Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

skkn giáo dục lối sống “đẹp” cho học sinh khối 12 trường THPT kiệm tân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.68 KB, 18 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
Phần mở đầu
I. Lí do chọn đề tài
II. Mục đích, phương pháp nghiên cứu
B. Giải quyết vần đề
I. Cơ sở lí luận
II. Cơ sở thực tiễn
III. Giải pháp
1. Vai trò của phân môn nghị luận xã hội
2. Những dạng đề văn nghị luận xã hội
3. Yêu cầu trong việc giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh
4. Giải pháp về tổ chức giáo dục
5. Giáo dục lối sống đẹp cho học sinh qua tiết dạy nghị luận
xã hội
IV. giáo án minh họa
V. Hiệu quả áp dụng
C. Kết luận
I. Bài học kinh nghiệm
II. Khả năng áp dụng
III. Đề xuất, kiến nghị
Tài liệu tham khảo

TRANG
2
2
3
4
4
5
5


5
5
6
7
9
12
15
16
16
16
16
18


A - PHẦN MỞ ĐẦU .
I . LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Giáo dục đạo đức lối sống là một bộ phận quan trọng của quá trình sư phạm. Nó
nhằm hình thành những cơ sở ban đầu về mặt nhân cách cho học sinh, giúp các em có ứng
xử đúng đắn qua các mối quan hệ đạo đức hàng ngày. Chẳng hạn như thái độ cư xử của
các em đối với ông bà, cha mẹ, mọi người xung quanh, với thầy cô giáo và bè bạn trong
lớp, qua thái độ học tập và rèn luyện hàng ngày… Đó là cơ sở quan trọng của việc hình
thành những nguyên tắc, chuẩn mực hành vi đạo đức, lối sống của học sinh THPT
Lúc sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất chú trọng đến việc bồi dưỡng và xây dựng
những con người xã hội chủ nghĩa. Trong nhiều bài viết, bài nói chuyện của mình Người
đều nhấn mạnh: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”.
Con người mới xã hội chủ nghĩa là những người có đạo đức và tri thức, là những người
vừa “hồng” vừa “chuyên”. Thực hiện lời dạy của Bác và để góp phần cùng với nhà trường
nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh, ngoài việc giảng dạy các bộ
môn văn hóa, học tập các kiến thức về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội trên lớp, học
sinh còn phải tu dưỡng và rèn luyện về đạo đức, kỹ năng sống, kỹ năng hòa nhập với cộng

đồng, kỹ năng ứng xử, … trong đó trau dồi rèn luyện đạo đức là vấn đề hàng đầu. Bởi vì
đạo đức là nền tảng của gia đình, nền tảng của xã hội và hình mẫu cho các em học sinh
học tập và rèn luyện. Đẩy mạnh việc giáo dục đạo đức học sinh thông qua các hoạt động
trong nhà trường, góp phần chuyển biến nhận thức của học sinh, qua đó giúp các em có ý
thức trong từng việc làm, từng hành động, giúp các em sống có lí tưởng, có ước mơ, nhận
thức được những cái hay, cái đẹp trong cuộc sống.
Vậy mà thực tế mấy năm trở lại đây tình trạng xuống cấp trong đạo đức, lối sống của
một bộ phận giới trẻ, trong đó có học sinh THPT (lớp người đang giữ vai trò là chủ nhân
tương lai của thế kỷ XXI) lại đang diễn ra ngày càng nghiêm trọng và chưa có những dấu
hiệu về một sự thay đổi theo hướng tích cực. Vấn đề này đã được cảnh báo từ lâu và gần
đây lại được dư luận quan tâm thông qua các phương tiện thông tin đại chúng. Chẳng hạn
như những vụ học sinh bị đánh hội đồng, bạn bè xung quanh thay vì can ngăn lại làm ngơ
và tập trung quay clip và tung lên mạng làm trò tiêu khiển. Rồi vụ một học sinh giết chết
bà ruột của mình để có tiền tặng quà noel cho bạn gái…Qua đó ta thấy rằng vấn đề xuống
cấp trong đạo đức của học sinh, sinh viên đã đến lúc báo động. Nói như tiến sĩ tâm lý học
Vũ Kim Thanh: “Nếu không có sự quan tâm đúng mức chúng ta sẽ mất cả một thế hệ”.
Như vậy việc giáo dục đạo đức cho học sinh trong giai đoạn hiện nay là một vấn đề
“Nóng” không chỉ của ngành giáo dục mà còn là của toàn xã hội..
Hiện nay tôi đang công tác tại trường THPT Kiệm Tân, một ngôi trường có tiền thân
là trường bán công. Chất lượng đầu vào dần được cải thiện nhưng vẫn còn thấp hơn rất
nhiều so với các trường khác trên địa bàn của tỉnh. Nhiều học sinh không chỉ yếu về mặt
học tập mà còn yếu về mặt ý thức kỉ luật. Thiết nghĩ không còn môi trường nào tốt hơn để
tiết chế hành vi, uốn nắn suy nghĩ cho các em ngoài môi trường giáo dục trong nhà trường.
Bản thân tôi là một giáo viên giảng dạy môn ngữ văn, một bộ môn có nội dung rất phù
hợp trong việc giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. Đặc biệt theo chương trình cải


cách giáo dục, môn ngữ văn có thêm phân môn nghị luận xã hội. Những dạng đề bài về
hiện tượng đời sống sẽ giúp các em được quyền đánh giá, bình luận, đưa ra ý kiến riêng
của bản thân. Bên cạnh đó những đề bài liên quan đến tư tưởng, tình cảm, đạo lí…sẽ giúp

các em khám phá tâm hồn mình, nhận thức được những điều tốt, xấu để rồi có hành vi
đúng đắn hơn.
Giáo dục lối sống cho học sinh là một vấn đề không mới trong mục tiêu, phương pháp
giáo dục nhưng nó cũng không bao giờ cũ đối với mỗi người giáo viên dạy văn. Tôi chọn
học sinh khối 12- những học sinh sắp rời khỏi ghế nhà trường làm đối tượng cho bài viết
của mình với mong muốn qua những tiết dạy của mình học sinh sẽ trở nên tốt hơn, “đẹp”
hơn, hình thành được những phẩm chất tôt đẹp trong hành trang bước vào một cánh của
mới của cuộc đời. Các em với suy nghĩ, hành động chín chắn sẽ tạo được uy tín cho đồng
nghiệp tương lai, thiết lập được sự tin tưởng cho những người xung quanh, và góp phần
xây dựng một xã hội ngày một “ĐẸP” hơn. Đó chính là lí do đã thôi thúc tôi chọn đề tài
“Giáo dục lối sống “ĐẸP” cho học sinh khối 12 trường THPT Kiệm Tân ”.
II. Mục đích và phương pháp nghiên cứu:
1. Mục đích:
Thực hiện đề tài này tôi có một sự kì vọng là sẽ giúp cho từng đối tượng học sinh hình
thành thói quen, kỹ năng ứng xử phù hợp với mọi thành phần trong xã hội như: Biết đi
thưa về trình đối với ông bà, cha mẹ anh chị trong gia đình. Biết tỏ thái độ thông cảm, chia
sẻ đối với những người tàn tật, những trường hợp bị bệnh hiểm nghèo. Biết lịch sự chào
hỏi người lớn khi gặp mặt. Tôn trọng, lễ phép với thầy cô giáo trong quá trình học tập, rèn
luyện . Biết phê phán những hiện tượng tiêu cực diễn ra trong đời sống. Biết tận hưởng
những giá trị đích thực của cuộc sống. Biết vươn lên sau những lần vấp ngã. Biết vượt qua
chông gai, thử thách của cuộc đời. Và cao hơn hết thảy giúp các em hiểu được chân lí của
hạnh phúc đó là mỗi người biết cống hiến cho cuộc đời. Qua đó giáo dục cho các em có lối
sống “ĐẸP”…
2. Phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này tôi kết hợp các phương pháp :
- Phương pháp thống kê,
- Phương pháp đối chiếu
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp tổng hợp
3. Đối tượng nghiên cứu
Tôi chọn học sinh khối 12 làm đối tượng cho bài nghiên cứu nhỏ của mình là có lí do

