1. MỞ ĐẦU
1.1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Khi nói về mục tiêu giáo dục Bác đã nêu: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng
cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và cần thiết”. Với giáo dục mầm non
“Làm Mẫu giáo tức là thay mẹ dạy trẻ. Muốn làm được thế thì trước hết phải
yêu trẻ. Các cháu nhỏ hay quấy phải bền bỉ chịu khó mới nuôi dạy được các
cháu. Dạy trẻ như trồng cây non. Trồng cây non được tốt thì sau này cây lên tốt.
Dạy trẻ nhỏ tốt thì sau này các cháu thành người tốt”[4]. Ngày nay trong điều
kiện xây dựng một đất nước công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì mỗi giáo viên
cần suy nghĩ nhiều hơn và sâu sắc hơn trong quá trình đổi mới.
Đặc biệt với trẻ mẫu giáo lớn đây giai đoạn cuối cùng của trẻ ở lứa tuổi
mầm non và là lứa tuổi tiền học đường, ở giai đoạn này cùng với sự phát triển
của tâm lý trẻ, sự giáo dục của người lớn và nhất là vai trò của cô giáo mầm non
sẽ giúp cho trẻ hoàn thiện một cách tốt đẹp về mọi phương diện của việc hình
thành nhân cách con người, giúp trẻ vững vàng bước vào trường tiểu học.
Để đáp ứng được yêu cầu cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi, đủ tự tin về kiến thức,
kĩ năng bước vào trường tiểu học ngoài việc dạy trẻ phát triển tốt các lĩnh vực
thì việc dạy trẻ làm quen với chữ viết để mỗi trẻ đều cảm thấy mình thành công
và tự tin bước vào lớp 1.
Trong đó bộ môn Tiếng Việt ở lớp 1 đòi hỏi trẻ phải có lượng kiến thức
khá cao như: Nhận biết thành thạo 29 chữ cái với các mẫu chữ khác nhau, chữ in
thường, chữ viết thường, chữ in hoa và viết hoa. Trẻ không những phải viết đúng
các mẫu chữ, các chữ cái Tiếng Việt mà còn biết đọc, biết phát âm theo từng
cụm từ.
Làm quen với chữ cái là một hoạt động hấp dẫn với trẻ mẫu giáo vì trẻ
được biết những chữ cái đầu tiên nó là nền móng, là cơ sở cho việc học Tiếng
Việt sau này, khi trẻ vào học lớp 1. Thông qua môn học này trẻ sẽ làm quen với
29 chữ cái dưới hình thức "học mà chơi, chơi mà học". Trẻ được làm quen với
29 chữ cái tiếng Việt theo kiểu chữ in thường, được cô giới thiệu biết thêm về
kiểu chữ viết thường, chữ in hoa. Phát âm đúng 29 chữ cái. Trông chữ cái đọc
dược âm tương ứng và nghe âm tìm được chữ cái. Qua đó trẻ đọc được một số
câu thơ, ca dao, đồng dao có chứa âm của chữ cái đã học nhằm hoàn thiện bộ
máy phát âm, nói mạch lạc có sự biểu cảm, nói đúng ngôn ngữ tiếng việt. Bộ
môn này yêu cầu trẻ phải biết cầm bút, ngồi đúng tư thế khi viết tô được các nét
cơ bản và tô 29 chữ cái. Không chỉ thế mà trẻ còn được làm quen với cấu trúc
chữ trong cuốn "Bé làm quen với chữ cái" và cách sử dụng vở "Bé tập tô chữ
cái"[6]. Do đó việc cho trẻ làm quen với chữ cái là một hoạt động rất quan trọng
trong chương trình chăm sóc và giáo dục trẻ 5 - 6 tuổi. Góp phần tích cực giúp
trẻ có những hiểu biết và kỹ năng cơ bản trước khi vào lớp 1. Việc nâng cao chất
lượng giáo dục mầm non chính là nâng cao chất lượng từng hoạt động giáo dục,
làm quen với chữ cái và phát triển ngôn ngữ cho trẻ là những hoạt động đóng vai
trò quan trọng trong tiến trình giáo dục của lứa tuổi này.
Do vậy tôi đã lựa chọn đề tài “Kinh nghiệm giúp trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi
Khu chính học tốt 29 chữ cái tiếng việt ở Trường Mầm non Thanh Tân” với
huy vọng tìm ra một số biện pháp thích hợp nhằm góp phần vào hoạt động học
tập của trẻ đạt kết quả tốt nhất trong giáo dục Mầm non.
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Nhằm tìm ra được ưu điểm và hạn chế của biện pháp giúp trẻ mẫu giáo 56 tuổi học tốt 29 chữ cái tiếng việt trong Trường Mầm non Thanh Tân. Để từ đó
đề xuất một số biện pháp học tốt 29 chữ cái tiếng việt góp phần nâng cao chất
lượng tổ chức hoạt động học tập ở hoạt động lầm quen chữ cái tiếng việt trong
Trường Mầm non Thanh Tân.
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Nghiên cứu về kinh nghiệm giúp trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi Khu chính học tốt
29 chữ cái tiếng việt ở Trường Mầm non Thanh Tân.
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGIÊN CỨU:
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết:
Sử dụng nhóm phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp hệ thống hóa
một số tài liệu có liên quan đến đề tài nghiên cứu.
1.4.2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu nhập thông tin:
a) Phương pháp đàm thoại:
Trò chuyện cùng trẻ, cùng đồng nghiệp và phụ huynh nhằm tìm hiểu về
các phương pháp, nội dung và hình thức học của trẻ Mẫu giáo 5-6 tuổi Trường
mầm non Thanh Tân.
b) Phương pháp quan sát kết hợp ghi chép.
- Quan sát khách quan hình thức học tập của trẻ.
- Quan sát cách đặt câu hỏi và trả lời của cô và trẻ.
- Quan sát môi trường học tập của trẻ.
- Quan sát kết quả sau giờ học tập của trẻ.
- Ghi chép lại kết quả khi trao đổi với phụ huynh.
c) Phương pháp dùng phiếu điều tra:
Bằng hệ thống các câu hỏi được soạn sẵn trên cơ sở các nguyên tắc nội
dung nhất định phù hợp với nội dung và đối tượng nghiên cứu nhằm tạo điều
kiện cho trẻ được hỏi thể hiện quan điểm của mình về vấn đề hoạt động làm
quen chữ cái.
1.4.3. Phương pháp thống kê, sử lý số liệu:
Sử dụng các phép toán thống kê số liệu trên trẻ trước khi áp dụng đề tài
và sau khi áp dụng đề tài nghiên cứu.
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
2.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN.
