Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

skkn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 18 24 tháng tuổi tại trường mầm non tân phúc huyện lang chánh, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.62 MB, 22 trang )

Phần 1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như chúng ta đã biết ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp giữa con người với
con người, là cầu nối giữa người dạy và người học. Ngơn ngữ nói, đọc, viết có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phát triển nhân cách của con người đặc biệt
là trẻ nhỏ. Lứa tuổi mầm non là thời kỳ phát triển ngôn ngữ tốt nhất. Là giai
đoạn có nhiều điều kiện thuận lợi cho sự lĩnh hội ngơn ngữ nói và các kỹ năng
nghe, hiểu, trả lời câu hỏi của trẻ. Phát triển ngôn ngữ và giao tiếp có ảnh hưởng
đến tất cả các lĩnh vực phát triển khác của trẻ. Vì vậy, ngơn ngữ có ý nghĩa quan
trọng đến việc phát triển tồn diện cho trẻ mầm non.
Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hoạt động vui chơi và nhận thức thế giới xung
quanh. Ngôn ngữ là cầu nối để trẻ trao đổi ý tưởng, giao lưu tình cảm trong quá trình
chơi. Giúp cho khả năng tư duy và trí tưởng tượng của trẻ được phát triển.
Ngơn ngữ phát triển tình cảm, đạo đức thẩm mĩ. Trong q trình giao tiếp,
người lớn ln hướng dẫn, uốn nắn hành vi của trẻ bằng lời nói, nét mặt, nụ
cười, khiến trẻ có thể nhận ra hành vi của mình đúng hay sai. Bằng con đường
đó, đứa trẻ dần được hình thành những thói quen tốt, đồng thời thông qua ngôn
ngữ trẻ nhận thức được cái hay, cái đẹp trong cuộc sống xung quanh. Những
bông hoa, những hàng cây, con đường, những cảnh đẹp của làng quê...Trẻ sẽ có
nhiều ấn tượng đẹp và có ý thức giữ gìn cái hay, cái đẹp.
Ngơn ngữ cịn giúp trẻ hịa nhập với cộng đồng và trở thành thành viên của
cộng đồng. Nhờ có những chỉ dẫn của người lớn, trẻ dần hiểu được những quy
định chung của cộng đồng, nhờ có ngơn ngữ trẻ dễ dàng tiếp cận những chuẩn
mực đạo đức của xã hội và hòa nhập xã hội tốt hơn. [1]
Phát triển ngôn ngữ sẽ giúp trẻ sớm tiếp thu những giá trị thẩm mĩ trong
thơ ca, truyện kể - những tác phẩm nghệ thuật là ngôn từ đầu tiên người lớn có
thể đem đến cho trẻ từ những ngày thơ ấu. Đó là sự tác động của lời nói nghệ
thuật như một phương tiện hữu hiệu giáo dục thẩm mĩ cho trẻ.[2]
Nhờ có ngơn ngữ mà trẻ nhận thức được cái hay, cái đẹp của thế giới xung
quanh. Thông qua ngôn ngữ văn học như thơ, truyện, đồng dao, ca dao, trẻ nhận


biết được cái đẹp trong cuộc sống, trong các tác phẩm văn học, các nhân vật
trong truyện, giúp trẻ thể hiện được tinh thần lạc quan, yêu cuộc sống, yêu con
người, cảm nhận được hết giá trị và tính thẩm mĩ của các tác phẩm văn học.
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ mầm non là một trong những nhiệm vụ quan
trọng nhất của giáo dục học mầm non. Hoạt động này không những nhằm giúp

1


trẻ hình thành và phát triển các ngơn ngữ như nghe, nói, tiền đọc và tiền
viết, mà cịn giúp trẻ phát triển khả năng tư duy, nhận thức, tình cảm... Đó là
chiếc cầu nối giúp trẻ bước vào thế giới lung linh, huyền ảo, rực rỡ sắc màu
của xã hội loài người.[3]
Đặc điểm trẻ em ở lứa tuổi mầm non nói chung, trẻ ở lứa tuổi 18 - 24 tháng
nói riêng đang tuổi học ăn học nói, ở độ tuổi này đa số trẻ biết nói, biết thể hiện
cảm xúc qua lời nói, thể hiện những yêu cầu mong muốn của bản thân, song vẫn
cịn một số trẻ chưa nói đủ câu, còn nhút nhát. Bởi vậy, dạy trẻ phát triển ngơn
ngữ theo hướng đúng đắn để góp phần quan trọng cho sự phát triển toàn diện
của trẻ. Trẻ phát triển tốt về ngơn ngữ sẽ tích cực tham gia hoạt động giao tiếp,
thích đọc thơ, đàm thoại nội dung câu chuyện cơ kể. Trẻ mạnh dạn địi hỏi
những nhu cầu phục vụ bản thân, hứng thú tham gia vào các hoạt động trị chơi,
vận động tập thể. Từ đó phát triển tốt về nhận thức, thể chất, về tình cảm thẩm
mỹ. Đặc biệt phát triển về ngơn ngữ nói.
Trên thực tế sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ 18 – 24 tháng tuổi ở các trường
mầm non trên địa bàn các huyện miền núi nói chung và huyện lang chánh nói
riêng, đặc biệt là trường mầm non tân phúc cịn gặp rất nhiều khó khăn vì trẻ
tồn là con em dân tộc thiểu số bị ảnh hưởng nhiều đến ngơn ngữ địa phương
nên khi trẻ đến trường. Vì vậy tôi đã quyết định lựa chọn và thực hiện đề
tài: “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 18 – 24 tháng tuổi tại
trường mầm non Tân phúc, huyện Lang Chánh”