riêng. Đây là khối lớp mà các em hầu như ở độ tuổi 18- 20 , là lứa tuổi đã khá chín chắn về
suy nghĩ. Không còn bốc đồng xốc nổi như hồi mới chập chững vào lớp 10. Trái lại các em
bắt buộc phải trang bị cho mình những kĩ năng, những lối suy nghĩ tích cực, phải học cách
giải quyết vấn đề như những người lớn thực thụ…Bởi vì đó chính là những điều không thể
thiêu cho các em trong hành trang bước vào cuộc sống.


B: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lý luận của vấn đề:
Xã hội phát triển kéo theo nhiều hệ lụy như sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự
hội nhập của nhiều nền văn hóa của các nước phương tây, của lối sống thực dụng… Gia
đình, cha mẹ phải bươn chải trong công cuộc mưu sinh, bỏ quên con cái, dẫn đến sự buông
lỏng trong quản lý, điểm tựa gia đình đối với các em không còn nữa.
Đã có thời gian chúng ta chỉ coi trọng việc dạy văn hóa sao cho học sinh học thật giỏi
mà quên đi điều quan trọng là dạy cho học sinh “Học làm Người”, quên đi việc tạo cho các
em có một sân chơi với các trò chơi mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc, các em không
được cung cấp những kỹ năng sống, kỹ năng hòa nhập cộng đồng. Ngoài việc học văn hóa,
số còn lại thì không quan tâm đến mọi việc xảy ra chung quanh, lạnh lùng, vô cảm chỉ biết
sống cho riêng mình.
Thực hiện Chỉ thị số 06-CT/TW ngày 07/11/2007 của Bộ Chính trị về tổ chức “Học tập và
làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và công văn số 307/KH- Bộ GDĐT về kế hoạch
triển khai phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” như một làn
gió mới mang đến sự lạc quan và là kim chỉ nam để thôi thúc tôi thực hiện ý tưởng tổ chức xây
dựng cho học sinh lớp tôi được phân công giảng dạy
II. Cơ sở thực tiễn:
Đối với học sinh, trường học chính là nơi các em được chính thức học tập và rèn luyện
một cách nghiêm túc nhất. Bước vào trường học mỗi học sinh được tạo ra cơ hội để tiếp thu
giáo dục, ý thức đầy đủ nghĩa vụ trách nhiệm đối với toàn bộ các hoạt động học tập và rèn
luyện của bản thân. Trong môi trường mới các em được hình thành và tiếp thu các mối quan hệ
xã hội đa dạng, nhất là tiếp xúc với bạn bè xung quanh được phát triển và có định hướng rõ

ràng.
Tuy vậy, có một thực tế là nhiều em chưa thật sự nỗ lực, phấn đấu để trở thành một
học sinh phát triển toàn diện. Bên cạnh những cái hay, cái đẹp vẫn còn tồn tại những cái
xấu, cái chưa hoàn hảo. Hiện nay, vẫn còn một bộ phận học sinh có hành vi lệch chuẩn về
đạo đức như: Vi phạm luật giao thông, gây gỗ đánh nhau, thiếu tôn sư trọng đạo, chây lười
trong học tập, bỏ học, bỏ tiết, đi học trễ, nói tục, vi phạm nội quy nhà trường, vi phạm tác
phong nề nếp, thích sống hưởng thụ, thích ăn chơi hoang phí, coi nặng giá trị vật chất, lười
lao động và học tập, thiếu ý thức rèn luyện, không dám đấu tranh với cái sai… Các em
thiếu kĩ năng giải quyết mâu thuẫn dẫn tới ẩu đả gây mất trật tự trường, lớp và ngoãi xã
hội.
Riêng học sinh tại trường học tôi đang trực tiếp giảng dạy, nhiều em có hoàn cảnh gia
đình khá giả. Mới là học sinh cấp III các em đã được bố mẹ mua cho những chiếc xe tay
ga đắt tiền để tiện cho việc đi học, được trang bị những chiếc điện thoại thông minh có khi
lên tới gần 20 triệu/chiếc. Sống trong một môi trường mà mọi thứ vật chất quá đầy đủ
nhiều học sinh có tư tưởng sống dựa dẫm , ỷ lại. Các em không có chí tiến thủ, thiếu động
cơ học tập một cách nghiêm túc. Nhiều học sinh trả lời một cách ngờ nghệch mỗi khi được
hỏi ước mơ của em là gì? Hay động cơ học tập của em là gì? Tình trạng đó sẽ ảnh hưởng
vô cùng lớn tới cả một thế hệ học sinh đã kinh qua sự đào tạo của giáo viên chúng tôi.


Không những thế, được bao bọc trong sự quan tâm thái quá của gia đình nhiều em mất
đi khả năng thích nghi với hoàn cảnh, dễ nảy sinh tư tưởng bi quan, chán nản mỗi khi gặp
sự cố trong học tập cũng như trong tình cảm. Mặt khác, lối sống hiện đại dường như đã
làm một số học sinh trở nên bàng quan, thờ ơ trước những vấn đề nhức nhối của xã hội và
dễ nảy sinh suy nghĩ “việc đó đâu ảnh hưởng gì tới mình”...Đó là mầm mống của căn bệnh
vô cảm mà một bộ phận người dân Việt Nam đang mắc phải.
Đối với đội ngũ giáo viên: Với tâm huyết và lòng nhiệt tình nhiều giáoviên đã có
những cố gắng để cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, là tấm gương sáng cho học sinh về
đạo đức. Tuy nhiên vẫn còn một số ít chưa quan tâm đầy đủ đến công tác giáo dục đạo đức
cho học sinh, chưa có giải pháp thích hợp trong giáo dục đạo đức và chưa thật sự là tấm

