Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

skkn một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 36 tháng thông qua hđ kể chuyện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.96 MB, 20 trang )

Mục lục
TT

Nội dung

Trang

Mục lục
1

Phần mở đầu

1

1.1

Lý do chọn đề tài

2

1.2

Mục đích nghiên cứu

3

1.3

Đối tượng nghiên cứu

3



1.4

Phương pháp nghiên cứu

4

2

Phần nội dung

4

2.1

Cơ sở lý luận

4

2.2

Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến

*

Thuận lợi

3

*


Khó khăn

3

*

Kết quả khảo sát

4

2.3

Các biện pháp tổ chức thực hiện

5

2.4

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

15

3

Phần kết luận - kiến nghị

16

3.1


Kết luận

16

3.2

Kiến nghị

16

1


1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lý do chọn đề tài.
“ Non sông việt Nam có được trở nên vẻ vang hay không, Dân tộc
Việt nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm
châu hay không chính là nhờ phần lớn ở công lao học tập của các cháu”.
Câu nói của Hồ Chủ Tịch đã đi vào lòng người tạo ra động lực to lớn
cho hàng triệu người dạy và người học, đó chính là lễ và văn mà chúng ta
phải truyền lại cho lớp kế cận, cho nối tiếp những thế hệ mầm non –
những chủ nhân tương lai của đất nước, buộc chúng ta phải đạt được các
mục tiêu và có quyết tâm cao để thực hiện được tất cả các kế hoạch đề ra.
Ưu thế mà ta có được hiện nay là thế hệ trẻ khoẻ mạnh có sự đồng nhất cả
về năng lực và trí tuệ, có tiềm năng sáng tạo, vì thế ta phải tin vào thế hệ
trẻ tương lại sẽ đứng vững trên nền truyền thống lịch sử vẻ vang đó. Đảng
và nhà nước ta đánh giá rất cao về vai trò của giáo dục, đầu tư vào giáo
dục là đầu tư đúng hướng và được coi là quốc sách hàng đầu. Mục tiêu
của công tác chăm sóc giáo dục mầm non là phát triển và hình thành nhân

cách tốt cho trẻ, việc phát triển ngôn ngữ tốt cho trẻ trong giao tiếp sẽ giúp
cho trẻ dễ dàng tiếp cận với các môn học khác như : Môn toán, môn tạo
hình, chữ cái, môn âm nhạc ...đặc biệt cho trẻ làm quen với văn học thông
qua hoạt động kể chuyện ở lứa tuổi nhà trẻ, là tạo môi trường để trẻ tham
gia nhiều hoạt động phong phú để trẻ mạnh dạn tự tin hơn, từ đó, phát
triển vốn từ luyện phát âm và là tiền đề dạy trẻ nói đúng ngữ pháp,nói
mạch lạc khi sang tuổi mẫu giáo. Ngôn ngữ của trẻ phát triển tốt sẽ giúp
cho trẻ nhận thức và giao tiếp tốt góp phần quan trọng vào việc hình thành
và phát triển nhân cách cho trẻ sau này.
Trong quá trình phát triển toàn diện nhân cách, ngôn ngữ có vai trò đăc
biệt là một phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế giới
xung quanh. Ngôn ngữ giúp trẻ tìm hiểu, khám phá và nhận thức về môi
trường xung quanh, thông qua cử chỉ và lời nói của người lớn, trẻ làm
quen với các sự vật, hiện tượng có trong môi trường xung quanh, trẻ hiểu
những đặc điểm, tính chất, công dụng của các sự vật cùng với từ tương
ứng với nó. Nhờ có ngôn ngữ trẻ nhận biết ngày càng nhiều các sự vật,
hiện tượng mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày.
Ngoài ra, ngôn ngữ còn là phương tiện phát triển tình cảm, đạo đức,
thẩm mĩ. Ngôn ngữ là phương tiện để giao tiếp quan trọng nhất đặc biệt là
đối với trẻ nhỏ, đó là phương tiện giúp trẻ giao lưu cảm xúc với những
người xung quanh hình thành những cảm xúc tích cực. Ngôn ngữ là công
cụ giúp trẻ hoà nhập với cộng đồng và trở thành một thành viên của cộng
đồng. Nhờ có những lời chỉ dẫn của người lớn mà trẻ dần dần hiểu được
những quy định chung của cộng đồng mà mọi thành viên trong cộng đồng
phải thực hiện, mặt khác trẻ cũng có thể dùng ngôn ngữ để bày tỏ những
nhu cầu mong muốn của mình với các thành viên trong cộng đồng, điều
đó giúp trẻ hoà nhập với mọi người.
2