2. Mục đích nghiên cứu
Đưa ra một số biện pháp giúp trẻ 18 – 24 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ rõ
ràng mạch lạc.
Giúp trẻ mạnh dạn tự tin trong học tập và giao tiếp với mọi người, bày tỏ
được nhu cầu của mình với người khác bằng ngôn ngữ.
3. Đối tượng nghiên cứu
Trẻ nhà trẻ từ 18 - 24 tháng tuổi khu Tân Thành, Trường Mầm non Tân Phúc
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 18 – 24
tháng tuổi qua các hoạt động chăm sóc giáo dục tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp tham khảo tài liệu
- Phương pháp khảo sát
- Phương pháp đàm thoại
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu
- Phương pháp trao đổi phụ huynh

2


Phần II
NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lý luận
Ngôn ngữ được coi là công cụ quan trọng giúp con người chiếm lĩnh và
chinh phục tri thức khoa học. Các kết quả nghiên cứa của nhiều nhà khoa học
nổi tiếng trên thế giới như Freud, Doman… đã chỉ ra ngơn ngữ là kết quả của
q trình nhận thức. Khi con người bắt đầu có nhận thức thì cũng là lúc con
người bắt đầu hình thành ngơn ngữ và nhờ có ngơn ngữ mà con người có thể
giao tiếp được với nhau, cũng như biểu đạt được tâm tư, tình cảm, cảm nhận,
quan điểm bên trong của mỗi con người.[4]
Ngôn ngữ là phương tiện hình thành và phát triển nhận thực của trẻ về thế

giới xung quanh. Ngôn ngữ giúp trẻ hiểu, khám phá về mọi vật, sự kiện diễn ra
xung quanh trẻ. Thông qua các từ ngữ và lời nói của người lớn giúp trẻ hiểu
được mọi thứ được rõ hơn. Nhờ có ngơn ngữ mà tư duy của trẻ được hình thành
và phát triển.
Ngơn ngữ là cơng cụ để trẻ học tập, vui chơi và thực hiện những hoạt động
ở trường mầm non. Phát triển ngôn ngữ cho trẻ khơng chỉ có mục đích tự thân.
Có ngơn ngữ, tư duy của trẻ mới được phát triển. Đây là hai mặt của một q
trình biện chứng có tác động qua lại ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhau: Ngơn ngữ
đóng vai trị quyết định sự phát triển tâm lí của trẻ em. Ngôn ngữ phát triển làm
cho tư duy phát triển và ngược lại, tư duy phát triển càng đẩy nhanh sự phát
triển của ngôn ngữ. [4]
Thông qua ngôn ngữ, trẻ cảm nhận được cái hay, cái đẹp trong tiếng mẹ đẻ,
những hành vi đẹp trong cuộc sống, trẻ biết được những gì nên làm và những gì
khơng nên làm, Qua đó rèn luyện những phẩm chất đạo đức tốt ở trẻ, dần dần
hình thành ở trẻ những khái niệm ban đầu về đạo đức.
Ngơn ngữ có vài trị rất lớn, là phương tiện quan trọng nhất để trẻ lĩnh hội
nền văn hóa dân tộc, để trẻ giao lưu với những người xung quanh, để tư duy, tiếp
thu khoa học và bồi bổ tâm hồn, hình thành phát triển nhân cách của trẻ. [1]
Điều này cho thấy, phát triển ngôn ngữ cho trẻ ngay từ khi mới hình thành
nhận thức là cơng việc hàng đầu của giáo dục gia đình, được giáo dục ngơn ngữ
từ sớm trẻ sẽ có nhiều cơ hội khám phá thế giới xung quanh và có nhiều tiềm
năng phát triển cao hơn với chính bản thân trẻ.
Phát triển ngôn ngữ là phát triển ở trẻ các kĩ năng nghe, nói. Đặc biệt ở
trường mầm non, đối với lứa tuổi nhà trẻ cần chú ý đến kĩ năng nghe và nói,
đồng thời cho trẻ làm quen với tranh ảnh...để phát triển ngôn ngữ trẻ phải được

3


nghe lời nói, được bắt chước lời nói, được chủ động nói. Các hoạt động phát

triển ngơn ngữ cho trẻ phải phù hợp với điều kiện tự nhiên, điều kiện văn hóa xã
hội của từng địa phương và phù hợp với thực trạng của nhà trường và lứa tuổi
nhà trẻ. Có như vậy, ngơn ngữ của trẻ mới được phát triển tốt nhất.
Sự phát triển ngơn ngữ có những đặc điểm khác nhau tùy thuộc vào từng
giai đoạn tuổi của trẻ. Giai đoạn từ 0 đến 3 tuổi là giai đoạn phát triển ngơn ngữ
đặc biệt. Giai đoạn này có những đặc điểm riêng biệt, không bao giờ lặp lại ở bất
kì một giai đoạn nào khác và cũng có ảnh hưởng rất lớn tới tồn bộ sự phát triển
ngơn ngữ lâu dài về sau.
Bản thân tôi là một giáo viên phụ trách nhóm trẻ 18 – 24 tháng tuổi, trên thực
tế trong nhóm cịn nhiều trẻ hạn chế về ngơn ngữ, trẻ dùng từ khơng chính xác,
nhiều trẻ phát âm chưa rõ, nói ngọng, nói khơng đủ câu, nói khơng trọn nghĩa,
ngun nhân một phần cũng do trẻ cịn nghèo nàn về vốn từ. Vì thế tơi đã cố gắng
tìm tịi, nghiên cứu và tìm ra một số biện pháp giúp trẻ phát triển ngôn ngữ.
2. Thực trạng
Trường mầm non Tân Phúc là một trường nằm trong vùng đặc biệt khó
khăn, tuy thiếu thốn về vật chất nhưng trong những năm qua nhà trường luôn đi
đầu trong các phong trào và đạt nhiều thành tích cao. Ngồi ra nhà trường còn
nhận được sự quan tâm chỉ đạo của các cấp Đảng ủy, chính quyền địa phương,
phịng giáo dục đào tạo và các ban ngành đoàn thể trong huyện.
Từ thực tế của nhà trường cùng với điều kiện của bản thân nên trong năm
học qua bản thân tôi đã mạnh dạn lựa chọn đề tài này để nghiên cứu đưa ra một
số biện pháp hữu hiệu nhất để giúp trẻ phát triển ngơn ngữ. Song trong q trình
nghiên cứu đề tài bản thân còn gặp một số thuận lợi và khó khăn như sau:
a) Thuận lợi:
Trẻ đến lớp chuyên cần tạo điều kiện để giáo viên phát triển ngôn ngữ cho trẻ
Bản thân tôi luôn nhận được sự giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, chị
em đồng nghiệp.
Lớp học được xây dựng khang trang sạch sẽ, đồ dùng, đồ chơi phục vụ dạy
và học tương đối đầy đủ đáp ứng được nhu cầu vui chơi và học tập của các cháu,
được đầu tư tương đối đầy đủ bàn ghế, tủ đồ chơi cho các hoạt động, một số đồ

