Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

skkn một số biện pháp giáo dục kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5 6 tuổi tại trường mầm non hoằng thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.76 KB, 16 trang )

1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài
Trẻ em là niềm hạnh phúc của mỗi gia đình, là tương lai của dân tộc. Việc
bảo vệ và chăm sóc giáo dục trẻ em là trách nhiệm của nhà nước, của xã hội và
của mỗi gia đình: “Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai”. Giáo dục trẻ ngay từ khi
còn nhỏ là vô cùng quan trọng trong sự nghiệp giáo dục, nhằm hình thành và
phát triển nhân cách toàn diện cho trẻ sau này. Bác Hồ nói: “Không có giáo dục
thì không nói gì đến kinh tế văn hóa”. Sản phẩm của giáo dục là con người mà
con người là mục tiêu, động lực của sự phát triển đất nước trong tương lai đó
chính là thế hệ trẻ.
Như chúng ta đã biết, Xã hội hiện đại mang đến cho cuộc sống con người
nhiều tiện ích, sự thoải mái nhưng cũng tiềm ẩn nhiều mối nguy hiểm, đặc biệt
là đối với con trẻ. Điều này đòi hỏi mỗi trẻ đều phải có những kỹ năng để xử lý


cũng như bảo vệ chính bản thân mình. Ngay khi trẻ sinh ra, bố mẹ đã cố gắng
tạo ra môi trường an toàn cho trẻ. Giai đoạn trẻ bước đi thành thạo và làm chủ
được những hoạt động của mình: chạy, nhảy,.. việc hướng cho trẻ những việc an
toàn và không an toàn bắt đầu hình thành. Theo thời gian, những kỹ năng ấy
ngày càng nhiều thêm bởi tính tò mò và khả năng làm chủ hành động của trẻ.
Bất cứ một sự vật nào hiện ra đều trở thành một đề tài thu hút đối với trẻ, đó
được coi là cơ hội để mở rộng kiến thức nhưng đồng thời cũng có thể là mối
nguy hại khôn lường đối với trẻ. Việc trang bị cho trẻ những kỹ năng bảo vệ bản
thân sẽ giúp trẻ có thể an toàn hơn và tự tin hơn để khám phá cuộc sống muôn
màu.
Song trên thực tế hiện nay xã hội phát triển mạnh đồng nghĩa với việc trẻ
em đứng trước nhiều mối nguy hiểm. Bởi vậy, cha mẹ thường sợ hãi tìm cách

ngăn cấm con trước các rủi ro nhưng lại quên giải thích cho trẻ hiểu nguyên
nhân và cách phòng vệ, hậu quả xảy ra. Điều này khiến trẻ dễ thành nạn nhân
nếu như không được trang bị kiến thức tự bảo vệ bản thân. Mặt khác,Trẻ em
luôn hiếu kỳ, tò mò và luôn muốn khám phá những điều mới lạ. Nhưng lại chưa
có kỹ năng để thu thập thông tin, phán đoán những mối nguy hiểm có thể xảy ra
với bản thân mình.
Vì vậy, dạy trẻ kỹ năng bảo vệ bản thân giúp trẻ tư duy, phán đoán được
những nguy hiểm có thể xảy ra và tìm các tránh xa. Hoặc trẻ tự vạch cho mình
một khu vực đảm bảo an toàn để khám phá, tìm hiểu mọi thứ. Dạy trẻ những kỹ
năng bảo vệ bản thân sẽ giúp trẻ có khả năng xử lí tình huống, biết lên tiếng kêu
cứu và tìm đến những sự trợ giúp đúng khi cần. Trẻ được trang bị kỹ năng bảo
vệ bản thân sẽ tự tin hơn và làm chủ được cuộc sống của mình.

Là một người giáo viên mầm non, bản thân nhận thức được vai trò, tầm
quan trọng của việc giáo dục các kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ trước thực
trạng xã hội hiện nay. Vì vậy tôi chọn đề tài: “Một số biện pháp giáo dục kỹ
năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5 - 6 tuổi” để nghiên cứu nhằm góp phần vào
việc hình thành và rèn luyện các kỹ năng bảo vệ cơ thể cho trẻ.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn đề xuất một số biện pháp giáo
dục kỹ năng bảo vệ cơ thể cho trẻ 5 - 6 tuổi. Nhằm góp phần vào việc hình thành


và rèn luyện các kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ, nâng cao chất lượng chăm sóc,
giáo dục trẻ mầm non.

1.3. Đối tượng nghiên cứu
Một số biện pháp giáo dục kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5 - 6 tuổi.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã sử dụng các
nhóm phương pháp đó là:
Phương pháp nghiên cứu lí luận: Qua nghiên cứu sách vở, chuyên đề, tài
liệu có liên quan đến giáo dục kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ 5 - 6 tuổi.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Quan sát các hoạt động trong ngày
của trẻ 5- 6 tuổi lớp mình và qua các giờ dự hoạt động của đồng nghiệp.
Phương pháp thu thập thông tin: Tôi thực hiện cuộc phỏng vấn với giáo
viên, đồng thời hỏi trẻ một số câu hỏi liên quan đến giáo dục kỹ năng bảo vệ bản
thân của trẻ.

Phương pháp thống kê, toán học: Từ nhưng thông tin và số liệu thu thập
được, tôi thống kê, chọn lọc những thông tin, phân loại rồi tính toán đưa ra
những kết quả xác thực nhất phục vụ cho việc nghiên cứu.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Kỹ năng bảo vệ bản thân là gì? Kỹ năng bảo vệ bản thân là những hiểu
biết của một người về những sự việc xung quanh mình cũng như cách để hành
động đúng, an toàn đối với sự vật đó. Trẻ có kỹ năng bảo vệ bản thân sẽ biết
cách làm thế nào để tránh xa những mối nguy hiểm hoặc khám phá thế giới
trong phạm vi an toàn.
Hiện nay, cả nước có trên 4,8 triệu trẻ em (theo số liệu của Bộ GD&ĐT)
được chăm sóc, giáo dục trong các cơ sở giáo dục mầm non (GDMN). Nhiệm vụ

bảo vệ an toàn cả thể chất lẫn tinh thần cho trẻ nhỏ được cho là quan trọng hàng
đầu, bên cạnh đó còn phải giáo dục trẻ biết cách bảo vệ bản thân trước những
mối nguy hiểm ngoài xã hội.
Ở độ tuổi mầm non, trẻ xuất hiện tình trạng thụ động, không biết ứng phó
trong những hoàn cảnh nguy cấp, không biết cách tự bảo vệ bản thân trước nguy
hiểm, tìm kiếm sự giúp đỡ... Có nhiều nguyên nhân khác nhau gây ra tình trạng
này, trong đó việc thiếu kỹ năng bảo vệ bản thân là nguyên nhân sâu xa nhất. Do
đó, việc dạy kỹ năng bảo vệ bản thân (hay còn gọi là kỹ năng sống) cho trẻ là rất
cần thiết.
Kỹ năng bảo vệ bản thân là một trong những nhóm kỹ năng sống (KNS).
Theo Bộ Giáo dục & Đào tạo, thống nhất quan điểm của UNICEF, kỹ năng sống
là cách tiếp cận giúp thay đổi hoặc hình thành hành vi mới. Trong quá trình phát

