Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Quản lý giáo dục và đào tạo ở quảng ngãi hiện nay thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.39 KB, 58 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân tài là nguyên khí quốc gia. Nhân tài nhiều tất quốc gia thịnh,
thiếu nhân tài, quốc gia suy. Thời nào, quốc gia nào, chế độ nào cũng vậy,
vấn đề nhân tài và đào tạo nhân tài cũng luôn được xem là quốc sách vì nó
quyết định sự phát triển hay suy vi một đất nước.
Thời đại ngày nay, với đặc điểm nổi bật là sự phát triển mạnh mẽ như
vũ bão của khoa học kỹ thuật và công nghệ đã và đang tạo ra sự phát triển
chưa từng có trong lịch sử. Để tồn tại và phát triển, mỗi quốc gia cần phải
có một đội ngũ người lao động được giáo dục cẩn thận và đào tạo chu đáo,
nắm vững khoa học tiên tiến và nắm bắt xu thế phát triển của thời đại. Vì
vậy, vấn đề đặt ra là, muốn đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế tất yếu
phải hiện đại hoá giáo dục-đào tạo và giáo dục-đào tạo phải đi trước một
bước để kéo theo sự phát triển của kinh tế, xã hội …
Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác
định: Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan
trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để
phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển kinh tế-xã hội,
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Đến văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam chủ
trương: Nhà nước tiếp tục tăng nguồn lực, đầu tư tập trung cho chương
trình mục tiêu quốc gia về giáo dục và đào tạo…
Như vậy, có thể khẳng định rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam - lực
lượng duy nhất lãnh đạo toàn diện cách mạng Việt Nam, đã xác định: giáo
dục và đào tạo với vai trò là mũi chủ công của công cuộc phát triển đất
nước, là nhân tố cần sự quan tâm, lãnh đạo của Đảng trong giai đoạn cách
mạng hiện nay và lâu dài.
Có thể nói rằng, hơn lúc nào hết, thực trạng yếu kém của giáo dục và
đào tạo được dư luận quan tâm nhiều như hiện nay. Qua ý kiến của các đại
biểu Quốc hội cũng như công luận của các kỳ họp Quốc hội khoá XI,
1




những vấn đề nóng bỏng đang đặt ra đó là, sự yếu kém về công tác quản lý
giáo dục và đào tạo, sự chưa thành công về thử nghiệm mô hình, hiện
tượng tiêu cực đang có chiều hướng phức tạp. Chính những điều này, đòi
hỏi chúng ta cần khắc phục nhanh nếu không muốn tụt hậu so với trình độ
phát triển chung của khu vực và trên thế giới.
Vì vậy, đã đến lúc chúng ta cần phải nhìn thẳng vào sự thật khi đứng
trước yêu cầu và nhiệm vụ mới của giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước. Không ai khác, ngành giáo dục-đào tạo phải nhanh chóng nắm
bắt thời cơ mới để phát triển nền giáo dục nước nhà. Đặc biệt, với vai trò là
lực lượng lãnh đạo toàn diện xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam cần có
những định hướng về nội dung, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
đối với vấn đề giáo dục và đào tạo. Để có chủ nghĩa xã hội thì yếu tố đầu
tiên là phải đào tạo những con người xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của giáo dục và đào tạo đối
với sự phát triển kinh tế-xã hội, Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi
lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2005-2010 khẳng định: Sự nghiệp giáo dục-đào tạo
phải có bước chuyển biến rõ rệt. Chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện trong nhà trường, đặc biệt là giáo dục chính trị, truyền thống cách
mạng, giáo dục pháp luật cho học sinh. Thông qua dạy “chữ” để dạy
“người”, nâng cao phẩm chất đạo đức học sinh.
Tuy vậy, nhiều năm qua, do điều kiện kinh tế-xã hội còn khó khăn,
cộng thêm sự quan tâm chưa đúng mức của các cấp uỷ đảng, nên ngành
giáo dục và đào tạo vẫn còn nhiều mặt cần phải khắc phục như việc đào tạo
và sử dụng còn nhiều bất cập, chất lượng giáo dục ở miền núi và vùng nông
thôn còn thấp, phòng học tranh, tre xuống cấp còn nhiều… Chính những
nguyên nhân này đã ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục của tỉnh nhà.
Từ những lý do trên đã thôi thúc tác giả mạnh dạn chọn đề tài: “Quản
lý giáo dục và đào tạo ở Quảng Ngãi hiện nay - Thực trạng và giải pháp”

làm đề tài khoá luận tốt nghiệp đại học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2


Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước đối với giáo dục và
đào tạo đã được nhiều đề tài nghiên cứu và có nhiều công trình, bài viết
được công bố đã đi sâu xem xét thực trạng và cách tháo gỡ những khó khăn
để giáo dục và đào tạo Việt Nam nói chung, giáo dục và đào tạo tỉnh Quảng
Ngãi nói riêng phát triển, cụ thể như:
- Hồ Chí Minh, bàn về công tác giáo dục, Nhà xuất bản Sự thật, Hà
Nội, 1972.
- Phạm Văn Đồng, về vấn đề giáo dục-đào tạo, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 1999.
- Ban Khoa giáo Trung ương, Giáo dục-đào tạo trong thời kỳ đổi mới,
Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002.
- Bài viết của Tiến sĩ Trần Hồng Hà: “Suy nghĩ về đổi mới phương
thức lãnh đạo công tác giáo dục-đào tạo của cấp uỷ đảng hiện nay”. Tạp chí
Khoa giáo, số 01-2004.
- Các Báo cáo chính trị của Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi lần thứ
XVI, XVII, của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh có phần tóm tắt
đánh giá và phương hướng, nhiệm vụ, mục tiêu chủ yếu của công tác giáo
dục-đào tạo; các báo cáo của Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Quảng Ngãi về thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII), Nghị quyết Trung ương 2 (khoá
VIII), thực hiện Kết luận Trung ương 6 (khoá IX) về giáo dục và đào tạo;
các báo cáo tổng kết trong các năm học; tổng kết 10 năm đổi mới ngành
giáo dục-đào tạo của Sở Giáo dục-Đào tạo tỉnh Quảng Ngãi.
Những công trình trên có thể nói rất phong phú, đa dạng, nhưng chưa
có tác giả nào đề cập toàn diện đến đề tài khoá luận này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1 Mục đích
Đề tài nghiên cứu với mục đích trên cơ sở lý luận và thực tiễn giáo dục
và đào tạo, đề xuất những giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần xây dựng
và phát triển sự nghiệp “trồng người” của tỉnh Quảng Ngãi trong những
năm tiếp theo.
3