dùng tranh ảnh cần thiết. Đặc biệt là sự quan tâm của các bậc phụ huynh cùng
giáo viên su tÇm tranh ảnh, những phế liệu để làm đồ dùng đồ
chơi t tạo phục vụ các hoạt động cho trẻ ở lớp.
b) Khó khăn:
Các cháu cịn nhỏ thời gian đầu đến lớp trẻ nhớ mẹ, nhớ gia đình nên trẻ cịn

4


khóc nhiều, ngơn ngữ của trẻ cịn hạn chế, một số trẻ chưa biết nói nên việc dạy
trẻ gặp rất nhiều khó khăn.
Đa số trẻ cịn nhút nhát, ngơn ngữ chưa phát triển, vốn từ chưa phong phú,
sự tiếp xúc với người lạ cịn hạn chế, các cháu cịn nói ngọng, chưa nói được câu
hồn chỉnh.
Mặt khác trẻ ở trường tôi phần đa là con em dân tộc thiểu số trong đó dân
tộc Thái chiếm tỷ lệ nhiều nhất, trẻ giao tiếp với nhau chủ yếu bằng tiếng địa
phương, điều kiện kinh tế cịn nhiều khó khăn nên. Khơng ít phụ huynh chưa
nhận thức được hết tầm quan trọng của việc phát triển ngơn ngữ cho trẻ, cịn
xem nhẹ việc học tập của con mình như: Thường cho con nghỉ học tùy tiện,
chưa chịu khó trị chuyện với trẻ và nghe trẻ nói khi ở nhà.
c) Khảo sát đầu năm
Từ những thuận lợi và khó khăn nêu trên. Bước vào đầu năm học tôi tiến
hành khảo sát chất lượng ngôn ngữ của trẻ lớp tôi và kết quả khảo sát như sau:
Bảng khảo sát ngôn ngữ của trẻ đầu năm học 2016 – 2017
Nội dung khảo sát
Khả năng nghe, hiểu
ngôn ngữ của trẻ
Vốn từ
Khả năng giao tiếp
Khả năng nói đúng

ngữ pháp
Khả năng phát âm

Số trẻ
khảo sát

Số trẻ
đạt

Tỉ lệ %

Số trẻ
chưa đạt

Tỉ lệ %

14

4

28

10

72

14
14

5

3

36
21

9
11

64
79

14

3

21

11

79

14

4

28

10

72


Nhìn vào bảng khảo sát cho thấy bình quân tỷ lệ trẻ chưa đạt của các tiêu
chí khảo sát còn khá cao chiếm: 72,8%.
3. Các biện pháp thực hiện
Từ những kết quả khảo sát trên. Trong năm học qua tôi đã suy nghĩ và đưa
ra một số biện pháp nhằm giúp trẻ 18 – 24 tháng tuổi phát triển ngôn ngữ đạt kết
quả tốt nhất.
Biện pháp 1. Trao đổi với phụ huynh thơng qua giờ đón, trả trẻ nhằm
mục đích nắm bắt được đặc điểm phát triển của trẻ
Đối với trẻ nhà trẻ 18 – 24 tháng tuổi thì việc phát triển ngơn ngữ cho trẻ
cịn gặp rất nhiều khó khăn, để đạt kết quả cao trong quá trình giáo dục phát
triển ngữ nói cho trẻ thì điều đầu tiên địi hỏi giáo viên phải tìm hiểu, nắm vững
đặc điểm của từng trẻ. Để làm được điều đó, điều đầu tiên tôi làm là trao đổi với
các bậc phụ huynh. Trong các giờ đón, trả trẻ, các buổi họp phụ huynh một mặt,

5


tôi luôn trao đổi với phụ huynh về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc giáo dục
phát triển lời nói cho trẻ ở độ tuổi và mong muốn phụ huynh cùng phối hợp với
cô giáo trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Tuyên truyền hàng ngày phụ
huynh phải dành nhiều thời gian để trị chuyện cùng trẻ, có thể đọc thơ, kể
chuyện cho trẻ nghe, tạo cơ hội cho trẻ tiếp xúc nhiều hơn với các sự vật, hiện
tượng xung quanh, lắng nghe và trả lời các câu hỏi của trẻ.
Với những cháu mới đi học vốn từ của trẻ cịn hạn hẹp, hơn nữa trẻ rất hay nói
ngọng, nói lắp thì vai trị của phụ huynh rất quan trọng trong việc phối kết hợp với cô
giáo là rất cần thiết bởi nó giúp trẻ vận dụng những kiến thức đã học vào cuộc sống
của trẻ để trẻ được giao tiếp, được thể hiện mình thơng qua ngơn ngữ nói.
Mặt khác thơng qua phụ huynh tơi có thể nắm được đặc điểm phát triển của
trẻ, trẻ ở nhà đã nói được nhiều chưa, đã biết gọi bà, bố, mẹ, hay đã biết hát, đọc

thơ... chưa, có như vậy tơi mới có thể đưa ra biện phát giáo dục phát triển ngơn
ngữ cho trẻ đạt kết quả tốt nhất.

