thực
hiện chủ trương cổ phần hoá, các doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công
ty cổ phần mà chủ yếu Nhà nước không giữ cổ phần chi phối, những doanh
nghiệp mà chủ tịch hội đồng quản trị, giám đốc không phải người trong doanh
12


nghiệp, không phải là đảng viên hoặc là đảng viên nhưng không tham gia cấp
uỷ thì tổ chức đảng hoạt động gặp nhiều khó khăn, vai trò, vị trí của tổ chức
cơ sở đảng bị giảm sút.
Hai là, hệ thống và mô hình tổ chức của tổ chức đảng, các tổ chức
trong hệ thống chính trị ở nhiều cơ sở chưa đồng bộ, thống nhất. Ở xã, mô
hình tổ chức của các chi bộ cơ bản thống nhất và đồng bộ với tổ chức chính

quyền, các đoàn thể quần chúng nhưng lại có nhiều chi bộ thôn quá đông
đảng viên. Ở phường, có nơi lập chi bộ theo tổ dân phố, có nơi lập theo khu
phố; tổ chức của chi bộ không đồng bộ với các đoàn thể quần chúng trên địa
bàn. Nhiều thôn, khu phố, cụm dân cư đông đảng viên phải thành lập nhiều
chi bộ nhưng không lập đảng bộ bộ phận, việc lãnh đạo đối với các chi bộ và
tổ chức chính quyền, các đoàn thể quần chúng trên địa bàn dân cư bị chia cắt.
Nhiều đảng bộ cơ sở ở cơ quan, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp hoạt động
phân tán trên địa bàn nhiều tỉnh, thành phố nhưng tổ chức đảng và các đoàn
thể quần chúng nơi trực thuộc ngành dọc, nơi trực thuộc cấp uỷ địa phương,
công tác xây dựng đảng không gắn với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị
và các đoàn thể quần chúng. Một số tập đoàn kinh tế và tổng công ty hoạt
động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, phạm vi hoạt động trong cả
nước nhưng tổ chức đảng ở công ty mẹ và các công ty thành viên lại trực
thuộc nhiều cấp uỷ khác nhau; công tác xây dựng đảng chưa gắn với lãnh đạo
thực hiện nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh.
Ba là, công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cấp uỷ viên và
việc bố trí bí thư cấp uỷ cơ sở chưa đáp ứng yêu cầu. Nội dung, chương trình
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cấp uỷ viên, bí thư chi bộ và
cán bộ chủ chốt chưa coi trọng bồi dưỡng về kỹ năng, nghiệp vụ và kinh
nghiệm xử lý các tình huống thường xảy ra ở cơ sở. Khi có những vấn đề
phức tạp xảy ra ở cơ sở và thuộc trách nhiệm của cơ sở, phần lớn cán bộ lúng
túng, bị động và không giải quyết dứt điểm. Một số cơ quan, đơn vị sự
nghiệp, doanh nghiệp có đông đảng viên nhưng không có cấp uỷ viên hoặc
13


cán bộ chuyên trách công tác đảng. Hầu hết bí thư cấp uỷ đều kiêm nhiệm, ít
được bồi dưỡng kỹ năng, nghiệp vụ nên hạn chế chất lượng, hiệu quả của
công tác xây dựng đảng ở cơ sở.
Bốn là, đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở xã, phường, thị trấn còn yếu