triển nhân cách nếu trẻ được sớm hình thành và tôn vinh các giá trị đích thực của
mình thì các em sẽ có một nhân cách phát triển toàn diện, bền vững, có khả năng
thích ứng và chống chọi với mọi biến động xã hội, biết tự khẳng định mình
trong cuộc sống... Bên cạnh, trẻ em đang ở trong giai đoạn học, tiếp thu, lĩnh hội
những giá trị sống để phát triển nhân cách, do đó cần giáo dục KNS cho trẻ để
trẻ có nhận thức đúng và có hành vi ứng xử phù hợp ngay từ khi còn nhỏ. Kỹ
năng sống thay đổi theo nền văn hóa và hoàn cảnh xã hội. Vì vậy, trong quá
2


trình dạy kỹ năng sống, phải xem xét các yếu tố văn hóa và xã hội có ảnh hưởng
đến việc ra quyết định hay lựa chọn hành động. KNS được học tốt nhất thông

qua các hoạt động tích cực của trẻ, đối với trẻ mầm non, trẻ thường học các hành
vi thông qua việc bắt chước, nhập tâm, qua luyện tập thực hiện hàng ngày, lâu
dần trở thành kỹ năng của trẻ. Để giáo dục KNS cho trẻ một cách hiệu quả, giáo
viên có thể sử dụng các biện pháp như: Làm gương, trải nghiệm, trò chơi, trò
chuyện, đàm thoại... Giáo dục KNS cho trẻ có thể tiến hành trong tất cả các hoạt
động giáo dục hàng ngày vui chơi, học tập, chăm sóc sức khỏe, lễ hội, tham
quan... Mỗi hoạt động có ưu thế riêng đối với việc dạy những KNS cần thiết với
cuộc sống của trẻ. KNS cho trẻ mầm non giúp trẻ có kinh nghiệm trong cuộc
sống, biết điều nên làm và không nên làm, giúp trẻ tự tin, chủ động và biết cách
xử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ,
đặt nền tảng cho trẻ trở thành người có trách nhiệm và có cuộc sống hài hòa
trong tương lai. Do đó, cần thiết phải giáo dục KNS cho trẻ mầm non. Kỹ năng

sống còn thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Để có được KNS trẻ cần phải có thời
gian, trong một quá trình tập luyện thường xuyên với sự hỗ trợ của người lớn và
bạn bè. Những năm gần đây nhu cầu học kỹ năng sống, các chuẩn mực đạo đức
của trẻ em đã “bùng nổ”. Điều đó thể hiện sự quan tâm của các bậc phụ huynh
đối với việc giáo dục con em mình.
Tuy nhiên, về mặt lý luận, cũng như thực tế cho thấy, kết quả của giáo dục
kỹ năng sống, phẩm chất nhân cách, đạo đức cho trẻ em cần sự phối hợp của
nhiều yếu tố (gia đình, nhà trường, xã hội). Đã từ lâu vấn đề này đã được đặt ra
và đến nay nó vẫn là câu hỏi lớn! Sự “bùng nổ” nhu cầu học kỹ năng sống của
trẻ được các bậc phụ huynh rất quan tâm,và cũng là nổi trăn trở của bản thân.
2.2. Thực trạng.
Năm học 2016 - 2017, tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm lớp mẫu

giáo 5 - 6 tuổi, với tổng số 30 trẻ. Trẻ nam là 18; trẻ nữ là 12. Trong quá trình
thực hiện tổ chức hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho trẻ tôi đã gặp những
thuận lợi và khó khăn sau:
2.2.1. Thuận lợi.
Nhà trường được công nhận trường đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục
cấp độ 2. Trường đạt chuẩn quốc gia, có khuôn viên rộng, khang trang, sạch sẽ,
có đầy đủ trang thiết bị, đồ chơi cho trẻ. Lớp học đủ diện tích, có các góc chơi,
đồ chơi phong phú hấp dẫn trẻ.
Số trẻ trên lớp: 30 trẻ. Trong đó trẻ nam: 18; Trẻ nữ: 12. Trẻ đi học
chuyên cần, tỷ lệ bé ngoan cao, hầu hết trẻ khỏe mạnh, nhanh nhẹn thích tham
gia hoạt động góc.
Bản thân tôi là một giáo viên trẻ, có năng lực có trình độ chuyên môn trên

chuẩn, luôn cố gắng trong quá trình tự học, tự rèn luyện và tổ chức tốt các hoạt
động chăm sóc - giáo dục trẻ.
2.2.2. Khó khăn.
Bên cạnh những điều kiện thuận lợi trên tôi đã gặp những khó khăn đó là:
Trẻ 5 - 6 tuổi là độ tuổi hiếu động, khả năng tiếp nhận tiếp nhận thông tin
nhanh, vì vậy trẻ dễ và nhanh tiếp nhận những kỹ năng xã hội không tốt. Hầu hết
3


trẻ có cha mẹ làm nghề nông và công nhân nên thời gian dành chăm sóc con
chưa nhiều.
Một số trẻ khi ở nhà được bố mẹ nuông chiều và chưa quan tâm đến việc

rèn kỹ năng cho trẻ nên các kĩ năng bảo vệ bản thân khi gặp nguy hiểm của trẻ
còn hạn chế. Một số trẻ trong lớp còn có tính thụ động ít giao lưu trong các hoạt
động.
Trong lớp có trẻ còn nói ngọng, nói lắp, rối loạn hành vi, khả năng kiềm
chế hành vi, cảm xúc kém.
Từ khó khăn, thuận lợi nêu trên, trước khi áp dụng các biện pháp mới tôi
đã tiến hành khảo sát thực tế các kỹ năng bảo vệ bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi như
sau:
Bảng 1: Kết quả khảo các kỹ năng bảo vệ bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi
(Thời điểm tháng 9 năm 2016)
Kết quả
Đạt

Chưa đạt
TT
Nội dung đánh giá
Số
Tỷ lệ
Số
Tỷ lệ
trẻ
%
trẻ
%
1

Kỹ năng an toàn khi chơi
20
67
10
33
2
Kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể
15
50
15
50
3

Kỹ năng ứng xử khi bị lạc
16
53
12
47
4
Kỹ năng an toàn khi tham gia giao thông
16
53
14
47
Qua kết quả khảo sát, tôi đã nghiên cứu và mạnh dạn đưa ra một số biện

pháp tốt nhất để nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ.
2.3. Biện pháp.
2.3.1. Giáo viên xác định được những kỹ năng bảo vệ bản thân cơ bản
cần giáo dục cho trẻ 5 - 6 tuổi.
Đối với tâm sinh lý trẻ em 5 - 6 tuổi thì có nhiều kỹ năng quan trọng mà
trẻ cần phải biết trước khi tập trung vào học văn hoá. Thực tế kết quả của nhiều
nghiên cứu và thực trạng xã hội hiện nay cho thấy các kỹ năng quan trọng nhất
trẻ phải học vào thời gian đầu của năm học chính là những kỹ năng sống như:
Kỹ năng an toàn khi chơi; Kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể; Kỹ năng ứng xử khi
bị lạc; Kỹ năng an toàn khi tham giao giao thông. Việc xác định được các kỹ
năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi sẽ giúp bản thân tôi cũng như các giáo viên
khác lựa chọn đúng những nội dung trọng tâm để dạy trẻ .