Hình ảnh: Giáo viên trao đổi với phụ huynh
Biện pháp 2: Trang trí, bổ sung đồ dùng, đồ chơi đẹp, hấp dẫn nhằm
thu hút trẻ vào hoạt động.
Việc trang trí và bổ sung đồ dùng đồ chơi tôi thấy đây là hai yếu tố rất cần
thiết để tạo nên môi trường phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách hữu hiệu nhất.
Trẻ ở lứa tuổi này tuy duy của trẻ là tư duy trực quan hành động, trẻ tri giác về

6


các sự vật hiện tượng thông qua đồ dùng đồ chơi, vật thật, tranh ảnh…Cho nên
tơi trang trí lớp, trang trí các góc bằng các hình ảnh đẹp mắt, đồ chơi ngộ nghĩnh
mới lạ, nhiều màu sắc phù hợp với từng chủ đề để lôi cuốn hấp dẫn trẻ, đồ chơi
tôi bày ở các giá sao cho trẻ dễ lấy và dễ cất. Mà đồ dùng, đồ chơi luôn là thứ
không thể thiếu được trong tất cả các hoạt động của trẻ mầm non. Nó giúp trẻ
được trải nghiệm, thực hành và khám phá, giúp thu hút trẻ vào các hoạt động
làm cho trẻ hoạt động tích cực hơn, nhờ đó mà ngơn ngữ nói và vốn từ của trẻ
cũng được nâng lên.
Tôi tận dụng tất cả những nguyên liệu có thể sử dụng làm đồ dùng đồ chơi
như tờ lịch, lon nước ngọt, chai lọ nhựa, chai nhựa ..để tạo ra những đồ dùng, đồ
chơi đẹp mắt, đảm bảo an toàn hiệu quả phù hợp với chủ đề đang học.
Ví dụ: Chủ đề ”Giao thơng” tơi làm đồ dùng các phương tiện giao thông
như: ô tô, tàu hỏa, máy bay, thuyền buồm...bày trên giá góc và cho trẻ xem
những đồ chơi mới trong lớp và trò chuyện với trẻ về những đồ chơi đó.

Hình ảnh: Cơ trị chuyện với trẻ về các phương tiện giao thông
Như vậy qua việc trang trí lớp học, làm đồ dùng, đồ chơi theo chủ đề sẽ tạo

hứng thú cho trẻ đến trường, đến lớp khơng bị nhàm chán phát huy được tính
tích cực của trẻ đặc biệt là ngôn ngữ của trẻ ngày càng phát triển tốt hơn.

7


Biện Pháp 3: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động chơi tập
có chủ định:
Phát triển ngơn ngữ cho trẻ ở trường mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ 18 –
24 tháng tuổi nói riêng đặc biệt là cơng tác giáo dục có kế hoạch, có mục đích,
có tổ chức và phải mang tính hệ thống nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ như
một phương tiện giao tiếp quan trọng vì thế chúng ta phải dạy cho trẻ ở mọi lúc
mọi nơi, trên những tiết học cụ thể, trong đó phát triển ngơn ngữ, vốn từ phải
được đặt lên vị trí hàng đầu. Vì vậy tơi đã giúp trẻ phát triển ngôn ngữ thông qua
một số hoạt động chơi – tập có chủ định như sau:
* Hoạt động nhận biết:
Đây là một trong những hoạt động quan trọng nhất và có ảnh hưởng trực
tiếp đối với sự phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trẻ lứa tuổi 18- 24 tháng tuổi đang
bắt đầu học nói, bộ máy phát âm chưa hồn chỉnh, vì vậy trẻ thường nói một từ,
nói ngọng, nói lắp. Vì vậy khi lựa chọn nội dung của hoạt động tôi đặt các câu
hỏi phù hợp với khả năng phát triển nhận thức, ngôn ngữ của trẻ để trẻ có thể dễ
dàng nắm được kiến thức của bài học và ngơn ngữ nói của trẻ cũng rõ ràng mạch
lạc hơn.
Ví dụ : Cho trẻ nhận biết quả chuối, quả xồi
Chủ đề: Cây và những bơng hoa đẹp
Hoạt động nhận biết "Quả chuối, quả xoài"
Đối tượng: 18 - 24 tháng tuổi
Thời gian: 10 – 12 phút
I. Mục đích – Yêu cầu:
1. Kiến thức:

- Trẻ nhận biết và gọi đúng tên quả chuối, quả xoài.
- Trẻ nhận biết được một số đặc điểm rõ nét của quả chuối, quả xồi.
2. Kỹ năng:
- Phát triển ngơn ngữ mạch lạc cho trẻ.
- Rèn kĩ năng phát âm chính xác ở trẻ.
- Rèn luyện ở trẻ khả năng quan sát và ghi nhớ có chủ định.
3. Thái độ:
- Trẻ hứng thú tham gia các hoạt động.
- Giáo dục trẻ thích ăn các loại quả. Biết rửa tay trước khi ăn.
II. Chuẩn bị:
- Quả chuối, quả xoài bằng vật thật và bằng đồ chơi.
III. Tiến hành:

8


Hoạt động của cô
1. Ổn định lớp, gây hứng thú:
Chào mừng các bé đã đến với hội thi “Tài năng
nhí”
Đến với hội thi hơm nay có 2 đội chơi: Đội lá
xanh và đội quả chín
Chương trình của chúng ta ngày hơm nay sẽ gồm
có 3 phần thi: Phần 1: Ai thông minh hơn
Phần 2: Bé cùng khám phá
Phần 3: Bé cùng thi tài
Và bây giờ cô mời 2 đội chơi sẽ bước vào phần
đầu tiên của chương trình với tên gọi: Ai thông
minh hơn.
Ở phần thi này cả 2 đội sẽ cùng lắng nghe cô đọc

câu đố, đội nào giải được câu đố sẽ được tặng 1
món quà nhé
Khép na khép nép
Đứng nép bờ mương
Qủa chật đầy buồng
Xếp chồng hai lượt
(Quả chuối)
- Cơ vừa đọc câu đố về quả gì?
- Các con đã được ăn quả chuối chưa?
Để biết được quả chuối thế nào, cô và các bé sẽ
cùng bước vào phần thứ 2 của chương trình với
tên gọi: Bé cùng khám phá nhé
2. Nội dung bài mới: Nhận biết quả chuối, quả
xồi
* Cho trẻ nhận biết quả chuối:
- Cơ cho trẻ quan sát quả chuối và hỏi trẻ:
+ Đây là quả gì?
- Cơ cho cả lớp phát âm từ: Quả chuối
- Mời tổ, cá nhân phát âm
+ Quả chuối chín có vỏ màu gì?
+ Vỏ chuối như thế nào?
+ Các con đã được ăn quả chuối chưa?