3.2 Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, nhiệm vụ của đề tài là:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận chung về quản lý giáo dục và đào tạo.
- Khảo sát thực trạng giáo dục-đào tạo và quản lý giáo dục-đào tạo ở
Quảng Ngãi hiện nay.
- Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý giáo dục và đào
tạo ở Quảng Ngãi hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khoá luận đi sâu nghiên cứu công tác quản lý giáo dục và đào tạo trên
địa bàn tỉnh Quảng Ngãi từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Khoá luận được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về vai
trò của giáo dục và quản lý giáo dục-đào tạo.
Khoá luận sử dụng kết hợp các phương pháp lôgic-lịch sử, phương
pháp thống kê, tổng hợp và phân tích số liệu v.v…
6. Những đóng góp về lý luận và thực tiễn của đề tài
Bước đầu đề xuất một số giải pháp mang tính khả thi, góp phần nâng
cao chất lượng quản lý đối với công tác giáo dục và đào tạo tại tỉnh Quảng
Ngãi trong thời gian tới. Đồng thời, có thể làm tài liệu tham khảo cho
những ai quan tâm đề tài.
7. Kết cấu khoá luận
Khoá luận ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu

tham khảo, được chia làm ba chương, mười hai tiết.

4


5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ QUẢN LÝ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
1.1 Giáo dục, đào tạo và quản lý giáo dục - đào tạo
1.1.1 Giáo dục và đào tạo
• Khái niệm giáo dục:
Từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng của Viện Ngôn ngữ học
đưa ra khái niệm về “giáo dục” như sau:
1. Giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự
phát triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó, làm cho đối tượng
ấy dần dần có những phẩm chất và năng lực như yêu cầu đề ra.
2. Giáo dục là hệ thống các biện pháp và cơ quan giảng dạy của một
nước.
• Khái niệm đào tạo:
Cũng theo Từ điển trên, “đào tạo” được định nghĩa như sau: Đào tạo là
một quá trình đặc thù, hướng về giáo dục chuyên nghiệp theo những tiêu
chuẩn nhất định, là sự phát triển có hệ thống các tri thức, kỹ năng, kỹ xảo,
… để mỗi cá nhân thực hiện một nhiệm vụ chuyên môn nhất định.
1.1.2

Quản lý giáo dục và đào tạo


• Khái niệm quản lý:
Từ khi xuất hiện nền sản xuất xã hội, nhu cầu liên kết con người, phối
hợp các hoạt động riêng lẻ càng tăng lên. Hoạt động quản lý là nhân tố cần
thiết, tất yếu để duy trì sự tồn tại và phát triển của mọi quy mô và loại hình
tổ chức người; từ một gia đình cho đến cấp quốc gia và quốc tế; cho tất cả
các tổ chức, cũng như các tổ chức chính trị, tư tưởng-văn hoá, khoa học,
giáo dục, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…
Một số tổ chức hoặc một lĩnh vực hoạt động bất kỳ nào của con người
nếu không được quản lý sẽ dẫn tới tình trạng tự phát, hỗn loạn, kém hiệu
quả.
6


Ngày nay, mọi người đều thừa nhận tính tất yếu của quản lý và thuật
ngữ quản lý đã trở thành câu nói hàng ngày của mọi tầng lớp trong xã hội,
từ người lãnh đạo cao nhất đến người dân.
Vậy quản lý là gì?
Thuật ngữ “quản lý” có nhiều cách biểu hiện khác nhau:
Có tác giả cho rằng, quản lý là các hoạt động được thực hiện nhằm bảo
đảm sự hoàn thành công việc qua những nỗ lực của người khác.
Tác giả khác lại cho rằng, quản lý là công tác phối hợp có hiệu quả các
hoạt động của những người cộng sự khác cùng chung một tổ chức.
Quan niệm khác, quản lý là một hoạt động thiết yếu nảy sinh khi con
người lao động và sinh hoạt tập thể đạt tới một trật tự có thể kiểm soát, điều
khiển được và nhằm thực hiện có mục tiêu chung của tập thể, tổ chức…
Từ các quan niệm trên có thể đi đến một định nghĩa chung nhất là:
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới
đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.
• Quản lý giáo dục – đào tạo:
Từ khái niệm trên về quản lý, cho thấy: Quản lý bao giờ cũng là một

tác động hướng đích, có mục tiêu xác định; Quản lý thể hiện ở mối quan hệ
giữa hai bộ phận đó là chủ thể quản lý (là cá nhân hoặc tổ chức làm nhiệm
vụ quản lý, điều khiển) và đối tượng quản lý (là bộ phận chịu sự quản lý),
đây là quan hệ ra lệnh - phục tùng, không đồng cấp và có tính bắt buộc.
Vậy, quản lý giáo dục và đào tạo là quản lý nhân lực, vật chất, tài
chính, kế hoạch, nội dung, chương trình và chủ thể-đối tượng-mục tiêu
quản lý được hiểu cụ thể như sau:
Chủ thể trong công tác quản lý giáo dục và đào tạo ở đây là Đảng, Nhà
nước, tổ chức đoàn thể … mà trực tiếp là cơ quan phụ trách công tác giáo
dục.
Đối tượng chịu sự quản lý là cán bộ phụ trách giáo dục và đào tạo
(hiệu trưởng, hiệu phó), giáo viên, học sinh.

7


Mục tiêu quản lý phải được xác định trước, thông qua đó mà chủ thể
quản lý chi phối đối tượng quản lý. Trong công tác quản lý giáo dục và đào
tạo, mục tiêu quản lý là kế hoạch, chương trình hành động của Đảng, Nhà
nước, mà trạc tiếp là Bộ Giáo dục và Đào tạo; hay là sự cụ thể hoá hệ thống
mục tiêu đó bằng chương trình hành động của Sở, Phòng giáo dục…
Mục tiêu cuối cùng trong công tác quản lý giáo dục và đào tạo là con
người – nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài để đáp ứng
yêu cầu của đất nước.
Mục đích của giáo dục và đào tạo là “ trồng người”, là đào tạo những
con người có phẩm chất, trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu của xã hội,
thích ứng với sự phát triển của đất nước, sự phát triển của con người, xã hội
và thời đại.
Quốc gia nào trên thế giới cũng đặt giáo dục và đào tạo là vấn đề quốc
sách hàng đầu nhằm tạo ra nguồn nhân lực có trí tuệ cao, là nhân tố quyết

định tăng trưởng kinh tế-xã hội và là sự thể hiện lòng tự tôn dân tộc.
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước xác định: cùng với khoa học-công nghệ,
giáo dục-đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa cần phải đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có
đạo đức, có tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành và bồi dưỡng nhân
cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
Vậy, quản lý giáo dục và đào tạo là sự tác động có tính tổ chức và
điều chỉnh bằng đường lối, chủ trương, chính sách, quyền lực...của Đảng và
Nhà nước đối với các hoạt động giáo dục và đào tạo do các cơ quan quản lý
giáo dục và đào tạo từ Trung ương đến cơ sở thực hiện chức năng, nhiệm
vụ về giáo dục và đào tạo nhằm phát triển và đáp ứng nhu cầu giáo dục và
đào tạo của nhân dân.
8