gương sáng về đạo đức cho học sinh noi theo.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, để góp phần vào công tác giáo dục lối sống tích
cực cho học sinh trong giai đoạn hiện nay, và qua thực tiễn công tác quản lý và giảng dạy
học sinh ở trường THPT Kiệm Tân, tôi nhận thấy việc nắm rõ thực trạng và đề ra biện
pháp về công tác giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh thông qua giảng dạy môn ngữ
văn nói chung và phân môn nghị luận văn học nói riêng là một nhiệm vụ hết sức quan
trọng.
Trong khi đó, chương trình giáo dục quá nặng, chủ yếu thiên về lí thuyết khiến giáo
viên khó tìm được giải pháp hợp lí trong việc vừa đảm bảo tiến độ chương trình vừa cung
cấp cho học sinh những kĩ năng cần thiết trong giao tiếp ứng xử. Thiết nghĩ là một giáo
viên dạy ngữ văn, tại sao mình không khai thác những ưu thế của phân môn nghị luận xã
hội để bồi dưỡng cho tâm hồn các em ngày một trở nên tốt đẹp hơn? Đó là lý do tại sao tôi
chọn đề tài này.
III. Các giải pháp giải quyết vấn đề:
1. Vai trò của phân môn nghị luận xã hội:
Nhà văn M.gorki đã từng nói: “Văn học là nhân học. Nội dung cao cả nhất mà văn học
hướng tới đó là vì con người. Thế nhưng hiện nay nhiều học sinh không có niềm đam mê
với môn văn, vì các em cho rằng “học văn để làm gì?’’, “ học văn đâu kiếm được nhiều
tiền ? ”. Vì thế, giáo viên cần giúp các em hiểu hơn về bộ môn ngữ văn. Học văn đâu phải
chỉ là học những tác phẩm văn thơ? Học văn còn là học về những bài học làm người. Nếu
ở những bài học giảng văn, các em học sinh sẽ nhận ra bài học nhân sinh gửi gắm qua tác
phẩm thì những bài tập nghị luận xã hội sẽ giúp các em hình dung một cách trực tiếp về ý
nghĩa giáo giục . Để rồi từ đó có cách nhìn nhận, đánh giá tích cực về những hành vi ứng
xử hoặc những hiện tượng diễn ra xung quanh .
2. Những dạng đề văn nghị luận xã hội:
a. Nghị luận về một hiện tượng đời sống ?
- Nghị luận về một hiện tượng đời sống là bàn bạc về một hiện tượng đang diễn ra
trong thực tế đời sống xã hội mang tính chất thời sự, thu hút sự quan tâm của nhiều người
(như ô nhiễm môi trường, nếp sống văn minh đô thị, tai nạn giao thông, bạo hành gia đình,



lối sống thờ ơ vô cảm, đồng cảm và chia sẻ…). Đó có thể là một hiện tượng tốt hoặc xấu,
đáng khen hoặc đáng chê.
- Qua những vấn đề mà bài tập về hiên tượng đời sống đưa ra các em dù muốn hay
không cũng sẽ tiếp cận được , hình dung ra những gì xung quanh cuộc sống của bản thân
mình. Một học sinh dù vô cảm hay bàng quan đến bao nhiêu chăng nữa hẳn sẽ cũng dễ
dàng nhận ra hiện tượng một số người dân xả rác bừa bãi nơi công cộng. Tình trạng tai nạn
giao thông đang diễn ra hết sức nhức nhối cho toàn xã hội… Khi giáo viên cho lớp thảo
luận về một số dạng đề liên quan tới những biểu hiện tiêu cực trong giới học sinh một số
em sẽ gặp bản thân mình trong đó. Chẳng hạn như nhiều học sinh tham gia vào trào lưu
nhuộm tóc, hút thuốc hoặc gây gỗ với bạn bè chỉ để khẳng định mình trước người khác.
Xét về mặt tâm lí, nhiều em trong số đó sẽ có cảm giác “nhột” trước bạn bè. Tích cực hơn
nữa là cảm giác xấu hổ. Và ở một mức độ nào đó, các em sẽ hạn chế được phần nào những
biểu hiện chưa tốt của bản thân mình. Đó chẳng phải là mục tiêu cao nhất mà giáo dục
muốn hướng tới hay sao?
b. Nghị luận về tư tưởng đạo lí:
Tư tưởng, đạo lí trong cuộc đời bao gồm:
- Lí tưởng (lẽ sống)
- Cách sống
- Hoạt động sống
- Mối quan hệ trong cuộc đời giữa con người với con người (cha con, vợ chồng, anh em và
những người thân thuộc khác). Ở ngoài xã hội có các quan hệ trên, dưới, đơn vị, tình làng
nghĩa xóm, thầy trò, bạn bè...
Mỗi học sinh bước chân qua cánh cửa trường học đều ấn tượng ngay bởi dòng khẩu
hiệu in đậm, ngay ngắn tại mặt chính diện của ngôi trường “TIÊN HỌC LỄ, HẬU HỌC
VĂN”. Nghĩa là các em đến trường, trước hết là học cách làm người sau đó mới học kiến
thức. Con người ta sinh ra không ai là hoàn hảo. Có người tốt ở mặt này nhưng lại chưa
hoàn hảo ở mặt khác và ngược lại. Nhìn thấy một học sinh ngỗ ngược, bất cần chúng ta
không thể quy chụp rằng học sinh đó đã mất hết ý thức, không thể đào tạo. Biết đâu ẩn sau
trong cử chỉ và hành động thô lỗ đó là cả một khối tâm sự u uất. Nếu giáo viên chúng ta

kiên nhẫn một chút , thu hút các em vào trong bài học. Cho các em được nói lên suy nghĩ
của bản thân về cuộc sống, về gia đình, về ước mơ...Thì chắc hẳn các em sẽ mở rộng lòng
mình hơn, biết quan tâm đến suy nghĩ của người khác, và dần uốn nắn suy nghĩ, hành
động của bản thân cho phù hợp với tập thể nơi mình sinh sống, học tập ...
3. Yêu cầu trong việc giáo dục đạo đức lối sống cho học sinh:
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội bao gồm những nguyên tắc và chuẩn mực xã
hội, nhờ đó con người tự giác điều chỉnh hành vi cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của
mình và sự tiến bộ của xã hội trong mối quan hệ người và người và con người với tự
nhiên.
Để hình thành phẩm chất đạo đức và lối sống “đẹp” cho học sinh, công tác giáo dục
đạo đức nói chung và giảng dạy các môn giáo dục nói riêng trong nhà trường phải thực


hiện các nhiệm vụ
sau:
- Hình thành cho học sinh ý thức các hành vi ứng xử của bản thân phải phù hợp với lợi
ích xã hội; giúp học sinh lĩnh hội được một cách đúng mức các chuẩn mực đạo đức được
quy định.
- Biến kiến thức đạo đức thành niềm tin, nhu cầu của mỗi cá nhân để đảm bảo các
hành vi cá nhân được thực hiện.
- Bồi dưỡng tình cảm đạo đức, tính tích cực và bền vững, và các phẩm chất ý chí để
đảm bảo cho hành vi luôn theo đúng các yêu cầu đạo đức.
- Rèn luyện hành vi đạo đức để trở thành bản tính tự nhiên của mỗi cá nhân
và duy trì lâu bền .
Việc giảng dạy phân môn nghị luận xã hội tạo điều kiện cho học sinh tự nhận thức
khoa học, định hướng giá trị vật chất và tinh thần, tác động sâu rộng đến việc hình thành
nhân cách học sinh, giáo dục văn hóa ứng xử đúng mực.
4. Một số giải pháp về mặt phương pháp tổ chức giáo dục
4.1. Xây dựng trong nhà trường một môi trường thật tốt để giáo dục đạo đức cho
học sinh