và chưa đáp ứng yêu cầu; chế độ, chính sách đối với cán bộ còn nhiều bất
cập. Còn nhiều cán bộ, công chức cơ sở chưa được đào tạo cơ bản và có hệ
thống. Tỷ lệ cán bộ chưa đạt tiêu chuẩn còn cao (trên 50%). Một số cán bộ
chủ chốt ở xã, phường, thị trấn tuổi cao, năng lực hạn chế nhưng chưa đủ điều
kiện về tuổi và năm công tác để nghỉ chế độ, nên không bố trí được cán bộ trẻ
thay thế. Một số cán bộ chủ chốt ở cơ sở yếu kém về phẩm chất, năng lực, cấp
trên phải điều động, tăng cường, luân chuyển cán bộ về, nhưng cơ quan cấp
trên không được bổ sung biên chế, dẫn đến thiếu người làm việc. Trong khi
đó, nhiều cán bộ chủ chốt ở cơ sở tuổi còn trẻ, đã được đào tạo cơ bản, có
phẩm chất, năng lực và khả năng phát triển, nhưng không bố trí công tác ở
cấp huyện được. Chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức cơ sở còn có
những điểm chưa phù hợp, nhất là chế độ tiền lương giữa cán bộ bầu cử với
công chức chuyên môn, vấn đề chính sách bảo hiểm xã hội. Việc quyết định
số lượng và mức phụ cấp đối với cán bộ không chuyên trách do hội đồng
nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định, nên nhiều địa
phương quyết định mức phụ cấp khác nhau và quyết định một số chức danh
ngoài Nghị định 121 của Chính phủ, tạo sự chênh lệch giữa các địa phương.
Năm là, công tác quản lý, kiểm tra, giám sát đảng viên còn bị buông
lỏng, chất lượng đội ngũ đảng viên còn nhiều hạn chế, yếu kém. Trong điều
kiện phát triển kinh tế thị trường và mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng sâu rộng, nhiều mối quan hệ xã hội của cán bộ, đảng viên diễn ra ở ngoài
cơ quan, đơn vị và ngoài giờ làm việc. Nhiều vụ việc tiêu cực, tham nhũng
liên quan đến phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên
nhưng lãnh đạo cơ quan, đơn vị và cấp uỷ, chi bộ không biết, không có biện
pháp giúp đỡ, ngăn chặn kịp thời. Một số đảng viên hiện đang làm việc trong
14


doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chưa công khai
mình là đảng viên với chủ doanh nghiệp. Hằng năm, số đảng viên được kết

nạp nhiều nhưng số đảng viên được kết nạp ở địa bàn dân cư, là công nhân,
lao động trong các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn rất ít. Nhiều chi
bộ thôn, xóm, tổ dân phố, khu dân cư có trên 100 đảng viên, nhưng không có
địa điểm sinh hoạt thích hợp, việc sinh hoạt của chi bộ và các đoàn thể quần
chúng gặp khó khăn. Việc tổ chức học tập, quán triệt các nghị quyết, chỉ thị
của Đảng, pháp luật của Nhà nước còn hình thức, hiệu quả thấp.
Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trên như Nghị quyết 22 Hội
nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa X) đã chỉ rõ:
“Trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế, do chưa lường hết tác động bởi mặt trái
của cơ chế thị trường nên công tác xây dựng Ðảng nói chung, xây dựng Ðảng
ở cơ sở nói riêng tuy đã được đổi mới nhưng chưa theo kịp sự biến đổi của
tình hình; chưa quan tâm đúng mức đến công tác nghiên cứu lý luận, thiếu dự
báo về công tác xây dựng Ðảng trong tình hình mới để đề ra nội dung, biện
pháp thiết thực…”. Việc ban hành các quy định, hướng dẫn của Trung ương
về công tác xây dựng Đảng còn thiếu đồng bộ, chậm và một số quy định,
hướng dẫn còn chưa sát thực tế. Bên cạnh đó, vấn đề rất lớn là chế độ chính
sách đối với cán bộ, đảng viên, cấp ủy viên còn bất cập khiến họ chưa yên
tâm công tác.

15


Chương III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ NÂNG CAO NĂNG LỰC

LÃNH ĐẠO VÀ SỨC CHIẾN ĐẤU CỦA TỔ CHỨC
CƠ SỞ ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
3.1. Quan điểm, phương hướng của Đảng về nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng.