2.3.2. Lồng ghép giáo dục kỹ năng sống vào các hoạt động học.
+ Kỹ năng an toàn khi chơi.
Trong quá trình vui chơi học tập ở trường các con có thể gặp phải những
mối nguy hiểm từ những đồ chơi, đồ vật trong trường lớp như: Ngã đu quay cầu
trượt, chạy nhảy vấp ngã trên sân trường, các ổ điện, đồ chơi trong lớp.... Trẻ
cần hiểu được đâu là đồ chơi, đồ dùng trong trường, trong lớp; đâu là đồ vật an
toàn và đồ vật không an toàn,…Để giúp trẻ phân biệt, nhận thức được tôi đã đưa
nội dung “nhận biết đồ dùng, đồ chơi nguy hiểm quanh bé” trong chủ đề
“Trường mầm non”, “Gia đình”...
Ví dụ: Trong giờ “làm quen đồ dùng, đồ chơi trong gia đình” sau khi cho
trẻ làm quen, nhận biết các đồ dùng, đồ chơi như: phích nước, ổ điện, bếp ga, đồ
4



dùng nhà bếp, cầu thang...; đồ chơi của bé trong gia đình: ô tô, máy bay, sách, ở,
bút, tranh ảnh.... của trẻ tôi sẽ cho trẻ chơi trò chơi “Phân loại đồ dùng nguy
hiểm, không nguy hiểm đối với trẻ”.
Ví dụ: Chủ đề trường mầm non
Hoạt động “Làm quen đồ dùng, đồ chơi trong trường mầm non”. Tôi cũng
cho trẻ tìm hiểu, làm quen với các đồ dùng, đồ chơi trong lớp, ngoài trời. Sau đó
cho trẻ chơi trò chơi phân loại đồ dùng, đồ chơi bé được chơi và không được
chơi.
Ví dụ: Hoạt động ngoài trời, trước khi trò chơi tự do trên sân trường giáo
viên cần phải nhắc nhở trẻ nên chơi như thế nào cho an toàn.

Ngoài ra, trong lớp tôi treo những bức tranh có nội dung giáo dục trẻ nên
chơi ở chỗ nào, không nên chơi ở chỗ nào, không đụng vào các ổ điện, quạt
trong lớp học và cũng như ở trong gia đinh trẻ.
+ Kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể
Ở Việt Nam, vấn đề cho con tìm hiểu về vấn đề này chưa thực sự được
quan tâm đúng mức. Tuy nhiên, đây lại là vấn đề khá nhức nhối trong xã hội
hiện nay. Để đảm bảo cho trẻ có những kiến thức cơ bản về vấn đề bảo vệ thân
thể cũng như cách phòng tránh khi bị xâm hại cơ thể, giáo viên cần trang bị cho
con những kiến thức cần thiết. Giáo viên hãy giúp con hiểu được thế nào là hành
động xâm phạm thân thể, nếu bị xâm hại cơ thể các con nên ứng xử ra sao.
Ví dụ: Chủ đề “Bản thân” tôi lồng ghép trẻ nhận biết các bộ phận trên cơ
thể bé, giáo dục trẻ những bộ phận không được ai đụng đến ngoài bố mẹ, bà, dì

và y tá hay bác sỹ khám bệnh cho trẻ khi có bố mẹ ở đấy.
Và dưới đây là những bộ phận trên cơ thể phải dạy con gọi đúng tên để
phòng khi có sự việc không hay xảy ra, trẻ sẽ dùng đúng từ để diễn đạt cho rõ
ràng. Không dùng các tên gọi ngộ nghĩnh hay tên goi khác để chỉ những bộ phận
trên cơ thể. Cần dạy trẻ gọi chính xác tên của các bộ phận đó vì sử dụng thuật
ngữ chỉ vùng kín chuẩn xác cũng là một cách để bảo vệ trẻ, bởi:
* Nếu một đứa trẻ bị ai đó chạm vào vùng kín một cách không phù hợp,
bé có thể kể cho một người lớn đáng tin cậy của bé một cách chính xác. Từ đó,
người lớn sẽ quan tâm và có biện pháp ngăn ngừa kịp thời.
* Nếu một đứa trẻ nói với kẻ có ý định xấu: "Dừng lại ngay! Không được
chạm vào âm đạo của tôi", kẻ đó biết rằng bé đã được trang bị kiến thức về an
toàn cơ thể. Một đứa trẻ như thế sẽ ít có nguy cơ trở thành mục tiêu của những

kẻ xâm hại. Do đó, việc sử dụng thuật ngữ chuẩn xác gọi tên “các bộ phận riêng
tư” sẽ giúp bảo vệ các em khỏi nạn xâm hại trẻ em.
* Gọi tên chuẩn xác các bộ phận riêng tư trên cơ thể ngay từ đầu giúp bố
mẹ dễ dàng giải thích cho trẻ hiểu sự thay đổi trên cơ thể chúng khi bước vào
giai đoạn dậy thì. Sẽ không có sự e ngại hay lúng túng nào nữa.
* Nếu bộ phận sinh dục của trẻ bị tổn thương hay xuất hiện dấu hiệu bệnh
nào đó, sẽ dễ dàng hơn để trẻ mô tả triệu chứng cho giáo viên, người thân hoặc
bác sĩ khi biết dùng thuật ngữ chính xác.
* Nói tránh, gọi tên vùng kín bằng tên gọi khác dễ khiến trẻ suy nghĩ rằng
có cái gì đó xấu xa đối với các bộ phận riêng tư đó.... Việc này có thể ẩn chứa
5