Quản lý Nhà nước về giáo dục và đào tạo là việc Nhà nước thực hiện
quyền lực để điều hành, điều chỉnh toàn bộ các hoạt động giáo dục và đào
tạo trong phạm vi toàn xã hội, bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật
về giáo dục; ban hành điều lệ nhà trường; ban hành quy định về tổ chức và
hành động của cơ sở giáo dục khác (ví dụ: về chống dạy thêm, học thêm
tràn lan);
Xây dựng và chỉ đạo thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính
sách phát triển giáo dục;
Đầu tư cho giáo dục và đào tạo (chi từ ngân sách Nhà nước về vật
chất,tài chính);

Huy động, quản lý và sử dụng các nguồn lực để phát triển sự nghiệp
giáo dục (vật chất, tài chính …);
Tổ chức bộ máy quản lý giáo dục, cán bộ ngành giáo dục các cấp;
Tổ chức, quản lý công tác hợp tác quốc tế về giáo dục;
Thực hiện thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về giáo dục;
giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về
giáo dục.
1.1.3 Vai trò của quản lý giáo dục và đào tạo trong việc nâng cao
chất lượng giáo dục
Trước đây, có một thời kỳ chúng ta chưa nhận thức đúng vai trò giáo
dục và đào tạo nên cho rằng giáo dục và đào tạo là gánh nặng, là hoạt động
phúc lợi của xã hội. Do đó, trong một thời gian dài nền giáo dục của nước
nhà còn ở tình trạng chậm phát triển chưa thực sự đáp ứng yêu cầu phát
triển của đất nước.
Ngày nay, thế giới đang sống trong thời đại văn minh tin học với sự
phát triển như vũ bão của khoa học, công nghệ và xu thế hội nhập quốc tế
giữa các quốc gia, khu vực, các tổ chức là một tất yếu. Để đáp ứng được
yêu cầu đó, nền giáo dục nước nhà cần cung cấp cho đất nước một đội ngũ

9


tri thức thực sự có chất lượng. Làm được điều này phải coi trọng vai trò của
quản lý giáo dục và đào tạo trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.
Muốn thực hiện được điều đó cần phải phát triển mạnh mẽ giáo dục
và đào tạo, vì chỉ thông qua hiệu quả quản lý giáo dục và đào tạo mới cung
cấp cho đất nước một đội ngũ nhân lực được đào tạo một cách khoa học, có
chất lượng cao. Quản lý giáo dục và đào tạo tốt chính là điều kiện, nền tảng
trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.
Quản lý về giáo dục và đào tạo là việc thực hiện đường lối, chủ

trương, chính sách, quyền lực để điều hành, điều chỉnh toàn bộ hoạt động
giáo dục và đào tạo trong phạm vi toàn xã hội.
Vì vậy, cần phải ban hành và thực hiện pháp luật về giáo dục, xây
dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch, chương trình phát triển giáo dục – đào
tạo, bên cạnh đó là đầu tư cho giáo dục-đào tạo là đầu tư phát triển, đầu tư
chiều sâu, lợi ích lâu dài, phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực
giáo dục-đào tạo; đồng thời phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và chỉ
đạo của Nhà nước đối với các tổ chức quản lý hoạt động giáo dục – đào tạo
từ Trung ương đến cơ sở, đặc biệt là thực hiện chức năng quản lý chủ yếu
của Nhà nước về giáo dục – đào tạo trong việc thanh tra, kiểm tra, kiểm
soát nhằm thiết lập và duy trì kỷ cương, kỷ luật, trật tự pháp luật trong hoạt
động giáo dục – đào tạo. Cần phải tổ chức tốt sự phối hợp giữa Nhà nước,
Mặt trận Tổ Quốc, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội, mỗi gia đình
giám sát thực hiện công tác quản lý giáo dục và đào tạo, ngăn chặn, đẩy lùi
tiêu cực trong giáo dục nhằm nâng cao chất lượng giáo dục.
1.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng ta về giáo dục – đào tạo và quản lý giáo dục – đào tạo
1.2.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về giáo dục-đào tạo và
quản lý giáo dục – đào tạo
Giáo dục con người, giáo dục quần chúng là một trong những nội
dung quan trọng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Vì vậy theo C.Mác, muốn cho

10


hoạt động giáo dục đạt hiệu quả tốt thì bản thân nhà giáo dục phải được
giáo dục.
Theo C.Mác, giáo dục luôn mang tính giai cấp và bảo vệ lợi ích và địa
vị giai cấp thống trị, mà đặc biệt là giai cấp dưới chế độ phong kiến và chủ
nghĩa tư bản. C.Mác chỉ ra rằng: “Nền giáo dục ở bất cứ nơi nào cũng đều

nằm trong tay giới tăng lữ, lãnh chúa phong kiến mà thủ lĩnh của họ cũng
như bọn địa chủ phong kiến đều hết sức quan tâm việc duy trì hệ thống
hiện hành”(1).
Tiếp đến C.Mác đề cập đến tính chất giáo dục tư bản với mục đích là
phục vụ cho giai cấp tư bản mà con người bị trói buộc cả cuộc đời họ phục
vụ đắc lực làm giàu cho giai cấp tư bản.
Còn giáo dục xã hội chủ nghĩa, theo C.Mác nó sẽ làm cho cá nhân có
khả năng nắm bắt những tiến bộ khoa học-kỹ thuật, giúp con người trở
thành người chủ toàn bộ lực lượng sản xuất, làm thay đổi phương thức sản
xuất và phân công lao động. Đặc biệt, C.Mác coi việc đào tạo đội ngũ “Trí
thức vô sản” là nhiệm vụ hết sức bức thiết để chuẩn bị cho công cuộc xây
dựng xã hội mới. Đây là một nền giáo dục mang tính chất nhân dân, vì
nhân dân.
V.I.Lênin, Người kế thừa và phát triển chủ nghĩa Mác ở một giai đoạn
mới-giai đoạn chủ nghĩa đế quốc đã coi công tác giáo dục là một nhiệm vụ
không thể xem nhẹ. Theo Người “Việc điện khí hoá không thể do những
người mù chữ thực hiện được, mà chỉ biết chữ thôi cũng không đủ. Họ phải
hiểu rằng điều đó chỉ có thể thực hiện được trên một nền học vấn hiện đại
và nếu không có nền học vấn đó thì chủ nghĩa cộng sản chỉ là một nguyện
vọng mà thôi”(2).
Theo V.I.Lênin, những điều kiện và biện pháp để nâng cao chất lượng
nền giáo dục xã hội chủ nghĩa đó là phải giúp cho người học có sự nhận
thức đầy đủ, không đánh giá cảm tình và hời hợt các hiện tượng, phải đòi
hỏi ra sức học chủ nghĩa cộng sản, học phải kết hợp với hành, am hiểu sâu
(1)
(2)