Quan điểm, phương hướng của Đảng ta về nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng được nêu trong Nghị quyết Trung
ương 6 (lần 2) khóa VIII, văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X của Đảng.
- Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Ðảng, là cầu nối giữa Ðảng với
dân, có vị trí rất quan trọng trong hệ thống tổ chức của Ðảng. Toàn Ðảng phải
tập trung lãnh đạo, chỉ đạo để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng; bảo đảm sự lãnh đạo của Ðảng trên tất cả các lĩnh vực
hoạt động của đời sống xã hội ở cơ sở, nhất là ở những địa bàn, lĩnh vực trọng
yếu, có nhiều khó khăn. Lấy hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở
làm thước đo kết quả tổng hợp của công tác xây dựng Ðảng.
- Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Ðảng với nhân dân, dựa vào
dân để xây dựng Ðảng, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị
trong việc tham gia xây dựng Ðảng. Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của
nhân dân; tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên phải chịu sự giám sát của nhân dân.
- Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức
chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng. Xây dựng tổ chức cơ sở đảng phải kết hợp
chặt chẽ với thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh", với xây dựng chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội ở
cơ sở vững mạnh, với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước
hết là bí thư đảng bộ, chi bộ, người đứng đầu và các cấp ủy viên.
3.2. Nhiệm vụ, giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng.
16


Để khắc phục những tồn tại, hạn chế nằm từng bước nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng trong thời gian tới; các cấp
ủy, tổ chức đảng cần thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, và một số giải pháp
sau:
Một là, phải tập trung chỉ đạo xây dựng tổ chức đảng, phát triển đảng

viên ở những nơi chưa có tổ chức đảng, chưa có đảng viên. Đối với các tỉnh,
thành phố còn nhiều thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố, trường học, doanh
nghiệp... chưa có tổ chức đảng, có ít hoặc chưa có đảng viên phải phân công
một bộ phận chuyên trách của cấp uỷ để theo dõi, tham mưu cho cấp uỷ trong
việc xây dựng và phát triển đảng viên ở những nơi này. Cấp uỷ cấp trên phải
chỉ đạo quyết liệt, đồng thời phân công nhiệm vụ cụ thể cho các cấp uỷ trực
thuộc, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể có liên quan trong việc xây dựng tổ
chức đảng, phát triển đảng viên ở những nơi chưa có tổ chức đảng, có ít hoặc
chưa có đảng viên.
Hai là, tiếp tục kiện toàn, sắp xếp mô hình tổ chức cơ sở đảng cho phù
hợp, gắn công tác xây dựng đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị
và lãnh đạo các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương, cơ quan, đơn vị. Phải
tiếp tục kiện toàn, sắp xếp tổ chức của hệ thống chính trị đồng bộ, thống nhất
với tổ chức của Đảng ở cơ sở, gắn công tác xây dựng đảng với thực hiện
nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Đồng thời, xây dựng các
mô hình tổ chức, phương thức hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng tính chất
đặc thù cho phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh mới, vừa tạo sự thống nhất
chung trong toàn Đảng, vừa phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng địa
phương, cơ quan, đơn vị.
Ba là, tiếp tục đổi mới nội dung và nâng cao chất lượng sinh hoạt của
chi ủy, đảng uỷ, chi bộ, đảng bộ, trong các loại hình tổ chức cơ sở đảng. Các
cấp uỷ, đảng bộ, chi bộ cơ sở và chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở phải thực
hiện nghiêm túc, có nền nếp chế độ sinh hoạt đảng theo quy định của Điều lệ
Đảng. Trên cơ sở thực hiện Chỉ thị số 10-CT/TW của Ban Bí thư về “Nâng
17


cao chất lượng sinh hoạt chi bộ”, Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về tiếp
tục đẩy mạnh việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”,
tích cực đổi mới nội dung và hình thức sinh hoạt cho phù hợp với tình hình,