Một trong các yếu tố góp phần hết sức quan trọng trong việc giáo dục đạo đức cho học
sinh là: cảnh quan sư phạm, làm sao để nhà trường thật sự là “nhà trường”, tự đúng nghĩa
của nó là mang yếu tố giáo dục. Giáo dục nhà trường giữ vai trò chủ đạo vì nó định hướng
cho toàn bộ quá trình giáo dục hình thành nhân cách của học sinh, khai thác có chọn lọc
những tác động tích cực và ngăn chặn những tác động tiêu cực từ gia đình và xã hội.
4.2. Công tác chỉ đạo
Để giải quyết vấn đề đặt ra là làm thế nào để nâng cao chất lượng giáo dục đạo đức cho
học sinh thông qua giảng dạy. Năm học 2016-2017 trường chúng tôi đã thực hiện tốt một
số giải pháp cơ bản sau đây :
4.2.1. Ban giám hiệu nhà trường quán triệt tốt nội dung, ý nghĩa của việc giáo dục lối
sống đạo đức cho học sinh thông qua giảng dạy các môn học cho toàn thể cán bộ giáo viên
trong nhà trường . Đạo đức, lối sống của học sinh được hình thành từ môi trường gia đình,
nhà trường và xã hội, trong đó môi trường giáo dục của nhà trường đóng vai trò quan
trọng góp phần to lớn đối với sự phát triển toàn diện của trẻ. Bản thân mỗi môn học đều
chứa đựng các yếu tố giáo dục đạo đức cho học sinh. Những bài học từ “ Năm điều Bác
Hồ dạy” là hành trang chuẩn mực về quá trình rèn luyện đạo đức cho học sinh cho đến khi
các em bước chân vào trường THPT
Không chỉ môn xã hội, các môn khoa học tự nhiên cũng mang tính giáo dục. Giáo dục
đạo đức không chỉ là những lời nói suông theo kiểu “ đao to búa lớn” mà nó thấm vào
từng trang sách bài học qua những việc làm cụ thể và những hành động thiết thực: Thầy cô
mẫu mực trước học trò, người lớn tạo niềm tin cho lớp trẻ… đó chính là những tấm gương
cho thế hệ học trò.
Việc giảng dạy môn ngữ văn nói chung và phân môn nghị luận xã hội nói riêng nhằm
hướng tới giáo dục cho học sinh lối sống “Đẹp” là một việc làm hết sức quan trọng. Giáo
viên cần phải chủ động định hướng cho mục tiêu giáo dục của mình là không phải chỉ
dừng lại ở việc rèn cho các em biết cách làm một bài văn nghị luận xã hôi để đối phó với
các kì thi. Mà cao hơn hết thảy là mục tiêu hướng các em tới những điều tốt đẹp của cuộc
sống



4.2.2. Việc giảng dạy môn ngữ văn nói chung và các tiết nghị luận xã hội nói riêng
phải chú ý đến phương pháp học tập và phong cách học tập.
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói: “ Trong công tác giáo dục , điều quan trọng
nhất là phải xây dựng được phương pháp học tập và phong cách học tập cho học sinh”.
Giáo viên cần coi trọng xây dựng nề nếp học tập bộ môn mình như thế nào để đạt
hiệu quả cao nhất. Nề nếp học tập trên lớp chính là nền tảng góp phần giáo dục đạo đức
học sinh hàng ngày. Những tiết học không có nề nếp sẽ tạo điều kiện cho học sinh vi phạm
đạo đức và khó có thể là những tiết học khá - tốt được .
Mỗi môn học lại có cách học khác nhau và có phương pháp đặc trưng riêng. Chính vì
vậy, phương pháp giảng dạy của giáo viên phải luôn đổi mới thì mới nhằm cuốn hút
được học sinh.
Để làm được điều này người giáo viên cần phải :
+ Thực hiện tốt quy chế chuyên môn, quan tâm đến các đối tượng học sinh trong lớp
+ Quá trình giảng dạy cần chú ý đến sự tự nghiên cứu chiếm lĩnh kiến thức có
phương pháp tự học của học sinh, từ đó hình thành cho học sinh nhân cách tự chủ về trí
tuệ, đạo đức.
+ Quá trình giảng dạy của giáo viên cần giảm bớt các kiến thức về mặt lí thuyết tăng
cường các kiến thức vận dụng thực tiễn, liên hệ thực tế.
+ Điểm đặc biệt trong quá trình giáo dục đạo đức học sinh là: Mỗi thày cô giáo phải là một
tấm gương thông qua các tác phong, hành vi, nề nếp… mẫu mực trong giao tiếp, ứng xử,
trong sinh hoạt lao động… . .
4.2.3. Cần xây dựng tốt mối quan hệ thầy trò trong một tiết học.
Quan hệ giữa giáo viên với học sinh là mối quan hệ tương tác, thúc đẩy nhau cùng đi
đến cái đích của tri thức. Do vậy trong vấn đề giáo dục đào tạo giáo viên cần nắm chắc
được các điểm mạnh của từng học sinh trong lớp và từng điểm yếu của các học sinh đó, từ
đó tác động tích cực bằng các biện pháp hỗ trợ, kích thích thúc đẩy những mặt mạnh và
loại bỏ, triệt tiêu những mặt yếu để học sinh tự tin hơn và có hứng thú trong học tập.
Để chấm dứt được yếu tố tự ti, ngại va chạm với các câu hỏi, để học sinh có đủ tự tin
và kỹ năng sẵn sàng tiếp nhận các câu hỏi mà giáo viên đặt ra cần làm tốt các yêu cầu sau
trong việc tạo mối quan hệ hai chiều giữa thầy và trò là:

Thứ nhất: Phải lựa chọn nội dung, phương pháp yêu cầu tiến độ sao cho phù hợp với
những đặc điểm tâm sinh lý, trình độ nhận thức năng lực tiếp thu của học sinh, khó có thể
thực hiện triệt để vấn đề cá thể hoá dạy học đến từng học sinh mà chỉ có thể chỉ hướng tới
từng nhóm học sinh: “Yếu kém”, “Trung bình” và “Khá, giỏi”, lấy nhóm trung bình để
thực hiện các yêu cầu và tiến độ của chương trình bắt buộc, còn các nhóm khác có thể có
thêm các hình thức bổ sung bằng các giờ phụ đạo, ôn tập…Tuy nhiên quá trình dạy học
cần đa dạng hoá các loại bài tập có tính chất phân hoá, bài tập liên hệ thực tế có tính giáo
dục phù hợp với nhiều nhóm học sinh, giúp học sinh vừa hoàn thành yêu cầu nội dung tối
thiểu của chương trình vừa có thể phát huy hết năng lực sở trường và lồng ghép được nội
dung giáo dục lối sống cho học sinh.
Thứ hai: Tiết dạy của giáo viên còn nhằm đạt tới mục tiêu phát huy được năng lực,
năng khiếu và nhu cầu và hứng thú của cá nhân của học sinh.
4.3.3. Quá trình giảng dạy cần coi trọng giáo dục đạo đức lối sống thông qua
giáo dục các kỹ năng cho học sinh.
- Rèn kỹ năng giao tiếp cho học sinh, kỹ năng nói đọc, viết.
Khi dạy học người giáo viên cần chú ý nói rõ ràng, phát âm chuẩn, cần biết chỗ nào trọng
tâm để nhấn mạnh, nói chậm, chỗ nào không cần thiết phải lướt nhanh để kịp thời gian.