C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1981, tập 2, tr.276.
V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Maxcơva, 1974, , tập 41, tr.364 - 365


11


sắc những sự việc thực tế chứ không bó hẹp bằng những hiểu biết được ghi
trong sách vở vì không có sự am hiểu về những sự việc thực tế thì không
thể trở thành một người hiện đại có học thức được. Vì vậy, học và trở thành
tri thức khi biết gắn liền từng bước học tập, giáo dục và rèn luyện của mình
với cuộc đấu tranh không ngừng của những người vô sản và những người
lao động chống lại xã hội cũ của bọn bóc lột.
Cuối cùng, theo V.I.Lênin, Người không chấp nhận lối học kinh việnmột lối học không những đem lại sự vô bổ mà còn là “một sai lầm rất lớn”.
Chính vì vậy, một đòi hỏi rất cao của Người đối với sự nghiệp giáo dục nói
chung và công tác quản lý giáo dục trong các trường đại học, cao đẳng…là
phải kết hợp việc học tập trong nhà trường với việc tham gia công tác xã
hội, học hỏi cuộc sống. V.I.Lênin viết : “Chúng ta không tin vào việc rèn
luyện, giáo dục và học tập nếu những việc đó chỉ đóng khung trong nhà
trường, tách rời cuộc sống sôi nổi”(1).
Có thể nói chủ nghĩa Mác-Lênin về giáo dục và công tác quản lý giáo
dục và đào tạo vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn trong thời đại
ngày nay. Đó là những sự chỉ dẫn quý giá, cần vận dụng sáng tạo, phù hợp
với yêu cầu mới trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay.
1.2.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục – đào tạo và quản lý giáo
dục- đào tạo
Sinh thời, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở toàn Đảng, toàn dân: “Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần
thiết”(2). Người chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục với cách
mạng, giữa giáo dục với sự nghiệp giải phóng dân tộc và kiến thiết đất
nước. Theo Người, muốn cho dân mạnh, nước giàu, đủ sức giữ vững nền
độc lập, mọi người dân Việt Nam phải có kiến thức mới để tham gia vào
công cuộc xây dựng nhà nước mà trước hết là phải biết đọc, biết viết chữ
quốc ngữ.


(1)
(2)

. V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Maxcơva, 1974, tập 41, tr372
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 4, tr.510

12


Theo Người, trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giáo dục
lại càng có vị trí quan trọng, vì nó vừa là nền tảng, vừa là động lực để thúc
đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Người đã khẳng định, giáo dục là một mặt
trận đặc biệt trong sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở nước ta mà mỗi
cô giáo, thầy giáo là một chiến sĩ cách mạng trên mặt trận đó.
Mục đích của nền giáo dục cách mạng theo Người đó là phục vụ Tổ
quốc, phục vụ nhân dân, phục vụ đường lối chính trị của Đảng và Chính
phủ, gắn liền với sản xuất và đời sống của nhân dân. Giáo dục phải tạo ra
những người lao động mới, đó là những người có lòng yêu nước nồng nàn,
tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, có đạo đức cách mạng trong sáng, không
sợ hy sinh, gian khổ, thật thà, cần cù, tiết kiệm, có tri thức và sức khoẻ để
trở thành người chủ tương lai, người thừa kế xây dựng Chủ nghĩa xã hội
vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Tiếp đến, theo Người, những người làm giáo dục phải luôn chú ý giáo
dục toàn diện cho học sinh, phải kết hợp chặt chẽ học đi đôi với hành. Bác
luôn đánh giá cao vai trò của người thầy đối với xã hội. “Người thầy giáo tốtthầy giáo xứng đáng là thầy giáo-là người vẻ vang nhất. Dù là tên tuổi không
đăng trên báo, không được thưởng huân chương song là những người thầy
giáo tốt, là những người anh hùng vô danh”(1). Muốn được như vậy, các cô
giáo, thầy giáo phải hết sức trao dồi đạo đức cách mạng, không ngừng rèn
luyện chuyên môn, phải là tấm gương sáng để học sinh noi theo. Phải gương

mẫu từ lời nói đến việc làm, phải thương yêu chăm sóc học sinh như con em
ruột của mình, phải thật sự yêu nghề, học tập để không ngừng tiến bộ mãi.
Cùng với sự coi trọng nghề cao quý trong tất cả những nghề cao quý,
Bác luôn tin tưởng và mong muốn các thế hệ học sinh luôn cố gắng học tập
và rèn luyện để mai sau trở thành người có ích cho Tổ quốc. Người viết:
“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có
bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu hay
không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em” (2). Câu nói
này hoàn toàn phù hợp với quy luật phát triển của các nước đi từ lạc hậu
(1)
(2)

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 11, tr.331
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.33

13


lên tiên tiến và hiện đại, từ nông nghiệp đi lên công nghiệp hoá-hiện đại
hoá như đất nước chúng ta.
Cuối cùng, Người căn dặn: “Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng” (3),
do đó các cấp uỷ đảng, chính quyền, các ngành, đoàn thể quần chúng và
toàn xã hội phải thật sự quan tâm đến công tác giáo dục, giúp đỡ nhà
trường về mọi mặt, cần phát huy dân chủ cao độ trong nhà trường để tạo
nên sự đoàn kết nhất trí giữa thầy với thầy, thầy với trò, trò với trò, tạo ra
mối quan hệ mật thiết giữa nhà trường, gia đình, xã hội cùng cộng đồng
trách nhiệm để phát triển giáo dục.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác giáo dục luôn toả sáng
tính cách mạng, tính nhân dân và dân tộc sâu sắc. Cả cuộc đời hoạt động
cách mạng của mình, Người chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là

làm sao cho nước nhà được độc lập…ai cũng được học hành. Những lời
Bác dặn năm xưa vẫn còn nguyên giá trị và những người làm công tác giáo
dục hôm nay như vẫn thấy Bác hiển hiện, đưa đường, chỉ lối, động viên
làm tốt hơn nữa trong sự nghiệp “trồng người”.
1.2.3 Quan điểm của Đảng ta về giáo dục-đào tạo và quản lý giáo
dục-đào tạo
Ngay từ khi giành được chính quyền, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chú
trọng đến vấn đề giáo dục và đào tạo. “Giặc dốt” được xem là một trong ba
loại giặc nguy hiểm mà Đảng, Chính phủ và nhân dân cần chiến thắng.
Đảng xác định: Muốn cho dân giàu, nước mạnh, thì dân trí phải cao, phải
đa dạng hoá các loại hình đào tạo, mở trường vừa học vừa làm để tạo điều
kiện cho người lao động, cán bộ, chiến sĩ, được đi học. Chính vì xác định
được giáo dục là một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng Việt Nam nên
chúng ta đã có hàng triệu trí thức, công nhân…lên đường chiến đấu, không
ngại hy sinh gian khổ vì đã được đào tạo dưới một nền giáo dục ưu việt xã
hội chủ nghĩa.
Sau khi nước nhà thống nhất, từ Nghị quyết của Đại hội lần thứ IV của
Đảng (1976), Bộ Chính trị đã ra Quyết định số 14-NQ/TW về cải cách giáo
(3)

Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tập 12, tr.403

14


dục với tư tưởng xem giáo dục là bộ phận quan trọng của cuộc cách mạng tư
tưởng; thực thi nhiệm vụ chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ từ nhỏ đến lúc
trưởng thành; thực hiện tốt nguyên lý giáo dục học đi đôi với hành, giáo dục
kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội. Có thể nói tư
tưởng chỉ đạo trên của Đảng đã được bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với yêu

cầu thực tế qua các kỳ Đại hội VI,VII,VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
đã xác định rõ mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm
(2001-2010) là đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ
rệt đời sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện
đại.
Và trong phần V, mục 1 về phát triển giáo dục và đào tạo, Báo cáo đã
viết: Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhân tố quyết
định sự phát triển của đất nước trong thời kỳ công nghiệp hoá-hiện đại hoá,
cần tạo chuyển biến cơ bản và toàn diện về giáo dục và đào tạo.
Muốn vậy, phải bồi dưỡng thế hệ trẻ tinh thần yêu nước, yêu quê
hương, gia đình và tự tôn dân tộc, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, lòng nhân ái,
ý thức tôn trọng pháp luật. Đào tạo lớp người có kiến thức cơ bản, làm chủ
kỹ năng nghề nghiệp, quan tâm hiệu quả thiết thực, nhạy cảm với cái mới,
có ý vươn lên về khoa học và công nghệ. Xây dựng đội ngũ công nhân lành
nghề, các chuyên gia và nhà khoa học, nhà văn hoá, nhà kinh doanh, nhà
quản lý, chính sách sử dụng lao động và nhân tài phải tận dụng mọi năng
lực, phát huy tiềm năng của tập thể và cá nhân phục vụ sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ đất nước.
Đại hội Đảng lần thứ IX cũng đã chỉ ra định hướng phát triển giáo dục
và đào tạo đến 2005 là tiếp tục quán triệt quan điểm giáo dục là quốc sách
hàng đầu và tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện trong phát triển giáo dục
và đào tạo. Triển khai thực hiện có hiệu quả Luật giáo dục. Định hình qui
mô giáo dục và đào tạo, nhất là cơ cấu cấp học, ngành nghề và cơ cấu theo
15


lãnh thổ phù hợp với nhu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ phát triển
kinh tế, xã hội. Nâng cao trình độ đội ngũ giáo viên các cấp.

Để thực hiện thắng lợi mục tiêu này trong thời gian qua, Hội nghị lần
thứ VI (khoá IX) về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 (khoá
VIII), phương hướng phát triển giáo dục-đào tạo, khoa học-công nghệ từ
nay đến 2005 và đến năm 2010.
Kết luận khẳng định: Giáo dục là nền tảng cho sự phát triển khoa họccông nghệ và kinh tế-xã hội. Công nghệ thông tin đòi hỏi đổi mới kịp thời
nội dung và phương pháp dạy và học. Việc đổi mới giáo dục đang diễn ra
trên qui mô toàn cầu… Giáo dục cần tập trung phát triển nhanh hơn, khẩn
trương hơn, tốt hơn mới có thể đáp ứng các yêu cầu của sự nghiệp đẩy
mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.
Như vậy, một lần nữa Đảng ta khẳng định vai trò quan trọng hàng đầu
của giáo dục và đào tạo trong sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá và
đề ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nền giáo dục nước nhà, tạo
ra nguồn nhân lực mới có thể rút ngắn quá trình công nghiệp hoá, đi tắt đón
đầu, mà điều này là cực kỳ cấp bách đối với một nước đang trong giai đoạn
phát triển như chúng ta hiện nay.
Tóm lại, quan điểm của Đảng ta về giáo dục-đào tạo và quản lý giáo
dục-đào tạo nhằm vào mục tiêu mang tính chiến lược và lâu dài là phải đào
tạo những con người có đầy đủ năng lực để đáp ứng những yêu cầu nghiêm
khắc của kinh tế thị trường. Hình thành mẫu con người mới, chuyển từ lối
sống thụ động, ỷ lại sang lối sống năng động, tự chủ và sáng tạo, có khả
năng làm việc với năng suất, chất lượng cao trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, càng đẩy mạnh thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa càng phải đào tạo lớp người thấm
nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách
của Đảng và Nhà nước, có phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống lành
mạnh… thực hiện lời dạy của Bác Hồ: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa.
16



1.3 Sự cần thiết phải tăng cường công tác quản lý giáo dục và đào
tạo ở nước ta hiện nay
Công tác quản lý giáo dục và đào tạo là hoạt động có tính mục tiêu và
tính nội dung. Tính mục tiêu được thể hiện ở việc: Đào tạo con người Việt
Nam phát triển toàn diện phải có đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và
nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội,
hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân,
đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tính nội dung của giáo dục
là phải đảm bảo tính cơ bản, toàn diện tiếp tục hiện đại và có hệ thống; coi
trọng giáo dục tư tưởng và ý thức công dân; bảo toàn và phát huy truyền
thống tốt đẹp, bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại,
phù hợp với sự phát triển về tâm sinh lý, lứa tuổi của người học.
Quản lý giáo dục và đào tạo là một quá trình bao gồm nhiều giai đoạn
khác nhau. Mỗi giai đoạn luôn mang nét đặc thù trong sự định hướng
chung của giáo dục xã hội chủ nghĩa. Nó luôn có tính định hướng mục đích
mà mỗi giai đoạn, cấp bậc cần hướng tới thông qua việc áp dụng tổng thể
các phương tiện, phương pháp nhằm mang lại kết quả cao nhất.
Giáo dục và đào tạo luôn mang tính giai cấp. Nó thể hiện ý chí,
nguyện vọng của giai cấp thống trị nhưng đại diện cho lợi ích chung của
dân tộc. Đó là nền giáo dục xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân, dân tộc,
khoa học, hiện đại, lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm
nền tảng.
Giáo dục và đào tạo là lĩnh vực quan trọng hàng đầu trong việc phổ
biến truyền bá những tri thức văn hoá, những giá trị văn hoá cho con người,
góp phần trực tiếp vào việc trí thức hoá, trí thức công nông, trí thức hoá
Đảng và Nhà nước, vươn tới đỉnh cao của khoa học-công nghệ hiện đại, kết
hợp nhuần nhuyễn giữa cách mạng khoa học và khoa học cách mạng.
Mục đích của công tác quản lý giáo dục và đào tạo là cung cấp cho đất
nước những con người được đào tạo chất lượng về phẩm chất, trình độ,
năng lực, đáp ứng yêu cầu của xã hội, thích ứng với sự phát triển của đất