Trường mầm non là trường học đầu tiên của mỗi con người, nơi đó là phôi
thai đầu tiên nuôi trẻ lớn lên trên con đường học vấn.Trẻ rất hiếu động tò mò,
ham học hỏi, tìm kiếm thế giới xung quanh. Chương trình chăm sóc giáo dục trẻ
tạo cơ hội cho trẻ hoạt động thông qua thực hành, giải quyết vấn đề, trải nghiện
tìm tòi, khám phá phát hiện ..giúp trẻ phát triển nhận thức ngôn ngữ tư duy, phát
triển các kĩ năng thực hành, giao tiếp, ứng xử…chuẩn bị điều kiện cho trẻ vào
lớp 1.
Vì vậy muốn trẻ vững vàng bước vào lớp 1 chúng ta cần giúp trẻ 5-6 tuổi
học tốt 29 chữ cái tiếng việt qua cách phát âm đúng, nhận biết chữ cái theo mẫu
chữ in thường, viết thường và chữ cái in hoa. Học tốt 29 chữ cái tiếng việt là
bước khởi đầu cho trẻ có một nền tảng vững chắc trong quá trình học tốt Tiếng
việt ở các lớp sau này. Bởi vì chữ cái chính là tế bào tạo nên tiếng nên từ Tiếng
việt mà ngôn ngữ là chiếc cầu nối giữa thế giới xung quanh với trẻ.
Môi trường có tầm quan trọng đối với việc học chữ cái của trẻ, từ đó cần
làm thay đổi môi trường chăm sóc giáo dục trẻ gắn với các chữ cái tiếng việt để
trẻ luôn được tiếp xúc với việc học và ôn luyện các chữ cái tiếng việt.
Lứa tuổi mẫu giáo là lứa tuổi kì diệu, trẻ hiếu động tò mò, ham muốn học
hỏi, tìm hiểu thế giới tự nhiên và thế giới xã hội. Trẻ mẫu giáo có thể học mọi
lúc, mọi nơi, trẻ tiếp thu kiến thức, kỹ năng qua chơi, qua giao tiếp, qua sự trải
nghiệm và khám phá thế giới xung quanh. Vì vậy giáo viên cần biết cách tổ chức
hoạt động học chữ cái tiếng việt một cách tự nhiên và có thể thông qua các trò
chơi đem đến những tri thức cần thiết cho trẻ. Chúng ta sử dụng các trò chơi và
tổ chức những trò chơi đó trong các hoạt động hằng ngày giúp trẻ nhận biết và
phát âm đúng 29 chữ cái.
Việc dạy trẻ 5-6 tuổi học tốt 29 chữ cái tiếng việt để mỗi trẻ đều cảm nhận
thấy mình thành công và tự tin, giúp trẻ hiểu rằng đọc và viết chữ là hoạt động
hữu ích và rất thú vị, giúp trẻ hình thành nhiều kĩ năng cần thiết cho trẻ trong
việc chuẩn bị vào trường tiểu học[2].
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG
KIẾN KINH NGHIỆM.
2.2.1. Thực trạng:
Năm học 2016 - 2017 tôi được phân công chủ nhiệm lớp mẫu giáo 5-6
tuổi khu trung tâm của trường Mầm Non Thanh Tân với tổng số là 58 trẻ qua
thời gian trực tiếp đứng lớp và đi sâu tìm hiểu quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ
tôi nhận thấy mình có những thuận lợi và khó khăn sau.
* Thuận lợi:
- Được sự quan tâm của Ban Giám Hiệu nhà trường, được sự hộ trợ nhiệt
tình của cha mẹ học sinh đã mua sắm cơ bản đồ dùng phục vụ cho hoạt động
chăm sóc giáo dục trẻ.
- Bản thân tham gia đầy đủ các lớp chuyên đề do trường cũng như ngành
tổ chức.
- Cơ sở vật chất trường lớp, trang thiết bị cho các hoạt động học của trẻ
tương đối đầy đủ.
- Thường xuyên được Ban giám hiệu bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ,
nhà trường luôn tạo điều kiện để bản thân được học hỏi kinh nghiệm ở các đơn
vị trường bạn vì vậy tôi đã không ngừng phấn đấu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ
được giao.
* Khó khăn:
- Việc tiếp cận những vấn đề mới trong giáo dục còn chưa rõ nét.
- Môi trường tổ chức học tập của trẻ chưa thực sự đầy đủ, chưa phong
phú, không có không gian mở cho trẻ khám phá.
- Nhận thức của phụ huynh về giáo dục mầm non còn đơn giản, chưa chủ
động cung cấp kiến thức cho trẻ khi trẻ cần.
- Việc dạy cho trẻ làm quen với 29 chữ cái còn mang nặng hình thức học
vẹt, từ phụ huynh tới các cô giáo chỉ cần cho trẻ đọc nhiều để nhớ là được.
2.2.2. Kết quả của thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến kinh
nghiệm.
Bước vào đầu năm học khi tổ chức hoạt động học tập cho trẻ đặc biệt là
hoạt động cho trẻ làm quen với chữ cái, tôi cũng đi đầy đủ các bước theo quy
định, trẻ tham gia học tập nghiêm túc xong kết quả đạt được không cao như tôi
mong muốn.
VD: Hoạt động làm quen chữ cái: Làm quen chữ O, Ô, Ơ
- Cô cho trẻ xem tranh chùm nho rồi hỏi: Đây là tranh vẽ gì?
- Cô chỉ vào từ “Chùm nho” ở dưới bức tranh và cho trẻ đọc từ “ Chùm
nho”.
- Cô giới thiệu chữ cái O trong từ “chùm nho” và đưa thẻ chữ cái O cho
trẻ xem và nhận biết.
- Cô cho trẻ phát âm O.
- Với chữ cái Ô, Ơ (tổ chức tương tự) sau đó cho trẻ quan sát chữ các chữ
O, Ô, Ơ và so sánh chữ cái O với chữcái Ô, chữ cái O với chữ cái Ơ.
- Cô bao quát lại toàn bộ ý trả lời của trẻ về hình dáng, cấu tạo, cách phát
âm, sự giống nhau và khác nhau giữa các chữ.[1]
Qua việc tổ chức hoạt động làm quen chữ cái cho trẻ tôi đã rút ra được
các ưu điểm, hạn chế sau:
* Ưu điểm:
- Trẻ cơ bản nắm được kiến thức cô truyền đạt.
- Thực hiện được yêu cầu của cô, một số kĩ năng cơ bản của bài học.
- Tiết học tổ chức nhanh gọn trong thời gian nhất định.
* Hạn chế:
- Trẻ không hứng thú khi bắt đầu tiết học.
- Trẻ không được mở rộng kiến thức qua nhiều tranh ảnh và các hoạt động
khác kết hợp.
- Các hoạt động được tổ chức không hấp dẫn, môi trường học tập còn
cứng nhắc buồn chán.