Đặc biệt nhờ có ngôn ngữ, thông qua các câu chuyện, trẻ dễ dàng tiếp
nhận những chuẩn mực đạo đức của xã hội và hoà nhập vào xã hội tốt
hơn. Trẻ từ 2 đến 3 tuổi có số lượng từ tăng nhanh, đặc biệt là ở trẻ từ 22
tháng tuổi và 30 tháng tuổi vốn từ của trẻ phần lớn là những danh từ và
động từ, các loại khác như tính từ, đại từ, trạng từ xuất hiện rất ít và được
tăng dần theo độ tuổi của trẻ. Trẻ ở lứa tuổi này không chỉ hiểu nghĩa các
từ biểu thị các sự vật, hành động cụ thể mà có thể hiểu nghĩa các từ biểu
thị tính chất màu sắc, thời gian và các mối quan hệ. Tuy nhiên, mức độ
hiểu nghĩa của các từ này ở trẻ từ 2 đến 3 tuổi còn rất hạn chế và có nét
đặc trưng riêng, trẻ sử dụng các từ biểu thị thời gian chưa chính xác trẻ
nhận thức về công cụ ngữ pháp và sử dụng nó còn rất hạn chế.
Đối với trẻ mầm non nói chung và trẻ từ 25 - 36 tháng tuổi nói riêng,
chúng ta cần phải giúp trẻ phát triển mở rộng các từ loại trong các từ, biết
sử dụng nhiều loại câu, bằng cách thường xuyên trò chuyện với trẻ về
những sự vật, sự việc trẻ nhìn thấy trong sinh hoạt hàng ngày, nói cho trẻ
biết các từ biểu thị về các đặc điểm, tính chất, công dụng của chúng. Cho
trẻ xem tranh, kể cho trẻ nghe các câu chuyện đơn giản qua tranh. Đặt các
câu hỏi cho trẻ giúp trẻ biết kể chuyện theo tranh bằng ngôn ngữ của trẻ.
Ở lứa tuổi này, trẻ được ví như tờ giấy trắng, trẻ đến lớp như nhà của
mình, sẽ giúp trẻ dễ dàng tiếp cận với những hình ảnh, những vốn từ,
những nhân vật, cử chỉ khác nhau, thông qua những bài thơ, câu chuyện
giúp trẻ mở mang kiến thức về xã hội thiên nhiên. Có phương pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ tốt sẽ tạo cho trẻ được hoạt động nhiều, giúp trẻ
phát triển trí nhớ, tư duy và ngôn ngữ, khả năng cảm thụ cái hay, cái đẹp,
cái tốt, cái xấu của mọi vật xung quanh trẻ. Thông qua kể chuyện, giúp
cho trẻ phát triển ngôn ngữ là một nhiệm vụ quan trọng trong chương
trình chăm sóc giáo dục trẻ, giúp phát triển toàn diện cho trẻ .
Trong các năm gần đây, bậc học mầm non đang tiến hành đổi mới
chương trình giáo dục trẻ mầm non. Trong đó, đặc biệt coi trọng việc tổ
chức các hoạt động phù hợp với sự phát triển của từng cá nhân trẻ, khuyến

khích trẻ hoạt động một cách chủ động, tích cực, hồn nhiên vui tươi. Đồng
thời, tạo điều kiện cho giáo viên phát huy khả năng sáng tạo trong việc lựa
chọn và tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ một cách linh hoạt,
thực hiện phương châm “Học bằng chơi – Chơi mà học” đáp ứng mục tiêu
phát triển của trẻ một cách toàn diện về mọi mặt. Chính vì vậy, nên tôi chọn
đề tài : “Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25 - 36 tháng
tuổi thông qua hoạt động kể chuyện”.
1.2 Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu thực trạng và một số biện pháp phát triển ngôn ngữ
cho trẻ 24-36 tháng tuổi thông qua hoạt động kể chuyện, giúp phát triển
cho trẻ khả năng hiểu ngôn ngữ, tự tin, bước đầu có khả năng sử dụng từ
trong giao tiếp đơn giản .
1.3. Đối tượng nghiên cứu:
3


“ Một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ 25-36 tháng tuổi thông
qua hoạt động kể chuyện.”
1.4 Phương pháp nghiên cứu
* Phương pháp nghiên cứu lý luận: đọc các giáo trình, tài liệu có liên
quan đến phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ. Tham khảo sách báo, tạp chí,
Internet và các phương tiện thông tin đại chúng, về các hình thức phát
triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ.
* Phương pháp thực nghiệm: thực nghiệm các biện pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ 24-36 tháng tuổi thông qua hoạt động kể chuyện.
* Phương pháp điều tra khảo sát thực tế, thu nhập thông tin: Khảo sát
thực tế các biện pháp dạy trẻ 25-36 tháng tuổi thông qua hoạt động kể
chuyện và mọi lúc mọi nơi.
* Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
* Phương pháp trực quan, dùng lời: Lời nói cụ thể và có thực hành của

cô là một trong những phương tiện nhận thức đặc biệt gần gũi, dể hiểu.
* Phương pháp thực hành : Trẻ hứng thú tham gia hoạt động kể chuyện
cùng cô theo hướng dẫn gợi ý.
* Phương pháp quan sát: Quan sát việc sử dụng ngôn ngữ của trẻ ở
trường, gia đình, ngoài xã hội để có cơ sở đánh giá thực trạng một cách
toàn diện và có những biện pháp thực nghiệm một cách tích cực và hiệu
quả.
* Phương pháp trao đổi, trò chuyện: Được thực hiện, trao đổi thông
qua phụ huynh, các đồng nghiệp và thông qua trẻ để thu thập thêm thông
tin cũng như có những biện pháp đề xuất khả thi hơn.
2. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM.
2.1. Cơ sở lý luận
"Trẻ em như búp trên cành
Biết ăn biết ngủ biết học hành là ngoan"...
Con người dù lớn hay nhỏ, muốn sinh tồn cần phải ăn, ngủ và làm việc.
Và vì giáo dục mầm non là giai đoạn đầu tiên trong hệ thống giáo dục
quốc dân, cho nên, nếu làm tốt việc chăm sóc giáo dục thế hệ trẻ ngay từ
thời thơ ấu thì sẽ tạo ra được cơ sở quan trọng của con người Việt Nam mới,
người lao động làm chủ tập thể và phát triển toàn diện nhân cách.
Từ khi lọt lòng đến khi chập chững biết đi, tập nói, rồi đến khi biết
viết, biết đọc, ngôn ngữ của trẻ phát triển trong từng giai đoạn là không
giống nhau. Khi trẻ cất tiếng khóc chào đời đã được nghe tiếng ru hời của
bà, của mẹ đến khi trẻ nói tiếng đầu tiên, đi những bước đi đầu tiên, ngôn
ngữ của trẻ dần dần được trau chuốt, thông qua ca dao, qua các bài thơ,
câu chuyện của người lớn, của cô giáo kể là tấm gương mẫu mực về lời ăn
tiếng nói cho trẻ học tập và làm theo. Việc giáo dục trẻ lòng yêu thiên
nhiên, yêu quê hương yêu đất nước, tình yêu mến bạn bè, thương yêu
4