nước, con người, xã hội và thời đại.
17


Tất cả các quốc gia trên thế giới đều đặt giáo dục và đào tạo là vấn đề
quốc sách hàng đầu nhằm cung cấp nguồn nhân lực có trí tuệ cao, là nhân
tố quyết định sự tăng trưởng kinh tế-xã hội và thể hiện lòng tự tôn dân tộc.
Ở nước ta, Đảng và Nhà nước xác định: Cùng với khoa học – công
nghệ, giáo dục-đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.
Trong giai đoạn hiện nay-giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải có đội ngũ lao động có
tri thức, được qua trường lớp đào tạo bài bản, phải là những con người vừa
“hồng” vừa “chuyên”. Chính vì thế, cần phải tăng cường công tác quản lý
giáo dục và đào tạo ở nước ta trong giai đoạn hiện nay-một nhiệm vụ quan
trọng để thực hiện tiến trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.

CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Ở QUẢNG NGÃI HIỆN NAY
2.1 Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa-xã hội tỉnh Quảng Ngãi
Tỉnh Quảng Ngãi nằm ở vị trí 14032’ - 15025’ vĩ độ bắc, 108006’ 109004’ độ kinh đông, phía bắc giáp tỉnh Quảng Nam, phía nam giáp tỉnh
Bình Định, phía tây giáp tỉnh Kon Tum, phía tây nam giáp tỉnh Gia Lai,
phía đông giáp Biển đông với đường bờ biển dài 140 km. Tỉnh Quảng Ngãi
có diện tích tự nhiên 5131,5km2, bằng 1,7% diện tích tự nhiên của đất
nước, dân số 1,3 triệu người, bao gồm 01 thành phố, 6 huyện đồng bằng
ven biển, 6 huyện miền núi và một huyện đảo. Năm 1975, tỉnh Quảng Ngãi
sáp nhập với tỉnh Bình Định lấy tên tỉnh Nghĩa Bình. Đến ngày 1/7/1989,
tỉnh Quảng Ngãi được tái lập.


18


Năm 1932, dân số tỉnh Quảng Ngãi có 428.059 người. Đến năm 2003,
dân số toàn tỉnh là 1.257.972 người, gồm các dân tộc Kinh, Hrê, Cor, Ca
dong và một số dân tộc thiểu số khác.
Địa hình Quảng Ngãi có núi, đồi thấp, đồng bằng và bãi cát ven biển.
Vùng núi, đồi chiếm khoảng 4/5 diện tích toàn tỉnh. Núi rừng trùng điệp,
địa hình hiểm trở, nối liền với dãy Trường Sơn hùng vĩ đã tạo cho miền núi
Quảng Ngãi không những là kho tài nguyên vô giá về lâm thổ sản như trầm
hương, quế, sa nhân, mật ong, mà còn là địa bàn chiến lược quan trọng về
quốc phòng an ninh. Vùng đồng bằng Quảng Ngãi hẹp và dài, có nhiều
sông suối chia cắt. Khác với Bắc bộ và Nam bộ, sông ở Quảng Ngãi tương
đối ngắn, độ dốc cao, lòng sông hẹp, nước chảy xiết. Toàn tỉnh có 4 con
sông lớn: Trà Bồng, Trà Khúc, Sông Vệ, Trà Câu. Những con sông ấy đã
bồi đắp phù sa, tạo nên vùng đồng bằng tuy nhỏ hẹp nhưng trù phú. Dân cư
vùng đồng bằng Quảng Ngãi chủ yếu sống bằng nghề nông. Bằng chính
sức lao động cần cù, thông minh, sáng tạo, nhân dân Quảng Ngãi đã biến
vùng đồng bằng thành những cánh đồng trù phú, những đặc sản nổi tiếng.
Quảng Ngãi là một tỉnh có truyền thống hiếu học. Truyền thống hiếu
học đã giúp người dân nghèo thoát khỏi tình trạng thất học, tạo điều kiện
tốt cho việc học hành. Nhiều người đã trở thành những tri thức lớn của đất
nước, nhiều học sinh Quảng Ngãi đã đạt nhiều huy chương trong các kỳ thi
Olympic quốc tế, Châu Á Thái bình dương….Hàng năm, tỷ lệ học sinh tốt
nghiệp THPT đạt trên 95%; học sinh thi đậu các trường đại học, cao đẳng
khoảng 14%. Trong những năm qua tỉnh đã đầu tư cho công tác xoá mù
chữ và phổ cập tiểu học đúng độ tuổi, phổ cập THCS đạt kết quả cao. Đến
nay công tác này đã cơ bản hoàn thành và đã được Chính phủ kiểm tra và
công nhận. Cơ sở vật chất của ngành giáo dục đã được tăng cường, qui mô

ngày càng phát triển; Triển khai thực hiện tốt chương trình kiên cố hoá
trường, lớp học, nhờ đó cơ sở vật chất trường học được cải thiện nhiều; Số
19


lượng học sinh các ngành học, cấp học được duy trì, chất lượng dạy và học
được nâng lên.
Trong những năm qua, công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân đã được
quan tâm đầu tư và phát triển. Toàn tỉnh có 14/14 huyện, thành phố có
trung tâm y tế; 100% xã có trạm y tế, 70% trạm có bác sỹ, nâng cao một
bước chất lượng khám chữa bệnh cho nhân dân ở cơ sở. Công tác y tế dự
phòng đã chủ động phòng chống dịch bệnh, đẩy lùi các dịch bệnh nguy
hiểm. Các chỉ tiêu về sức khoẻ, nâng cao thể trạng và tầm vóc con người
đạt khá. Bình quân mỗi năm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm còn 1%.
Công tác xoá đói giảm nghèo, tạo việc làm cho người lao động đạt kết
quả cao. Đến nay tỷ lệ hộ nghèo, đói giảm còn dưới 9%. Hàng năm tỉnh dã
giải quyết việc làm và tạo việc làm mới cho hơn 30.000 lao động. Chính
sách đối với người có công với nước và chính sách xã hội được thực hiện
tốt hơn trong những năm qua. Toàn tỉnh đã xây dựng mới và sửa chữa trên
1.600 nhà tình nghĩa, hoàn thành đề án hỗ trợ nhà ở cho các gia đình có
công; các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng đều được phụng dưỡng vê vật chất và
tinh thần.
Công tác quốc phòng, an ninh được tăng cường, chính trị-xã hội ổn
định tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế-xã hội. Lực lượng vũ
trang của tỉnh được xây dựng chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhân dân và
nâng cao khả năng chiến đấu trong mọi tình huống. Công tác tuyển quân
hàng năm đạt 100%; phong trào bảo vệ an ninh tổ quốc được duy trì, phòng
tuyến an ninh nhân dân được giữ vững; các lực lượng an ninh đã kịp thời
phát hiện và ứng phó ngăn chặn, phá vỡ nhiều âm mưu và hoạt động phá
hoại của địch. Công tác đấu tranh phòng chống tội phạm được thực hiện