hiểm họa vì chúng dẫn trẻ tới việc tin rằng, chúng phải giữ kín bất cứ động chạm
thiếu phù hợp nào vào vùng kín của mình.
Tranh: Minh họa các bộ phận nhạy cảm trên cơ thể trẻ.
Ngoài ra, giáo viên cần phải dạy trẻ học cách tự bảo vệ bản thân theo
“Quy tắc 5 ngón tay” vô cùng đơn giản và dễ thuộc.
Ngón cái - gần mình nhất - tượng trưng cho những người thân ruột thịt
trong gia đình như ông bà, bố mẹ, anh chị em ruột. Bé có thể ôm hôn những
người này hoặc đồng ý đề các thành viên trong nhà ôm hôn, thể hiện tình yêu
thương, tắm rửa khi bé còn nhỏ. Nhưng khi đã lớn, bé sẽ tự tắm và thay quần áo
trong phòng kín.
Ngón trỏ - tượng trưng cho thầy cô, bạn bè ở trường lớp hoặc họ hàng của

gia đình. Những người này có thể nắm tay, khoác vai hoặc chơi đùa. Song chỉ
dừng lại ở đó. Còn nếu ai chạm vào “vùng đồ bơi”, bé sẽ hét to và gọi mẹ.
Ngón giữa - người quen biết nhưng ít khi gặp như hàng xóm, bạn bè của
cha mẹ. Những người này, bé chỉ nên bắt tay, cười và chào hỏi.
Ngón áp út - người quen của gia đình mà bé mới gặp lần đầu. Với những
người này, bé chỉ nên dừng lại ở mức vẫy tay chào.
Ngón út - ngón tay xa bé nhất - thể hiện cho những người hoàn toàn xa lạ
hoặc người có cử chỉ thân mật, khiến bé thấy lo sợ, bất an.Với những người này,
bé hoàn toàn có thể bỏ chạy, hét to để thông báo với mọi người xung quanh.
Tranh minh họa “Quy tắc 5 ngón tay”
+ Kỹ năng ứng xử khi bị lạc
Với kỹ năng này giáo viên sẽ lồng ghép giáo dục trẻ trong các giờ hoạt

động học như: Khám phá môi trường xung quanh, truyện thơ ở các chủ đề như:
Gia đình, giao thông... hoặc giáo viên cũng có thể tổ chức một giờ hoạt động cho
trẻ xem các tình huống, trò chuyện, đóng kịch về những kỹ năng cấn có nếu bị
lạc.
Dạy trẻ biết tự bảo vệ mình cực kỳ quan trọng nên phải bắt tay ngay, thực
hiện luôn từ khi trẻ con nhỏ, chứ không phải thụ động đến khi mọi sự xảy ra rồi
mới lo lắng cuống cuồng. Để dạy được trẻ, cần kiên nhẫn từng ngày, rất kỳ công
chứ không chỉ là dặn dò suông.
Tạo tình huống, giáo viên và trẻ cùng trao đổi:
*Không đi theo người lạ:
+ Đặt vấn đề: Nếu những người không quen biết nói đưa con đi mua kẹo
bánh, bim bim, đồ chơi hay đưa con về nhà…thì con sẽ làm gì?

+ Kỹ năng bé cần biết:
Nói “không” với người lạ mặt.
Người lạ mặt cố nài ép, dụ giỗ con thì con cần đến chỗ chú bảo vệ, chú
công an, ghé vào đồn công an gần nhất hoặc chạy vào một cửa hàng ở gần đó
nhờ giúp đỡ.
Khi đang ở ngoài chỗ đông người mà bị ép đi theo, con hãy hô thật lớn, kẻ
xấu sẽ tự đi.
*Bị lạc
6


+ Đặt vấn đề: Khi đang đi chơi tại trung tâm thương mại, công viên, hay

đi mua sắm, con bị lạc bố mẹ thì con sẽ làm gì?
+ Kỹ năng bé cần biết:
Nếu vừa bị lạc bố mẹ khi đang mua sắm hoặc vui chơi thì con hãy đứng
yên một chỗ, nơi mà bố mẹ con dễ dàng nhìn thấy, không chạy lung tung.
Nhờ một người bên cạnh liên lạc vào số di động, điện thoại bàn…Bất kỳ
số nào mà con có thể nhớ.
Nếu bị lạc bố mẹ từ lúc nào mà con cũng không biết thì con cần hỏi người
xung quanh và tìm đến các phòng trung tâm của khu thương mại, công viên…để
nhờ họ đọc loa tìm bố mẹ.
Khi con bị lạc trên đường, nếu có thể, hãy tìm đến sự giúp đỡ của một chú
công an và đến đồn cảnh sát để bố mẹ có thể tìm thấy con.
* Không nhận bất cứ cái gì từ người lạ

+ Đặt vấn đề: Có người lạ đến cho con ăn kẹo, bánh, uống sữa hay đồ
chơi…con sẽ làm gì?
+ Kỹ năng bé cần biết:
Tuyệt đối không được nhận/cầm/ăn.
Không tiếp tục đứng gần, nói chuyện hay tiếp xúc với người đó nữa, hãy
đi ra chỗ người thân, bạn bè, chỗ đông người
Kể cho bố mẹ, người thân đang ở bên cạnh ngay.
*Dạy trẻ thuộc số điện thoại của bố (mẹ) hoặc cả hai.
Điều đầu tiên là giáo viên cần có số điện thoại của cha mẹ trẻ, đánh số
điện thoại đó và dán vào cánh cửa tủ cá nhân của trẻ.
Trong hoạt động làm quen chữ số hoặc ôn các chữ số đã học, giáo viên
cho trẻ tìm những chữ số đó có trong số điện thoại của cha mẹ trẻ không, tiếp

theo cho trẻ tự tìm hiểu xem số nào đứng trước, tiếp đến số nào. Có thể có
những chữ số chưa được làm quen thì giáo viên cần giới thiệu cho trẻ biết.
Như vậy, để dạy trẻ những kỹ năng ứng xử khi bị lạc giáo viên cần phải
thường xuyên tạo tình huống cho trẻ được tham gia, trải nghiệm.
+ Kỹ năng an toàn khi tham gia giao thông
Đây là một kỹ năng quan trọng đối với trẻ khi tham gia vào xã hội. Giáo
viên nên giúp trẻ hiểu được một số loại biển báo cơ bản, một số loại đường cơ
bản, một số người có vai trò trong việc điều hành giao thông, cách sang đường
cũng như cách đi qua các ngã ba, ngã tư.
Ví dụ: Chủ đề “Giao thông”
Khi dạy bài “Luật lệ giao thông” cô nhấn mạnh cho trẻ biết đâu là vỉa hè,
đâu là lòng đường, người đi bộ phải đi trên vỉa hè, người đi xe phải đi dưới lòng

đường. Khi đến ngã tư người đi bộ phải qua đường đúng làn đường quy định.
Khi qua ngã tư có tín hiệu đèn đỏ thì dừng lại, tín hiệu đèn xanh thì mới được
qua đường.
Khi dạy bài “Phương tiện giao thông” giáo viên cần dạy trẻ biết cách để
an toàn khi đi trên các phương tiện giao thông như: Phải đội mũ bảo hiểm khi đi
xe mô tô, khi đi xe ô tô không được đưa tay thò đầu ra ngoài cửa sổ, phải đợi xe
dừng hẳn mới lên hoặc xuống xe, không đùa nghịch dưới lòng, lề đường. Nếu
7


được đi máy bay phải thắt dây an toàn và chú ý làm theo hướng dẫn của nhân
viên trên máy bay, khi đi tàu thuyền phải mặc áo phao cứu hộ.