- Khi dạy học cần theo dõi xem học sinh có chú ý lắng nghe, có hiểu vấn đề mình nói
không, giọng mình nói học sinh có nghe rõ không, mặt khác giáo viên cần lắng nghe học
sinh nói để ứng xử kịp thời những tình huống thường xảy ra ngoài dự kiến, kế hoạch của
bài giảng.
- Khi nói phải biết kết hợp điệu bộ và nét mặt một cách hài hoà để tạo ra một
không khí hấp dẫn lôi cuốn sự chú ý của học sinh.
- Cần tập luyện cho học sinh nói rõ ràng, đúng từ, đúng câu, phát âm chuẩn: Giáo viên
cần quan tâm mỗi học sinh phát biểu và lắng nghe học sinh phát biểu, chú ý về cách phát
âm, cách sử dụng câu từ trong khi trả lời.
-Trong mỗi tiết học, giáo viên phải chú ý đến rèn các đức
tính như : Tính cẩn thận, tính chính xác, tính khoa học, tính cần cù, tính sáng tạo, tính kiên

trì...v.v cho học sinh vì những đức tính quý báu này chính là nền tảng đạo đức lối sống
của con người mới XHCN.
5. Giải pháp giáo dục lối sống “ĐẸP” cho học sinh qua tiết dạy nghị luận xã hội
5.1. Giaó viên hướng dẫn học sinh các bước làm bài văn về hiện tượng đời sống và tư
tưởng đạo lí. Những kiến thức đó sẽ giúp các em triển khai bài làm văn của mình một cách
hợp lí. Kết quả cao trong các bài thi cũng phần nào khích lệ tinh thần học tập của các em.
5.2. Cho bài tập thực hành
5.2.1 Dạng đề về hiện tượng đời sống:
- Giáo viên cho học sinh thảo luận dạng đề bài thuộc những vấn đề đang rất được xã
hội quan tâm như: bệnh vô cảm, nạn xả rác bừa bãi, vấn đề thực phẩm bẩn, bảo vệ nguồn
nước sạch…
Ví dụ: Trình bày suy nghĩ của em về căn bênh vô cảm trong xã hội hiện nay?
Giáo viên hướng dẫn cách làm bài: Mỏ bài – Thân bài – Kết bài. Trong quá trình dạy các
em kĩ năng làm bài, giáo viên đặt những câu hỏi phụ để các em tự vấn bản thân mình.
Mở bài
Thời đại ngày nay là thời đại kinh tế thị trường. Sống trong xã hội đó, hàng ngày nảy sinh
ra hiện tượng nhiều người lao vào kiếm tiền, lo vun vén cho bản thân và gia đình mình mà
thờ ơ trước những vấn đề bức xúc của cuộc sống xã hội, gây nên một căn bệnh tinh thần
khá nguy hiểm: “Bệnh vô cảm” , một căn bệnh có nguy cơ lan rộng làm băng hoại đạo đức
truyền thống của dân tộc, làm ô nhiễm môi trường tốt đẹp của xã hội mới.
Thân bài
Đặt câu hỏi: em hiểu thế nào là vô cảm?
->gợi ý
“Bệnh vô cảm” là căn bệnh tâm hồn của những người có trái tim lạnh giá, không xúc
động, sống ích kỷ, lạnh lùng, cho sự an toàn của bản thân mình là trên hết. Họ thờ ơ, làm
ngơ trước những điều xấu xa, hoặc nỗi bất hạnh, không may của những người sống xung
quanh mình.
Đặt câu hỏi: Vậy theo em biểu hiện của căn bệnh vô cảm là gì?
->Gợi ý:
+ vô cảm đối với cuộc sống, xã hội; vô cảm đối với đồng loại, gia đình, người thân, bạn

bè, thậm chí vô cảm đối với chính bản thân mình.
+Đi đường gặp những người bị tai nạn, gãy tay, gãy chân hoặc nằm bất tỉnh, những kẻ vô
cảm chẳng có phản ứng nào mà chỉ biết dửng dưng chứng kiến với thái độ thờ ơ.


+Lên xe ô tô, thấy kẻ gian móc túi hoặc bọn côn đồ hành hung hành khách cũng chỉ lờ di
xem như đấy không phải chuyện của mình.
+Sống trong cơ quan trường học, chứng kiến bao chuyện ngang trái như cấp trên hối lộ,
thầy giáo ngang nhiên bạo hành học sinh, còn học sinh thì quay cóp gian lận trong thi cử,
họ cũng không mở miệng mà ngoảnh mặt làm ngơ.
+Trông thấy bạn bè đồng trang lứa bị bạo hành ngay trước cổng trường nhưng họ còn
đứng xem rồi quay clip tung lên mạng coi như không phải chuyện của mình.
+Nhiều người còn xua đuổi bố mẹ, bố mẹ ốm đau con cái không hề bận tâm….
Đặt câu hỏi:
+Em có thấy bản thân mình có biểu hiện của sự vô cảm không?
+ Nếu là người bị nạn, em cần điều gì từ những người xung quanh?
+ Em có thương bố mẹ của mình không? Đã bao giờ em nói “con yêu mẹ” chưa? Em có
bao giờ giúp mẹ làm việc nhà chưa? Khi mẹ bị ốm, em sẽ làm gì ?....
-> Những câu hỏi phụ như thế sẽ giúp các em tự vấn bản thân và từ trong sâu thẳm trái tim
sẽ nhận ra được một phần tính cách của bản thân, mức độ quan tâm đên những người xung
quanh.
Đặt câu hỏi: Nguyên nhân của bệnh vô cảm là gì?
-> Gợi ý:
+Tác động của nền kinh tế thị trường. Con người chạy theo đồng tiền, chạy theo vật chất
mà quên đi giá trị của đời sống tinh thần. Coi đồng tiền cao hơn giá trị con người.
+Một phần nữa cũng là do xã hội hiện đại quá bận rộn và đòi hỏi con người phải làm việc,
làm việc và làm việc mà bỏ quên thời gian để trao nhau hơi ấm của tình thương, để ươm
mầm cảm xúc.
Đặt câu hỏi:
+ Các thành viên trong gia đình em có hay ăn cơm cùng nhau không?