kiên quyết, nhờ đó tội phạm hình sự giảm, đảm bảo tuyệt đối an toàn cho
các hoạt động chính trị, kinh tế-xã hội quan trọng của địa phương.

20


Quảng Ngãi vốn có nhiều ngành nghề và làng nghề tiểu thủ công
nghiệp truyền thống, nhất là chế biến đường đặc sản (kẹo gương, mạch nha,
đường phèn, đường phổi, ép mía nấu đường thủ công, làm đồ gốm, đúc
đồng, nghề mộc, nghề rèn, làm nón lá, khảm xà cừ, dệt thổ cẩm ở miền núi,
ươm tơ dệt lụa… Dù được chú trọng khuyến khích, nhưng một mặt do
thiếu vốn và chậm đổi mới công nghệ, mặt khác do hàng công nghiệp cạnh
tranh nên những năm gần đây tuy vẫn duy trì, song các ngành nghề thủ
công Quảng Ngãi vẫn chưa thật sự khởi sắc. Công nghiệp Quảng Ngãi vốn
nhỏ bé, trước đây chỉ tập trung vào khâu sửa chữa, lắp ráp cơ khí và công
nghiệp chế biến nông sản thực phẩm. Những năm gần đây, đã tiến lên sản
xuất máy nông nghiệp thô sơ, sản xuất hoá chất nâng cao công suất nhà
máy điện, nhà máy đường, phát triển một số cơ sở công nghiệp chế biến
mới, sản xuất vật liệu xây dựng…
Trong những năm gần đây, thực hiện đường lối công nghiệp hoá- hiện
đại hoá đất nước của Trung ương Đảng, tỉnh Quảng Ngãi đã hình thành
ngày càng rõ nét 4 khu công nghiệp: Dung Quất, Phổ Phong, Quảng Phú,
Tịnh Phong.
Khu kinh tế Dung Quất và Nhà máy lọc dầu số 1 Dung Quất được
Chính phủ đầu tư xây dựng. Khu Kinh tế Dung Quất có tổng diện tích
khoảng 14.000 ha. Trong đó có Nhà máy lọc dầu số 1 của nước ta với tổng
mức đầu tư 1tỷ 500 triệu đô la Mỹ. Đây là công trình trọng điểm đang được
khẩn trương thi công. Cùng với Nhà máy lọc dầu số 1 sẽ lần lượt hình
thành các khu công nghiệp hoá dầu, các nhà máy sản xuất thép và vật liệu
xây dựng, các bến cảng, kho bãi trung chuyển container, khu công nghiệp

phá dỡ tàu, khu công nghiệp hoá chất, dịch vụ dầu khí, Thành phố Vạn
Tường…Đến cuối năm 2006, Khu Kinh tế Dung Quất đã có 102 dự án
được cấp phép và chấp thuận đầu tư, với tổng số vốn đăng ký 76.911 tỷ
đồng (tương đương 5,1 tỷ USD), giải quyết việc làm cho trên 4.000 lao
21


động. Những năm tới sự hội nhập của nước ta với khu vực và quốc tế ngày
càng sâu sắc, ở Quảng Ngãi Khu kinh tế Dung Quất, Nhà máy lọc dầu số 1
và nhiều công trình khác đã và đang mở ra triển vọng phát triển mới.
Khu công nghiệp Quảng Phú có tổng diện tích 138,6 ha, với tổng số
vốn đầu tư 292 tỷ đồng, tại khu công nghiệp này có: Công ty cổ phần
Đường Quảng Ngãi với các nhà máy đường, bánh kẹo, nước khoáng Thạch
Bích, bia Dung Quất, nha, cồn, rượu, bao bì; Công ty chế biến thực phẩm
xuất khẩu; Nhà máy chế biến thuỷ hải sản xuất khẩu; Nhà máy chế biến
gỗ… Khu công nghiệp Tịnh Phong với tổng diện tích 142 ha, đã xây dựng
được một số nhà máy, xí nghiệp, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến nông
lâm sản…Hai khu công nghiệp trên đã có 73 dự án (trong đó có 48 dự án
đang hoạt động sản xuất kinh doanh, giải quyết 8.000 lao động) với tổng
vốn đăng ký trên 1.400 tỷ đồng.
Trong những năm đầu tái lập tỉnh (1.7.19989-1995) tốc độ tăng trưởng
GDP bình quân là 6,7%/năm, giai đoạn 1996-2000 đạt 8,5%/ năm; giai
đoạn 2000-2005 tăng 10,3%/năm. Riêng năm 2006 Quảng Ngãi đã có bước
chuyển mình đáng kể, GDP tăng 12,3%, trong đó công nghiệp, xây dựng
tăng 33,5%, nông lâm ngư nghiệp tăng 32%, dịch vụ tăng 34,5%.
Trong nhiệm kỳ 2001-2005: Trong điều kiện còn nhiều khó khăn,
thách thức, tỉnh Quảng Ngãi đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trên các
lĩnh vực. Kinh tế tăng trưởng với nhịp độ khá cao. Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các khu vực, ngành, vùng
kinh tế đều phát triển. Kết cấu hạ tầng kinh tế -kỹ thuật được tập trung đầu

tư xây dựng và có bước phát triển đáng kể. Nhiều mặt của lĩnh vực văn hoá
- xã hội tiếp tục phát triển, góp phần cải thiện đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân. Quốc phòng - an ninh được tăng cường và giữ vững. Việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ngày càng được quan
tâm, có tiến bộ trên nhiều mặt. Công tác dân vận, mặt trận, các đoàn thể
22