những người thân và những người xung quanh trẻ. Biết làm những việc
tốt, biết yêu cái đẹp, yêu cái thiện ghét cái ác, lòng biết ơn và kính yêu
Bác Hồ...Ngoài ra ngôn ngữ còn là phương tiện hình thành phẩm chất đạo
đức trong sáng, mà đặc biệt, trẻ ở lứa tuổi nhà trẻ thì vốn từ và ngôn ngữ
của trẻ phát triển rất mạnh mẽ nên cần phải được quan tâm và chú trọng
một cách nghiêm túc.
- Cơ sở thực tiễn :
Qua thực tiễn giảng dạy chương trình chăm sóc giáo dục trẻ ở nhóm
lóp nhà trẻ 25-36 tháng tuổi từ năm 2015 - 2016 đến nay. Cùng với sự đổi
mới của giáo dục mầm non, tôi nhận thấy rằng việc nâng cao chất lượng
chăm sóc giáo dục trẻ ở từng độ tuổi là hết sức cần thiết. Việc nâng cao
tạo ra chất lượng chăm sóc giáo dục trẻ ở từng độ tuổi đòi hỏi người giáo
viên, hoặc người chăm sóc trẻ phải thật sự am hiểu chương trình, phương
pháp giáo dục mầm non mang tính quốc gia. Cơ sở vật chất, trang thiết bị
và sự linh động trong việc tổ chức các sinh hoạt cho trẻ, bố trí thời gian
hợp lý cộng với sự nhạy bén yêu nghề, mến trẻ, hiểu được tâm sinh lý của
trẻ ở từng độ tuổi của mỗi giáo viên, là yếu tố quan trọng dẫn đến sự thành
công của việc nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục ở từng độ tuổi,
từng bộ môn và cụ thể ở đây là môn phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua
hoạt động kể chuyện –lứa tuổi nhà trẻ 25-36 tháng tuổi.
- Dựa vào đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ, ta thấy :
* Sinh lý:
Trong sự phát triển về ngôn ngữ của trẻ thì đây là giai đoạn bắt đầu
của ngôn ngữ chủ động. Do vậy, trong quá trình phát triển ngôn ngữ trẻ
còn mắc một số hạn chế sau:
+ Phát âm chưa chính xác hay ngọng : chữ c – ch; n – ng; dấu ngã dấu sắc; dấu hỏi – dấu nặng.
+ Đồng thời, do vốn kinh nghiệm còn ít ỏi nên trẻ còn nhầm lẫn, khi
tri giác,trẻ chủ yếu dựa vào những đặc điểm bên ngoài để nói.
+ Một số đặc điểm nữa là, trẻ giai đoạn tuổi này, tư duy trực quan
hành động cụ thể là chủ yếu, nghĩa là lời nói luôn luôn gắn liền với mọi

hành động, đồ vật cụ thể thì trẻ mới hiểu được.
* Tâm lý:
+ Trẻ thích giao tiếp với mọi người xung quanh. Trẻ có nhu cầu bằng
trực quan cần giải đáp thắc mắc mà trẻ gặp phải, trẻ thích được người lớn
khen, động viên kịp thời, thích đồ chơi sặc sỡ về màu sắc và có âm thanh,
và một đặc điểm nữa là trẻ rất hay bắt chước người lớn.
Trên đây là những cơ sở lý luận của đề tài, đã giúp tôi căn cứ vào đó
để tìm ra những biện pháp dạy trẻ sao cho thật phù hợp đối với bộ môn
này.
5


2.2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
+ Thuận lợi :
- Là một trường mầm non đạt chuẩn quốc gia giai đoạn hai, nằm ở trung
tâm thành phố và có 14 nhóm lớp, luôn được các cấp lãnh đạo quan tâm
chỉ đạo sát sao, phụ huynh học sinh tin tưởng và số lượng học sinh ra lớp
ngày một đông.
- Dưới sự chỉ đạo trực tiếp của ban giám hiệu nhà trường luôn quan tâm
giúp đỡ về mọi mặt, đặc biệt là thực hiện các chuyên đề, đề tài.
- Nhà trường luôn thường xuyên bổ sung tài liệu, cơ sở vật chất, đồ dùng,
đồ chơi, tạo mọi điều kiện để giáo viên thực hiện việc chăm sóc, giáo dục
trẻ tốt nhất.
- Giáo viên nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm với nghề nghiệp, yêu nghề
mến trẻ. Nắm vững phương pháp học tập các bộ môn, đặc biệt, xác định
được mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho
trẻ nhà trẻ qua hoạt động kể chuyện … Luôn ý thức được nhiệm vụ của
mình và có nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ.
- Trong năm học 2016 -2017, tôi được nhà trường phân công dạy nhóm
lớp 25-36 tháng tuổi. Là lớp nhà trẻ, 100% trẻ ngoan ngoãn, mạnh dạn,

hồn nhiên, đạt yêu cầu về phát triển thể chất và các lĩnh vực khác. Đó là
một thuận lợi lớn để tôi rèn luyện phát triển ngôn ngữ cho trẻ nhà trẻ
thông qua hoạt động kể chuyện. Ngoài ra, nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ
cho trẻ lứa tuổi này còn được thể hiện ở mọi lúc, mọi nơi trong sinh hoạt
hằng ngày của trẻ.
+ Khó khăn :
- Do sự phát triển của trẻ không đồng đều, có một số cháu lúc đầu đến
lớp vẫn chưa có được vốn ngôn ngữ cần thiết mà độ tuổi cần đạt được,
một số cháu mới nói được một số từ ngữ đơn giản, trẻ phát âm chưa rõ,
còn nói ngọng nhiều, chưa diễn tả được ý hiểu của mình đối với người
khác
- Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là không đồng đều. Kiến
thức dạy trẻ phát triển ngôn ngữ trong độ tuổi nhà trẻ của các bậc phụ
huynh còn nhiều hạn chế.
- Kinh nghiệm sống của trẻ chưa có nhiều, nhận thức hạn chế, dẫn đến
tình trạng trẻ dùng từ không chính xác, câu lủng củng. Trẻ nói, phát âm do
ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn xung quanh, trẻ nói tiếng địa
phương ...
- Đa số phụ huynh làm công chức có ảnh hưởng ít nhiều trong việc
dành thời gian trò chuyện với trẻ và nghe trẻ nói. Phụ huynh thường chiều
theo ý của trẻ... đây cũng là một trong những nguyên nhân của việc chậm
phát triển ngôn ngữ.