- Phương pháp của cô chưa linh hoạt trong từng nội dung và chưa nắm bắt
được tâm lý và nhu cầu muốn khám phá của trẻ.
- Trẻ cơ bản đã nắm được các chữ cái đã học xong rất nhanh quên và
không thích học chữ.
* Kết quả khảo sát chất lượng giáo dục trẻ về nhận biết và phát âm
29 chữ cái Tiếng việt đầu năm học 2016 -2017:
Mức độ đánh giá
TST
Đạt
Khá
Tốt
58
ST
8
%
13,8%
ST
12
%
20,7%
Trung bình
ST
%
22
37,9%
Chưa đạt
Yếu
ST
%
16
27,6%
Từ kết quả đánh giá trên tôi đã băn khoăn về chất lượng giáo dục, sự sáng
tạo, tư duy của trẻ đặc biệt là việc cho trẻ làm quen với chữ cái.Việc tổ chức
hoạt động học tập khám phá sáng tạo để nâng cao chất lượng giáo dục đáp ứng
với sự phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước là chưa có. Đứng
trước những khó khăn đó tôi đã tìm ra một số biện pháp để giúp trẻ phát huy tính
tích cực, chủ động sáng tạo của trẻ nhằm nâng cao chất lượng cho trẻ làm quen
chữ cái làm tiền đề cho trẻ bước vào lớp 1.
2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
2.3.1.Đổi mới phương pháp và ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt
động làm quen chữ cái.
Đổi mới phương pháp giáo dục là quá trình chuyển từ phương pháp giáo
dục coi “Người giáo viên là trung tâm” thành phương pháp giáo dục coi “Trẻ
làm trung tâm”[5].Vì vậy tôi luôn tìm tòi tổ chức các hoạt động làm quen chữ
cái một cách mới lạ và sáng tạo khuyến khích trẻ tích cực hoạt động, tích cực
suy nghĩ để giải quyết vấn đề.
Khi tổ chức hoạt động làm quen với chữ cái tôi luôn thực hiện tốt các yêu
cầu hướng dẫn trẻ làm quen với chữ cái do Bộ giáo dục quy định. Nhưng trước
khi tiên hành cho trẻ làm quen với chữ cái tôi luôn xác định trước hoạt động
đó là gì: Hoạt động làm quen chữ cái hay trò chơi chữ cái, sau đó tôi nghiên cứu
bài soạn, vạch ra kế hoạch hoạt động, đặt ra mục đích yêu cầu và lên kế hoạch
hoạt động cho cô và trẻ. Để hoạt động hấp dẫn ngay từ đầu tôi tìm cách giới
thiệu bài một cách hấp dẫn nhất và lồng ghép được nhiều hoạt động khác vào
hoạt động làm quen chữ cái một cách phù hợp và khéo léo bằng nhiều hình thức
khác nhau, khi tích hợp tôi luôn xen kẻ các hoạt động tích hợp giữa động và
tỉnh. Ngoài ra với thời đại công nghiệp hóa hiện đại hóa tôi luôn tìm tòi xây
dựng giáo án điện tử áp dụng vào giảng dạy vì các hình ảnh trên Baboy luôn
sống động rõ ràng có nhiều hiệu ứng giúp trẻ hứng thú nhớ lâu về hoạt động hay
chữ cái được làm quen. .
Ví dụ 1: Khi tổ chức hoạt động làm quen chữ cái E, Ê ở chủ điểm gia
đình. Tôi tổ chức dưới các dạng “Hội thi” để trẻ luôn được hứng thú và thi đua
nhau cùng học. Hội thi gồm 3 phần:
Phần1: Phần thi xã hội: Trẻ được trò chuyện về chủ đề, cô bật các video
về chủ đề cô và trẻ cùng trò chuyện, đọc thơ hay múa hát về các đoạn video đó.
Cô chiếu hình ảnh về mẹ đang chăm sóc bé thì cô và trẻ cùng hát bài “Bàn
tay mẹ”..v.v.
Phần2: Phần thi tìm hiểu: Cô đưa tranh “Mẹ bế bé” ra cho trẻ quan sát và
đàm thoại, giới thiệu từ dưới tranh cho trẻ đọc từ dưới tranh, dùng các hiệu ứng
để chữ cái E luôn đặc biệt nhất vì khi tất cả chữ cái đều bình thường mà chữ cái
E luôn động thì trẻ sẽ luôn để tâm quan sát chú ý đến chữ cái đó và suy nghĩ
xem tại sao chữ cái đó luôn nhảy nhót như vậy.
Hình ảnh cô và trẻ học chữ cái trên ti vi đang đọc từ dưới tranh “Mẹ bế bé”.
Cô giới thiệu chữ cái E cần làm quen cho trẻ phát âm, khi phân tích các
nét chữ tôi lại sử dụng các hiệu ứng bay đến hay nổi lên để trẻ luôn cảm thấy
mới và hấp dẫn với các nét tạo thành chữ. Cô giới thiệu các kiểu chữ in thường,
in hoa và viết thường cho trẻ được biết và mỗi loại kiểu chữ tôi chiếu hình ảnh
bên cạnh gạch chân chữ cái đó cho trẻ có sự so sánh và khắc sâu.( Như: Với chữ
e in thường thường dùng trong sách in và báo tôi chiếu hình ảnh tờ báo bên cạnh
chữ e và gạch chân những chữ cái e in thường được sử dụng trong tờ báo đó…)
Làm quen với chữ Ê tôi cũng thực hiện tương tự và cho trẻ so sánh điểm
giống và khác nhau giữa chữ cái E và Ê.
Phần 3: Phần thi nhanh và sáng tạo: Có các trò chơi luyện tập.
* Trò chơi 1: Nhanh tay nhanh mắt: Cô phát cho mỗi gia đình một bài thơ
in chữ to yêu cầu các thành viên tìm gạch chân chữ cái vừa học đếm và viết số
lượng tương ứng sang ô bên cạnh.
* Trò chơi 2: Khéo léo sáng tạo: Ở trò chơi này các gia đình sẽ tạo các
chữ cái vừa học bằng nhiều hình thức: Tạo bằng các bộ phận trên cơ thể hay xếp
chữ bằng nhiều người hoặc tạo chữ bằng que… với những chữ cái được tạo ra ở
mức độ khó hơn thì sẽ được điểm cao hơn.
Hình ảnh trẻ tạo chữ cái E, Ê bằng bút, que.
Hình ảnh trẻ tạo chữ cái E bằng nhiều người.