Ví dụ: Làm quen bài thơ “Cháu dắt tay ông”, truyện “Qua đường”
Trong bài thơ, truyện muốn giáo dục trẻ khi đi qua ngã tư đường phố, qua
bài thơ, câu truyện này giáo viên có thể cho trẻ chơi trò chơi “ngã tư đường
phố”, trẻ vừa đọc thơ vừa thực hành qua ngã tư đường phố, hoặc đóng kịch theo
nội dung câu truyện.
Ngoài ra giáo viên cho trẻ tham gia đóng kịch tham gia vào các tình
huống giao thông.
Hình ảnh: Trẻ tham gia học, chơi an toàn giao thông
2.3.3. Giáo dục các kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ ở mọi lúc mọi
nơi.
Việc học, tiếp nhận thông tin, kiến thức của trẻ diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi,
trong các hoạt động trong ngày của trẻ. Chính vì vậy, giáo viên có thể giáo dục

kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ trong giờ đón, trẻ trẻ; giờ hoạt động ngoài trời;
giờ hoạt động góc; trong hoạt động tham quan, dã ngoại của trẻ....
Ví dụ: Giờ đón trả trẻ tôi trò chuyện cùng trẻ về cách giao tiếp để tự bảo
vệ mình:
- Nếu lạc đường sẽ tìm đến ai để hỏi? Con hỏi như thế nào?
- Nếu có người lạ đụng chạm vào người con phải làm gì?
- Nếu bị ai bắt nạt con kêu cứu như thế nào?
Ví dụ: Tôi đóng một vai làm người đi đường và rủ bé: Đi cùng cô để cô
dắt về với mẹ.
Trẻ: Dạ, không cháu chờ mẹ cháu ở đây ạ!
Còn các trẻ khác nhắc bạn: “Đừng đi, nếu không sẽ bị bắt cóc đấy”.
Ví dụ: Trong giờ hoạt động ngoài trời tôi cho trẻ tìm hiểu về các đồ chơi

ngoài sân trường và trò chuyện với trẻ về cách chơi làm sao cho an toàn:
Đây là những đồ chơi vận động, nếu các con chơi không cản thận là ngã,
bị đau... vậy các con phải chơi như thế nào?
- Chơi nhẹ nhàng, không chạy nhảy xô đẩy nhau.
- Không leo trèo ra ngoài thành, lên trên của các đồ chơi này
VD: Chủ đề: Nghề nghiệp
Hoạt động chiều: Tôi cho trẻ “Nhận biết những nguy cơ cháy nổ có thể
gặp”, tôi sẽ cung cấp cho trẻ những kiến thức, và kĩ năng cơ bản sau:
- Nhận biết các nguồn gây ra lửa (bếp gas, bật lửa, cồn, nến, dầu, xăng,..)
- Biết ảnh hưởng tốt /xấu của lửa trong cuộc sống.
- Biết cách dập lửa an toàn (khăn ướt, nước, bình xịt)
- Tôi cho trẻ đóng vai giả làm chú lính cứu hoả → từ đó trẻ sẽ được

trang bị kiến thức và kĩ năng cần thiết cho mình.
Tôi đã dạy trẻ cách ứng phó từ bây giờ để trẻ biết cách thoát ra nếu không
may điều đó xảy ra trong tương lai. Đặc biệt, tôi khẳng định với trẻ: “Không có
gì quý hơn chính bản thân con”. Vì thế, con không cần mang theo bất kể cái gì
khi thoát ra. Khi nào thoát ra ngoài rồi, con cần phải kêu cứu. Nếu bé nào cũng
biết điều đó thì tỷ lệ tử vong do các thảm họa gây ra sẽ giảm tới mức tối thiểu.
8


Ví dụ: Trong hoạt động cho trẻ đi tham quan, da ngoại.
Khi đi tham quan, dã ngoại là trẻ được tham gia giao thông thực tế, điều
này làm trẻ rất thích thú, nhưng với sự hiểu biết và năng động của trẻ, giáo viên

cần phải trò chuyện, dặn dò trẻ trước khi đi.
- Các con phải đi lần lượt theo hàng, không chạy lung tung.
- Khi đi trên đường các con phải đi như thế nào?
- Có được chạy lung tung không? Nếu lạc thì các con phải làm gì?...
Ngoài ra, giáo viên có thể siêu tầm những tranh ảnh hoạt hình giáo dục kĩ
năng bảo vệ bản thân giới thiệu cho trẻ xem trong giờ đón, trả trẻ.
Tranh minh họa giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ.
2.3.4. Phối hợp với cha mẹ trẻ giáo dục kỹ năng bảo vệ bản thân cho
trẻ.
Sinh con ra, cha mẹ luôn luôn cố gắng để tạo ra những môi trường an toàn
nhất để bao bọc con cái. Nhưng thực tế cuộc sống lại tiềm ẩn rất nhiều mối nguy
hiểm và việc dạy trẻ kỹ năng bảo vệ bản thân, phòng chống xâm hại là điều hết

sức cần thiết.
Để giáo dục cho trẻ những kỹ năng bảo vệ bản thân đạt kết quả tốt nhất
cần có sự phối chặt chẽ giữa nhà trường và gia đình. Giáo viên cần trao đổi với
cha mẹ trẻ những nội dung, kỹ năng mà trẻ được học ở trường để cha mẹ trẻ
hiểu, qua đó về nhà phụ huynh sẽ giúp trẻ củng cố khắc sâu hơn. Bên cạnh đó
giáo viên cần tuyên truyền tới phụ huynh những việc cần làm để giáo dục kỹ
năng bảo vệ bản thân cho trẻ.
Tuyên truyền để các bậc phụ huynh hiểu rằng: Giáo dục kỹ năng bảo vệ
bản thân cho trẻ là giúp trẻ nâng cao năng lực để tự lựa chọn giữa những giải
pháp khác nhau. Quyết định phải xuất phát từ trẻ. Nội dung giáo dục phải xuất
phát từ chính nhu cầu và kinh nghiệm của trẻ. Trẻ cần có điều kiện để cọ sát các
ý kiến khác nhau, trao đổi kinh nghiệm, tập tành, thực hành và áp dụng.

