Các kỹ năng dưới đây sẽ giúp nhà soạn thảo có những văn bản
chuẩn xác về ngôn ngữ và diễn đạt.
4.1. Sử dụng thời hiện tại, quá khứ và tương lai đúng với nội dung
mà văn bản muốn thể hiện: Các hành vi của chủ thể pháp luật xẩy ra ở những
thời điểm khác nhau. Các quy phạm pháp pháp luật phần lớn chỉ áp dụng đối
với các hành vi xảy ra sau khi quy phạm pháp luật được ban hành có hiệu lực
trừ rất ít những quy phạm có hiệu lực hồi tố.
Vì vậy, khi diễn đạt một quy định pháp luật thì cần chú ý đến việc xác
định thời điểm hành vi mà quy định chúng ta cần soạn thảo sẽ điều chỉnh. Điều
này được thực hiện một cách chính xác nếu chúng ta sử dụng đúng các thời
quá khứ, hiện tại, tương lai.
Không ít các văn bản không chú ý đến vấn đề này nên dễ dẫn đến sự
hiểu sai và áp dụng sai các quy định được ban hành:
4.2. Bảo đảm độ chính xác cao nhất về chính tả và thuật ngữ: Cách
diễn đạt một quy phạm pháp luật phải bảo đảm độ chính xác về chính tả và
thuật ngữ. Sai sót chính tả có thể xử lý được dễ dàng bởi đội ngũ biên tập song,
sai sót về thuật ngữ thì chỉ có các nhà soạn thảo mới khắc phục được. Khi soạn
thảo văn bản, người soạn thảo có những tư tưởng riêng của mình nên họ biết
nên dùng thuật ngữ nào cho phù hợp, phản ánh đúng nội dung các quy định
cần soạn thảo.
Một số quy tắc sau đây cần được đặc biệt chú ý để cho văn bản soạn
thảo đạt độ chính xác cao:
4.2.1. Trong văn bản pháp luật mức độ thể hiện tính nghiêm khắc trong
đòi hỏi của pháp luật đối với chủ thể. Cần xác định mức độ đòi hỏi của pháp
luật bằng cách thể hiện nó trong diễn đạt các quy định pháp luật
- Khi nêu các giả định trong các quy phạm pháp luật thì nên dùng các
cụm từ thể hiện khả năng chứ không dùng các từ hoặc cụm từ biểu đạt một sự
khẳng định tuyệt đối. Các từ, ngữ thích hợp nhất và được dùng phổ biến nhất
là: Nếu, Khi, Trong trường hợp, Hoặc, Hay v.v. Việc sử dụng các từ, ngữ này
cũng cần phải linh hoạt để tránh lặp lại trong một quy định.
- Khi quy định những xử sự mà chủ thể có nghĩa vụ phải thực hiện hoặc
không được thực hiện thì dùng: Phải, có nghĩa vụ, cấm, không được
- Khi quy định những xử sự mà chủ thể có thể lựa chọn thực hiện hay
không thực hiện thì dùng: Có quyền, được, được phép
- Khi quy định những xử sự mà chủ thể có thể lựa chọn thực hiện hay
không thực hiện song pháp luật cần định hướng cho chủ thể thì dùng: nên, cần
4.2.2. Tính phổ biến của thuật ngữ pháp lý được dùng trong các văn bản
pháp luật: Đây là một đòi hỏi hết sức quan trọng có khả năng đảm bảo tính
chính xác, hiệu quả của văn bản hay quy định cần soạn thảo. Tính phổ biến của
thuật ngữ pháp lý đòi hỏi:
a) Thuật ngữ đó phải là thuật ngữ đã được dùng trong các văn bản pháp
luật hay được dùng phổ biến trong luật học. Pháp luật được ban hành là để cho
toàn thể xã hội hiểu, tuân thủ hoặc áp dụng. Vì vậy, việc người soạn thảo dùng
những thuật ngữ mà mình mới sáng tạo ra, chưa từng được sử dụng trong các
văn bản pháp luật trước đó hoặc chưa được công nhận rộng rãi để soạn thảo
các quy định hay văn bản sẽ không tạo được cách hiểu thống nhất cho những
người sẽ tuân thủ hay áp dụng chúng. Chưa nói đến các thuật ngữ mới, ngay cả
thuật ngữ cổ, mặc dù đã được dùng trong các văn bản, nếu sử dụng không chọn
lọc thì cũng đã gây nhiều khó khăn cho việc hiểu, tuân thủ và áp dụng pháp
luật. Phải cần một thời gian dài hệ thống pháp luật nước ta mới bắt đầu sử
dụng lại các thuật ngữ cổ như: cáo tị, bãi nại, tống đạt .v.v.