đặc điểm và nhiệm vụ cụ thể của từng loại hình chi bộ. Nội dung sinh hoạt chi
bộ cần tập trung vào bàn và giải quyết những vấn đề cụ thể, thiết thực, liên
quan đến chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo của chi bộ và quyền lợi, trách nhiệm
của đảng viên; giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc xảy ra ở địa phương,
cơ quan, đơn vị thuộc phạm vi lãnh đạo của chi bộ, không bàn việc của nơi
khác, tổ chức khác. Thông qua sinh hoạt chi bộ phải giúp đảng viên hiểu và
thực hiện đúng các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thực hiện tốt
nghị quyết của chi bộ và các nghị quyết của cấp uỷ cấp trên; đề ra biện pháp
cụ thể để quản lý, theo dõi và nắm chắc tình hình tư tưởng, phẩm chất chính
trị, đạo đức, lối sống của đảng viên; đồng thời đấu tranh ngăn chặn các biểu
hiện tiêu cực, các việc làm sai trái; có cam kết với cấp uỷ cấp trên không để
xảy ra tiêu cực, tham nhũng trong chi bộ.
Bốn là, chọn ra các vấn đề cần tập trung để xây dựng, nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp uỷ cơ sở, làm cho cơ sở đủ sức giải quyết
các vụ việc xảy ra từ cơ sở; thí điểm thực hiện chủ trương nhất thể hoá cán
bộ chủ chốt ở cơ sở. Để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của cấp
uỷ cơ sở, phải nâng cao trình độ, kiến thức về văn hoá, khoa học - kỹ thuật, lý
luận chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng cho các cấp uỷ viên cơ sở.
Mỗi cấp uỷ viên, trước hết là đồng chí bí thư phải có khả năng nhận thức
đúng, đầy đủ, sâu sắc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước và các nghị quyết, chỉ thị của cấp uỷ cấp trên để vận dụng, cụ
thể hoá thành chủ trương công tác sát hợp với tình hình, đặc điểm của địa
phương, cơ quan, đơn vị mình. Biết quy tụ, tập hợp quần chúng và phát huy
được sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị cơ sở để thực hiện có kết quả
nhiệm vụ của địa phương, cơ quan, đơn vị. Xây dựng sự đoàn kết thống nhất
trong cấp uỷ, đảng bộ, chi bộ; kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện sai
18


trái về tư tưởng và hành động. Nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình,

thẳng thắn đấu tranh với những cán bộ, đảng viên có sai phạm trên tinh thần
thương yêu đồng chí, có biện pháp cụ thể để phòng ngừa sai phạm, đồng thời
giáo dục, giúp đỡ và xử lý nghiêm minh, dứt điểm đối với những cán bộ, đảng
viên có sai phạm.
Năm là, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức cơ sở xã, phường, thị trấn vững mạnh. Đổi mới nội dung,
hình thức và đẩy mạnh việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ, công chức
cơ sở xã, phường, thị trấn, nhất là đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ chuyên
trách và bí thư chi bộ. Bổ sung, hoàn thiện giáo trình bồi dưỡng cán bộ ở cơ
sở theo hướng bám sát chức năng, nhiệm vụ của từng đối tượng và chức danh
cán bộ; tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ và kỹ năng giải quyết những tình
huống thường xảy ra ở cơ sở. Kết hợp giữa đào tạo chính quy với đào tạo tại
chức; giữa nâng cao kiến thức, kỹ năng nghiệp vụ với xây dựng bản lĩnh
chính trị, đạo đức, lối sống cho cán bộ cơ sở. Chú trọng và có nội dung, hình
thức bồi dưỡng sát hợp cho số cán bộ cơ sở ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn, cán bộ người dân tộc thiểu số. Thực hiện nhất quán chủ trương
và có chính sách thu hút sinh viên tốt nghiệp đại học, cao đẳng về công tác ở
xã, phường, thị trấn, công tác ở các cơ sở sản xuất - kinh doanh, xem đây là
việc rèn luyện thực tế sau học tập, là thời gian tập sự, thử thách để sinh viên
trở thành cán bộ, công chức, là nguồn cán bộ lãnh đạo, quản lý trong tương
lai.
Sáu là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và quản lý đảng viên;
nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, dựa vào dân để xây dựng Đảng.
Thực hiện nghiêm túc quy định của Bộ Chính trị về công tác kiểm tra, giám
sát cán bộ, đảng viên ở cơ sở. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với
cán bộ, đảng viên của cấp uỷ, chi bộ nơi công tác và nơi cư trú. Tổng kết,
nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Quy định số 76- QĐ/TW của Bộ Chính trị (khoá
VIII) theo tinh thần đổi mới cho phù hợp với thực tiễn, đồng thời khắc phục
19