Giáo viên cần phối hợp với cha mẹ một cách chặt chẽ và hợp lý bằng việc
mời cha mẹ tham gia tình nguyện vào quá trình giáo dục trong nhà trừơng; các
buổi trao đổi với giáo viên, tham gia các buổi họp của nhà trường và dự một số
giờ học, chỉ bằng cách đó thôi cha mẹ đã giúp trẻ hiểu rằng học là phải học cả
đời.
Ví dụ:
+ Kỹ năng an toàn khi tự chơi
Đây được coi là mối quan tâm hàng đầu của hầu hết các bậc phụ huynh
trong thời gian gần đây. Hiện nay do tính chất của công việc cũng như điều kiện
của mỗi gia đình, việc tự chơi của các con rất phổ biến. Trong quá trình chơi,
các con có thể gặp phải những mối nguy hiểm từ những đồ vật trong gia đình
như phích nước, ổ điện, bếp ga, đồ dùng nhà bếp, cầu thang và những đồ vật

nhỏ. Các con cần hiểu được đâu là đồ chơi, đâu là đồ dùng trong gia đình; đâu là
đồ vật an toàn và đồ vật không an toàn,…
+ Kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể.
Đây là một vấn đề đang được xã hội, cũng như các bậc cha mẹ quan tâm.
Nhưng cũng là vấn đề khá nhạy cảm cha mẹ thường e ngại không muốn nói vơi
9


con cái, đặc biệt là trẻ nhỏ lứa tuổi mầm non, vì họ cho rằng trẻ còn nhỏ không
biết gì.
Thời gian gần đây, có nhiều trẻ em bị lạm dụng, xâm hại thân thể lại chính
là người thân quen như bạn bố mẹ, hàng xóm quen biết… Chính vì vậy, người

lớn phải khéo léo, tế nhị kể cho con nghe những tình huống xấu có thể gây hại
cho bé và giúp con biết cần xử lý như thế nào. Cô giáo phối hợp cùng phụ huynh
khéo léo dạy trẻ cách giữ gìn và bảo vệ các cơ quan, bộ phận trên cơ thể. Giúp
trẻ chủ động, cảnh giác với tình huống khi có người quan tâm thái quá đến cơ
thể của trẻ. Dạy trẻ một số cách phản kháng và bảo vệ bản thân
Là giáo viên, cần trao đổi thẳng thắn với phụ huynh, giúp phụ huynh hiểu
được rằng trẻ càng nhỏ kỹ năng bảo vệ bản thân của trẻ càng ít nên cha mẹ càng
quan tâm và cung cấp cho trẻ kiến thức hơn. Cha mẹ cần chỉ ra ra những bộ
phạn nhạy cảm trên cơ thể, cho trẻ gọi tên và đưa ra các câu hỏi, tình huống cho
trẻ trả lời, xử lý trên cơ sở những kiến thức mà giáo viên đã cung cấp cho trẻ.
Tránh tình trạng giáo viên cho trẻ gọi tên các bộ phận nhạy cảm trên cơ thể trẻ
bằng các tên gọi bộ phận đó, nhưng cha mẹ lại cho trẻ gọi bằng tên khác.

Ví dụ:
- Con hãy kể cho bố mẹ biết những bộ phận nhạy cảm trên cơ thể con.
- Những ai có thể đụng vào những bộ phận ấy?
- Khi có người lạ đụng vào thì con phải làm gì?
....
+ Kỹ năng ứng xử khi bị lạc
Với nhu cầu vui chơi giải trí hiện nay, đã có rất nhiều trường hợp trẻ bị lạc
xảy ra nơi công cộng. Các bậc phụ huynh nên giúp trẻ có những kiến thức ứng
xử cần thiết khi bị lạc như: Con nên gọi sự trợ giúp của ai? Nếu gặp người lạ
muốn đưa con về con nên làm gì? Cha mẹ nên dạy con ghi nhớ tên tuổi, số điện
thoại của bố mẹ, địa chỉ nhà. Tuy nhiên khi trẻ đang hoảng sợ chưa chắc trẻ đã
nhớ chính xác những thông tin này, vì thế tốt hơn hết nên cho trẻ mang theo

mảnh giấy ghi thông tin liên lạc của bố mẹ trong trường hợp khẩn cấp.
+ Kỹ năng an toàn khi tham gia giao thông
Trong cuộc sống hàng ngày, nên dạy trẻ cách xử lý những tình huống bất
trắc mà trẻ có thể gặp phải dưới hình thức trò chuyện, tạo tình huống, gợi mở
giúp trẻ tìm ra cách giải quyết. Không áp đặt, cấm đoán trẻ. Thay vì “Con không
được làm thế này, thế kia” thì ta nên đưa ra các tình huống cụ thể thông qua thực
tế giúp trẻ hiểu tại sao không được làm như thế, nếu xảy ra thì sẽ phải làm như
thế nào ?
Chính từ những suy nghĩ tìm cách xử lý ở các tình huống cụ thể đó giúp
trẻ dần có kỹ năng suy đoán, biết áp dụng những kiến thức kinh nghiệm mình đã
có để tìm cách giải quyết. Từ đó trẻ có thể vận dụng với những tình huống khác
trong thực tế hàng ngày mà trẻ gặp. Dần hình thành cho trẻ những kinh nghiệm,

những kỹ năng biết bảo vệ mình trong cuộc sống sau này.
Như vậy, một điều quan trọng mà các bậc cha mẹ nên dạy cho con đó là
kỹ năng sinh tồn. Cần dạy trẻ cách thoát hiểm, cách xử lý và bảo vệ bản thân
trước những nguy hiểm ngoài xã hội, … Dạy con các kỹ năng thoát hiểm và
10


cách phòng tránh tai nạn trong nhà, khi tham gia giao thông, kỹ năng bảo vệ bản
thân trước những hành vi xấu của người khác là việc quan trọng hàng đầu.
Cần giáo dục để trẻ cảm thấy thoải mái tự tin trong mọi tình huống của
cuộc sống. Cần đánh thức sự tự ý thức của trẻ, cố gắng khơi gợi để trẻ luôn nghĩ
về bản thân mình một cách tích cực và đừng bao giờ phá vở suy nghĩ tích cực về

bản thân trẻ.
Bên cạnh đó, yêu cầu phụ huynh phối hợp cùng cô giáo trong việc thống
nhất phương pháp giáo dục trẻ:
- Tin tưởng vào trẻ và năng lực của trẻ.
- Tôn trọng ý kiến của trẻ, không áp đặt ý kiến của mình .
- Không nói dài và nói nhiều, không đưa lời giải đáp có sẵn mà hãy đưa câu
hỏi để trẻ tự tìm tòi.
- Không vội vàng phê phán đúng - sai mà kiên trì giúp trẻ biết tranh luận
và có thể đưa ra kết luận của mình.
2.3.5. Ứng dụng công nghệ thông tin trong giáo dục kỹ năng bảo vệ
bản thân cho trẻ.
Công nghệ thông tin phát triển đã mở ra những hướng đi mới cho ngành

giáo dục trong việc đổi mới phương pháp và hình thức dạy học. Chỉ cần vài cái
"nhấp chuột" là hình ảnh những con vật ngộ nghĩnh, những bông hoa đủ màu
sắc, những hàng chữ biết đi và những con số biết nhảy theo nhạc hiện ngay ra
với hiệu ứng của những âm thanh sống động ngay lập tức thu hút được sự chú ý
và kích thích hứng thú của học sinh vì được chủ động hoạt động nhiều hơn để
khám phá nội dung bài giảng. Đây có thể coi là một phương pháp ưu việt vừa
phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, vừa thực hiện được nguyên lý giáo
dục của Vưgotxki "Dạy học lấy học sinh làm trung tâm" một cách dễ dàng.
Có thể thấy ứng dụng của công nghệ thông tin trong giáo dục mầm non đã tạo ra
một biến đổi về chất trong hiệu quả giảng dạy của ngành giáo dục mầm non, tạo
ra một môi trường giáo dục mang tính tương tác cao giữa giáo viên và học sinh.
Vì vậy, để giáo dục kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ không thể bỏ qua việc