Khi tổ chức hoạt động làm quen chữ cái tôi còn lồng ghép sen kẽ các hoạt
động khác vào các phần trong bài dạy thật phù hợp: Như sau khi cho trẻ học
phát âm xong chữ cái E, Ê tôi cho trẻ luyện âm phát âm E, Ê kéo dài trẻ sẽ rất
vui và hứng thú quên đi sự mệt mỏi tập trung học trước đó hứng thú bước sang
phần học sau.
Ví dụ 2: Khi tổ chức hoạt động trò chơi chữ cái tùy vào từng chủ đề tôi
luôn lựa chọn các trò chơi phù hợp để trẻ ôn luyện nhận ra mặt chữ, cách phát
âm chữ cái đó, các nét cấu tạo nên chữ và tập tô các nét chữ đó theo dấu chấm
mờ.
Tôi luôn ưu tiên dùng giáo án điện tử để sử dụng các hiệu ứng với chữ cái
mà trẻ tìm thấy hay phát âm đúng…
* Kết quả: Từ những đổi mới trong phương pháp và ứng dụng công nghệ
thông tin vào giảng dạy tôi nhận thấy trẻ hứng thú hơn trong các hoạt động,
những chữ cái đã được học trẻ khắc sâu hơn, kết quả đạt sau mỗi hoạt động cao
hơn so với trước đó, trẻ không sợ học chữ mà tự tin thích học chữ học thật giỏi
để mang theo niềm tin niềm hy vọng được lên lớp 1 như các anh chị.
2.3.2. Xây dựng môi trường giáo dục gắn với các chữ cái tiếng việt.
Môi trường giáo dục học tập, lôi cuốn hấp dẫn trẻ sẽ là giải pháp hữu hiệu
trong việc nâng cao chất lượng giáo dục.
Xây dựng môi trường giáo dục trong lớp chính là xây dựng các góc học
tập nhằm tạo điều kiện cho trẻ được học và chơi theo ý thích, thúc đẩy trẻ tự học
và hoạt động tích cực theo cá nhân hoặc nhóm nhỏ để đạt được kết quả như
mong đợi.[5]
Tạo môi trường làm quen với chữ cái hết sức quan trọng đối với hoạt
động làm quen chữ cái, trẻ được hoạt động, được vui chơi, được thường xuyên
tiếp xúc với chữ cái sẽ tạo điều kiện tốt cho trẻ khắc sâu chữ cái đã học, làm
quen nhóm chữ chưa học.
Cụ thể tôi đã xây dựng môi trường ở lớp như sau:
- Ở các góc đều có treo các biển ghi tên góc như: Góc phân vai, Góc tạo
hình, Góc nghệ thuật, Góc xây dựng, Góc thiên nhiên...
- Ở góc học tập: Tôi chọn vị trí thuận lợi để treo bảng chữ cái theo hai
mẫu: Chữ in thường và chữ viết thường, phía dưới tôi tạo bảng cài, hàng ngày
vào thời gian cho phép (hoạt động góc, hoạt động chiều) tôi có thể gọi từng trẻ
lên nhận biết và phát âm chữ cái hoặc phát cho trẻ tranh lô tô phù hợp với chủ đề
để trẻ tìm và gắn tranh vào ô có chứa chữ cái tương ứng, sau đó phát âm theo
đúng yêu cầu của cô, hoặc trong khi trẻ chơi cùng nhau có thể đố nhau các chữ
cái mình biết, tập tô chữ cái …
- Ở góc phân vai, góc bán hàng: Tôi luôn tạo môi trường chữ cái (Gắn
các chữ cái vào tên sản phẩm, tiền có gắn chữ cái và số…). Trong khi chơi hoạt
động góc trẻ được hoạt động như: Khi trẻ muốn mua sản phẩm nào (Người bán
hàng yêu cầu người mua phải gọi tên sản phẩm và kí hiệu chữ cái ghi trên sản
phẩm đó thì người bán mới bán cho và yêu cầu người mua trả số tiền bằng thẻ
chữ cái mà người bán yêu cầu…) Như vậy trong khi chơi trẻ được ôn luyện và
làm quen với chữ cái trẻ bắt buộc phải nhớ được chữ cái ghi trên sản phẩm mình
muốn mua và tìm được chữ cái người bán yêu cầu, nếu chưa biết thì bạn chơi
cùng nhóm chỉ giúp nhưng nếu trẻ không biết và không nhớ nhiều lần nhóm
chơi đó sẽ không cho trẻ đó chơi nữa vì lí do không biết chơi. Vì thế khi tham
gia chơi trẻ luôn phải khắc sâu ghi nhớ để được chơi cùng bạn.
Qua những vai chơi như vậy trẻ luôn phải cố gắng học kiến thức, kĩ năng
chơi từ bạn bè để đáp ứng vai chơi mình đóng từ đó giúp trẻ ôm luyện và khắc
sâu chữ cái tiếng Việt một cách hiệu quả mà nhẹ nhàng.
Ngoài ra ở góc phân vai tôi còn chuẩn bị sách bút cho trẻ chơi, để những
trẻ trội hơn có thể (Viết hóa đơn, tên sản phẩm khách cần mua và cách chế biến
các món ăn kèm theo hình ảnh minh hoạ….)
Hình ảnh bé chơi ở góc phân vai mua bán sản phẩm có gắn chữ cái, tiền bằng
thẻ chữ.
- Góc thiên nhiên: Ở từng chậu cây tôi viết tên cây như: Cây hoa lan, Cây
hoa đồng tiền, Cây sống đời, Hoa mười giờ… khi trẻ chơi ở góc luôn nhìn thấy
những chữ cái tiếng Việt và nhìn nhiều thành quen trẻ nhớ các mặt chữ, trong
khi chơi trẻ có thể đố bạn số chữ cái được viết dưới hình ảnh những bông hoa,
đố bạn chơi những chữ cái mình biết trong tên các loại hoa….Từ những cách
chơi như vậy vô tình đã giúp trẻ ôn luyện chữ cái tiếng Việt một cách tự nhiên
nhất mà hiệu quả đạt cao.