Hoạt động của trẻ
- Trẻ lắng nghe.

- Trẻ lắng nghe.

- Trẻ lắng nghe.


- Trẻ trả lời.
- Trẻ trả lời.
- Trẻ thực hiện

- Trẻ trả lời
- Cả lớp phát âm
- Tổ, cá nhân phát âm
- Trẻ trả lời.
- Trẻ trả lời.
- Trẻ trả lời.

9


+ Ăn chuối có vị gì?
- Cơ khái qt: Đây là quả chuối chín, vỏ nhẵn, có
màu vàng, bên trong ruột có màu trắng, quả chuối
có dạng hình dài và cong, khi ăn có vị ngọt thơm,
ăn chuối cung cấp vitamin rất tốt cho sức khỏe.
Khi ăn chúng mình nhớ phải bóc vỏ rồi mới ăn và
bỏ vỏ vào thùng rác nhé.
- Cho trẻ phát âm lại “quả chuối”
* Cho trẻ nhận biết quả xồi:
- Cơ cho trẻ quan sát quả xồi và hỏi trẻ:
+ Cơ lại có quả gì đây?
- Cô cho cả lớp, tổ, cá nhân phát âm từ: Quả xồi
+ Quả xồi có vỏ màu gì?
+ Vỏ quả xoài thế nào?
+ Các con đã được ăn xoài chưa?
+ Ăn xồi có vị gì?

- Cơ khái qt: Đây là xồi, quả xồi này đã chín
nên có vỏ màu vàng, vỏ nhẵn, có vị ngọt, bên
trong có một hạt to, quả xồi có dạng hình bầu
dục, ăn xồi cũng rất tốt cho sức khỏe, khi ăn các
con nhớ phải gọt vỏ, ăn xong nhớ bỏ vỏ và hạt vào
thùng rác nhé..
- Cho trẻ phát âm lại từ “quả xoài”
* Cho trẻ so sánh quả chuối và quả xoài:
- Giống nhau: Đều là trái cây ăn được, khi chín vỏ
có màu vàng, ăn có vị ngọt thơm, giàu vitamin.
- Khác nhau: Qủa chuối có hình dạng dài và cong
cịn quả xồi có dạng hình bầu dục, Qủa xồi bên
trong có 1 hạt to.
* Mở rộng: Ngoài quả chuối và quả xồi ra cịn có
rất nhiều loại quả khác như quả dưa hấu, quả na,
quả đu đủ.... quả nào cũng rất tốt cho sức khỏe
đấy, nhưng các con nhớ khi ăn phải rửa sạch, gọt
vỏ và bỏ vỏ vào thùng rác nhé.
Vừa rồi cô và các con nhận biết quả chuối, quả
xoài đây là những loại quả chúng ta ăn được, khi

- Cả lắng nghe

- Trẻ quan sát
- Trẻ trả lời
- Cả lớp, tổ, cá nhân
- Trẻ trả lời.
- Trẻ trả lời.
- Trẻ trả lời.
- Trẻ lắng nghe


- Trẻ quan sát và so sánh

- Trẻ lắng nghe

10


các con ăn quả sẽ cung cấp các chất dinh dưỡng và
Vitamin cho cơ thể các con khoẻ mạnh.
Phần 3: Bé cùng thi tài:
* Trò chơi 1: Nhanh mắt nhanh tay
- Cách chơi: Cô phát rổ lô tô cho trẻ, khi cơ nói tên
quả nào thì trẻ chọn quả đó giơ lên và đọc tên loại
quả đó.
- Cơ cho trẻ chơi 3 – 4 lần. Sau mỗi lần chơi cho
trẻ phát âm tên quả.
* Trị chơi 2: Tìm quả cho cây
- Cách chơi: Cô phát cho mỗi trẻ một loại quả và cho
trẻ nghe nhạc và hát bài “quả” Khi có hiệu lệnh tìm
cây, trẻ nào cầm quả gì sẽ về cây có quả đó.
- Cơ cho trẻ chơi 2 – 3 lần.
3. Kết thúc:
Cô nhận xét giờ học, khen trẻ và cùng trẻ thu dọn
đồ dùng cất đúng nơi quy định .

- Trẻ lắng nghe

- Trẻ chơi trò chơi


- Trẻ lắng nghe

- Trẻ chơi trị chơi
- Trẻ thực hiện

Hình ảnh: Cơ cho trẻ nhận biết quả xồi, quả cam
Trong hoạt động nhận biết sự giao tiếp của cô và trẻ đã giúp trẻ phát huy
được tính tích cực, chủ động, linh hoạt, một mặt kích thích lịng ham hiểu biết
tìm kiếm khám phá về những điều bí mật xung quanh trẻ. Qua đó cũng cố, mở
rộng vốn hiểu biết làm giàu vốn từ, ngôn ngữ của trẻ phát triển.