6


- Một số trẻ mới đi học còn khóc nhè, còn nhút nhát, chưa mạnh dạn,
tự tin nhất là nơi đông người.
+ Kết quả của thực trạng
Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học 2016 - 2017 tại lớp Mầmtrường mầm non Trường Thi B như sau :

Xếp loại
Tổng số
trẻ

33

Tốt

Khá

Trung bình

Yếu

Số
lượng

%

Số
lượng

%

Số
%
lượng

Số
lượng


%

10

33

5

17

7

8

27

23

BẢNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI LẦN 1
Từ thực tế trên, nên tôi mạnh dạn đưa ra“Một số biện pháp phát triển
ngôn ngữ cho trẻ từ 25 - 36 tháng tuổi thông qua giờ kể chuyện”.
2.3. Các biện pháp tổ chức thực hiện
2.3.1. Chuẩn bị và sử dụng đồ dùng học cụ phong phú, sáng tạo thu hút
sự chú ý của trẻ.
Để có giờ dạy tốt, thu hút sự chú ý và gây hứng thú cho trẻ, làm tăng
thêm hiệu quả của giờ dạy thì trước hết, việc chuẩn bị đồ dùng học cụ là
hết sức cần thiết. Tôi để ý sưu tầm, nghiên cứu và cải tạo sử dụng các
nguyên liệu mở hoặc vật liệu phế thải như : vải vụn, bông mút, thanh tre,
bìa cứng, gỗ, hộp xốp, đất ...để làm thành những con vật xinh xắn, những

con rối sinh động hoặc mô hình kể chuyện, tạo cho trẻ có cảm giác như
đang bước vào thế giới thật của câu truyện được nghe, để từ đó, trẻ dễ
nhớ, khắc sâu và thích kể lại truyện cùng cô.
Ví dụ: Khi dạy kể chuyện “Đôi bạn nhỏ”. Tôi tạo mô hình bằng cách :
Dùng các miếng xốp ghép dính lại với nhau tạo thành một cái ao lớn, đáy
ao được gắn bạt có in hình một số loại cá tôm khi đổ nước vào sẽ không bị
rỉ nước ra ngoài, xung quanh bờ ao thì sơn màu nâu đất, có trang trí cỏ cây
hoa lá, có bóng đèn hắt xuống mặt ao, khi có nước nhìn lung linh gợn
sóng, khiến trẻ rất thích thú. Còn các con rối nhân vật thì được gọt đẽo
bằng sốp sau đó quét màu, trang trí giống như thật để khi thả xuống nước,
vịt con sẽ nổi bồng bềnh như đang bơi đến cứu bạn gà con…

7


Ngoài ra, tôi dùng các bóng đèn ngủ, hoặc các bóng đèn led…để làm
trang trí sân khấu rối..hoặc từ bìa cứng, xốp, vải vụn, khuy áo… làm
những con vật, con rối ngộ ngĩnh, đa dạng màu sắc để thu hút trẻ.
Ví dụ kể chuyện : “ Thỏ con không vâng lời”. Để làm trang phục cho
trẻ, tôi dùng quần áo được thiết kế theo dáng hình thỏ mẹ, thỏ con, bác
gấu..để cùng trẻ trẻ hoá thân vào các nhân vật trong truyện khi cho trẻ tập
kể cùng cô, hoặc sử dụng mũ nhân vật…

8


Hoặc với truyện “ Đôi bạn nhỏ’’để gây hứng thú cho trẻ, tôi chuẩn bị
một sân khấu rối với cánh màn nhung thu hút, có ánh đèn màu hắt xuống,
các con rối tay được làm bằng vải vụn được cải biên màu sắc rực rỡ, kết
hợp với hoạt cảnh nội dung truyện rất sinh động.


Ngoài ra, việc sưu tầm, làm thêm một số đồ dùng đồ chơi phục vụ cho
giờ kể chuyện là không thể thiếu. Chính vì vậy tôi sưu tầm các nguyên
liệu vật liệu có sẵn ở địa phương như; sách báo, lịch cũ, ống lon, chai
nhựa, xốp, vải vụn, cành cây khô, sau đó cùng trẻ tạo ra những học cụ, đồ
dùng phục vụ cho giờ kể chuyện. Từ những quần áo, vải vụn, ống giấy,
thật xinh xắn. Từ câu truyện cổ tích trẻ được học, được nghe, tôi sáng tạo
ra những nhân vật trẻ thích.
Ví dụ: Tôi đã làm đồ dùng, đồ chơi tự tạo từ những quả bóng và những
mảnh vải vụn để thành những con rối rất đẹp, phục vụ cho các câu chuyện
mà tôi kể cho trẻ như: Truyện: “ Đôi bạn nhỏ” dùng (Rối gà, rối vịt);
Truyện “ Thỏ con không vâng lời” dùng ( Rối gấu, rối thỏ mẹ, thỏ con);
Truyện “ Cá và chim” dùng ( Rối cá, rối chim)....
+ Khi kể chuyện tôi dùng những tranh ảnh sáng tác màu sắc đẹp để
gây hứng thú cho trẻ nghe, xem, hướng dẫn trẻ bước đầu tập làm quen
cách sử dụng và có ý thức giữ gìn đồ dùng, đồ chơi .

9


Một số đồ dùng học cụ môn kể chuyện
2.3.2. Sử dụng các thiết bị dạy học hiện đại phù hợp như: micro cài,
máy chiếu…
- Khi sử dụng các thiết bị hỗ trợ cho việc kể chuyện, tôi thấy trẻ rất
hứng thú, vì trẻ được nghe trọn vẹn giọng kể thể hiện tính chất của các
nhân vật trong truyện, từ đó sẽ hấp dẫn cuốn hút trẻ hơn. Bởi khi kể qua
micro, giọng của người kể sẽ rất rõ ràng khiến việc điều chỉnh âm lượng
theo tính cách của các nhân vật và tính chất của câu truyện dễ hơn, phù
hợp hơn.