- Góc thư viện: Tôi sưu tầm và sáng tác một số câu truyện tranh chữ to ở
phía dưới, cho trẻ xem và kể theo truyện như: Cáo thỏ và gà trống, Chú dê đen,
Gấu con đi xe đạp, Vì sao thỏ cụt đuôi… Qua các hoạt động chơi trẻ tìm hiểu
truyện qua hình ảnh và khi đọc truyện cũng bắt chước người lớn nhìn vào dòng
chữ bên dưới và khi trẻ đọc trẻ đã nhìn thấy những chữ cái tiếng Việt mình đã
học rồi sẽ rất phấn khích và rất vui vì mình cũng biết 1 vài chữ và thể hiện đọc
truyện như người lớn…
- Ở các góc chơi khác: Tôi cũng tìm mọi cách để gắn chữ cái tiếng Việt
vào một cách phù hợp nhất để trẻ có thể được tiếp xúc thường xuyên: Như góc
xây dựng (Tạo cây tre gắn chữ cái ở các đốt tre, ghi tên cổng trang trại, ghi tên
các loại cây, tên công trình.. cho trẻ tập tìm gắn tên cho phù hợp). Với góc nghệ
thuật tôi cũng vậy ghi tên các dụng cụ âm nhạc, ở góc có thêm các bài thơ chữ to
hay bài hát chữ to cho trẻ chơi biểu diễn, hay yêu cầu trẻ đọc thơ, hát theo các
tranh chữ có sẵn…
Trong việc trang trí lớp tôi treo nhiều tranh ảnh phù hợp với chủ đề đang
thực hiện và mỗi bức tranh đều có những dòng chữ cái nói lên nội dung của bức
tranh ấy như: Gia đình của bé, hoa mùa xuân, ngày tết quê em, bánh trưng…
Trong công tác vệ sinh và sinh hoạt hằng ngày ở trên lớp tôi ký hiệu riêng
cho mỗi trẻ một chữ cái có trong tên của mình, ký hiệu đó được in trên khăn, cốc
và trên tất cả các loại vở của trẻ, trẻ có thể nhận ra đồ dùng của mình dựa và chữ
cái kí hiệu riêng, tôi còn quan sát thấy trẻ còn đố nhau chữ cái trên khăn, cốc hỏi
nhau bạn có chữ gì…Từ đó giúp trẻ học và ôn luyện chữ cái tự nhiên hơn.
Hàng ngày trẻ được tiếp xúc với các chữ cái, các từ, đọc các chữ cái trong
từ sẽ giúp trẻ ghi nhớ phân biệt được chữ cái, đồng thời giúp trẻ tăng thêm vốn
từ, hiểu được rằng các chữ cái có thể ghép lại với nhau để thành một từ có nghĩa
hay những vần thơ hay… Điều đó đã thúc đẩy sự tò mò ham hiểu biết của trẻ.
* Kết quả: Việc tạo môi trường chữ cái tiếng Việt vào các góc cho trẻ
hoạt động vui chơi, học tập và sinh hoạt có tác dụng tốt đối với sự phát triển của
trẻ. Đồng thời đó cũng là hình thức tổ chức giáo dục thích hợp với đặc điểm tâm
sinh lý của trẻ mẫu gáo. Qua học mà chơi trẻ được học nhiều kiến thức xã hội và
ôn luyện khắc sâu kiến thức được học đặc biệt tự tin vào việc học chữ cái nhẹ
nhàng hơn.
2.3.3. Tổ chức các trò chơi câu đố giúp trẻ ôn luyện và làm quen chữ
cái qua các hoạt động trong ngày của bé.
Đặc điểm sinh lý của tuổi mẫu giáo là trẻ nhanh nhớ và chóng quên, trẻ
học khi vui, lĩnh hội kiến thức khi hào hứng tham gia. Vì vậy việc tổ chức ôn
luyện kiến thức trong hoạt động một ngày là không thể thiếu và việc tổ chức các
trò chơi câu đố giúp trẻ vui vẻ tiếp thu kiến thức đã học là việc làm hết sức cần
thiết đòi hỏi sự khéo léo sáng tạo của giáo viên khi mong đợi kết quả trên trẻ.
Nhận thức rõ điều đó tôi đã sưu tầm và khéo léo tổ chức các trò chơi câu
đố giúp trẻ ôn luyện và làm quen chữ cái vào hoạt động một ngày của bé như:
* Trong giờ đón, trả trẻ: Tôi cho trẻ xem các video “Chuyến xe lửa của
POP, hay trò chơi xúc xắc tìm chữ, ong tìm chữ …”[3]. Những đoạn video này
luôn đặt câu hỏi và tạo sự bất ngờ khi một chữ cái xuất hiện, trẻ có thể biết hoặc
chưa biết chữ cái đó nếu biết thì nhao nhao trả lời câu hỏi còn chưa biết thì ngồi
im lắng nghe câu trả lời sau đó. Qua các video đó tôi thấy sự tích cực khám phá
và lĩnh hội kiến thức mới của trẻ, cạnh tranh thi đua nhau học để trả lời các câu
đố đó.
Hình ảnh trẻ ngồi xem video chuyến xe lửa của pop trong giờ đón và trả trẻ.
* Trong giờ hoạt động có chủ đích: Tôi luôn lồng ghép tích hợp các câu
đố, hay trò chơi chữ cái vào hoạt động sao cho phù hợp nhất, vì khi lồng ghép
tích hợp trẻ được ôn luyện củng cố nhẹ nhàng các chữ cái và hơn nữa làm cho
hoạt động đó không bị nhàm chán khi trẻ phải chú ý vào một nội dung quá lâu.
VD 1: Trong hoạt động khám phá khoa học ở chủ đề “Thực vật” khi quan
sát nhận xét về cây đu đủ cô cho trẻ gọi tên cây, đọc từ dưới tranh, sau đó cho trẻ
quan sát và gọi tên các bộ phận tác dụng của từng bộ phận, lợi ích cách chăm
sóc bảo bệ cây, cô bao quát nêu bài học giáo dục. Sau hoạt động khám phá đó tôi
lồng ghép trò chơi “Thi ghép tranh” Chia các tổ thi nhau ghép tranh có hình ảnh
cây và chữ cái ghép thành bức tranh như tranh vừa quan sát, sau đó cho trẻ đọc
từ vừa ghép dưới tranh ôn luyện những chữ cái trẻ đã học. Qua trò chơi đó trẻ
củng cố được kiến thức vừa học về hình ảnh cây đu đủ và ôn luyện được chữ cái
tiếng Việt đồng thời giúp trẻ thoải mái tiếp thu kiến thức mới.
VD 2: Trong hoạt động thể dục khi tổ chức cho trẻ thi đua nhau tôi thường
kết hợp cho trẻ tìm chữ cái theo yêu cầu hoặc tìm nhóm chữ cái đã học: Như
VĐCB “Ném xa bằng hai tay, chạy nhanh 15m” khi tổ chức cho hai tổ thi đua
nhau trẻ thực hiện bài tập chạy nhanh đến vạch và chọn chữ cái theo yêu cầu của
cô, đội nào chọn đúng và nhiều chữ cái hơn sẽ chiến thắng…Trong các bài tập
khác tôi cũng lồng ghép như vậy để trẻ được ôn luyện chữ cái qua trò chơi một
cách nhẹ nhàng.