11


* Hoạt động làm quen với văn học (đọc thơ, kể chuyện)
Ở lứa tuổi này trẻ rất thích nghe cơ đọc thơ, kể chuyện, khi nghe cô đọc thơ
hay kể chuyện trẻ thường chú ý lắng nghe cô đọc và đọc theo cơ. Vì vậy khi đọc
thơ cho trẻ nghe, cô đọc diễn cảm rõ ràng, mạch lạc từng câu thơ, kết hợp với
động tác minh hoạ, cô đọc vừa phải đủ để cả lớp nghe, cô phát âm chuẩn tránh
nói ngọng, nói tiếng địa phương, khi cơ đọc phải ngắt nghỉ đúng chỗ thể hiện
được nhịp điệu của bài thơ, tạo cho trẻ hứng thú và nghe rõ các câu từ của bài
thơ để trẻ có thể đọc bài thơ rõ ràng, mạch lạc.
Ví dụ 1: Khi cho trẻ làm quen với bài thơ “Chim sâu” ở chủ đề những con
vật đáng yêu. Phần cô đọc thơ cho trẻ nghe cô đọc diễn cảm và đọc nhấn mạnh
vào các từ “nho nhỏ, xinh xinh”... Cô kết hợp cho trẻ đọc bài thơ cùng cơ nhiều
lần, trong q trình trẻ đọc cô chú ý câu từ cho trẻ để sửa sai đặc biệt chú ý
những từ khó và những trẻ cịn đọc chưa rõ lời.
Trong q trình đàm thoại, cơ đặt những câu hỏi ngắn gọ, dễ hiểu, có tính
gợi mở, kết hợp với cử chỉ điệu bộ nhằm khuyến khích trẻ nói, trẻ trả lời...
+ Các con vừa đọc bài thơ gì? (Bài thơ chim sâu)

+ Bài thơ nói về con gì? (Con chim)
+ Con chim sống ở đâu? (Sống ở trong rừng)
+ Chim sâu biết làm gì? (Bắt sâu cho lá)
Với hệ thống câu hỏi này tơi có thể giúp cho trẻ phát triển ngơn ngữ một
cách tích cực.

Hình ảnh: Giờ học bài thơ: Chim sâu

12


Ví dụ 2: Trong giờ kể chuyện “Quả trứng” Cơ cung cấp cho trẻ những từ
như: Con gà, con lợn, con vịt.... Cho trẻ nói theo cơ tên các con vật. Ngồi ra cơ có
thể cung cấp thêm các từ mới trong câu chuyện như từ: ị ó o, ụt à ụt ịt, Vít vít.. Và
đặt những câu hỏi đàm thoại ngắn gọn, dễ hiểu để trẻ có thể trả lời cô.
+ Cô vừa kể cho các con nghe câu chuyện gì? (Câu chuyện quả trứng).
+ Quả trứng nở ra con gì? (Vịt con).
+ Vịt con ló đầu ra kêu như thế nào? (Vít vít)

Hình ảnh giờ học câu chuyện: Quả trứng
Qua mỗi câu trả lời của trẻ cô chú ý quan sát những trẻ nào nói chưa rõ,
chưa đúng từ để cơ cho trẻ nói lại từ đó theo cơ một cách chính xác.
Như vậy qua bài thơ, câu chuyện ngồi những từ ngữ trẻ đã biết tơi cịn
cung cấp thêm vốn từ mới cho trẻ để ngôn ngữ của trẻ thêm phong phú.
Biện Pháp 4: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi
* Thông qua hoạt động dạo chơi ngoài trời
Hoạt động ngoài trời là thời điểm tạo tâm thế cho trẻ thoải mái nhất, vui vẻ
và thích thú nhất, tạo cơ hội cho trẻ được tiếp xúc với thiên nhiên, cảnh vật và
thế giới xung quanh. Qua mỗi hoạt động dạo chơi, trẻ được trải nghiệm, được tự
mình khám phá, tự trẻ nói những gì trẻ biết. Nhờ đó ngơn ngữ của trẻ cũng được

phát triển.

13


Ví dụ: Chủ đề “Cây và những bơng hoa đẹp”. Cô cho trẻ ra sân quan sát
vườn hoa trong sân trường. Cô đặt câu hỏi đàm thoại để giúp trẻ hiểu về một số
loại hoa, nhờ đó trẻ được nói, được trả lời, điều đó giúp cho ngơn ngữ của trẻ
được phát triển.
+ Đây là hoa gì?
+ Bơng hoa có màu gì?
+ Bơng hoa có đẹp khơng?

Hình ảnh: Cơ và trẻ đang quan sát vườn hoa
Tương tự với các chủ đề khác tơi tổ chức cho trẻ hoạt động ngồi trời với
nhiều hình thức và nội dung chơi khác nhau để thu hút trẻ tích cực hứng thú
tham gia vào hoạt động từ đó tơi có cơ hội để giúp trẻ phát triển ngôn ngữ ở mọi
lúc mọi nơi.
* Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt theo ý thích:
Hoạt động theo ý thích là một trong những hoạt động thu hút trẻ nhiều nhất,
tạo cho trẻ tâm thế thoải mái nhất. Trẻ được học mà chơi, chơi mà học. Một
trong những công việc của người giáo viên dạy trẻ nhà trẻ phải ln ln làm
một việc gì đó cùng với trẻ, chơi cùng trẻ. Trong quá trình chơi, trẻ được đóng
các vai chơi khác nhau, được giao tiếp, được thể hiện suy nghĩ của mình. Nhờ
vậy mà ngơn ngữ nói của trẻ được phát triển.

14


Ví dụ: Ở góc phân vai, trẻ được đóng các vai chơi, được thể hiện vai chơi

và được trò chuyện với bạn chơi. Cơ có thể đến chơi và trị chuyện cùng trẻ
+ Bác nấu gì cho búp bê ăn? (Nấu cháo!)
+ Bác cho búp bê ăn chưa? (Rồi ạ!)
+ Bác cầm thìa tay nào? (Tay phải)
+ Cho búp bê ăn xong phải làm gì? (Lau miệng, uống nước)
- Ở góc hoạt động với đồ vật thuộc chủ đề phương tiện giao thông. Cô cho
trẻ chơi xếp ô tô, tàu hỏa, trong q trình trẻ chơi cơ đến góc chơi và trị chuyện
với trẻ.
+ Con đang xếp gì? (Ơ tơ)
+ Con xếp ơ tơ màu gì? (Xanh, đỏ, vàng....)
+ Con xếp ơ tơ bằng những hình gì? (Hình vng, hình chữ nhật....)
Qua giờ chơi tôi không những dạy trẻ phát triển ngơn ngữ mà cịn dạy trẻ
nghe, hiểu giao tiếp cùng nhau và chia sẻ những tình cảm yêu thương, gắn bó
của các bạn bè trong lớp.