Muốn sử dụng các thuật ngữ cổ hay thuật ngữ mới sáng tạo thì ít nhất
phải tạo được cách hiểu thống nhất về thuật ngữ đó. Nếu không tuân thủ yêu
cầu này thì văn bản soạn thảo sẽ khó hiểu, khó được áp dụng thống nhất. Ví
dụ, khái niệm chứng thư được sử dụng trong Nghị định 17/HĐBT ngày
16/1/1990 là một khái niệm mới mà người soạn thảo đưa ra. Khái niệm này
chưa có cách hiểu thống nhất. Bản thân khái niệm chứng thư theo cách hiểu
trong tiếng Việt là văn bản xác nhận quyền tài sản và được sử dụng chủ yếu
trên thị trường chứng khoán. Bên cạnh đó trong hệ thống pháp luật của nước ta
có khái niệm công chứng, chứng thực, xác nhận. Nghị định 17/HĐBT ngày
16/1/1990 quy định chứng thư là sự xác nhận việc các bên đã ký kết bản hợp
đồng tại một cơ quan công chứng.
b) Khi pháp luật đã có các thuật ngữ pháp lý chính thức thì tuyệt đối
phải sử dụng chúng. Nhiều người khi soạn thảo một số văn bản hướng dẫn về
các biện pháp bảo đảm hợp đồng vẫn dùng khái niệm để đương, khế ước trong
lúc Bộ luật dân sự và nhiều văn bản hiện hành khác đã dùng hợp đồng, thế
chấp.
c) Phải tuân thủ nội hàm của khái niệm cần sử dụng và đặt chúng đúng
vào văn cảnh của quy định cần soạn thảo. Ví dụ người nước ngoài và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài không phải là một. Người nước ngoài là người
mang quốc tịch một quốc gia khác. Người Việt Nam có thể là người nước
ngoài nếu họ mang quốc tịch nước khác. Tuy nhiên, người Việt Nam định cư ở
nước ngoài vẫn là người Việt Nam nếu họ không từ bỏ quốc tịch Việt Nam để
gia nhập quốc tịch nước khác. Chính vì vậy, việc dùng khái niệm người nước
ngoài để chỉ cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài là không chính xác và
có thể làm phát sinh nhiều vấn đề pháp lý phức tạp. Điểm 5.5 của Thông tư số
01-NH5/TT ngày 28/4/1995 là một ví dụ cho việc dùng không đúng thuật ngữ
pháp lý. "Văn phòng đại diện phải đăng ký với Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố nơi đóng trụ sở về số người nước ngoài làm việc tại văn phòng đại diện
(bao gồm người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài) theo số
lượng quy định tại Giấy phép". Thuật ngữ pháp lý ý nghĩa rất lớn đối với việc
đạt mục đích và tính chính xác của các quy định, hay văn bản cần soạn thảo.
Việc lựa chọn thuật ngữ phải được người soạn thảo cân nhắc kỹ càng. Chẳng
hạn, không thể dùng khái niệm hậu quả pháp lý để chỉ phí tổn nguyên vật liệu,
tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại; (Điều 19 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế). Hậu
quả pháp lý chính là trách nhiệm, nghĩa vụ của các bên đối với những phí tổn,
những thiệt hại đó chứ không phải bản thân chúng. Chúng chỉ là những sự kiện
thực tế xảy ra.
4.2.3. Chỉ sử dụng tiếng Việt chuẩn, không sử dụng phương ngữ Bên
cạnh việc sử dụng chính xác các thuật ngữ pháp lý, việc sử dụng chính xác
ngôn ngữ diễn đạt khác cũng là một yêu cầu đáng lưu ý. Người soạn thảo văn
bản phải dựa vào tiếng Việt chính thống để soạn thảo. Không nên thay "Rẽ
trái" bằng "quẹo trái" . Khi soạn thảo văn bản không được sử dụng phương
ngữ. Trong báo chí, văn học việc sử dụng phương ngữ có thể làm cho tác phẩm
sống hơn, gần với cuộc sống hơn song điều này lại hoàn toàn không thích hợp
trong văn pháp lý. Việc sử dụng phương ngữ không tạo ra được cách hiểu
thống nhất các quy định cần ban hành.
4.2.4. Khi chọn và sử dụng các thuật ngữ, kể cả thuật ngữ pháp lý lẫn
thuật ngữ thông thường, người soạn thảo nên đặt cho mình những câu hỏi
mang tính kỹ thuật sau:
a) Các văn bản pháp luật, các bản án trước đây đã sử dụng thuật ngữ này
chưa?
b) Các thuật ngữ này hiện nay có được tiếp tục sử dụng phổ biến không?
c) Cách hiểu các thuật ngữ này có thống nhất không?
d) Pháp luật hay thực tế có yêu cầu sử dụng các thuật ngữ này theo một
nội dung thống nhất không? Các thuật ngữ này có phải là một dạng phương
ngữ không?