VD3: Trong hoạt động văn học khi tổ chức cho trẻ đọc thơ tôi dạy trẻ đọc
nhiều lần cả lớp, nhóm, cá nhân xong tôi treo tranh bài thơ in chữ to chỉ và cho
trẻ đọc cùng như bài thơ “Cây dừa” khi trẻ đọc trẻ luôn được chi giác vào các
chữ cái và hiểu các chữ cái được ghép lại với nhau thành các từ tạo nên những
vần thơ hay…Sau khi dạy trẻ đọc thơ tôi tổ chức trò chơi ôn luyện chia trẻ làm
hai đội thi nhau bật qua 5 vòng lên tìm và gạch chân chữ cái “b, d, đ” có trong
bài thơ. Qua từng chủ đề tôi cho trẻ ôn luyện nhóm chữ cái trong chủ đề qua bài
thơ câu chuyện ở chủ đề mình thực hiện.
- Trong tất cả các hoạt động có chủ đích tôi luôn tìm các hoạt động tích
hợp một cách phù hợp và ưu tiên các trò chơi ôn luyện chữ cái tiếng Việt để giúp
trẻ luôn được khắc sâu ghi nhớ 29 chữ cái trong chương trình giáo dục mầm non
giúp trẻ tự tin bước vào lớp 1 một cách vững vàng và tự tin nhất.
* Trong hoạt động ngoài trời: Tôi cũng luôn tạo hứng thú cho trẻ bằng
các câu đố trước khi ra sân dạo chơi quan sát như:
- Với các chủ đề khác nhau tôi lựa chọ các câu đố phù hợp.
VD: Với chủ đề gia đình tôi lựa chọn câu đố:
“Ba anh cùng một họ hàng
Tròn xoe như quả trứng gà nhà ai
Một anh đội mũ thật oai
Anh thì lười biếng cô thời thêm râu
Đố là những chữ cái gì?”[3]
VD: Với chủ đề các hiện tượng thiên nhiên tôi lựa chọn câu đố:
“Bình thường em đọc chữ a
Thêm vầng trăng khuyết a ra chữ gì
Đố là chữ gì?” [3]
VD: Với chủ đề thực vật tôi lựa chọn câu đố:
“Sừng sững đứng thẳng một mình
Đọc lên uốn lưỡi đố em là chữ gì?”[3]
Trẻ đoán và ra sân cô nhận xét khen ngợi trẻ đoán đúng, động viên trẻ
đoán chưa đúng tích cực suy nghĩ... Từ những câu đố này giúp trẻ biết cách phân
biệt từng chữ cái một cách dễ dàng hơn. Sau đó cô tổ chức cho trẻ quan sát và
khi tồ chức trò chơi vận động tôi lại lồng ghép vào các trò chơi: Về đúng nhà,
Chơi xúc xắc tìm ô chữ, Bật vào các ô chữ…nhằm ôn luyện cách phát âm và
nhận ra chữ cái trẻ đã học. Khi cho trẻ chơi tự do với phấn tôi gợi ý khuyến
khích trẻ tập vẽ, viết những chữ cái đã học …giúp trẻ hình dung cấu tạo của
từng chữ cái để trẻ bước vào lớp 1 tập viết chữ đúng nét, đúng chiều theo quy
định của chữ cái tiếng Việt.
* Trong giờ vệ sinh ăn trưa: Khi trẻ ngồi vào bàn đợi cơm cho trẻ đọc
đồng dao, ca dao luyện phát âm cho trẻ như: Luyện phát âm “r” tôi cho trẻ đọc
bài đồng dao: "Rềnh rềnh ràng ràng" hoặc luyện phát âm chữ “l” tôi lại cho trẻ
đọc bài “Lúa ngô là cô đậu nành”…Từ những bài đồng dao đó trẻ tự điều chỉnh
cách phát âm của mình sao cho đúng để bạn khỏi cười chê.
* Kết quả: Từ những trò chơi, câu đố bài đồng dao ca dao lồng ghép vào
các hoạt động một ngày của bé trẻ luôn được va chạm ôn luyện những chữ cái
đã học, luyện sự nhận biết, cách phát âm, luyện vẽ viết chữ theo cấu tạo của
chữ.. trẻ luôn phải tư duy hình dung khắc sâu các chữ cái giúp trẻ thành thạo tự
tin phát âm, nhận dạng chữ cái đã học ở mọi lúc mọi nơi.
2.3.4. Kết hợp cùng gia đình trong việc ôn luyện và làm quen các chữ
cái tiếng Việt.
Để trẻ phát triển toàn diện một cách tốt nhất cô giáo cần phối hợp với gia
đình trẻ để nắm rõ những đặc điểm sinh lí và khả năng của trẻ.Từ đó tìm ra biện
pháp phù hợp khuyến khích trẻ học tập tích cực và sáng tạo hơn.
Việc trao đổi với phụ huynh thông thường diễn ra vào các cuộc họp phụ
huynh đầu năm, giữa năm và cuối năm, thời gian đón trả trẻ hằng ngày cô trao
đổi thông tin về tình hình sức khỏe, đặc điểm tâm sinh lý của trẻ và kết quả học
tập của trẻ trên lớp.
- Qua cuộc họp phụ huynh đầu năm tôi thông báo kết quả khảo sát chất
lượng giáo dục đầu năm, khả năng tiếp thu hoạt động làm quen chữ cái của từng
trẻ với phụ huynh và nội dung về bộ môn làm quen chữ cái giúp gia đình hiểu để
chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 không chỉ đơn thuần là dạy trẻ đọc thông, viết thạo,
ghép vần, đó chính là công việc của trường tiểu học mà phải chuẩn bị tâm thế
cho trẻ theo đúng phương pháp, đúng tâm sinh lý ở lứa tuổi, có nghĩa là ở trường
mầm non cô giáo chỉ dạy cháu nhận biết, phân biệt, phát âm chính xác 29 chữ
cái Tiếng Việt, biết cầm bút đúng, ngồi đúng tư thế, biết tô theo dấu chấm mờ
đúng 29 chữ cái trong vở "Bé tập tô" do bộ giáo dục quy định và ban hành.[2] Vì
vậy phụ huynh chỉ cần mua thêm vở tập tô, thẻ chữ cái để ôn luyện cho trẻ vào
buổi tối ở nhà theo nhóm chử đã học trên lớp và nhiệm vụ cô giao.
-Tôi còn trao đổi với phụ huynh một số phương pháp ôn luyện hiệu quả
không gò ép trẻ như: Khi cùng trẻ xem ti vi hay bố đọc báo có những dòng chữ
to hỏi trẻ hay đố trẻ tìm những chữ cái theo yêu cầu hay những chữ con đã học,
trẻ tìn đúng động viên và khích lệ trẻ để trẻ hào hứng lần sau, hay phụ huynh có
thể viết tên các thành viên trong gia đình cho trẻ đếm số chữ trong tên, tìm chữ
cái đã học…Những cách ôn luyện này trẻ thường thích thú và tích cực hoạt động
từ đó mục đích ôn luyện chữ cái của phụ hunh và cô giáo đạt kết quả cao.