Hình ảnh: Trẻ đang chơi hoạt động theo ý thích
Qua q trình chơi khơng chỉ giúp nhận thức của trẻ được nâng lên mà còn
giúp cho vốn từ của trẻ được phát triển một cách phong phú.
Biện Pháp 5: Phát triển ngôn ngữ cho trẻ thơng qua các trị chơi.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ nhà trẻ nói riêng, ngơn ngữ được
phát triển ở mọi lúc, mọi nơi và thông qua tất cả các hoạt động của trẻ. Trò chơi

15


cũng là một hoạt động thu hút trẻ nhiều nhất, thơng qua trị chơi, trẻ thể hiện
được niềm vui, tự khẳng định mình và thể hiện được tính năng động vốn có của
lứa tuổi. Đối với trẻ mầm non, chơi là học và học qua chơi, nếu không chơi trẻ
sẽ khơng thể phát triển được.
Trị chơi khơng chỉ giúp trẻ lớn lên, học tập và khám phá, mà trò chơi cịn

gợi cho trẻ trí tị mị, xây dựng niềm tin và sự tự tin cho trẻ, trẻ được thực hành
ngôn ngữ, qua vui chơi với trẻ ở nhóm, trẻ mở rộng những kĩ năng về ngôn ngữ,
trẻ hoạt bát, năng động, nói năng lưu lốt hơn và đương nhiên ngơn ngữ của trẻ
được phát triển tốt hơn.
Ví dụ: Trong trị chơi học tập: Con rùa, trẻ vừa chơi, vừa đọc bài thơ con rùa:
Rì rà rì rà
Đội nhà đi chơi
Tối lặn mặt trời
Úp nhà nằm ngủ
Qua trị chơi này, khơng chỉ giúp trẻ có thêm hiểu biết về con rùa và đọc
thuộc bài thơ mà cịn giúp ngơn ngữa của trẻ phát triển mạch lạc, rõ ràng, trẻ nói
đủ câu, đủ từ, nhờ đó mà ngơn ngữ của trẻ được phát triển tích cực nhất.

Hình ảnh: Trẻ đang chơi trị chơi “Con rùa”
Ví dụ: Trị chơi dân gian: Kéo cưa lừa xẻ. Khi chơi trị chơi này, trẻ
khơngchỉ được thư giãn về tinh thần, phát triển tốt về vận động mà ngôn ngữ của
trẻ cũng được phát triển tốt nhất.

16


Hình ảnh: Trẻ đang chơi trị chơi “Kéo cưa lừa xẻ”
Ví dụ: Trị chơi: "Bé đi siêu thị"
Tơi chuẩn bị một số đồ vật, giỏ xách, giấy màu. Tôi xếp các đồ vật có sẵn
thành các dãy song song trong phịng. Tơi cho bé một chiếc giỏ xách làm giỏ
mua hàng, cắt những miếng giấy màu và viết số lên cho bé làm tiền mua sắm.
Sau đó để bé xách giỏ hàng qua các dãy hàng tôi đã xếp và chọn mua những
món hàng tùy thích bỏ vào giỏ, mang ra cửa phịng cho cơ giáo tính tiền. Sau khi
tính tiền thì cho hàng vào túi để bé mang đi hệt như đi siêu thị.
Khi cùng bé chơi trò này, tơi có thể kích thích khả năng ngơn ngữ của

trẻ bằng cách đặt cho trẻ một số câu hỏi như "Con muốn mua gì?", "Con có bao
nhiêu tiền?", "Con mua cái này để làm gì?",… để khuyến khích trẻ tập nói nhiều
hơn. Tơi cũng có thể cho trẻ chơi cùng các bạn khác trong nhóm để trẻ mạnh
dạn, cởi mở và tự tin với bạn bè hơn.
Trong quá trình chơi trẻ được thực hiện nhiều lần, nhiều hành động
khác nhau, như vậy trẻ cần phải sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp, để tìm tịi,
khám phá cách chơi, luật chơi. Thông qua hoạt động chơi trẻ được rèn luyện
phát âm, trẻ mạnh dạn hơn, trẻ sử dụng ngôn ngữ mạch lạc hơn và vốn từ
của trẻ cũng được tăng lên. Đây là hình thức cho trẻ trải nghiệm những gì
mình có sẵn và học tập ở cơ và các bạn, trẻ cảm thấy thoải mái và tự tin hơn.
Vậy nên khi tổ chức cho trẻ chơi tôi tổ chức một cách linh hoạt, lựa chọn nội

17


dung chơi phù hợp đề tài và tôi thấy rằng trị chơi thực sự có hiệu quả trong
việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
4. Hiệu quả:
Sau khi áp dụng "Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 18- 24
tháng tuổi" trẻ trong nhóm tơi phụ trách đã có những chuyển biến rõ rệt, đa số
các cháu nói năng mạch lạc, rõ ràng. Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong khi giao
tiếp, khả năng nghe, hiểu ngôn ngữ của trẻ được nâng cao. Vốn từ của trẻ đã
phong phú hơn không những chỉ tăng về số lượng mà cả về chất lượng
Trong năm học vừa qua tôi đã thu được một số kết quả khả quan, cụ thể
như sau:
Bảng khảo sát cuối năm học 2016 – 2017