10


Ví dụ như, khi kể câu truyện “Con Cáo’’.Trẻ sẽ được nghe giọng của
cô gà mẹ hối hả, gấp gáp: “Cục ta cục tác! Cáo ác! cáo ác! ” hay, giọng
sủa giận dữ, ra dáng người bảo vệ của chó cún khi thấy cáo : “Gâu! Gâu!
Cáo đâu? Cáo đâu? ”...
Hoặc như khi kể truyện : “Đôi bạn nhỏ”, trẻ sẽ nghe được giọng hoảng
sợ, thất thanh của nhân vật Gà con khi bị cáo đuổi bắt : “Chiếp! Chiếp!
Cứu tôi với! Cứu tôi với…”
Như vậy, sử dụng trang tiết bị hỗ trợ khi kể chuyện góp một phần
không nhỏ vào thành công của tiết dạy giúp trẻ khắc sâu, nhớ lâu và hứng
thú hơn, trẻ thích nghe, thích kể lại truyện cùng cô giúp phát triển ngôn
ngữ cho trẻ.
- Ngoài ra, sử sụng thêm các phông hoạt cảnh trang trí minh họa theo
nội dung câu truyện cũng góp phần kích thích hứng thú của trẻ.
Ví dụ : Trong câu truyện “Đôi bạn nhỏ” Tôi chọn cảnh mặt nước, bờ ao
nơi gà con bị cáo đuổi bắt, (Có kích thước tương ứng, phù hợp với các
slie của papoi khi trình chiếu câu chuyện) sau đó, đem in phun màu trên
một nền phông( Pano) lớn có trang trí đèn, cây, hoa thật...khi bật các slie
trình chiếu nội dung câu truyện lên, nhìn phù hợp và rất đẹp, giống y cảnh
thật, hiện đại và hoành tráng khiến trẻ rất thích thú, say sưa cùng câu
chuyện.
Một số hình ảnh giờ kể chuyện

11


2.3.3. Khai thác, nghiên cứu kỹ đề tài .
Để có giờ kể chuyện hay tôi luôn giành thời gian tìm hiểu nghiên cứu

kỹ đề tài nội dung câu chuyện, để tìm ra giọng kể phù hợp và đặt ra được
hệ thống câu hỏi mở, kích thích sự hứng thú hoạt động của trẻ.
Ví dụ: Trong câu chuyện “Thỏ con không vâng lời”, tính cách của
thỏ con: Ham chơi không vâng lời mẹ.
- Khi đã tìm hiểu kỹ nội dung, tính cách của từng nhân vật trong câu
chuyện thì cần phải tìm ngữ điệu cho từng nhân vật trong câu chuyện đó
phù hợp để khi kể câu chuyện đó được diễn cảm hơn.
Ví dụ: Trong câu chuyện “ Chú vịt xám”
+ Giọng người dẫn chuyện: Đầm ấm, nhẹ nhàng
+ Giọng của vịt mẹ: Nhẹ nhàng, dịu dàng
+ Giọng của vịt con: Sợ hãi
+ Giọng con cáo: Gian ác
Khi đã tìm hiểu kỹ nội dung, tính cách, ngữ điệu của các nhân vật
trong câu chuyện mà cô sẽ kể thì cô cần tập luyện và kể thử nhiều lần
12


trước khi kể chuyện cho trẻ nghe. Thông qua việc kể thử, kể lại nhiều lần
cô sẽ diễn đạt và thể hiện tính cách của các nhân vật một cách rõ nét hơn.
- Khi kể, kể lưu loát bằng giọng diễn cảm cuốn hút trẻ vào bài.
Ví dụ: Khi kể câu chuyện: “ Dê con thích húc” giọng người dẫn
chuyện thấp hơn so với giọng các nhân vật trong truyện.
+ Giọng của dê con : Thách thức
+ Giọng của bác gà trống tây: Nghiêm túc, trịnh trọng
+ Giọng của lợn con: Khó chịu
+ Giọng của bác cừu: Mệt mỏi
+ Giọng của chó con: Tinh nghịch, lém lỉnh
- Cô kể kết hợp giảng giải nội dung câu chuyện khi cô kể xong lần 2
để trẻ khắc sâu nội dung câu chuyện sau đó cô đặt câu hỏi đàm thoại.
Khi trẻ đã hiểu được nội dung câu chuyện. Cô khuyến khích trẻ làm

động tác và tập kể lại câu chuyện cùng cô.
Ví dụ: Trong câu chuyện “ Con cáo ”.
+ Bắt chước động tác của gà con khi bị cáo đuổi bắt: Trẻ nắm hai tay
đưa ngang ngực, người hơi cúi( Động tác sợ hãi, kêu cứu khi gặp nguy
hiểm)
+ Bắt chước giọng điệu: Khi kể đến chỗ gà mẹ đuổi cáo. Cô kể với
giọng lớn tiếng như đang thông báo, bảo vệ gà con. Hay giọng kêu vang
đoàn kết đánh cáo của cô Mèo hoa : “Meo! Meo! Đuổi theo! đuổi
theo! ...” để trẻ bắt chước theo.
2.3.4. Tổ chức hoạt động kể chuyện nhẹ nhàng, hình thức giới thiệu bài
phong phú, sáng tạo phù hợp.
Việc tổ chức giờ kể chuyện cho trẻ nhẹ nhàng phù hợp giúp trẻ phát
triển ngôn ngữ tốt cũng là điều kiện quan trọng để trẻ cảm thấy không bị
gò bó áp đặt nhưng vẫn lĩnh hội được kiến thức yêu cầu đề ra đúng như
phương châm : “Học bằng chơi ,chơi mà học “
Ví dụ: Ở chủ điểm: Thể giới động vật. Khi kể chuyện “Đôi bạn nhỏ”
tôi cho trẻ chơi trò chơi “Bắt chước tạo dáng” sau đó, cho rối đóng gà con
ra chơi và kể lại câu chuyện của mình khi bị cáo rình bắt và nhẹ nhàng
hướng trẻ bước vào hoạt động theo gợi ý của cô... Tùy vào nội dung, yêu
cầu bài dạy mà lựa chọn các cách gây hứng thú cho trẻ một cách linh hoạt
nhẹ nhàng mà vẫn hiệu quả. Có thể dùng rối, tranh, ảnh, bài hát, câu đố,
mô hình....
Ví dụ: Trong chủ đề “Cây và những bông hoa đẹp”. Tên bài dạy là kể
chuyện “ Cây táo” thì sử dụng mô hình vườn cây ăn quả để gây hứng thú
và dẫn dắt trẻ vào bài .
13