- Trong giờ đón, trả trẻ hàng ngày tôi thường trao đổi với phụ huynh về kết
quả học tập của trẻ gửi sản phẩm của trẻ về gia đình.
Hình ảnh cô giáo trao đổi với phụ huynh về cách dạy chữ cái cho trẻ khi ở nhà.
Việc kết hợp cùng gia đình giúp trẻ làm quen với chữ cái là việc làm
không thể thiếu, nó giúp trẻ lĩnh hội kiến thức mới trên lớp và ôn luyện cũng cố
chữ cái khi ở nhà. Trẻ tích cực hơn trong các hoạt động học ở trường, trẻ chủ
động khám phá tìm tòi tự tin vào bản thân, khắc sâu những chữ cái tiếng Việt đã
được học và học kết quả được đánh giá cao là động lực cho trẻ học tốt hơn trong
thời gian tiếp theo. Đặc biệt đối với các bậc phụ huynh đã thực sự phấn khởi khi
cùng con học mọi lúc mọi nơi và nhận thấy con em mình tiến bộ rõ rệt trong các
lĩnh vực phát triển, thích học chữ tự tin khi tìm và đọc chữ cái, hào hứng để
chuẩ bị bước vào lớp 1.
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
Với những biện pháp trên tôi đã áp dụng và thực tiễn giảng dạy một cách
linh hoạt và đã thu được kết quả sau:
* Đối với trẻ:
- Trẻ có những thói quen tốt, mạnh dạn, tự tin, tích cực trong việc tham
gia các hoạt động học nói chung và hoạt động làm quen chữ cái nói riêng.
- Kiến thức của trẻ được mở rộng, khắc sâu có hệ thống phát triển đúng
đắn theo tầm nhận thức và tâm sinh lý của trẻ.
- Trẻ phát triển tốt trong các lĩnh vực: Đức, Trí, Thể, Mĩ, và đặc biệt tự tin
tìm, phát âm, nhận biết tô vẽ chữ cái tiếng Việt thành thạo hơn.
Qua khảo sát đánh giá chất lượng trên trẻ như sau.
* Kết quả khảo sát chất lượng giáo dục trẻ về nhận biết và phát âm
29 chữ cái Tiếng việt đầu năm khi chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
Mức độ đánh giá
TST
Đạt
Khá
Tốt
58
ST
8
%
13,8%
ST
12
%
20,7%
Trung bình
ST
%
22
37,9%
Chưa đạt
Yếu
ST
%
16
27,6%
* Kết quả khảo sát chất lượng giáo dục trẻ về nhận biết và phát âm
29 chữ cái Tiếng việt cuối năm khi áp dụng sáng kiến inh nghiệm.
Mức độ đánh giá
TST
Đạt
Khá
Tốt
58
ST
20
%
34,5%
ST
24
%
41,4%
Trung bình
ST
%
14
24,1%
Chưa đạt
Yếu
ST
%
0
0%
* Đối với bản thân đồng nghiệp và phụ huynh.
- Những kết quả trên được thể hiện qua các đợt dự giờ của Ban giám hiệu
và thao giảng cấp trường tôi đều đạt giờ dạy giỏi, học sinh được Ban giám hiệu
đáng giá đạt kết quả cao.
- Đối với bạn bè, đồng nghiệp tôi được tín nhiệm trong các hoạt động
chuyên môn.
- Đặc biệt tôi rất phấn khởi nhận được sự tin yêu và hài lòng từ các bậc
phụ huynh đối với cô giáo.
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. KẾT LUẬN
“Học” ở trẻ Mẫu giáo là hoạt động đặc biệt, việc phát triển của trẻ và việc
học xảy ra đồng thời trong các lĩnh vực thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, thẩm mỹ
và quan hệ xã hội. Sự phát triển của các lĩnh vực này có định hướng đến các lĩnh
vực khác và tất cả các lĩnh vực đều phải được phát triển một cách đồng thời theo
quan điểm tích hợp. Để đạt được kết quả cao nhất trong giáo dục và đặc biệt
trong hoạt động làm quen chữ cái thì việc tổ chức hoạt động học tập lấy trẻ làm
trung tâm là rất cần thiết và cấp bách. Bên cạnh đó giáo viên phải có tính kiên
trì, sự nhẹ nhàng đối với trẻ, yêu mến trẻ tạo môi trường chữ cái phong phú
nhóm lớp một cách phong phú, hấp dẫn để nuôi cuốn trẻ vào các hoạt động, tạo
cơ hội cho trẻ làm quen với chữ cái. Giáo viên cần tìm tòi học hỏi sáng tạo để
đưa ra các phương pháp hay, mới lại, áp dụng công nghệ thông tin vào hoạt động
làm quen chữ cái. Để trẻ thành thạo và khắc sâu những kiến thức được học thì
việc kết hợp các môn học khác vào việc ôn luyện và dạy chữ cái cho trẻ để trẻ
luôn có các kỹ năng: Phát âm chuẩn, nhận biết, phân biệt được chữ cái tiếng
Việt.
Giáo viên cần tìm tòi những lời giới thiệu hay, sưu tầm, sáng tác các trò
chơi, câu đố, làm đồ dùng trực quan, đẹp, mang tính thẩm mỹ và tính giáo dục
cao, gây sự tò mò, ham hiểu biết của trẻ đối với môn làm quen với chữ cái.
Sự kết hợp giữa cô giáo và gia đình giúp trẻ làm quen chữ cái cũng như
trong các hoạt động khác là không thể thiếu nó đem lại kết quả cao trong quá
trình giáo dục giúp trẻ phát triển cân đối hợp lí ở các lĩnh vực.
Dựa vào đặc điểm tâm sinh lí của trẻ và thực tiển hoạt động học tập đặc
biệt hoạt động làm quen chữ cái của trẻ ở Trường mần non Thanh Tân tôi đã đưa
một số giải pháp giúp trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi học tốt 29 chữ cái tiếng Việt. Tôi
thấy kết quả hoạt động làm quen chữ cái của trẻ đạt cao hơn so với đầu năm học,
điều đó chứng tỏ các giải pháp của tôi đưa ra có tác động tích cực đến việc học
chữ cái của trẻ 5 tuổi ở Trường mầm non Thanh Tân.
3.2. KIẾN NGHỊ
3.2.1. Đối với Trường mầm non.
- Có sự đầu tư đổi mới thường xuyên liên tục về môi trường giáo dục, đồ
dùng đồ chơi cho trẻ ở các nhóm lớp.
- Lãnh đạo nhà trường giúp đỡ, ủng hộ, khuyến khích tạo điều kiện cho
giáo viên áp dụng phương pháp mới ngày càng rộng rãi, thường xuyên, hiệu quả
hơn.