4.3. Sử dụng đúng kỹ thuật viện dẫn: Viện dẫn những quy định ở
trong cùng văn bản hay từ các văn bản khác để soạn thảo văn bản là việc làm
cần thiết. Đây là một trong những cách hiệu quả được dùng để loại bỏ sự
chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản, các qui định, đảm bảo sự thống nhất
của pháp luật. Tuy nhiên, việc sử dụng kỹ thuật viện dẫn không đúng có thể
dẫn tới những hậu quả không tốt như việc áp dụng sai pháp luật, tình trạng mất
thời gian khi tìm kiếm quy phạm được viện dẫn để áp dụng. Một trong những
yêu cầu trước hết của viện dẫn là phải chỉ rõ quy định được viện dẫn. Nếu chỉ
viện dẫn một quy định ở một văn bản khác thì chỉ rõ quy định đó chứ không
nên viện dẫn tới toàn bộ văn bản để cho những người mà văn bản đó hướng tới
phải tự tìm kiếm. Cách viện dẫn sau đây trong Bộ luật dân sự (BLDS) có thể
được coi là một ví dụ. Điều 637 BLDS khi quy định về thừa kế quyền sử dụng
đất đã viện dẫn đến Phần V của BLDS: "Việc thừa kế quyền sử dụng đất được
thực hiện theo các qui định của phần V Bộ luật này". Phần V này gồm 5 chương
và 54 điều gồm các điều từ 590 đến 644. Sẽ chính xác và dễ áp dụng hơn nếu
điều 637 chỉ viện dẫn đến chương VI phần V của BLDS. Các chương còn lại
của phần V BLDS không liên quan đến việc thừa kế quyền sử dụng đất. Một
yêu cầu khác của việc viện dẫn là đảm bảo tính phù hợp của đối tượng điều
chỉnh của quy định viện dẫn và quy định được viện dẫn. Một quy phạm xử
phạt hành chính không thể viện dẫn đến một hình phạt quy định trong Bộ luật
hình sự như là một chế tài cho bản thân nó.
4.4. Dùng câu ngắn với trật tự lôgic: Câu văn dài có thể gây sự khó
hiểu và dễ mất đi tính chính xác. Nhiều người cho rằng pháp luật nước ta
thường hay được diễn đạt dài dòng và khó hiểu. Điều nay là thực tế và có cơ
sở. Lý do chính là nhiều văn bản dùng câu quá dài. Quy định sau đây có thể là
một ví dụ minh hoạ: "Đối với hàng hoá, dịch vụ kinh doanh có điều kiện, các tổ
chức hoặc cá nhân không được phép kinh doanh mà kinh doanh, hoặc được
phép kinh doanh mà trong quá trình kinh doanh không thường xuyên đảm bảo
các điều kiện qui định cho loại hàng hoá, dịch vụ đó, đều coi là hành vi kinh
doanh trái phép, tuỳ theo mức độ vi phạm sẽ bị xử lý hành chính hoặc bị truy
cứu trách nhiệm hình sự theo qui định của pháp luật hiện hành" (Điều 15 Nghị
định 36-CP ngày 5 tháng 1 năm 1995 của Chính phủ). Câu văn này dài và khó,
có nhiều chỗ trùng lặp nhau có thể tránh. Trước hết cần tránh cụm từ kinh
doanh, hàng hoá, dịch vụ được lặp lại nhiều lần và sau đó có thể rút ngắn đoạn
văn này như sau: "Việc kinh doanh những hàng hoá, dịch vụ có điều kiện khi
không được phép hoặc không đảm bảo các yêu cầu qui định đối với hàng hoá
dịch vụ đó đều bị coi là hành vi kinh doanh trái phép và có thể bị xử lý hành
chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự tuỳ theo mức độ vi phạm" .Quy định
này từ chổ diễn đạt bằng 90 từ được rút ngắn còn 60 từ. Sử dụng các câu ngắn,
tránh các câu dài lê thê cũng là một trong phương pháp làm cho văn bản cần
soạn thảo cô đọng, chính xác, các quy định ban hành ra dễ được hiểu đúng bởi
các đối tượng mà chúng hướng tới.
Có những lý do sau đây khiến chúng ta nên tránh các câu dài:
Thứ nhất, về bản chất, các quy định pháp lý vốn rất khó. Vì vậy việc
diễn đạt các quy định pháp lý bằng những câu văn dài càng làm cho chúng trở
nên khó hiểu hơn nữa;
Thứ hai, người soạn thảo khi dùng các câu dài thường vi phạm các qui
tắc ngữ pháp một cách vô thức;
Thứ ba, những đối tượng mà các qui định pháp luật hướng tới phần lớn
không phải là các luật gia hay những đối tượng có trình độ am hiểu sâu về
pháp luật.
Vì vậy, các quy định pháp luật được thể hiện càng ngắn gọn thì càng có
hiệu quả cao về khả năng tiếp nhận từ phía đối tượng. Các quy định trong pháp
luật hiện hành của nước ta thường được diễn đạt bằng các câu văn. Quy định
sau đây trong Thông tư số 01-NH5/TT ngày 28/4/1995 có thể được coi là một
ví dụ. "Văn phòng đại diện phải đang ký với Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
nơi đóng trụ sở về số người nước ngoài làm việc tại văn phòng đại diện (bao
gồm người nước ngoài và người Việt Nam định cư ở nước ngoài) theo số lượng
qui định tại Giấy phép; số người Việt Nam làm việc tại văn phòng đại diện và
có trách nhiệm tạo điều kiện thuận lợi cho những người làm việc tại văn phòng
đại diên thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế thu nhập theo luật định." Quy định