+ Gia đình em có hay tổ chức những buổi đi chơi cùng nhau không?
+ Những buổi gia đình cùng sum họp cảm giác của em như thế nào?
+ Bản thân em có gợi ý cho ba mẹ những ý tưởng về những buổi đi chơi, hay những bữa
ăn thân mật của gia đình không?
-> Nhiều khi các em phải là người chủ động hâm nóng không khí ấm áp trong gia đình.
Đặt câu hỏi: Theo em, bệnh vô cảm sẽ gây ra những hậu quả như thế nào?
->Gợi ý: Bệnh vô cảm tàn phá tâm hồn con người, mất đi tình thương giữa con người với
con người, tạo ra một cuộc sống thực dụng, lạnh lùng, đơn điệu, tẻ nhạt… Truyền thống
đạo lí tốt đẹp ngàn đời của dân tộc ngày càng bị mai một..
Đặt câu hỏi: Chúng ta sẽ làm gì để góp phần đẩy lùi căn bệnh vô cảm?
-> Gợi ý
+Học tập lối sống lành mạnh, biết yêu thương sẻ chia đồng cảm với những người xung
quanh.
+Tham gia các hoạt động xã hội có tính nhân văn cao như phong trào đền ơn đáp nghĩa,
phong trào thanh niên lập nghiệp, phong trào hiến máu nhân đạo…
+Xã hội cần lên án mạnh mẽ bệnh vô cảm, coi đó như là một cuộc chiến đấu để loại bỏ
căn bệnh này ra khỏi xã hội ta.


Đặt câu hỏi:
+ Nếu thấy một bà cụ đang tìm cách qua đường, em sẽ làm gì?
+ Nếu nhìn thấy một người bị ngã xe trên đường , chiếc điện thoại đắt tiền của người bị
nạn rơi xuống đất…em sẽ làm gì?
+ Làm được một việc tốt em cảm thấy thế nào?
Hướng dẫn kết bài
Để xứng đáng với danh nghĩa “con người” đầy kiêu hãnh, mỗi chúng ta hãy nói không
với bệnh vô cảm, hãy ra sức tu dưỡng lòng yêu thương, vị tha, sự trung thực và lòng dũng
cảm. Hãy cùng nhau làm một việc gì đó dù rất nhỏ để khơi dậy dòng sông tình nghĩa nhân
ái truyền thống của dân tộc để cho nó ngày càng tuôn chảy, ngày càng trong xanh và long
lanh toả sáng.

5.2.2 Dạng đề về tư tưởng đạo lí:
Cần chia các dạng đề bài về tư tưởng đạo lí theo những nhóm đề khác nhau để học
sinh dễ tiếp cận
- Đề bài về tình yêu thương
+ Suy nghĩ của em về câu nói “Tình thương là hạnh phúc của con người”
+ Suy nghĩ của em về câu nói “ Trái tim hoàn hảo nhất là trái tim có nhiều mảnh vá”
+ Suy nghĩ của em về cho – nhận trong cuộc sống?
- Đề bài về tình cảm gia đình:
+ Suy nghĩ của em về tình mẫu tử
+ Suy nghĩ của em về câu noí “Duy chỉ có gia đình người ta mới tránh được những tai
ương của số phận”
- Đề bài về tính cách, tâm hồn của con người:
Suy nghĩ của em về đức tính trung thực
Suy nghĩ của em về lòng dũng cảm
Suy nghĩ của em về lòng yêu nước…
- Đề bài về sự cống hiến
+ Suy nghĩ của em về câu nói “Thước đo của đời người không phải là thời gian mà là sự
cống hiến”
+ Thông điệp của nhà thơ Tố Hữu:
“Nếu là con chim chiếc lá
Thì chim phải hót chiếc lá phải xanh
Lẽ nào vay mà không trả
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình »
- Đề bài về nghị lực sống :
+ Suy nghĩ của em về câu nói « bạn có thể thất vọng khi thất bại nhưng bạn sẽ héo tàn nếu
không bao giờ cố gắng »
+ « Đừng chờ đợi những gì bạn ước muốn, hãy đi tìm chúng »
Em hiểu gì về câu nói trên ?
+ « Đừng bao giờ cau mày hay nhăn mặt thậm chí khi bạn đang buồn, chắc chắn sẽ có ai
đó yêu bạn chỉ vì nụ cười của bạn thôi. Với thế giới bạn chỉ là một cá nhân nhưng đối với

một ai đó, bạn là cả thế giới »
Viết bài văn ngắn thể hiện cảm nhận của em về câu nói trên


+ Đề nghị luận xã hội về ý nghĩa câu nói của Ánh Viên tại SEA Games 28 “Nếu tôi hài
lòng với những gì đã đạt được, tôi là kẻ thất bại ngay từ bây giờ, chứ không phải chờ
tới ngày mai. Tôi không nhớ đến chiến thắng, mỗi ngày đều nỗ lực như chưa giành
được gì”
- Đề bài tổng hợp: Trả lời cho câu hỏi của Tố Hữu : « Ôi ! Sống đẹp là thế nào hỡi bạn »
Ví dụ minh họa : Trả lời cho câu hỏi của Tố Hữu : « Ôi ! Sống đẹp là thế nào hỡi
bạn »
- Bước 1 : giáo viên hướng dẫn các bước làm bài : Mở bài, thân bài , kết bài
- Bước 2 : Đặt câu hỏi cho học sinh tự trả lời
* Theo em như thế nào là sống đẹp ?
-> gợi ý :Sống đẹp: sống có ý nghĩa, sống có ích cho cộng đồng, quốc gia dân tộc, sống
khẳng định năng lực bản thân, giá trị của mỗi cá nhân; sống khiến người khác cảm phục,
yêu mến, kính trọng, noi theo; sống với tâm hồn, tình cảm nhân cách, suy nghĩ khát vọng
chính đáng, cao đẹp.
–> Câu thơ của Tố Hữu là lời chất vấn, thực chất là lời nhắc nhở định hướng con người
cần rèn luyện cách sống đẹp.
* Biểu hiện của lối sống đẹp như thế nào ?
->Gợi ý
Sống có lí tưởng, có ước mơ
GV đặt câu hỏi
+ Ước mơ của em là gì ?
+ Để thực hiện được ước mơ đó ngay từ bây giờ em phải làm gì ?
Sống có nghị lực, biết vượt qua những khó khăn trong cuộc sống
GV đặt câu hỏi :
+ Khó khăn lớn nhất từ trước tới nay của em là gì ? Em đã vượt qua nó như thế nào ? Cảm
giác của em sau khi vượt qua được những khó khăn đó ?

+ Một tấm gương về nghị sống khiến em cảm phục ?
+ Em có biết nickvujic không ? em có khâm phục anh ấy không ? vì sao ?
Sống nhân hậu, biết yêu thương, sẻ chia
GV đặt câu hỏi
+ Khi con người gặp khó khăn, bất hạnh họ cần nhất điều gì ?
+ Hiện nay có rất nhiều chương trình từ thiện : Trái tim cho em, phát đồ ăn từ thiện cho
người nghèo, cặp lá yêu thương....em suy nghĩ thế nào về những chương trình đó ?