nhân dân có những chuyển biến tích cực. Sức mạnh của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, lòng tin của nhân dân và sự đồng thuận trong xã hội đối với
công cuộc đổi mới do Đảng ta lãnh đạo tiếp tục được củng cố, tăng cường.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ được nâng lên.
Mặc dù đạt được một số thành tựu đáng kể nêu trên, nhưng Quảng
Ngãi vẫn còn nhiều khó khăn, yếu kém. Đó là: Kinh tế tuy tăng trưởng với
nhịp độ khá cao, nhưng chất lượng chưa cao, thiếu bền vững, chưa có sự
chuyển biến rõ nét và có tính đột phá; giá trị sản xuất các ngành kinh tế còn
nhỏ bé, cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm. Nhiều nguồn lực, tiềm năng
trong tỉnh chưa được khơi dậy và phát huy đúng mức; thu hút ngoại lực
chưa nhiều. Năng lực và sức cạnh tranh của nhiều mặt hàng và doanh
nghiệp còn hạn chế. Kết cấu hạ tầng kinh tế - kỹ thuật tuy phát triển, nhưng
nhìn chung chưa đồng bộ và chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội. Quản lý nhà nước nước về quy hoạch, đất đai, đầu tư xây dựng, quản
lý đô thị còn nhiều yếu kém. Nhiều dự án đầu tư xây dựng còn kéo dài,
lãng phí, thất thoát. Một số vấn đề bức xúc trên lĩnh vực xã hội chậm được
giải quyết. Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là vùng miền núi,
vùng sâu, vùng xa, bãi ngang và một số khu tái định cư còn gặp nhiều khó
khăn. Tệ nạn xã hội, quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa được đẩy lùi làm
ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng
chính quyền, đổi mới hoạt động của mặt trận và các đoàn thể nhân dân còn
nhiều mặt chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.

Như vậy, với những điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị - xã hội nêu
trên cho thấy Quảng Ngãi là vùng đất chứa đựng nhiều tiềm năng phát
triển. Sự dồi dào về tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên đất,
rừng… đã và sẽ tạo điều kiện cho Quảng Ngãi nhanh chóng hội nhập vào
kinh tế khu vực, kêu gọi đầu tư trong và ngoài nước. Những thành tựu nói
trên đã và đang tác động tích cực đến sự tin tưởng của nhân dân vào
23


đường lối đổi mới của Đảng, tạo sự hăng hái, gương mẫu trong thực hiện
chủ trương, đường lối, làm tiền đề cho những chuyển biến mạnh mẽ về
kinh tế-xã hội.
Bên cạnh những thành tựu, công cuộc đổi mới ở tỉnh Quảng Ngãi
vẫn còn những hạn chế, tồn tại. Đó là tốc độ phát triển kinh tế còn chậm,
chưa vững chắc, cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn chuyển dịch
chậm, mang nhiều yếu tố tự phát. Đời sống vật chất và văn hoá của nhân
dân ở nhiều vùng nông thôn còn thấp. Thu nhập của các hộ dân cư có sự
chênh lệch ngày càng tăng giữa các vùng đồng bằng, trung du và miền
núi…
Những thành tựu và yếu kém nói trên là do nhiều nguyên nhân, như
chưa mạnh dạn và kịp thời đề ra những chính sách và giải pháp phù hợp để
phát huy yếu tố nội lực, thu hút ngoại lực cho phát triển, tổ chức thực hiện
thiếu nhất quán, chưa tập trung cho công tác quy hoạch và triển khai thực
hiện quy hoạch để phát triển. Vì vậy, việc lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân,
toàn dân thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội nửa nhiệm kỳ cuối của Đảng
bộ tỉnh Quảng Ngãi là một trách nhiệm hết sức nặng nề, đòi hỏi sự cố gắng
và nỗ lực của tất cả các cấp, các ngành và nhân dân trong tỉnh.
2.2 Thành tựu của quản lý giáo dục-đào tạo và nguyên nhân
Quán triệt và thực hiện Kết luận của Hội nghị lần thứ VI, Ban Chấp
hành Trung ương Đảng khoá IX; thực hiện các Chỉ thị của Bộ Chính trị,

Nghị quyết Đại hội lần thứ XVI của Đảng bộ tỉnh Quảng Ngãi… Trong
những năm gần đây ngành giáo dục và đào tạo Quảng Ngãi đã đạt được
những kết quả rất đáng ghi nhận.
2.2.1 Quản lý giáo dục và đào tạo góp phần phát triển qui mô giáo
dục và đào tạo của tỉnh nhà
a. Ngành giáo dục mầm non

24


Các địa phương trong tỉnh đã tập trung chỉ đạo, huy động các cháu ra
lớp, thực hiện chuyển các trường mầm non dân lập sang loại hình bán công.
Nhà trẻ: 4 nhà trẻ độc lập, 111 nhóm tại các loại hình khác nhau với
2.549 cháu. Mẫu giáo: 132 trường, 1.385 lớp với 34.087 cháu.
b. Ngành học tiểu học
Ngành Tiểu học có 233 trường, trong đó có 229 trường tiểu học độc
lập và 4 trường phổ thông cấp I, II với 4.773 lớp. So với năm học 20052006 đã tăng 21 trường và giảm 242 lớp. Điều này chứng tỏ ngành đã chú
trọng đến công tác đầu tư cơ sở vật chất cũng như chất lượng đào tạo khi số
học sinh không tăng, số lớp giảm nhưng số trường đã tăng.
Số lượng học sinh là 144.028 so với 2005-2006, bậc tiểu học đã giảm
được 9.916 học sinh.
c. Trung học cơ sở
Tổng số trường 140, trong đó: Trung học cơ sở độc lập là 125
trường, phổ thông cơ sở là 04 trường, dân tộc nội trú là 05 trường, trung
học phổ thông có dạng THCS là 06 trường.
Ngoài ra, các phòng giáo dục miền núi đã tổ chức các lớp nhỏ dạy
bậc trung học cơ sở tại các trường tiểu học ở những vùng núi cao, vùng khó
khăn giao thông không thuận lợi.
Tổng số học sinh: 112.732 so với năm học trước đã tăng hơn 9.000 học
sinh do huy động được tối đa học sinh tốt nghiệp bậc tiểu học vào học THCS.

d. Trung học phổ thông
Tổng số trường 50, trong đó: THPT công lập là 24 trường, THPT bán
công là 24 trường, THPT dân lập: 2 trường.
Tổng số học sinh 41.430, trong đó: Công lập 31.044 học sinh, bán
công 9.782 học sinh, dân lập 604 học sinh.
Hiện nay, tại thành phố đang hình thành và đưa vào hoạt động mô
hình trường THPT dân lập chất lượng cao (theo mô hình trường THPT dân
lập chất lượng cao Trương Vĩnh Ký, thành phố Hồ Chí Minh).
e. Giáo dục thường xuyên
25


×