Còn khi ở chủ đề “Những con vật đáng yêu”, tên bài dạy kể chuyện là
“Cá và chim” tôi sẽ cho trẻ hát bài: “ Cá vàng bơi” để gây hứng thú cho

trẻ.
- Sử dụng câu đố :
Sử dụng câu đố để gây hứng thú cho trẻ, dẫn dắt trẻ vào câu truyện
cũng là cách tôi thường làm, để kích thích sự tò mò, suy nghĩ của trẻ.
Ví dụ: Ở chủ đề “ Những con vật đáng yêu”, tên bài dạy là “Đàn gà con”
tôi đọc câu đố để cho trẻ đoán tên con vật.
Tôi đã sử dụng búp bê, rối để gây hứng thú cho trẻ và trẻ lớp tôi đã rất
thích.
Ví dụ: Ở chủ đề “ Bé và những người thân yêu của bé”, tên bài dạy kể
truyện “ Cả nhà ăn dưa hấu” tôi đã sử dụng búp bê xách làn hoa quả đến
thăm lớp.
- Hoặc sử dụng các hình ảnh động trên máy chiếu.
Ví dụ: Trong chủ đề “ Những con vật đáng yêu”, tên bài dạy kể truyện
“Cá và chim” tôi gây hứng thú cho trẻ bằng cách cho trẻ đi thăm quan
vườn bách thú với những hình ảnh động của các con vật trên máy chiếu...
Hoặc ở chủ đề “ thế giới thực vật” tôi lại sử dụng mô hình sa bàn để
gây hứng thú cho trẻ…
2.3.5. Sắp xếp, bố trí môi trườnghoạt động hợp lý, khoa học
Việc sắp xếp môi trường lớp học hợp lý sẽ làm tăng thêm hiệu quả của
hoạt động kể chuyện. Nhờ việc sắp xếp đồ dùng, đồ chơi hợp lý tạo cho
trẻ không gian hoạt động tích cực vì vậy sẽ giúp trẻ khắc sâu hơn về tác
phẩm mà trẻ sẽ được học.
Ví dụ: Khi dạy truyện : “Đôi bạn nhỏ” Tôi sắp xếp bố trí các thảm cỏ
xanh sao cho có cảm giác như là bờ ao, nơi cáo rình bắt gà con..hay việc
bật tắt các bóng đèn sao cho tình huống thêm phần hấp dẫn..
Hoặc ví dụ: Giờ kể truyện “Quả trứng” tôi sắp xếp các đồ dùng trong
lớp như:
- Treo tranh ở các góc truyện.
- Sắp xếp mô hình sao cho trẻ dễ nhìn, dễ thấy.
- Tôi dã sử dụng môi trường hoạt đông một cách linh hoạt và khoa học.

- Trước giờ hoạt đông kể chuyện: Tôi cho trẻ xem đồ vật thật.
Ví dụ: Trước khi tôi kể câu chuyện “Cây táo” tôi cho trẻ quan sát quả
táo thật và giới thiệu với trẻ về quả táo nhờ vậy trẻ sẽ khắc sâu hơn, lâu
hơn hình ảnh quả táo để từ đó dễ nhớ dễ thuộc..
- Trong giờ hoạt động kể chuyện: Tôi cho trẻ quan sát mô hình câu chuyện
đang kể.
14


Ví dụ: Cho trẻ quan sát mô hình câu chuyện “Đôi bạn nhỏ”
Từ mô hình này sẽ giúp trẻ nhận ra các nhân vật trong truyện các tình
tiết diễn ra trong câu chuyện. Trẻ sẽ nhớ tên truyện, tên các nhân vật trong
truyện. Cũng từ mô hình này sẽ gúp trẻ nhớ lâu hơn nội dung câu chuyện.
Do vậy, trẻ thích tập kể lại câu chuyện cùng cô một cách hứng thú,say sưa
hơn.
- Sau hoạt đông kể chuyện: tôi luôn tận dụng không gian lớp học để
trưng bày các dụng cụ kể chuyện như: khung sân khấu, sắp đặt tranh và
các con rối sao cho trẻ dễ sử dụng, dễ nhìn thấy, kích thích trẻ hoạt động
tích cực hơn, như treo tranh, hình ảnh các nhân vật có trong câu chuyện
trẻ vừa học ở xung quanh lớp.
Ví dụ: Trẻ vừa được nghe và tập kể lại câu truyện “Con cáo” cùng với
cô.
Khi treo tranh, ảnh các con vật Cáo, Gà con, Gà mẹ, Chó cún, Mèo
hoa.. Trẻ dễ dàng nhận ra tên các các nhân vật mà trẻ vừa học. Trẻ biết gọi
tên các con con vật có trong câu chuyện đó, nhờ vậy mà trẻ sẽ nhớ lâu
hơn, khắc sâu hơn câu chuyện trẻ vừa học.
Bản thân tôi trước khi tổ chức hoạt động cũng phải tự luyện giọng kể,
cách sử dụng tranh, sách tranh, rối mô hình... để giúp trẻ cảm thụ được
tác phẩm văn học đó một cách tốt nhất.
2.3.6. Tích hợp các môn học thông qua giờ kể chuyện

Giờ kể chuyện hấp dẫn và góp phần phát triển ngôn ngữ cho trẻ thì
việc kết hợp các lĩnh vực phát triển cũng được xác định là một yếu tố
không thể thiếu trong hoạt động học.
Ví dụ : câu chuyện : “Đôi bạn nhỏ” cho trẻ hát bài hát “Đàn gà con”.
Hoặc như : (Làm động tác minh họa của các nhân vật trong câu
chuyện).Ví dụ: Trong câu chuyện “Con cáo” cô cho trẻ làm động tác “
Cáo vồ mồi” và cho trẻ làm theo.
Ví dụ :Trong câu chuyện “Cây táo”, “Quả thị” trẻ nhận biết màu sắc:
Biết quả táo khi chín có màu đỏ, khi chưa chín có màu xanh. Quả thị khi
chưa chín có màu xanh, khi chín có màu vàng. Trẻ nhận ra quả thị và quả
táo có dạng hình tròn.
2.3.7. Ôn luyện ở mọi lúc mọi nơi và phối kết hợp với phụ huynh phát
triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua hoạt động kể chuyện
Ôn luyện mọi lúc mọi nơi cũng là biện pháp giúp trẻ khắc sâu, nhớ lâu,
thông qua các hoạt động, tổ chức ngày lễ, ngày hội, cô tổ chức cho trẻ
hoạt động tập kể chuyện cùng cô, mà nhiều trẻ được tham gia nhằm giúp
trẻ hứng thú với bộ môn làm quen với văn học thể loại truyện kể. Góp
phần củng cố các kiến thức đã học, đồng thời rèn kỹ năng phát triển ngôn
ngữ cho trẻ.
15