Sống không ngừng học hỏi, mở mang trí tuệ, bồi bổ kiến thức:
GV đặt câu hỏi
+ Để cuộc sống của mình có ý nghĩa ngày từ lúc này em sẽ phải làm gì ?
* Phê phán quan niệm và lối sống không đẹp.
– Thói ích kỉ, vụ lợi không những làm cho con người nhỏ nhen, ti tiện, vô cảm mà còn gây
những hậu quả xấu cho xã hội: như nạn tham ô, phạm pháp,
-Thói sống buông thả, tùy tiện, thiếu lí tưởng dẫn đến tình trạng tha hóa nhân cách, sống
vô nghĩa, không có mục đích, vô giá trị, sống thừa.
-Thói lười nhác trong lao động, học tập dẫn đến ngu dốt, thiếu kí năng sống, kĩ năng ỉàm
việc và quan hệ xã hội.
-Sống vô cảm, thiếu tình yêu thương, lòng trắc ẩn … dẫn đến cô độc, thiếu tính nhân văn.

IV: GIÁO ÁN MINH HỌA:
Đề bài: Anh ( chị ) hãy trình bày suy nghĩ của mình về tính ích kỉ và lòng vị tha trong
xã hội ngày nay?
I.Mục tiêu:
1. Về kĩ năng:
- Giúp HS củng cố kiến thức về thể loại nghị luận xã hội
- Có kĩ năng tìm hiểu đề, lập dàn ý, viết bài văn nghị luận xã hội - Bố cục ba phần: mở thân- kết bài.
- Bồi dưỡng tâm hồn, giáo dục đạo đức, lối sống, ý thức, trách nhiệm với xã hội
2. Về kiến thức. Củng cố kiến thức thực tế cho học sinh

II. Các bước lên lớp:
HĐ của GV và HS
Nội dung
- Kiểm tra phần
bài tập của hs

- Giải thích thế nào là
ích kỉ, vị tha?

- Biểu hiện của hai
đức tính đó?
- Thấy bạn thân của

Mở bài: Giới thiệu về tính ích kỉ và lòng vị tha trong đời sống xã
hội
Thân bài:
-Khái niệm : tính ích kỉ và lòng vị tha:
+ Thế nào là tính ích kỉ? Là lối sống chỉ nghĩ tới mình,sống vì
mình,thờ ơ với cuộc sống và mọi người xung quanh.
+ Vị tha là sống vì ngưòi khác, sẵn sàng quan taam, lo lắng , giúp
đỡ mọi người với thái độ vô tư,không mưu lợi lộc
-Biểu hiện của lối sống ích kỉ
+Kẻ có tính ích kỉ thường so đo, tính toán để trong bất cứ
việc gì cũng có lợi cho mình. Phương châm sống của họ là:
Ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau.


em hơn hẳn em về mọi
mặt cảm giác của em
như thế nào?

- Em chế ngự cảm giác
ghen tị bằng cách nào?
- Khi bản thân em là
một bạn học sinh giỏi,
nếu bạn nhờ em giảng
lại những chỗ bạn
chưa hiểu, em có làm
không? Vì sao?

- Em có biết lối sống
ích kỉ có tác hại như
thế nào không?
- Sẽ ra sao nếu trong
lớp mình ai cũng ích
kỉ với nhau?

+Tính ích kỉ thể hiện dưới nhiểu hình thức và ở nhiều mức
độ khác nhau như: lười biếng, tham ăn, dối trá, gian xảo,
tham nhũng…Trong học tập, tính ích kỉ bộc lộ qua thái độ
thiếu quan tâm tới bạn bè, tới công việc của lớp, của trường.
(Dẫn chứng).

-Tác hại của lối sống ích kỉ:
+ Con người trở nên vô cảm, cô độc
+ Gây ảnh hưởng xấu tới tình đoàn kết, lợi ích tập thể

- Em mong muốn điều
gì từ những người thân
của em? (bạn bè, anh
chị em, bố mẹ…)


-Trái ngược với ích kỉ
là lòng vị tha. Vậy
theo em, biểu hiện của
lòng vị tha là gì?
- Giả định rằng em
biết rõ một bạn trong
lớp có hoàn cảnh khó
khăn, em không có
tiền để hỗ trợ bạn, em
sẽ làm gì?
- Em và bạn em đã bao
giờ giận nhau chưa?
Lúc em và bạn giận

-Biểu hiện của lòng vị tha.
+ Trong xã hội, mỗi cá nhân không chỉ thể biết tới quyền lợi
của riêng mình mà phải biết nghĩ tới quyền lợi của người
khác.
+Trong một gia đình, cha mẹ làm gì cũng phải nghĩ tới con
cái và ngược lại, con phải hiếu thảo với cha mẹ.
+Trong một lớp, học sinh phải biết quan tâm, giúp đỡ lẫn
nhau để cùng tiến bộ.`
+Truyền thống nhân ái và đoàn kết của dân tộc ta từ xưa tới
nay; phong trào từ thiện phát triển rộng rãi trong cả nước
hiện nay… là biểu hiện của lòng vị tha.


nhau em đã làm gì để
cải thiện mối quan hệ

đó?
- Các em còn nhớ
trước đây đất nước nào + Vị tha còn có nghĩa là tha thứ cho những lỗi lầm của
đã xâm lược Việt
người khác nếu họ đã thành tâm hối cải (dẫn chứng từ thực
Nam? Thế nhưng hiện tiễn lịch sử, từ văn học…)
nay nhà nước ta với
các nước đó lại có mối
quan hệ như thế nào?
Điều đó nói lên điều gì
trong chính sách ngoại
giao của nước ta?

-Lòng vị tha có ý
nghĩa như thế nào?

-Tác dụng của lòng vị tha:
+ Con ngưòi sống vui vẻ, hoà nhã, được mọi người yêu mến
+ Tác động tốt đến sự phát triển của người thân, bạn bè, xã hội…

- Em rút ra bào
học gì cho bản
thân mình?
Kết bài:
- Cần lên án lối sống ích kỉ,đề cao sự vị tha
-Rút ra bài học cho bản thân, xác định lối sống lành mạnh, hoà
nhập vơi tập thể.

Củng cố , dặn dò:
-Triển khai dàn ý trên

thành bài văn hoàn
chỉnh
- Sưu tầm một số tấm
gương người tốt, việc
tốt.
- Em học được điều gì
từ những tấm gương
đó?