3.2.2. Đối với giáo viên.
- Không ngừng học hỏi đổi mới phương pháp tổ chức hoạt động học nói
chung và hoạt động làm quen chữ cái nói riêng với trẻ 5 tuổi qua các lớp đào
tạo, sách báo, thông tin đại chúng, bạn bè đồng nghiệp.
- Trong quá trình chăm sóc giáo dục trẻ giáo viên phải nêu cao tinh thần
trách nhiệm, nhiệt tình, tận tụy với công việc.
- Giáo viên cần quan sát đánh giá trẻ sát sao, ghi chép để khuyến khích sự
phát huy trí thông minh sáng tạo của trẻ.
- Đổi mới phương pháp giáo dục từ “Người giáo viên làm trung tâm”
thành phương pháp “Trẻ làm trung tâm” trong các hoạt động giáo dục ở trường
Mầm Non.
Trên đây là những kinh nghiệm của tôi, rất mong được sự quan tâm góp ý
của các bạn đồng nghiệp và lãnh đạo các cấp để tôi hoàn thiện hơn trong quá
trình công tác.
Tôi xin chân thành cám ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ
TRƯỞNG ĐƠN VỊ
Như thanh, ngày 10 tháng 03 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)
Đặng Thị Nhung
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ giáo dục và đào tạo. Chương trình chăm sóc giáo dục mẫu giáo và
hướng dẫn thực hiện (5 - 6 tuổi). Nhà xuất bản giáo dục năm 2003.[1]
2. Bộ giáo dục và đào tạo “Vụ giáo dục mầm non – Trung tâm nghiên cứu
giáo dục mầm non”. Hướng dẫn thực hiện chương trình chăm sóc giáo dục trẻ
mẫu giáo 5 - 6 tuổi (Theo nội dung đổi mới hình thức tổ chức hoạt động giáo
dục). Nhà xuất bản Hà Nội năm 2004.[2]
3. Tài liệu từ internet. Những hình ảnh chương trình liên quan đến việc
học và chơi, câu đố với chữ cái Tiếng Việt.[3]
4. Vụ giáo dục Mầm non. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên
Mầm non chu kỳ II (2004-2007) quyển 1. Nhà xuất bản Hà Nội năm 2005.[4]
5.Viện chiến lược và Chương trình giáo dục. Đổi mới hình thức tổ chức
các hoạt động giáo dục cho trẻ Mẫu giáo theo hướng tích hợp theo chủ đề. Nhà
xuất bản giáo dục. Năm 2005.[5]
6. Viện chiến lược và chương trình giáo dục. Hướng dẫn thực hiện đổi
mới hình thức tổ chức hoạt động giáo dục trẻ 5-6 tuổi. Nhà xuất bản giáo dục.
Năm 2005.[6]
DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC
CẤP CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả: Đặng Thị Nhung
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên, Tổ trưởng chuyên môn.
Trường Mầm Non thanh Tân
TT
1.
Tên đề tài SKKN
Một số biện pháp giúp trẻ mẫu
giáo 4 - 5 tuổi học tốt môm
Tạo Hình trường Mầm non
Thanh Kỳ.
Một số biện pháp giúp trẻ mẫu
giáo hiểu biết và thực hiện
chuyên đề An toàn giao thông
ở trường Mầm non Thanh Kỳ.
2.
3.
4.
5.
Một số biện pháp giúp trẻ mẫu
giáo 3 - 4 tuổi học tốt môm
Tạo Hình thể loại vẽ trường
Mầm non Thanh Tân
Một số biện pháp giúp trẻ 2436 tháng tuổi nhận biết tập nói
và phát triển ngôn ngữ Trường
Mầm non Thanh Tân.
Biện pháp tổ chức hoạt động
học tập lấy trẻ làm trung tâm
cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi
Trường Mầm non Thanh Tân
Cấp đánh
giá xếp loại
(Phòng, Sở,
Tỉnh...)
- Phòng GD
& ĐT Như
Thanh
- Phòng
GD&ĐT Như
Thanh.
- Sở GD&ĐT
Thanh Hóa
Kết quả
đánh giá
xếp loại
(A, B,
hoặc C)
Năm học
đánh giá xếp
loại
C
2005-2006
A
2006-2007
C
2012-2013
- Phòng GD
& ĐT Như
Thanh
- Phòng GD
& ĐT Như
Thanh
- Phòng GD
& ĐT Như
Thanh
C
2014-2015
B
2015-2016
B
MỤC LỤC
Trang
1. MỞ ĐẦU………………………………...……………...….…………………1
1.1. LÝ DO CHON ĐỀ TÀI…………………………....………………………..1
1.2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU……………………………… .…………….2
1.3. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU…………...………………………………….2
1.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.......……………………………………...2
1.4.1. Phương pháp nghiên cứu xây dựng cơ sở lý thuyết:…..………………….2
1..4.2. Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu nhập thông tin:……………...2
1.4.3. Phương pháp thống kê, sử lý số liệu:…………………..…………………2
2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM………………………….…….3
2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN…………………………………………………………..3
2.2. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SKKN........…...3
2.2.1. Thực trạng……… ..…………..…………………………………………3
2.2.2. Kết quả của thực trạng trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm..............4
2.3. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ……...……5
2.3.1. Đổi mới phương pháp và ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động
làm quen chữ cái…………...…………………………………………………….5
2.3.2. Xây dựng môi trường giáo dục gắn với các chữ cái tiếng Việt..…........….9
2.3.3. Tổ chức các trò chơi câu đố giúp trẻ ôn luyện và làm quen chữ cái qua các
hoạt động trong ngày của bé. …………………………………………………..11
2.3.4. Kết hợp cùng gia đình trong việc ôn luyện và làm quen các chữ cái tiếng
Việt…..................................................................................................................14
2.4. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM…………………..…….16
3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ………….……………………………………...17
3.1. KẾT LUẬN………………………...……….……………………………..17
3.2. KIẾN NGHỊ………..………………………………..……………………..17
3.2.1. Đối với Trường mầm non…………………….……………...…………..17
3.2.2. Đối với giáo viên…..…...………………...……………………………...17
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA
PHÒNG GD&ĐT NHƯ THANH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
KINH NGHIỆM GIÚP TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI
KHU CHÍNH HỌC TỐT 29 CHỮ CÁI TIẾNG VIỆT Ở
TRƯỜNG MẦM NON THANH TÂN
Người thực hiện: Đặng Thị Nhung
Chức vụ: Giáo viên
Đơn vị công tác: Trường Mầm non Thanh Tân
SKKN thuộc lĩnh vực (Chuyên môn)
THANH HÓA NĂM 2017