Ví dụ :
- Giờ đón trẻ: Cô cho trẻ quan sát tranh, ảnh một số câu chuyện trong chủ
đề. như trong chủ đề “ Cây và những bông hoa đẹp” Cô cho trẻ quan sát
hình ảnh Quả táo, Quả thị để cho trẻ làm quen trước khi tìm hiểu câu
chuyện.
- Giờ ngủ: Cô kể cho trẻ nghe câu chuyện hay, nhẹ nhàng để trẻ dễ dàng đi
vào giấc ngủ.
Ví dụ: Câu chuyện “ Thỏ ngoan” “ Khỉ con biết vâng lời’ “ Chú gấu con

ngoan”
- Hoạt động góc:
Góc sách - truyện: Cô cho trẻ xem tranh chuyện trong chủ đề.
Ví dụ: Đóng vai mẹ con trong câu chuyện “ Chú gấu con ngoan”.
Góc hoạt động với đồ vật: Cô cho trẻ xếp nhà, xếp đường đi cho thỏ.
- Khi trả trẻ: Cô cho trẻ xem màn chiếu các câu chuyện có trong chủ đề.
Công tác tuyên truyền giúp phụ huynh hiểu hơn về kiến thức phát triển
ngôn ngữ cho trẻ thông qua giờ kể chuyện, từ đó tạo sự thống nhất giữa
nhà trường, giáo viên và phụ huynh trong việc rèn trẻ.
Có kể hoạch dạy thường xuyên treo ngoài góc trao đổi với phụ huynh,
để phụ huynh nắm được chương trình dạy theo chủ đề trong tuần từ đó
biết và phối kết hợp với giáo viên rèn thêm cho trẻ ở nhà hoặc cùng cô sưu
tầm làm thêm đồ dùng dạy học.
Tôi trao đổi và vận động phụ huynh, cố gắng dành thời gian để tâm sự
với trẻ và lắng nghe trẻ nói, khi trò chuyện với trẻ phải nói rõ ràng mạch
lạc, tốc độ vừa phải để trẻ nghe cho rõ, cha mẹ người thân phải cố gắng
phát âm đúng cho trẻ bắt chước.
Khuyến khích phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống cho trẻ. Tránh
không nói tiếng địa phương, cần tránh cho trẻ nghe những hình thái ngôn
ngữ không chính xác.
Tuyên truyền dưới hình thức: bảng tuyên truyền đẹp, luôn thay đổi nội
dung và hình thức phù hợp với chủ đề.
Ví dụ: Chủ đề: “Cây và những bông hoa đẹp”, bảng tuyên truyền có
những hình ảnh về chủ đề đồng thời có in và gắn thêm những câu truyện,
đồng dao ... để phụ huynh có thể cầm về nhà ôn luyện thêm cho con.
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm :
+ Đối với hoạt động giáo dục
Áp dụng những kinh nghiệm giảng dạy như trên đối với giờ kể
chuyện. Qua các giờ học tôi thấy :


16


- Trẻ rất thích nghe kể chuyện, hưởng ứng và hứng thú khi tham gia kể
chuyện cùng cô. Biết trả lời câu hỏi của cô theo gợi ý... Thông qua đó mà
việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ đạt hiệu quả cao. Vốn từ của trẻ được
tăng lên rất nhiều
- Trẻ mạnh dạn tự tin, hồn nhiên, cởi mở khi được tham gia vào các hoạt
động mang tính chất khám phá, trải nghiệm cho nên kinh nghiệm, kĩ năng
và kiến thức trẻ lĩnh hội được rất nhẹ nhàng nhưng bền vững, để lại ấn
tượng khó phai mờ trong trẻ và cũng chính môi trường hoạt động phong
phú, đã giúp trẻ mạnh dạn, tích cực, hứng thú trong giao tiếp, trong việc
thể hiện mình, giúp trẻ phát triển ngôn ngữ. Biết sử dụng các loại câu
phong phú và đa dạng hơn nhiều.
+ Kết quả cụ thể như sau:
Xếp loại
Tổng số
trẻ

33

Tốt

Khá

Trung bình

Yếu

Số

lượng

%

Số
lượng

%

Số
%
lượng

Số
lượng

%

19

58

11

33

03

0


0

09

BẢNG ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI LẦN 2
- 90 % vốn từ của trẻ phát triển rõ rệt. Trẻ biết nói rõ ràng hơn, đỡ nói
ngọng hơn, trẻ nói nhiều câu có nghĩa khá đầy đủ.
- 85% số trẻ đã mạnh dạn tự tin hơn, kinh nghiệm sống của trẻ đã
phong phú hẳn lên, trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động, thích giơ tay trả
lời, thích kể chuyện cùng cô theo gợi ý hướng dẫn của cô.
- 70% trẻ kể được truyện theo trí nhớ và gợi ý của cô .
- 80%Trẻ phát âm chính xác hơn, ít sử dụng ngôn ngữ địa phương.
- 98% Phụ huynh ủng hộ vật liệu, tham gia làm đồ dùng đồ chơi cho
các cháu như : tranh ảnh, sách báo, truyện theo chủ đề, truyện tranh, khâu
rối tay bằng vải…giúp trẻ hứng thú khi tham gia vào hoạt động, góp phần
phát triển ngôn ngữ cho trẻ .
- Trẻ đạt loại tốt là những trẻ đã biết nghe hiểu lời nói, nghe nhắc lại
các âm và các tiếng trong câu sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp thành thạo.
Trẻ nói được câu đơn câu có 5 - 7 tiếng. Sử dụng lời nói với các mục đích
khác nhau: Nói to, đủ nghe, lễ phép.
- Trẻ xếp loại khá là những trẻ biết nghe hiểu lời nói, nghe nhắc lại các
âm và các tiếng trong câu sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp thành thạo. Trẻ
nói được câu có 4-5 tiếng.
- Trẻ xếp loại trung bình là những trẻ biết nghe hiểu lời nói. Nghe nhắc
lại các âm các tiếng và các câu. Trẻ phát âm còn ngọng. Khi sử dụng ngôn
ngữ để giao tiếp. Trẻ chỉ nói được câu đơn câu có 2-3 tiếng.
17