những hạn chế, yếu kém trong tổ chức thực hiện ở cơ sở. Quá trình đẩy mạnh
thực hiện việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, các
tổ chức cơ sở đảng tiến hành đợt sinh hoạt chính trị, tự phê bình, phê bình sâu
sắc trong Đảng và tổ chức lấy ý kiến tham gia đóng góp của nhân dân thông
qua các đoàn thể quần chúng. Biểu dương kịp thời những đảng viên tiền
phong gương mẫu, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; xử lý nghiêm những đảng
viên thiếu ý thức rèn luyện, suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống;
kiên quyết đưa những người không còn đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng.
Tiếp tục đổi mới nội dung và phương pháp đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở
đảng và đảng viên hằng năm, bảo đảm việc đánh giá đúng thực chất. Khi đánh
giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, cấp uỷ cơ sở tổ chức lấy ý
kiến của lãnh đạo các đoàn thể quần chúng về sự lãnh đạo của tổ chức đảng
và phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống, vai trò tiền phong gương mẫu của
đảng viên, nhất là đảng viên là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt. Coi trọng
chất lượng công tác kết nạp đảng viên. Chú trọng bồi dưỡng, tạo nguồn kết
nạp đảng viên là đoàn viên Đoàn TNCS Hồ Chí Minh; cán bộ khoa học và
sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng, dạy nghề; công nhân, người lao
động trong các thành phần kinh tế. Tập trung chỉ đạo phát triển đảng viên ở
những lĩnh vực và địa bàn trọng yếu; những nơi chưa có tổ chức đảng, có ít
hoặc chưa có đảng viên.
Bảy là, bổ sung, sửa đổi và ban hành mới các văn bản pháp luật, quy
định, quy chế của Bộ Chính trị, Ban Bí thư nhằm nâng cao năng lực lãnh
đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đội ngũ cán bộ,
đảng viên ở cơ sở. Tiếp tục nghiên cứu bổ sung, sửa đổi quy định về chức
năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng trong các loại hình cơ sở, nhất là
doanh nghiệp nhà nước và công ty cổ phần mà Nhà nước giữ cổ phần chi
phối, trong cơ quan, đơn vị sự nghiệp theo hướng tăng cường vai trò lãnh đạo
của tổ chức cơ sở đảng trong việc xây dựng, thực hiện nhiệm vụ sản xuất -


20


kinh doanh, nhiệm vụ chuyên môn và công tác cán bộ. Bảo đảm mọi tổ chức
cơ sở đảng đều có quy định chức năng, nhiệm vụ phù hợp.
Tám là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo; kiểm tra, giám sát giúp đỡ
của cấp uỷ cấp trên. Các cấp uỷ cấp trên, nhất là cấp uỷ cấp trên trực tiếp của
tổ chức cơ sở đảng phải đi sâu, đi sát, nắm chắc tình hình cơ sở; tăng cường
công tác chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện nhiệm
vụ chính trị ở cơ sở; phân công các uỷ viên thường vụ, cấp uỷ viên trực tiếp
phụ trách cơ sở và có trách nhiệm cùng với cấp uỷ, chính quyền, các đoàn thể
chính trị - xã hội ở cơ sở kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc; kịp
thời giải quyết dứt điểm những vấn đề mới, phức tạp nảy sinh tại cơ sở. Các
văn bản chỉ đạo, hướng dẫn cơ sở phải ngắn gọn, rõ chủ trương, nhiệm vụ và
trách nhiệm; nội dung phải cụ thể, dễ nhớ, dễ hiểu, dễ kiểm tra, giám sát và dễ
thực hiện.