ứng dụng công nghệ thông tin. Với các kĩ năng bảo vệ bản thân tôi có thể vào
trang Youtube, google... gõ những nội dung, kĩ năng cần cho trẻ xem là có, với
những hình ảnh sinh động, bắt mắt và gần gũi với trẻ, giúp trẻ rất hứng thú khi
xem hay những giờ học ứng dụng công nghệ thông tin giúp trẻ chú ý hơn. Điều
này sẽ giúp trẻ nhớ sâu hơn những kĩ năng bảo vệ bản thân.
Hình ảnh: Giờ học ứng dụng CNTT của lớp 5 tuổi.
2.3.6. Một số nguyên tắc khi dạy trẻ kỹ năng bảo vệ bản thân.
Thường xuyên nói chuyện, trao đổi với trẻ, tạo niềm tin trong trẻ: Nói
chuyện là cách đơn giản nhất không chỉ giúp trẻ hiểu được vấn đề mà còn giúp
kéo gần khoảng cách giữa cô giáo và trẻ. Thường xuyên nói chuyện với trẻ sẽ
giúp giáo viên tạo dựng niềm tin với trẻ. Đây là tiền đề tốt để giáo viên có thể
nắm bắt và giải quyết được những vẫn đề xảy ra xung quanh trẻ một cách tốt

nhất. Giáo viên có thể chọn những khoảng thời gian thích hợp như thời gian
đón, trả trẻ, giờ hoạt động góc, trước khi trẻ chuẩn bị đi ngủ trưa....
11


Khi trẻ sai, nên giải thích cho trẻ, không nên quát mắng trẻ. Khi trẻ mắc
lỗi, giáo viên thường không đủ bình tĩnh để giải thích cho trẻ những nguyên
nhân dẫn đến vấn đề ạ. Đối với vấn đề này, giáo viên nên đặt mình vào tình
huống của trẻ để xử lý. Phương pháp cuối cùng của mọi phương pháp mới là sự
trách phạt.
Tập thói quen cho trẻ hiểu về nguyên nhân - kết quả: Ở giai đoan này, trẻ
nóng lòng muốn thể hiện mình. Cùng với đó, tư duy của trẻ bắt đầu phát triển

mạnh hơn giai đoạn trước. Trẻ bắt đầu nhận thức được về nguyên nhân và kết
quả. Nếu giáo viên thường xuyên rèn luyện cho trẻ tư duy này, trẻ sẽ biết cách
hành động đúng hơn trong các tình huống của cuộc sống.
Sử dụng đóng kịch để giúp trẻ hiểu được những tình huống và cách giải
quyết tình huống: Theo các nhà khoa học: Trẻ hiểu được 10% những gì trẻ nghe;
40% những gì nhìn thấy; 60% những gì trẻ nhắc lại (nói) và khoảng 90% những
gì trẻ nói và làm. Do vậy, đây có thể coi là cách tốt nhất để trẻ có thể hiểu được
những tình huống có thể xảy ra trong thế giới muôn màu cũng như cách xử lý
thông minh nhất.
Đưa ra những quy tắc an toàn và không an toàn, được phép và không
được phép: Quy tắc an toàn- không an toàn, được phép và không được phép là
một trong những quy tắc đơn gian mà giáo viên có thể thực hiện ngay ở tại lớp

mình. Để thực hiện quy tắc này, giáo viên cần là người làm gương cho trẻ. Với
mỗi quy tắc, giáo viên nên đặt ra những mức thưởng - phạt rõ ràng để tạo niềm
tin trong trẻ. Nếu cần sửa đổi hay bổ sung quy tắc, giáo viên nên thống nhất và
giải thích rõ ràng với trẻ.
Kỹ năng bảo vệ bản thân là một trong những kỹ năng xuất hiện sớm, được
hoàn thiện trong một quá trình lâu dài và theo chúng ta trong suốt cuộc đời. Do
vậy, việc rèn luyện cho trẻ kỹ năng này sẽ là hành trang quan trọng giúp trẻ tự
tin và mạnh mẽ hơn trong cuộc sống hiện đại.
2.4. Hiệu quả
Sau khi áp dụng những biện pháp trên, cùng với sự chỉ đạo của Ban giám
hiệu nhà trường và sự đóng góp ý kiến của các bạn đồng nghiệp, tôi đã tiến hành
khảo sát trẻ cuối năm học và thu được những kết quả như sau:

Bảng 2: Kết quả khảo sát kỹ bảo vệ bản thân của trẻ 5 - 6 tuổi
(Thời điểm tháng 4 năm 2017)
Kết quả
TT
Nội dung đánh giá
Chưa đạt
Đạt
Số trẻ
1
2
3
4


Tỷ lệ
%

Số trẻ

Tỷ lệ
%

Kỹ năng an toàn khi chơi
30
100

0
0
Kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể
28
94
2
6
Kỹ năng ứng xử khi bị lạc
29
97
1
3

Kỹ năng an toàn khi tham gia giao thông
28
94
2
6
Nhìn vào bảng khảo sát, tôi thấy số trẻ có kĩ năng bảo vệ bản thân tăng lên
rõ rệt. Đặc biệt,với những hình thức cô đưa ra, trẻ nhận thức rất nhanh và biết
ứng dụng trong cuộc sống thông qua việc trẻ được trải nghiệm trong hoạt động
vui chơi, học tập. Từ đó, tạo cho trẻ sự mạnh dạn, tự tin. Thông qua việc trẻ
12