V. Hiệu quả áp dụng:
Qua nghiên cứu tìm hiểu thực trạng, nghiên cứu cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn tìm
ra nhiều giải pháp khắc phục và áp dụng thực hiện trong phạm vi học sinh THPT, bản thân
tôi thật sự hài lòng về kết quả thu được, các em gần gũi hơn với bạn bè trong lớp, cởi mở
hơn đối với thầy cô, hạn chế rất nhiều tình trạng trạng nói tục, chửi thề. Các em ngày càng
lễ phép hơn với người lớn, với thầy cô. Ngoài ra, sáng kiến này giúp giáo viên chủ nhiệm
nắm rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh chưa ngoan. Từ đó có những giải pháp
giáo dục đạo đức học sinh ngày càng chăm ngoan hơn. Đồng thời giúp giáo viên có nhiều
phương pháp giải quyết hữu hiệu trong việc uốn nắn, giúp đỡ học sinh trở thành những
người tốt để xứng đáng là con ngoan trò giỏi.
Cụ thể như sau: Học sinh lớp 12s4 sau khi được hướng dẫn triển khai bài tập “Hãy
nói về ước mơ của em” các em đã định hướng được:
- Mình muốn gì cho tương lai?
- Ước mơ của mình có khả thi không?
- Phải làm gì để biến ước mơ thành hiện thực?
Với đề bài “Suy nghĩ của em về hiện tượng xả rác bừa bãi nơi công cộng”, 80 %
học sinh đã khẳng định sẽ bỏ rác đúng nơi quy định. 90% học sinh khẳng định sẽ không
bao giờ vứt rác bừa bãi trong khuôn viên nhà trường, lớp học.
Với đề bài: Suy nghĩ của em về câu nói “Tình yêu là phương thuốc nhiệm màu cho
tất cả chúng ta, cho cả người trao tặng và người đón nhận nó”,

+ Nhiều em đã trả lời sẽ dành thời gian nhiều hơn cho bố mẹ, anh chị em trong gia đình.
+ 80% học sinh bày tỏ quan điểm sẽ giúp đỡ người khó khăn khi mình có khả năng
+ Khi biết rõ một bạn trong lớp chẳng may gặp hoàn cảnh khó khăn nhưng bản thân lại
không đủ điều kiện , 90% học sinh khẳng định sẽ kêu gọi sự giúp đõ của tập thể lớp, của
giáo viên chủ nhiệm đối với người bạn đó
-> Các em hiểu được chân lí của cuộc đời “Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình ? ”
C. KẾT LUẬN:
I. Rút ra bài học kinh nghiệm :
Trong quá trình thực hiện và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã rút ra được những
bài học quí giá để áp dụng cho công tác giảng dạy của mình như sau:
- Thực hiện đúng theo tinh thần chỉ đạo của lãnh đạo ngành, bám sát chương trình hoạt
động và chủ đề kế hoạch thực hiện.
- Có bước chủ động trong công việc, nắm bắt sự kiện một cách nhanh nhất để đưa vào xây
dựng kế hoạch đúng thời điểm.
- Luôn tạo sự đổi mới, sáng tạo trong công việc để tăng sự thu hút từ phía học sinh.


- Phối hợp nhịp nhàng với các đoàn thể trong nhà trường, giáo viên chủ nhiệm lớp, ban
đại diện cha mẹ học sinh.
- Luôn lắng nghe ý kiến về những khó khăn của học sinh khi thực hiện chuyên đề để cùng
tháo gỡ những vướng mắc của học sinh.
- Phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lớp vì họ là những người có vai trò quan trọng trong
việc nhắc nhở động viên học sinh lớp mình tham gia thực hiện các phong trào thi đua học
tập, vui chơi giải trí và các chỉ tiêu đề ra của lớp mình, của nhà trường.
II. Khả năng áp dụng:
Mỗi giáo viên dạy ngữ văn đều thấy được vai trò to lớn của phân môn nghị luận xã hội
trong việc tác động đến tư tưởng, uốn nắn hành động của học sinh. Giúp các em ngày càng
hoàn thiện mình , trở nên tốt hơn, đẹp hơn.
III. Đề xuất, kiến nghị:
1. Đề xuất:

Để phong trào thi đua: “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” theo
những nội dung mà Bộ Giáo dục Đào tạo phát động đi vào chiều sâu, nhất thiết phải tạo
cho các em có một sân chơi mang tính tập thể, qua đó các em sẽ được rèn luyện kỹ năng
sống, cùng các trò chơi dân gian mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc.
Trên thực tế nhà trường đang thực hiện phong trào này nhưng chưa thường xuyên chỉ
mang tính hình thức vì chỉ chú trọng vào việc giảng dạy văn hóa trên lớp mà không chú
trọng đến các sân chơi. Trong khi các em rất cần một đêm lửa trại, một buổi sinh hoạt với
các trò chơi dân gian như, kéo co, nhảy bao, nhảy lò cò, tải đạn qua sông,… được nhà
trường tổ chức định kỳ hàng tháng theo chủ điểm giáo dục.
Do cơ sở vật chất của trường chưa đáp ứng được nhu cầu học tập, vui chơi của các
em. Nên việc tổ các phong trào vui chơi học tập bị hạn chế. Số lượng học sinh tham gia ít
nên việc lồng gép giáo dục đạo đức học sinh thông qua các phong trào chưa thường xuyên
2. Kiến nghị:
- Nhà trường cần tổ chức những buổi lao động tập thể vào những dịp lễ như chuẩn bị ngày
khai giảng, chào mừng 20-11 . Những buổi lao động làm sạch trường học sẽ làm các em
hứng thú vì mình góp phần làm đẹp cho ngôi trường mình đang theo học. Tạo mối quan hệ
gần gũi với bạn bè. Rèn cho các em tình yêu lao động.
- Sở giáo dục và đào tạo tiếp tục duy trì và tổ chức các phong trào, hội thi để học sinh
tham gia thi đua học tập rèn luyện, giao lưu với các đơn vị. Từ đó các em sẽ tuyên truyền
lại cho bè bạn trong và ngoài lớp. Qua những nội dung được thi đua, giao lưu học tập các
em sẽ cố gắng nhiều hơn trong học tập, rèn luyện để xứng đáng là cháu ngoan Bác Hồ. Và
điều quan trọng hơn là giúp các em có sân chơi lành mạnh, tránh được nhiều hiện tượng
tiêu cực.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ trong quá trình dạy phân môn nghị luận xã hội.
Trong khuôn khổ hạn hẹp của một bài biết những vấn đề mà tôi đưa ra sẽ còn nhiều thiếu
sót, hi vọng sẽ nhận được những đóng góp thiết thực và quý báu của thầy cô, đồng nghiệp
nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng dạy và học môn ngữ văn trong nhà trường, hướng tới


mục tiêu cao cả của giáo dục là hướng con người tới CHÂN – THIỆN – MĨ, hướng học

sinh tới lối sống ĐẸP …

TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Sách giáo khoa ngữ văn 12 tập 1 (NXB giáo dục)
2. Sách giáo viên Ngữ văn 12 tập 1(NXB giáo dục)
3 Sách giáo khoa ngữ văn 12 tập 2 (NXB giáo dục)
4. Sách giáo viên Ngữ văn 12 tập 2(NXB giáo dục)
5. Những bài văn Nghị luận xã hội (NXB Đại học quốc gia Hà Nội)
6. Hạt giống tâm hồn (NXB trẻ)



×