21


KẾT LUẬN
Trong công cuộc đổi mới của đất nước hiện nay, tổ chức cơ sở đảng có
vị trí và vai trò rất quan trọng trong hệ thống chính trị, mọi chủ trương đường
lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước có đi vào thực tiễn được
hay không phụ thuộc rất lớn vào vị trí, vai trò và năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của các tổ chức cơ sở đảng. Trong thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam hiện nay; đấu tranh giai cấp vẫn đang tồn tại với nội dung và biểu
hiện mới. Vì thế không có lĩnh vực hoạt động nào trong xã hội không mang
tính chính trị. Tổ chức cơ sở đảng phải rất nhạy cảm, nắm vững những vấn đề
chính trị, tư tưởng, giữ vững nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng. Chúng ta

phải thường xuyên suy nghĩ, tìm mọi cách thực hiện tốt đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước; chủ động đề phòng và khắc phục mọi biểu hiện chệch
hướng Xã hội chủ nghĩa.
Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là cầu nối giữa Đảng với
nhân dân, có vị trí, vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống chính trị ở cơ sở.
Toàn Đảng tập trung mọi nỗ lực để từng bước nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, lấy hiệu quả hoạt động của hệ thống
chính trị làm thước đo hiệu quả tổng hợp của công tác Xây dựng Đảng.
Trước thực trạng của các tổ chức cơ sở đảng hiện nay, cần tiếp tục phát
huy những kết quả đã đạt được, đồng thời là việc khắc phục, hạn chế những
khuyết điểm, yếu kém vẫn đang tồn tại trên cơ sở tăng cường công tác giáo
dục chính trị, tư tưởng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính
trị vững vàng, có trí tuệ, có phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức
kỷ luật, thực sự tiền phong, gương mẫu, đủ trình độ và năng lực thực tiễn,
hoàn thành mọi nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao phó; Hoàn thiện mô
hình tổ chức các loại hình tổ chức cơ sở đảng theo hướng gắn tổ chức cơ sở
đảng với lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và lãnh đạo các tổ chức chính
trị- xã hội ở cơ sở; quan tâm thực hiện tốt công tác kết nạp đảng viên mớiđảm bảo số lượng và chất lượng; thực hiện mạnh mẽ việc trẻ hoá, tiêu chuẩn
22


hoá, thể chế hoá và từng bước nhất thể hoá chức danh cán bộ, tạo bước
chuyển có tính đột phá về công tác cán bộ công chức ở cơ sở; nâng cao chất
lượng, đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của các loại hình
tổ chức cơ sở đảng, đảm bảo vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng cường kỷ cương,
kỷ luật, khắc phục tính hình thức, đơn điệu trong sinh hoạt, bảo đảm tính lãnh
đạo, tính giáo dục, tính chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; tăng cường công tác
lãnh, chỉ đạo kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng; quản lý tốt cán bộ,
đảng viên và vận động quần chúng, nhân dân đóng góp ý kiến tham gia xây
dựng Đảng.

Thực hiện tốt những nhiệm vụ, giải pháp trên đây sẽ từng bước nâng
cao được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng;
chúng ta đã xây dựng được những tổ chức cơ sở đảng trong sạch, vững mạnh
toàn diện; tạo dựng được niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Đó là một
trong những yếu tố sống còn của Đảng ta, và để Đảng ta thật sự là Đảng
“Trong sạch, vững mạnh, là đạo đức, là văn minh”.

23


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X –

trình tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng.
2.
Đảng Cộng sản Việt Nam, [2011], Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,;
3.
Điều lệ Đảng Cộng sản việt Nam [2011], Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
4.
Giáo trình xây dựng Đảng, [2006], Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
5.
Nghị quyết số 12- NQ/TW, [2011], Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp
hành Trung ương Đảng (khóa XI) “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng
hiện nay”.


24


MỤC LỤC

25


×