+ Đối với cô:

- Giáo viên chủ động, tạo nhiều cơ hội cho trẻ được thể hiện sự mạnh dạn,
tự tin sáng tạo trong hoạt động.
- Giúp giáo viên có thể lồng ghép, đan cài các hoạt động nhằm cung cấp
những kinh nghiệm mang tính tích hợp, cần cho cuộc sống của trẻ.
- Giúp cô và trẻ giao tiếp cởi mở, gần gũi. Cô có thể cùng trẻ khám phá
thế giới xung quanh, thế giới cổ tích… của trẻ, từ đó giúp trẻ phát trển
ngôn ngữ một cách thật tự nhiên.
+ Đối với phụ huynh:
- Có sự thay đổi nhìn nhận, về việc học và chơi ở trên lớp của con mình,
nhận thấy được tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ cho con. Từ
đó sẽ vui vẻ khi cùng các con sưu tầm hoạ báo, tranh ảnh, nguyên vật liệu
giúp cô, để làm đồ dùng, sa bàn...phục vụ tiết học. Qua đó tăng cường mối
quan hệ, kết hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc chăm sóc, giáo
dục trẻ
3. PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1. Kết luận.
Ngành giáo dục mầm non là ngành học đặc biệt quan trọng trong sự
nghiệp đào tạo con người mới, là cơ sở hình thành và phát triển nhân cách
con người. Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non và đặc biệt
là ở lứa tuổi nhà trẻ là vấn đề rất quan trọng và cần thiết tuy mức độ phát
triển ngôn ngữ của trẻ còn tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau.
Tôi nhận thấy việc rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ là cả quá
trình liên tục và có hệ thống, đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, bền bỉ, khắc
phục khó khăn để tìm ra phương pháp phù hợp, khoa học. Đây cũng chính
là cầu nối quan trọng, cần thiết cho sự phát triển ngôn ngữ của trẻ, là nền
tảng giúp phát triển toàn diện về nhân cách sau này của các cháu.
Chính vì vậy, người giáo viên mầm non luôn cần có phẩm chất đạo
đức, có tâm huyết với nghề, có lối sống, tư tưởng ,lập trường vững vàng.
Luôn bồi dưỡng, trau dồi kiến thức, học tập kinh nghiệm để rèn luyện kỹ
năng phát âm đúng cho trẻ, thông qua nhiều hoạt động. Vì kỹ năng này

đóng một vị trí rất quan trọng trong cuộc sống hàng ngày của trẻ, giúp trẻ
có thêm nhiều vốn từ mới làm giàu cho kho tàng kiến thức của trẻ, từ đó
trẻ biết diễn đạt câu đúng ngữ pháp, cũng như sự mạnh dạn tự tin trong
giao tiếp, làm cơ sở vững chắc cho việc học tập của trẻ những năm tiếp
theo. Hơn nữa cô giáo phải là người gương mẫu để trẻ noi theo, phải nói
chuẩn, phát âm chuẩn… phải luôn học hỏi không ngừng, rèn luyện bản
thân để có trình độ chuyên môn dạy tốt, mang tri thức thắp sáng các thế hệ
mầm non tương lai của đất nước, luôn phấn đấu tất cả “vì trẻ thơ thân
yêu” .
3.2. Kiến nghị.
18


Để thực hiện tốt hoạt động Giáo dục phát triển ngôn ngữ cho trẻ
mầm non, đặc biệt là trẻ lứa tuổi nhà trẻ 25-36 tháng tuổi trong giai đoạn
hiện nay, thông qua việc thực hiện các biện pháp trên đã phần nào đạt
được một số kết quả như đã nêu. Bản thân tôi xin có một số đề xuất sau :
- Xây dựng nhiều giờ dạy mẫu, mới, sáng tạo để nhiều giáo viên
cùng dự giờ lẫn nhau.
- Tạo điều kiện hơn nữa cho giáo viên đi tham quan, học tập kinh
nghiệm các trường bạn trong và ngoài tỉnh.
Trong quá trình thực hiện đề tài này chắc không thể tránh khỏi những
thiếu sót. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của bạn đồng nghiệp các cấp
lãnh đạo để đề tài này của tôi được hoàn thiện hơn và phục vụ cho quá
trình giảng dạy của bản thân sau này. Bản thân tôi sẽ cố gắng học hỏi hơn
nữa để tìm ra những giải pháp tối ưu, giúp trẻ phát triển tốt ngôn ngữ theo
chương trình hiện hành.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Hóa, ngày 20 tháng 03
năm 2017

Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG
kinh nghiệm của mình viết, không sao
ĐƠN VỊ
chép nội dung của người khác.
Người viết :

Trịnh Thị Chi Lê

PHỤ LỤC
19


Tài liệu tham khảo.
1. Chương trình chăm sóc - Giáo dục trẻ 25-36 tháng và hướng dẫn thực
hiện
2. Tài liệu bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên mầm non
3. Giáo dục học mầm non - NXB Đại học Sư phạm Hà Nội 2009.
4. Tâm lý học trẻ em - NXB Đại học sư phạm Hà Nội 2009.
5. Tài liệu nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng - Dự án Việt Bỉ - Bộ
giáo dục và đào tạo năm 2008.
6. Tạp chí giáo dục - Bộ giáo dục và đào tạo.

20



×