Nội dung khảo sát

Số trẻ

khảo sát

Số trẻ
đạt

Tỉ lệ %

Số trẻ
chưa đạt

Tỉ lệ %

Khả năng nghe, hiểu
ngôn ngữ của trẻ
Vốn từ

14

11

79

3

21

14

12


86

2

14

Khả năng giao tiếp

14

12

86

2

14

Khả năng nói đúng
ngữ pháp
Khả năng phát âm

14

10

71

4


29

14

12

86

2

14

Qua bảng trên cho thấy bình quân tỷ lệ trẻ chưa đạt của các tiêu chí khảo
sát chỉ cịn: 18,6% giảm 54,2% so với đầu năm.
Phần III
KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Ở lứa tuổi nhà trẻ nhu cầu về phát triển ngôn ngữ thông qua các hoạt động
giáo dục mang một ý nghĩa đặc biệt nó có tác động mạnh mẽ về nhiều mặt đối
với cuộc sống của trẻ về ngơn ngữ, về tình cảm, về suy nghĩ, tưởng tượng, về
cách sống đẹp. Vì vậy phát triển ngôn ngữ cho trẻ 18-24 tháng tuổi là một việc
làm rất cần thiết và cấp bách không chỉ với giáo viên mầm non đang trực tiếp
giảng dạy mà là trách nhiệm của gia đình, cộng đồng và tồn xã hội. Mỗi chúng
ta hãy góp phần nhỏ bé của mình cho giáo dục nói chung và cho giáo dục Mầm
non nói riêng.
Từ những biện pháp trên tơi đã vận dụng để dạy trẻ phát triển ngôn ngữ, kết
quả trẻ hứng thú học làm tăng thêm vốn từ đúng đắn, rõ ràng, mạch lạc cho trẻ

18



và trẻ lớp tơi đa số đã nói được câu nhiều từ có nghĩa, có chủ ngữ, vị ngữ.
Bản thân tôi luôn suy nghĩ và mong muốn tất cả mọi người đều quan tâm
giáo dục trẻ em phát triển vốn từ đúng đắn, rõ ràng, mạch lạc và mỗi một người
lớn là một tấm gương sáng về lời nói ở mọi lúc, mọi nơi cho trẻ em noi theo. Để
sau này trẻ em lớn lên biết sử dụng vốn từ đúng với câu ngữ pháp Tiếng việt đạt
kết quả cao nhất.
Trong quá trình nghiên cứu thực hiện các biện pháp nâng cao chất lượng
giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ 18 – 24 tháng tuổi. Bản thân tôi rút
ra một số kinh nghiệm sau đây:
- Giáo viên cần nắm rõ tình hình đặc điểm của trẻ, nhất là về khả năng nói
của trẻ để đưa ra biện pháp phù hợp.
- Tạo điều kiện để trẻ được phát triển lời nói ở mọi lúc, mọi nơi.
- Trao đổi kết hợp với phụ huynh để đưa ra nhiều biện pháp giáo dục trẻ
phát triển lời nói đạt kết quả tốt nhất.
- Thường xuyên học hỏi chị em đồng nghiệp để tích lũy thêm kinh nghiệm
cho bản thân
- Tích cực học các lớp chuyên đề, họp chuyên môn để không ngừng nâng
cao nhận thức của bản thân, để có kiến thức vững chắc về chun mơn chăm sóc
giáo dục trẻ theo hình thức giáo dục mầm non mới ngày càng phát triển tốt hơn.
2. Kiến nghị.
Đối với các bậc phụ huynh cần quan tâm hơn nữa đến con em mình, nhất
là vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ, tạo điều kiện để trẻ được nói và điều quan
trọng hơn là phải giao tiếp với trẻ bằng tiếng việt, tránh giao tiếp với trẻ bằng
tiếng mẹ đẻ.
Đối với các đồng chí, đồng nghiệp tạo điều kiện về thời gian để tôi thực
hiện và mở rộng sáng kiến được tốt hơn.
Đối với nhà trường: Tạo điều kiện cho nhiều giáo viên được học hỏi các
trường bạn, dạy các tiết thực hành nhiều hơn cho đối tượng cháu nhà trẻ về lĩnh
vực phát triển ngôn ngữ để giáo viên học hỏi lẫn nhau

Đối với phịng giáo dục: Bản thân ln mong muốn các cấp lãnh đạo cần
quan tâm hơn nữa đến công tác giáo dục trẻ ở địa phương, đặc biệt là trẻ vùng
dân tộc khó khăn, đầu tư thêm cơ sở vật chất trang thiết bị dạy học, tài liệu
nghiên cứu và tạo điều kiện để giáo viên được tham gia các lớp chuyên đề nhằm
mục đích nâng cao chất lượng chuyên môn.
Trên đây là đề tài sáng kiến kinh nghiệm của bản thân tơi với sự hiểu biết
cịn hạn chế tôi mạnh dạn đưa ra “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ

19


18-24 tháng tuổi tại trường mầm non Tân Phúc”. Trong quá trình thực hiện đề
tài bên cạnh những kết quả đạt được khơng tránh khỏi những sai sót, rất mong
được sự góp ý của Ban giám hiệu và các đồng chí, đồng nghiệp để tơi thực hiện
đề tài được tốt hơn.
XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Lang Chánh, ngày 20 tháng 4 năm 2017
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, không sao chép nội dung của
người khác.
Người viết sáng kiến

Lê Thị Trường

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Các hoạt động phát triển ngôn ngữ của trẻ mầm non. Trang 9, 10, 11
Nhóm tác giả: Bùi Kim Tuyến; Nguyễn Thị Cẩm Bích; Lưu Thị Lan; Vũ Thị
Hồng Tâm; Đặng Thu Quỳnh
NXB Giáo dục Việt Nam. In và nộp lưu chiểu tháng 8/2011
[2] Giáo trình tâm lí học mầm non. Trang 21, 22
Tác giả: Đặng Hồng Thái. NXB Đại học sư phạm.
[3] Mô đun MN 3: Đặc điểm phát triển ngôn ngữ, những mục tiêu và kêt
quả mong đợi ở trẻ mầm non về ngôn ngữ. Trang 100
Tác giả: Nguyễn Thị Minh Thảo
[4] Phương pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ (Phần II)
NXB Đại học Huế.

21



×