được thảo luận, suy nghĩ tìm ra cách giải quyết đã giúp trẻ phát triển ở nhiều
mặt: Trẻ phát triển được các kỹ năng phán đoán, suy luận, biết đưa ra quyết định
của mình.
Qua trao đổi với phụ huynh, nhiều phụ huynh cũng nhận thấy rằng trẻ có
rất nhiều điều con mình có thể làm được nhưng trước đó phụ huynh nghĩ con
mình còn bé và luôn làm hộ trẻ cũng như nghĩ có những điều chưa thể đưa. Phụ
huynh cảm thây yên tâm, tin tưởng và mạnh dạn trao đổi với con về các kĩ năng
bảo vệ bản thân của trẻ, cũng như các vấn đề tế nhị mà lau nay phụ huynh không
đề cập đến với trẻ.
Với các biện pháp này có thể áp dụng trên các lứa tuổi từ mẫu giáo bé đến
lớp mẫu giáo lớn. Đặc biệt với những tình huống đưa ra không chỉ giúp trẻ có kỹ
năng ứng biến khi gặp tình huống tương tự mà còn giúp trẻ có kỹ năng biết cách

suy luận, suy đoán tìm ra cách giải quyết ở các tình huống khác và hình thành
cho trẻ kỹ năng sau này.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Qua kết quả đã đạt được ở trên tôi thấy rằng để giáo dục kỹ năng bảo vệ
bản thân cho trẻ đạt kết quả tốt giáo viên cần :
- Giáo viên phải nhiệt tình, chịu thương, chịu khó tìm tòi, tham khảo tài
liệu, học hỏi đồng nghiệp, tìm ra các phương pháp dạy sáng tạo, phù hợp mang
lại hiệu quả cao.
- Giáo viên phải mạnh dạn, tự tin đưa những vấn đề cấp thiết đang diễn ra
trong thực tế xã hội cho trẻ tìm hiểu và làm quen.
- Giáo viên sáng tạo làm nhiều đồ dùng, đồ chơi đẹp, hấp dẫn và đảm bảo

an toàn khi trẻ tiếp xúc.
- Lắng nghe ý kiến của trẻ không gò bó áp đặt trẻ. Cô luôn là người chỉ
dẫn, chuyền cho trẻ những kinh nghiệm sống đã được đúc kết từ lâu.
- Cần tích cực đổi mới phương pháp dạy nhằm khuyến khích sự tích cực ở
trẻ. Khai thác tiểm năng sáng tạo ở mỗi trẻ. Giáo dục trẻ như thế nào để trẻ cảm
thấy thoải mái trong mọi tình huống của cuộc sống. Luôn tạo cho trẻ cơ hội để
trẻ được thể hiện mình, được bộc lộ bản thân mình trước mọi người.
- Cần thường xuyên tổ chức các hoạt động giáo dục phát huy tính tích
cực ở trẻ, giúp trẻ hứng thú chủ động khám phá, tìm tòi, biết vận dụng vốn kiến
thức, kỹ năng vào việc giải quyết các tình huống khác nhau .
- Phải biết xử lý các tình huống sư phạm, luôn tìm cách tạo tình huống
cho trẻ, để cho trẻ có cơ hội bộc lộ năng khiếu tạo cơ hội để trẻ thực hiện sở

thích của mình.
- Chú ý việc phối hợp với phụ huynh để thống nhất phương pháp giáo dục
trẻ đặc biệt là giáo dục kỹ năng sống cho trẻ được tốt nhất.
2. Kiến nghị.
Qua thực tế giảng dạy và sau khi áp dụng một số biện pháp giáo dục kỹ
năng bảo vệ bản thân cho trẻ. Tôi xin đề xuất một số ý kiến như sau:
- Tạo điều kiện cho giáo viên mầm non có điều kiện, thời gian nghiên cứu
các sách, tạp chí có liên quan đến các chuyên đề đặc biệt là chuyên đề giáo dục
kỹ năng sống - kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ…
13



- Xây dựng các tiết dạy mẫu lồng ghép các chuyên đề để cho tất cả các
giáo viên được dự và tham gia góp ý kiến đặc biệt là hoạt động giáo dục kỹ năng
sống - kĩ năng bảo vệ bản thân cho trẻ cho trẻ.
- Thường xuyên mở các hội thi cấp trường, cấp huyện để trẻ được giao
lưu cọ sát, thể hiện khả năng của mình trước đám đông, giúp trẻ tự tin hơn trong
giao tiếp ứng xử.
- Liên hệ với các cơ quan đoàn thể, phụ huynh để có thêm sự giúp đỡ về
vật chất nhất là các đồ dùng phục vụ cho hoạt động.
Trên đây là những kinh nghiệm của bản thân trong việc nghiên cứu áp
dụng "Một số biện pháp giáo dục kỹ năng bảo vệ bản thân cho trẻ tại trường
mầm non Hoằng Thành", rất mong được sự giúp đỡ, góp ý của các cấp lãnh đạo
của các đồng nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Hoằng Thành, ngày 07 tháng 05 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình
viết, không sao chép nội dung của người
khác.

KT Hiệu phó
Lương Thị Lài

Lương Thị Hoàn

14


Hệ thống câu hỏi khảo sát kĩ năng bảo vệ bản thân của trẻ 5 – 6 tuổi tại trường
mầm non Hoằng Thành
Họ và tên trẻ:.......................................................................
Ngày tháng năm sinh:........................................................
Lớp:..................................................................................
Trường:...........................................................................
Ngày khảo sát:....................................................................

Câu 1: Những đồ dùng, đồ chơi và khu vực nào an toàn với con khi con vui
chơi?
a. Đồ dùng, đồ chơi trong trường, lớp và gia đình của con.
b. Ổ điện, tivi, đầu đĩa trong lớp học, gia đình.
c. Cầu thang lớp học, nhà con.
d. Khu cực ngoài đường.
Câu 2: Khi bị người lạ đụng vào người con sẽ làm gì?
a. Im lặng và không dám nói gì.
b. Khóc và kêu to.
c. Nói không được đụng vào người con.
d. Chạy nhanh đi chỗ khác.
Câu 3: Khi con bị lạc ở trung tâm mua sắm hay ở siêu thị thì con sẽ làm gì?

a. Khóc và chạy đi tìm bố mẹ.
b. Nhờ người lớn gọi điện cho bố mẹ con.
c. Đi theo người lạ vì họ hứa sẽ dẫn con về nhà.
d. Tìm chú bảo vệ nhờ giúp đỡ.
Câu 4: Khi tham gia giao thông thì con đi như thế nào?
a. Đi bên phải đường.
b. Đi lung tung, chỗ nào không có người thì con đi.
c. Ngã tư đèn xanh thì mới đi.
d. Đội mũ bảo hiểm khi ngồi trên xe máy.
Phương pháp khảo sát của tôi: Tôi sẽ khảo sát từng cháu một, tôi đọc câu hỏi
và các đáp án nếu trẻ chọn có thì tôi sẽ đánh chữ “c” vào ô vuông bên cạnh, còn
nếu trẻ trả lời không, hoặc im lặng thì chữ “K”.

15


Với mỗi kĩ năng bảo vệ bản thân tương ứng một câu hỏi, nếu trẻ trả lời đúng
một đáp án trong câu hỏi thì trẻ đạt.

16



×